intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn triết học: Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platon

Chia sẻ: Hgfch Hgfch | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:29

306
lượt xem
48
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận môn triết học: Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platon nhằm khái quát về triết học Hy Lạp cổ đại, các trường pháp triết học Hy Lạp cổ đại, quá trình đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platon, một số thành tựu và hạn chế của triết học Hy Lạp cổ đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn triết học: Lịch sử triết học cổ Hy Lạp là lịch sử đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platon

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC CỔ HY LẠP LÀ LỊCH SỬ ĐẤU TRANH GIỮA ĐƯỜNG LỐI ĐÊMÔCRÍT VÀ ĐƯỜNG LỐI PLATÔNG GVHD: Tiến sĩ Bùi Văn Mưa Học viên thực hiện: Võ Thị Bích Duyên Lớp: CHKT đêm 1- Khoá 19 Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010
  2. LỜI MỞ ĐẦU Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã. Mà không có cái cơ sở là nền văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”. Hy Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thời cổ đại, là thời kì phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Hy Lạp cổ đại không chỉ là một trung tâm kinh tế - xã hội mà còn là một trung tâm văn hoá. Nền văn minh của người Hy Lạp cổ đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngôn ngữ, chính trị, hệ thống giáo dục, khoa học, nghệ thuật, và kiến trúc của thế giới cận đại, thúc đẩy phong trào Phục Hưng tại Tây Âu cũng như làm sống lại các phong trào tân Cổ điển tại châu Âu và châu Mỹ. Thời kì cổ đại ở đây đã tích trữ được một khối lượng tri thức khổng lồ trên nhiều lĩnh vực: toán học, vật lý, thiên văn học, thuỷ văn... đặc biệt không thể không nhắc tới chính là triết học.Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời và tồn tại trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại với tư cách là sản phẩm cao nhất , là hạt nhân, là tinh hoa của nền văn minh Hy Lạp Triết học thời kì này được đánh giá là rất phát triển, với những cái tên hết sức nổi tiếng : Acsimet, Talet, Hêraclít, Đêmôcrít, Platông, Arixtốt. Chính các đại biểu này đã tạo lên một nền triết học phát triển rực rỡ mà ngày nay chúng ta đã được thừa hưởng. Biểu hiện rõ nhất trong thời kỳ phát triển triết học Hy Lạp cổ đại là sự đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đại biểu cho hai trường phái này là sự đấu tranh giữa đường lối Đêmôcrít và đường lối Platông.
  3. MỤC LỤC Trang Phần I: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 1.1. Hoàn cảnh ra đời và các đặc điểm cơ bản ...................................................... 1 1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và phát triển............................................................... 1 1.1.2. Những đặc điểm cơ bản ......................................................................... 3 1.2. Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại........................................................ 3 1.2.1. Chủ nghĩa duy vật.................................................................................. 3 1.2.1.1. Trường phái Milê .......................................................................... 3 1.2.1.2. Trường phái Héraclite ................................................................... 4 1.2.1.3. Trường phái đa nguyên ................................................................. 5 1.2.1.4. Trường phái nguyên tử luận.......................................................... 6 1.2.2. Chủ nghĩa duy tâm................................................................................. 6 1.2.2.1. Trường phái Pythagore ................................................................. 6 1.2.2.2. Trường phái Êlê ............................................................................ 7 1.2.2.3. Trường phái duy tâm khách quan ................................................. 8 1.2.3. Chủ nghĩa nhị nguyên............................................................................ 9 Phần II: QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH XUNG ĐỘT GIỮA ĐƯỜNG LỐI DUY VẬT ĐÊMÔCRÍT VÀ ĐƯỜNG LỐI DUY TÂM PLATÔNG 2.2. Tiểu sử và các quan điểm của Đêmôcrít và Platông ...................................... 10 2.2.1. Đêmôcrít (460-370 TCN) ..................................................................... 10 2.2.1.1. Thuyết nguyên tử .......................................................................... 10 2.2.1.2 .Lý luận về nhận thức..................................................................... 11 2.2.1.3. Quan điểm về con người ............................................................... 12
  4. 2.2.1.4. Quan điểm về đạo đức xã hội........................................................ 13 2.2.2. Platông (427-437 TCN) ......................................................................... 14 2.2.2.1. Thuyết ý niệm ............................................................................... 14 2.2.2.2. Quan điểm về nhận thức ............................................................... 15 2.2.2.3. Quan điểm về chính trị xã hội....................................................... 16 2.3. So sánh các tư tưởng đối lập của Đêmôcrít và Platông ................................. 17 2.4. Nhận xét ......................................................................................................... 19 Phần III: MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 3.1. Những thành tựu của triết học Hy Lạp cổ đại................................................ 22 3.2. Những hạn chế ............................................................................................... 23
  5. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Phần I: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 1.1 Hoàn cảnh ra đời và các đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại 1.1.1. Hoàn cảnh ra đời và phát triển Hy Lạp cổ đại là một quốc gia có khí hậu ôn hòa và rộng lớn bao gồm miền Nam bán đảo Bancăng, miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở biển Êgiê. Vùng bờ biển ở phía đông bán đảo Bancăng khúc khủy tạo nên nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Trong khi đó, biển Êgiê giống như một cái hồ lớn, êm ả, sóng yên, gió nhẹ tạo thuận lợi cho nghề đi biển buôn bán giữa Hy Lạp với các nước Tiểu Á và Bắc Phi. Còn vùng ven biển Tiểu Á là một vùng giàu có và là chiếc cầu nối liền Hy Lạp với các nước phương Đông cổ đại. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có nền công thương nghiệp phát triển, một nền văn hoá tinh thần phong phú đa dạng. Lịch sử Hy Lạp cổ đại trải qua 4 thời kỳ Thời kỳ Cờrét-Myxen (đầu thiên niên kỷ thứ III - thế kỷ XII TCN) Thời kỳ Hôme (thế kỷ XI _ IX TCN): Đây là thời kỳ Hy Lạp cổ đại bước vào xã hội chiếm hữu nô lệ với sự xuất hiện nhanh chóng khẳng định chế độ sở hữu tư nhân kéo theo sự phân hoá giàu nghèo, sự ra đời và xung đột giai cấp diễn ra mạnh mẽ Thời kỳ thành bang (thế kỷ VIII – VI TCN): Đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại. Xã hội bị phân hoá thành hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hoá thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị phân chia thành nhiều nước nhỏ, mỗi nước lấy một thành phố trung tâm, trong đó Xpát (Sparte) và Aten là hai thành bang hùng mạnh nhất, làm nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại. Thành bang Aten nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 1
  6. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Aten. Thành Sparte nằm ở vùng bình nguyên, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ. Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Aten. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nỗi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không có ngôn ngữ chung, không có quyền hạn, không được tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị. Thời kỳ Maxêđôin: Năm 337 TCN, nhờ giành chiến thắng quyết định mà vua Philíp II của xứ Maxêđôin triệu tập hội nghị toàn Hy Lạp thông qua quyết định giao cho Maxêđôin quyền chỉ huy quân đội toàn Hy Lạp để tấn công Ba Tư. Năm 336 TCN, Philíp II mất, con là Alexandre lên ngôi, đã chinh phục cả một vùng Ba Tư rộng lớn, Tây Ấn Độ, Bắc Phi và lập nên đế quốc Maxêđôin đóng đô ở Babylon. Năm 323 TCN, Maxêđôin chết đột ngột, các tứơng lĩnh đánh nhau để chia giành quyền lực. Sang thế kỷ III TCN đế quốc này chia thành 3 nước lớn ( Maxêđôin-Hy Lạp, Ai Cập và Xini). Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cổ đại kéo dài cho đến thế kỷ thứ IV TCN. Trong thời kỳ này, người Hy Lạp đã xây dựng một nền văn minh vô cùng xán lạn với nhiều thành tựu rực rỡ thụôc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại. Vì vậy Ăngghen nhận xét “Không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện đại được” Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 2
  7. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 1.1.2. Những đặc điểm cơ bản: Triết học Hy Lạp cổ đại được coi là đỉnh cao của nền văn minh cổ đại, và là một trong những điểm xuất phát của lịch sử triết học thế giới Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái duy vật duy tâm, biện chứng-siêu hình, vô thần-hữu thần. Trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của Platông,.. Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật hiện tượng xảy ra trong nó Triết học Hy Lạp cổ đại đã xây dựng nên phép biện chứng chất phác: các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra chân lý. Triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng vấn đề con người, đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về con người, cố lí giải vấn đề quan hệ linh hồn thể xác, về đời sống – chính trị - xã hội của họ. 1.2. Các trường phái triết học Hy Lạp cổ đại 1.2.1. Chủ nghĩa duy vật Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê - trường phái Hêraclít, trường phái Đa nguyên và đạt được đỉnh cao như trong trường phái Nguyên tử luận. 1.2.1.1. Trường phái Milê Trường phái duy vật và biện chứng tự phát đầu tiên trong triết học Hy Lạp cổ đại, thế kỷ VI TCN. Milê (Milet) là một đô thị ven biển vùng cận đông là trung tâm thương mại, hàng hải lớn, điều này tạo điều kiện mở rộng tầm nhìn của con người, Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 3
  8. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa kích thích sự phát triển khoa học và văn hoá. Những nhà triết học Milê: là Talet (Thales), Anaximăngđrơ (Anaximandre), Anaximen (Anaximene) không tin vào thần thoại truyền thống (coi các thần linh là nguyên nhân tạo ra thế giới), cho rằng bản chất duy nhất, bản nguyên vật chất của thế giới là một vật thể xác định (Talet cho là nước, Anaximen cho là không khí có thể biến thành nước, đất đá hay lửa, Anaximăngđrơ cho là apeiron là cái vô hình, vô thuỷ vô chung,vĩnh viễn vận động, tự tách ra những mặt đối lập đấu tranh với nhau (nóng và lạnh), kết hợp lại hoặc phân rã ra tạo thành thế giới muôn hình vạn trạng. Những quan niệm triết học của trường phái Milê tuy còn mộc mạc thô sơ nhưng có ý nghĩa vô thần chống lại thế giới quan thần thoại đương thời và chứa đựng những yếu tố biện chứng chất phác 1.2.1.2. Trường phái Hêraclít : (530-470 TCN) Hêraclít sinh ra và lớn lên trong một gia đình quý tộc chủ nô ở thành phố Ephetdơ. Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông coi bản nguyên của thế giới là lửa, vạn vật đều từ lửa mà ra, rồi sau đó mất đi để quay về với lửa. Vũ trụ không phải do Thượng Đế hay một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, mà nó “đã”, “đang” và “sẽ” mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng không ngừng bùng cháy và lụi tàn. Tàn lụi và bùng cháy theo cái logos tức là “quy luật, trật tự” nội tại của chính mình. Ông xem thế giới “vừa tồn tại vừa không tồn tại”, “không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Thế giới vật chất “vừa đa dạng vừa thống nhất, vừa mang tính hài hòa vừa xung đột”,bao gồm các sự vật hiện tượng những trạng thái qúa độ của lửa, chứa đựng trong mình các mặt đối lập, mọi vật đối lập đều phải thông qua đấu tranh, “đấu tranh” là cha đẻ của tất cả. Đồng thời ông cũng cho rằng ,nhận thức thế giới là phát hiện ra cái lôgốt, tức cái quy luật, trật tự của vũ trụ, phát hiện ra tính hài hoà và xung đột của các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật hiện tượng đa dạng trong thế giới. Dù quá trình nhận thức bắt đầu từ cảm tính, nhưng cảm tính không đủ để khám phá bí ẩn của tự nhiên, vì Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 4
  9. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa vậy muốn nhận thức thấu suốt tự nhiên phải sử dụng tư duy, lý tính. Tuy nhiên, chân lý mang tính tương đối vì còn phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh,.. Như vậy, Hêraclít là nhà triết học đã nêu lên các phỏng đoán thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép biện chứng duy vật chất phát là đóng góp của triết học Hêraclít vào kho tàng tư tưởng của nhân loại. 1.2.1.3. Trường phái đa nguyên Để giải thích tính đa dạng của vạn vật trong thế giới theo tinh thần duy vật Empedocles ( 490 – 430 TCN ) và Anaxagore ( 500 – 428 TCN ) cố vượt qua quan niệm đơn nguyên sự khai minh của các trường phái như Milê- trường phái Hêraclít xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng. Empêđốc thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố : đất, nước, lửa và không khí chúng chịu tác động của hai loại lực tình yêu và hận thù. Dưới tác dụng lực tình yêu, đất, nước không khí, lửa kết hợp lại tạo nên vạn vật; nhưng dưới tác dụng của lực hận thù chúng bị chia tách ra làm vạn vật mất đi. Empêđốc cho rằng, vũ trụ luôn vận động và trải qua 4 giai đoạn: Giai đoạn 1, tình yêu chiến thắng và ngự ở tâm vũ trụ, hận thù bị thất bại và bị đẩy ra ngoài biên, vũ trụ như một quả cầu duy nhất, đồng nhất, thống nhất không phân chia. Giai đoạn 2, hận thù tiến dần vào tâm vũ trụ, tình yêu bị đẩy ra khỏi tâm, vũ trụ-quả cầu duy nhất, đồng nhất, thống nhất bắt đầu phân hoá. Giai đoạn 3, hận thù chiến thắng và ngự trị ở tâm vũ trụ, tình yêu thất bại, bị đẩy ra ngoài biên, vũ trụ hoàn toàn bị phân hoá ra thành 4 yếu tố đất, nước, không khí, lửa; Giai đoạn 4, tình yêu tiến dần vào tâm vũ trụ, hận thù bị đẩy ra khỏi tâm, dưới sự tác động của tình yêu và hận thù 4 yếu tố đất, nước, không khí, lửa kết hợp lại với nhau tạo nên sự vật, hay tách ra khỏi nhau làm sự vật mất đi. Trong khi đó Anaxago nhà triết học đầu tiên ở Aten không cho rằng, vạn vật là sự kết hợp của đất, nước, không khí và lửa; mà ông cho rằng vạn vật được sinh ra từ những cái tương tự Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 5
  10. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa như chúng, và ông gọi cái đó là “hạt giống”, “mầm nào sẽ sinh ra giống nấy” ,“mỗi cái chứa mọi cái” Tuy nhiên, quan điểm của họ cũng còn mang tính sơ khai, nghĩa là còn hạn chế. Những hạn chế này được thuyết phục bởi thuyết nguyên tử luận. Nhưng thuyết này vẫn còn sơ khai và nhận định bằng cảm tính. 1.2.1.4. Trường phái nguyên tử luận Trường phái này là đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong trường phái nguyên tử luận thế kỷ V – III TCN với các đại biểu Lơxíp, Đêmôcrít, Êpicua (Leucippe, Démorite và Epicure). Trong đó Lơxíp là người đầu tiên nêu lên các quan niệm về nguyên tử, và Đêmôcrít là người kế thừa và phát triển còn Êpicua là người cũng cố và bảo vệ thuyết nguyên tử vào thời La Mã hoá. Leucippe (500 – 440 TCN), ông cho rằng, mọi sự vật được cấu thành từ những nguyên tử. Đó là những hạt vật chất tuyệt đối không thể phân chia được, nó vô hạn về số lượng và vô hạn về hình thức, nó vô cùng nhỏ bé, không thể thẩm thấu được. Tư tưởng của ông không được hiểu một cách đầy đủ, nhưng ông đã để lại qua những trang viết của các học trò ông tổng hợp. Đêmôcrít (460 – 370 TCN) là học trò của Leucippe đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một phương diện mới. Theo ông vũ trụ được cấu thành bởi hai thực thể đầu tiên là nguyên tử và chân không. Hai thực thể này là căn nguyên của các sự vật hiện tượng. 1.2.2. Chủ nghĩa duy tâm Giai đoạn Hy Lap cổ đại, chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái triết học Pythagore, trải qua trường phái duy lý Êlê và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan của Platông, tức thế giới ý niệm. 1.2.2.1. Trường phái Pythagore Pytago (Pythagore, 571 – 497 TCN) là nhà triết học, toán học uyên bác. Sinh ra và lớn lên trên đảo Samos thuộc vùng Tiểu Á. Do ảnh hưởng của toán học ông cho rằng “con số” là bản nguyên của thế giới, là bản chất của vạn vật. Một vật tương Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 6
  11. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa ứng với một con số nhất định, con số có trước vạn vật. Và tư tưởng Pytago cũng thừa nhận sự bất tử và luân hồi của linh hồn. Ông cũng bàn đến các mặt đối lập vốn có của mọi sự vật hiện tượng, ông quy về mười cặp đối lập hữu hạn và vô hạn, chẵn và lẻ, đơn và đa, phải và trái, nam và nữ, động và tĩnh, thẳng và cong, sáng và tối, tốt và xấu, tứ giác và đa diện. Mười cặp đối lập này chia làm bốn lĩnh vực là: toán học, vật lý, sinh học và đạo đức. Đó là những mặt đối lập cơ bản của tự nhiên và xã hội. Chính trường phái Pytago đã đặt nền móng ban đầu cho trào lưu duy tâm thời cổ đại của triết học Hy Lạp. 1.2.2.2. Trường phái Êlê Trường phái Êlê (V – IV TCN) do Xénophane thành lập theo chủ nghĩa duy vật, nhưng sau đó Parmenide phát triển theo chủ nghĩa duy tâm và được Đênông nhiệt thành bảo vệ và phát huy. Xénophane (570 – 478 TCN) là bạn của Talet nên chịu ảnh hưởng của nhà triết học này. Ông cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về đất. Đất là cơ sở của vạn vật. Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Bản thân nước cấu thành những đám mây, các đám mây đó tạo thành các hành tinh, kể cả Mặt Trăng và Mặt Trời. Ông xem biển cả là cội nguồn của nước và của gió. Bởi vì nếu không có biển cả thì mây không thể nào sinh ra bảo táp và cũng không thể có sông ngòi dâng tràn, cũng không thể có mưa trong không trung. Ông cũng cho rằng, không phải thần thánh sáng tạo ra con người, mà chính con người sáng tạo ra thần thánh theo trí tưởng tượng của mình. Vì vậy mỗi dân tộc có quan niệm riêng về thần thánh của mình, người như thế nào thì thần thánh như thế ấy. Ông cho rằng, nhận thức cảm tính nếu không sai lầm thì cũng không đầy đủ. Bằng cảm tính chúng ta không thể nhận thức được bản chất sự vật. Quan điểm duy lý này được Parmenide phát triển thành chủ nghĩa duy lý Parmenide (500 – 449 TCN) xuất thân trong một gia đình trí thức giàu có ở Êlê. Ông cho rằng, “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn vật Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 7
  12. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa trong thế giới. Không có cái gì trên thế giới được sinh ra từ hư vô hay không tồn tại. Ngược lại, không có cái gì mất đi mà không để lại dấu vết- tồn tại. Như vậy, trong thế giới, vạn vật không ngừng biến đổi từ sự vật này sang sự vật khác, từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác; nhưng bản thân tồn tại nói chung thì đứng im chứ không hề biến đổi, nó đồng nhất với chính bản thân nó. Vì vậy bản chất của tồn tại là bất biến, vĩnh hằng, đơn nhất. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và nhận thức bởi tư duy, lý tính. Parmenide, cho rằng có hai cách nhận thức thế giới là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Do phải thông qua các giác quan mà nhận thức cảm tính cảm nhận thế giới vô cùng đa dạng, phong phú, cảm nhận vạn vật vận động, biến đổi không ngừng. Tuy nhiên, nhận thức này chỉ mang tính ảo giả, hơn nửa bằng cảm tính. nhận thức lý tính đòi hỏi phải thông qua hoạt động của trí óc để khám ra bản chất đích thực của thế giới- cái tồn tại, nghĩa là phát hiện ra chân lý. Quan niệm “tồn tại”đánh dấu một giai đoạn mới trong phát triển triết học Hy Lạp cổ đại. Đênông (490 – 430 TCN), là người bảo vệ nhiệt thành trường phái Elê. Ông đưa ra những apôri nghĩa là tình trạng không có lối thoát hay nghịch lý. Thông qua chúng, ông chứng minh rằng, “tồn tại là đồng nhất, duy nhất là bất biến”. Còn tính phức tạp, đa dạng và vận động của thế giới là không thực. 1.2.2.3. Trường phái duy tâm khách quan Thể hiện lập trường chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Aten và hệ thống triết học duy vật của trường phái nguyên tử luận. Được xây dựng bởi Xôcrát và Platông Xôcrát (469 – 399 TCN), khác với nhiều nhà bác học khác là không nghiên cứu về giới tự nhiên, ông dành phần lớn nghiên cứu về con người, đạo đức. “Con người hãy nhận thức về chính mình”. Bàn về con người dưới khía cạnh đạo đức. Xuất phát từ đạo đức duy lý, ông cho rằng, hiểu biết là cơ sở của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; và chỉ có cái thiện phổ biến mới là tiêu chuẩn của đức hạnh; Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 8
  13. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa ai tuân theo cái thiện phổ biến thì người đó mới có đạo đức và muốn theo cái thiện phổ biến thì phải hiểu được nó, muốn hiểu được nó phải thông qua các cuộc tranh luận, toạ đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cách thức mà về sau gọi là “ phương pháp Xôcrát”, phương pháp này gồm 4 bước: mỉa mai - đở đẻ tinh thần – quy nạp - định nghĩa. Đối với Xôcrát, chỉ có người có tri thức như giai cấp quý tộc và các triết gia mới là những người có đạo đức. Platông (427 – 347 TCN), xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Aten. Ông trở thành kiệt xuất nhất thời cổ đại Hy Lạp bởi quan niệm triết học duy tâm khách quan. Ông xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách quan với nội dung chính là “thuyết ý niệm”, với giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức, chính trị, xã hội. 1.2.3. Chủ nghĩa nhị nguyên Triết học Aristote (Arixtốt) : Aristote (384 – 322 TCN). Ông sinh ra tại miền Bắc Hy Lạp, là học trò xuất sắc của Platông. Nhưng đặc biệt ông phê phán học thuyết “ý niệm” của Platông. Vì ý niệm nó thuộc về thế giới bên kia không có lợi cho người. Theo Platông, ông cho rằng thuộc tính quan trọng của thế giới là “vận động”. Triết học của Platông còn thể hiện ở quan điểm về thế giới tự nhiên. Tự nhiên là toàn bộ của sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Thông qua vận động mà giới tự nhiên được thể hiện ra. Vận động không tách rời vật thể tự nhiên. Vận động của thế giới tự nhiên có nhiều hình thức, sự tăng và giảm, sự ra đời và tiêu diệt, sự thay đổi trong không gian, sự thay đổi về chất … Tuy nhiên, triết học của ông còn hạn chế, dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông đã mở ra một chân trời mới cho khoa học Phương Tây phát triển. Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 9
  14. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Phần II: QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH XUNG ĐỘT GIỮA ĐƯỜNG LỐI DUY VẬT ĐÊMÔCRÍT VÀ ĐƯỜNG LỐI DUY TÂM PLATÔNG 2.2. Tiểu sử và các quan điểm của Đêmôcrít và Platông 2.2.1. Đêmôcrít (460-370 TCN) Sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở Abđère (Hy Lạp). Ông đã đến Ai Cập, Ba Tư, Ấn Độ, nên đã có dịp tiếp xúc với nền văn hoá phương Đông cổ đại. Ông am hiểu toán học, vật lý học, sinh vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ học và âm nhạc v.v. Ông có đến 70 tác phẩm nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học nói trên. Ông được Mác và Ăng -ghen coi là bộ óc bách khoa đầu tiên của người Hy Lạp. Đêmôcrít là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật cổ đại Hy Lạp. Thuyết nguyên tử là cống hiến nổi bật của ông đối với chủ nghĩa duy vật. Ngoài ra, ông còn có nhiều đóng góp quý giá về lý luận nhận thức 2.2.1.1. Thuyết nguyên tử Thuyết nguyên tử đã được Lơxíp (Leucippe) nêu lên từ trước. Nhưng phải đến Đêmôcrít học thuyết đó mới trở nên chặt chẽ. Theo ông, vũ trụ được cấu thành từ hai thực thể đầu tiên: nguyên tử và chân không. Nguyên tử là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không thể phân chia nhỏ hơn được nữa. Nguyên tử không biến đổi, tồn tại vĩnh viễn và vận động không ngừng. Nguyên tử không khác nhau về chất, chúng có mùi vị, âm thanh và màu sắc. Nguyên tử chỉ khác nhau về hình thức, kích thước, vị trí và trình tự kết hợp của chúng. Có những nguyên tử hình cầu, hình tam giác, hình móc câu, hình lõm v.v., nhờ đó chúng mới có thể bám dính được với nhau. Mọi vật thể đều do sự kết hợp giữa các nguyên tử nên nếu tách rời chúng ra thì vật thể bị tiêu diệt. Linh hồn của con người cũng do những nguyên tử hình cầu, nhẹ, và nóng tạo nên. Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 10
  15. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Khi người ta chết, linh hồn sẽ không còn; chúng rời thể xác và tồn tại như những nguyên tử khác. Chân không là khoảng không gian trống rỗng. Với Đêmôcrít, chân không cũng cần thiết như nguyên tử, nhờ nó nguyên tử mới vận động được. Nếu tất cả là đặc sệt các nguyên tử thì sẽ không có điều kiện cho vận động. Khác với nguyên tử có kích thước, hình dáng, chân không thì vô hạn và không có hình dáng. Trong vũ trụ có hằng hà sa số những nguyên tử vận động theo nhiều hướng, khi thì tản ra, khi tụ lại. Khi tụ vào một điểm nào đó, chúng va chạm vào nhau tạo thành một cơn xoáy tròn (cơn lốc nguyên tử). Cơn lốc này đẩy những nguyên tử nhỏ, nhẹ ra ngoài chu vi, còn những nguyên tử to, nặng quy vào tâm, nhờ đó các hành tinh, kể cả trái đất được hình thành. Những hành tinh xuất hiện và mất đi một cách tự nhiên, không do thần thánh hoặc một ai tạo ra. Những phán đoán trên đây về nguyên tử tuy còn nhiều điểm hạn chế (hạt vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia được), nhưng nó đã khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, vũ trụ là vô cùng, vô tận. Hơn nữa, mặc dù Đêmôcrít chưa giải thích được nguyên nhân của vận động, nhưng ông đã gắn liền vận động với nguyên tử, và nó cũng vô cùng, vô tận như nguyên tử. Đó là một đóng góp hết sức quan trọng đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên và triết học duy vật. Chính vì quan niệm duy vật và vô thần ấy, ông đã bị tầng lớp thống trị coi là phủ nhận thần linh và trục xuất ông khỏi quê hương. 2.2.1.2 .Lý luận về nhận thức Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức lên một bước mới. Ông và tiếp theo ông là Aristote, kể cả Platông đã rất chú ý đến nhận thức lý tính, đến lôgíc học. Theo ông, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự vật tác động vào các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này có nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó chỉ phản ánh được mùi vị, âm thanh, màu sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được nguyên tử và Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 11
  16. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa chân không. Hơn nữa, mọi nguyên tử đều giống nhau về chất, bản thân chúng không có mùi vị, mầu sắc, âm thanh và không trông thấy được. Bởi vậy, những cảm giác này chỉ là chủ quan của con người. Theo ông, muốn nhận thức được nguyên tử và chân không, tức là muốn nhận thức bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy nạp, so sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính. Do đó, ông chia nhận thức làm hai dạng: dạng nhận thức "mờ tối"(nhận thức cảm tính) và dạng nhận thức “trí tuệ”. Theo ông, dạng nhận thức thứ hai là chủ yếu, đáng tin cậy hơn. Mặt tích cực trong quan điểm trên đây là ở chỗ, ông coi đối tượng của nhận thức là thế giới khách quan do nguyên tử và chân không tạo ra. Tuy chưa nhận thức được sự chuyển hoá giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhưng ông đã thấy được vị trí của từng dạng nhận thức, đặc biệt là nhận thức lý tính. Song mặt hạn chế trong quan niệm này là ở chỗ, ông coi các thuộc tính khách quan của sự vật như âm thanh, mùi vị, màu sắc chỉ là những quy ước chủ quan của con người. Hạn chế này đã mở đường cho những quan niệm duy tâm cho rằng chất tách rời sự vật, chất có trước và chất có sau của sự vật v.v. Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã có một công lao to lớn nữa đối với triết học, đó là lôgíc học (Tác phẩm "Bàn về lôgíc học" (Canon); tác phẩm này đã bị thất lạc, người ta chỉ biết về nó một cách gián tiếp qua lời của Aristote, Platông). Theo đó thì ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết.v.v, trong đó phương pháp quy nạp có vị trí nổi bật. Aristote đã coi Đêmôcrít là tiền bối của mình về lôgíc học, là người đầu tiên nghiên cứu lôgíc của khái niệm, lôgíc quy nạp. 2.2.1.3. Quan điểm về con người Theo ông, linh hồn không phải là cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử khác. Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 12
  17. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá trình biến đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác động của nhiệt độ. Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể học được bất kỳ cái gì nhờ có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp. Đêmôcrít đứng trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh; thần chỉ là sự nhân cách hóa hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người. 2.2.1.4. Quan điểm về đạo đức xã hội : Đêmôcrít cho rằng, đạo đức học giúp là rõ số phận, cuộc sống và hướng dẫn hành vi thái độ của từng con người. Sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức. Sống đúng mực ôn hoà không gây hại cho mình và cho người khác là sống có đạo đức. Hạnh phúc của con người là trạng thái mà trong đó con người sống trong sự hưởng lạc vừa phải trong sự thanh thản tâm hồn tự do. Ông luôn đề cao những hành động vị nghĩa cao thượng của con ngừơi vì chỉ có hành vi đầy nghĩa khí làm cho con người vĩ đại. Là đại biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, Đêmôcrít luôn xuất phát từ quan điểm duy vật để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Theo ông, chế độ dân chủ chủ nô phải gắng liền với nền thương mại và sản xuất thủ công, nhưng nó phải gắng liền với tinh thần ái, với tính ôn hòa và lợi ích chung của công dân tự do, chứ không phải của nô lệ. Nô lệ cần phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Nhà nước cộng hòa dân cử là nhà nước của chế độ dân chủ chủ nô phải biết tự điều hành hoạt động của mình theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý. Tóm lại, triết học Đêmôcrít là sự kế thừa và phát triển lên một trình độ cao các quan điểm duy vật (của trường phái Milê) và tư tưởng biện chứng (của Hêraclít) trước đó, đưa triết học của ông trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời cổ đại. Sau này, Êpiquya và Lucơrexơ đã khắc phục những hạn chế của ông và phát triển học thuyết nguyên tử hơn nữa. Lơxíp, Đêmôcrít, Êpiquya trở thành những tên tuổi đại biểu cho phái nguyên tử luận thời cổ đại Hy Lạp - La Mã. Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 13
  18. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa 2.2.2.Platông(427-347TCN) Platông xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Aten. Tên thật của ông là Aristôclơ. Theo Aristote, lúc đầu Platông là học trò của Cratin (người theo thuyết tương đối), sau đó là học trò của Xôcrát (nhà triết học duy lý, duy tâm chủ nghĩa). Khi Xôcrát bị kết án tử hình vì tội hoạt động chống lại chế độ dân chủ chủ nô, Platông rời Aten đến sống ở miền nam nước Italia. Trong thời gian này ông có liên hệ với phái Pytago và Ơclít. Sau này ông trở lại Hy Lạp, lập trường dạy học ở Aten, gọi là Viện hàn lâm (Académie). Đây là trường Đại học tổng hợp đầu tiên ở châu Âu, học trò rất đông, trong đó có nhà triết học nổi tiếng Aristote. Sau 40 năm giảng dạy, ông đã để lại 34 thiên đối thoại và nhiều bức thư triết học. Tác phẩm "Nước cộng hoà" (République) có vị trí đặc biệt trong triết học của ông. Platông là nhà triết học duy tâm khách quan, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy vật đương thời. Khi nói về hai đường lối, hai trường phái trong triết học, Lênin đã chỉ ra sự đối lập giữa đường lối duy vật của Đêmôcrít và đường lối duy tâm của Platông. Tư tưởng triết học của Platông chịu ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố duy tâm trong triết học của Pitago và Xôcrát. Ngoài những cống hiến của ông về phép biện chứng của ý niệm, vai trò của ý thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân, triết học của ông tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại. 2.2.2.1.Thuyết ý niệm Như đã nói ở trên, Platông chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong triết học Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về con số của trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì vậy ông xem nhẹ vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, của khái niệm. Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý niệm (khái niệm) và thế giới của những sự vật cảm tính. Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 14
  19. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn, tuyệt đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới các sự vật cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm, nó là cái bóng của ý niệm. Để minh hoạ cho quan niệm thế giới các sự vật cảm tính được sinh ra từ thế giới các ý niệm như thế nào, Platông đã đưa ra ví dụ "Hang động" như sau: “Ở ngoài cửa của một cái hang tối có một đoàn người đi qua; ánh sáng mặt trời chiếu vào cửa hang làm cho bóng của đoàn người được in lên vách đá. Nếu nhìn lên vách hang bên trong, người ta sẽ thấy những bóng người đi qua. Những bóng này chỉ là hình ảnh của đoàn người, chứ không phải bản thân đoàn người”. Thế giới các sự vật cảm tính cũng vậy, nó chỉ là cái bóng của ý niệm đã có từ trước mà thôi. Như vậy, khi giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, Platông cho rằng ý niệm là cái có trước, là nguyên nhân, là bản chất của sự vật. Còn sự vật chỉ là cái có sau, là cái bắt chước, cái mô phỏng, là bản sao của ý niệm. Từ thế giới quan trên đây, Platông đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí về linh hồn. Theo ông, thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và không khí, nó chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra, mỗi linh hồn trú ngụ ở một vì sao trên trời, sau đó dùng cánh bay xuống trần gian và nhập vào thể xác con người. Khi nhập vào thể xác con người thì nó quên hết mọi quá khứ, do đó nhận thức của con người chỉ là sự hồi tưởng lại những gì mà linh hồn đã có nhưng bị lãng quên. 2.2.2.2. Quan điểm về nhận thức: Từ cách giải quyết duy tâm khách quan như trên về mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học Platông cũng rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí. Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là các sự vật cảm tính khách quan Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 15
  20. GVHD: TS. Bùi Văn Mưa bên ngoài, mà là thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính không phải là nguồn gốc của tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính, được thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có một ý niệm về nó; sự vật có thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật không bao giờ mất. Ví dụ cái nhà có thể sụp đổ, hư nát, không còn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm nhà) thì không mất. Bằng cách nào để có được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách hồi tưởng lại những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con người nó đã bị lãng quên. Tóm lại, Platông đã quy toàn bộ quá trình nhận thức thành quá trình hồi tưởng của linh hồn bất tử, rất thần bí. 2.2.2.3. Quan điểm về chính trị xã hội:. Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Platông chia linh hồn làm ba bộ phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận ấy là ba hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái. Hạng này lý tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng thứ hai, là những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng lý trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ ba, là đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Hạng này linh hồn của họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính thích nghi với lao động chân tay, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. Vì vậy, công lý là ở chỗ mọi người phải sống đúng vị trí của mình. Để duy trì trật tự xã hội, Platông cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết, nhưng ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua chúa xây dựng trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai là, nhà nước quân phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa đến tội ác. Ba là, nhà nước dân chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó là một nhà nước tồi tệ. Platông nêu lên mô hình một nhà nước mà ông cho là lý tưởng, đó là nhà nước cộng hoà. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được duy Võ Thị Bích Duyên – CHKT Đêm 1 K19 Trang 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2