intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Quan điểm về con người của L. Phoi obac. Những giá trị và hạn chế

Chia sẻ: Mhvghbn Mhvghbn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

174
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Quan điểm về con người của L. Phoi obac. Những giá trị và hạn chế nêu triết học mới L.Phoiobac viết, biến con người, kể cả giới tự nhiên với tư cách là nền tảng của con người, thành đối tượng duy nhất, phổ biến, cao nhất của triết học, do đó cũng biến nhân bản học, kể cả sinh lý học thành khoa học phổ quát. Việc tìm hiểu quan niệm về con người trong triết học L.Phoiobac có ý nghĩa giúp ta có cái nhìn toàn diện về lịch sử quan niệm về con người trong triết học nói chung và những ưu điểm, đóng góp lẫn những hạn chế của ông nói riêng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Quan điểm về con người của L. Phoi obac. Những giá trị và hạn chế

  1. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 Tiểu luận Quan điểm về con người của L. Phoiobac. Những giá trị và hạn chế Trang i
  2. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 LỜI NÓI ĐẦU Bất cứ khoa học nào cũng vì con người, hư ớng tới cuộc sống con ngư ời. Triết học là một trong những hình thái ý t hức xã hội, là khoa học về nhữ ng quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội loài người và tư duy. Con người là đối tượng nghiên cứu của triết học trong tính phổ quát. Có nhiều trư ờng phái triết học ra đời cũng đồng thời có nhiều quan niệm khác nhau về con ngư ời. Quan niệm về con ngư ời đã phát sinh và tồn tại từ khi triết học mới hình thành, như ng phải đợi đến cuối thế kỷ XIX, khi xuất hiện hệ thống triết học phê phán của nhà triết học cổ điển Đức I. Kant(1724-1804) thì các quan niệm đó m ới được hệ thống hoá và trình bày dưới dạng m ột học thuyết triết học với tên gọi là chủ nghĩa nhân bản. Tiếp thu những giá trị tư tưởng trong nhân bản học của Kant, đồng thời dựa trên những thành tựu mới của k hoa học tự nhiên đương thời, L. Phoiobac(1804-1872) có tham vọng vư ơng tới việc thiết lập một nền triết học m ới triết học tương lai lấy con người và đời sống tâm sinh lý của nó làm đối tư ợng nghiên cứu cơ bản. T riết học mới L.Phoiobac viết, biến con ngư ời, kể cả giới tự nhiên với tư cách là nền tảng của con ngư ời, thành đối tượng duy nhất, phổ biến, cao nhất của triết học, do đó cũng biến nhân bản học, kể cả sinh lý học thành khoa học phổ quát. Việc tìm hiểu quan niệm về con người trong triết học L. Phoiobac có ý nghĩa giúp ta có cái nhìn toàn diện về lịch sử quan niệm về con người trong triết học nói chung và những ưu điểm, đóng góp lẫn những hạn chế của ông nói riêng. Trang ii
  3. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 MỤC LỤC LỜ I NÓI ĐẦU.............................................................................................................i CHƯƠNG 1: HO ÀN C ẢNH LỊCH SỬ ................................................................1 VÀ CUỘC ĐỜI SỰ NGHIỆP CỦA L. PHO IO BAC .........................................1 1.1 Hoàn cảnh lịch sử .............................................................................................1 1.1.1 Đặc điểm k inh tế– xã hội .........................................................................1 1.1.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đứ c .......................................................1 1.2 Cuộc đời và sự nghiệp Phoiobac ....................................................................3 CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRON G TRIẾT HỌC L. PHOIOBAC ................................................................................................................6 2.1 Nội dung triết học Phoiobac: ..........................................................................6 2.2 Quan niệm về con người trong triết học Phoiobac:......................................6 2.2.1 Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên .....................................7 2.2.2 Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.........................................................8 2.2.3 Mối quan hệ giữa con người với con người ........................................10 2.2.4 Mối quan hệ giữa người và thần ...........................................................11 2.3 Ảnh hư ởng của Chủ ngh ĩa duy vật Phoiobac đ ến t riết học Mác..............15 2.3.1. Về tôn giáo: ............................................................................................16 2.3.2. Về con người ..........................................................................................16 2.3.3.Về tự nhiên: .............................................................................................18 KẾT LUẬN ...............................................................................................................20 TÀI LIỆU TH AM KHẢO .....................................................................................23 Trang ii
  4. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. .. .................................................................................................. Trang iii
  5. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ CUỘC ĐỜI SỰ NGHIỆP CỦA L. PHOIOBAC 1.1 Hoàn cảnh lịch sử 1.1.1 Đặc điểm kinh tế– xã hội Nước Đức giữa thế kỷ 18 – nữa đầu thế kỷ 19 lạc hậu, nền kinh tế nông nghiệp phân tán nghèo nàn, lạc hậu , về chính trị chế độ quân chủ Phổ rất khắc nghi ệt, trong tình hình như vậy thì giai cấp tư sản Đức yếu ớt , không đủ sức làm cách mạng tư sản như một s ố nước kh ác ở Ch âu Âu lúc bấy giờ. Vì yếu không đủ sức làm cách mạng cho nên đội ngũ trí thức Đức buộc phải làm cách mạng tư tưởng, và điều đó đư ợc thể hiện trong triết học cổ điển Đức. Trong khoảng thời gi an này, khoa học tự nhiên ở phư ơng tây và các nư ớc phát triển, đạt được một số t hành tựu l ớn: phát hiện oxy – b ản chất của sự cháy, tế bào, định l uật bảo toàn và chuyển hóa năng l ượng, học thuy ết về dưỡng khí và dưỡng khí và đã đưa ra các giả thuy ết khoa học về sự ra đời của vũ trụ. Với bối cảnh chính trị xã hội và sự phát triển của khoa học ở phương T ây và nước Đứ c như vậy đã chứ ng tỏ sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất các hiện tượng tự nhiên và thự c t iễn xã hội đang diễn ra vào cuối thế kỷ X VIII, đầu thế kỷ XIX. Do đó, nó đòi hỏi cần phải có m ột cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự nhiên và tiến trình của lịch sử nhân loại, cũng như cần có một quan niệm m ới về khả năn g và vai trò của con ngư ời, và triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứ ng nhữ ng yêu cầu này. 1.1.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức Triết học cổ điển Đức đã tiếp tục phát huy truyền thống duy lý của phương Tây, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học. Các triết gia ra sức xây dựng các hệ thống triết học vạn năng, bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động của con người đề làm cơ sở cho nhữ ng hoạt động đó. Đối với Hê-ghen, triết học thật sự phải là logic học; còn đối với Phoiobac, đó là nhân bản học. Tuy nhiên, do cố khắc phục những hạn chế siêu hình và m áy móc trong nền triết học d uy vật thế kỷ XVII-XVIII mà triết học cổ điển Đức lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm, thần bí. Họ cho rằn g, tính biện chứ ng sống động chỉ là bản tính của cái tinh thần, còn bản thân giới tự nhiên thì phi biện chứng. Dù vậy, họ vẫn biết tiếp thu những tư tưởng biện chứng quý báu trong di sản triết học Trang 1
  6. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 truyền thống của n hân loại, phát triển thêm và xây dựng đư ợc phép biện chứng như một h ọc thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong thế giới. Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cự c của con ngư ời với tính cách là chủ thể của mọi hoạt động cải tạo th ế giới – khách thể; và khảo sát khách thể gắn liền với hoạt động thự c tiễn của chủ thể– con người. Song, do quan điểm duy tâm chi phối mà nhiều triết gia của n ền triết học này hiểu thực tiễn chỉ là hoạt động sáng tạo của ý thức, đồng thời tuyệt đối hóa ý t hức, biến ý thức thành một lực lư ợng siêu nhiên có năng lự c sáng tạo kỳ vĩ; vì vậy, triết học của họ mang tính duy tâm – thần bí. Triết học cổ điển Đức là cơ sở thế giới quan, là nền tảng ý thức của giai cấp tư sản Đức cuối thể kỷ XVII đầu thế kỷ XIX vốn yếu về kinh tế, như ợc về chính trị, nhưng có đời sống văn hóa t inh thần khá p hong phú, sống trong m ột xã hội mà tàn tích phong kiến còn quá nặng nề. Triết học cổ điển Đức ra đời và đáp ứng được nhu cầu xã hội, nó có một số điểm cần quan tâm : - Do đặc điểm tình hình xã hội lúc bấy g iờ, triết học Đức có nội dung rất cách mạng nhưng hình thứ c h iện thì rối rắm và m ang tính bảo thủ ( đi ển hình trong triết h ọc Hê-ghen). - Đã x ây dựng ph ép biện chứng như là một học thuyết hoàn chỉnh trình bày về mối liên hệ phổ b iến và sự phát triển (sau này Triết học Mác ra đời là kế thừa phép biện chứng n ày) như ng tiếc thay biện chứng ở đây là phép biện chứ ng duy tâm. - Đề cao v ai trò hoạt đ ộng tíc h cực của con người. Con ngư ời đối v ới họ là một thực thể hoạt động, là chủ thể, nhưng đồng thời là kết quả quá trình hoạt động của chính họ. Tư duy và ý thức con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế gi ới. Tuy n hiên họ đã quá thần thánh v ề trí tuệ, sứ c mạnh của con người tới mức coi con ngư ời là chúa tể của tự nhiên. Trang 2
  7. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 1.2 Cuộc đời và sự ng hiệp L. Phoi obac L. Phoiobac (1804-1872)– đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức, sự kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết học Đức– nhà duy vật và nhà khai sáng. Triết học Phoiobac là sản phẩm tất y ếu của nhữ ng điều kiện mới, hình thành vào cuối những năm 30– đầu những năm 40. Đó là thời kỳ nhen nhóm t ình thế cách m ạng ở n hiều nơi trên nư ớc Đức, thời kỳ gia tăng các cuộc đấu tranh tư tư ởng giữa giai cấp tư sản và phản động. Lẽ cố nhiên nước Đức vẫn chư a thoát khỏi tình trạng lạc hậu về kinh t ế và chính trị, còn giai cấp tư sản Đức thì chư a được thống nhất trong phạm vi quốc gia. Bên cạnh đó giai cấp tư sả n bây giờ đứng trước h ai lực lượng mà họ cho là đáng ngại: lực lượng của quá kh ứ và lực lượng của tương lai. T rong trường hợp đó, phần đông những người trung lưu chọn giải pháp dung hòa với chế đ ộ dân chủ. Nhưng m ột bộ phận khác, tiến bộ hơn thấy rõ cuộc khủng hoảng sâu sắc bao trùm toàn bộ hệ thống xã hội phong kiến– nông nô và mong muốn đưa nước Đức ra khỏi tình trạng hiện có. Vào những năm 40– 50 của thế kỷ XIX, khắp nơi trên nư ớc Đức đã dấy lên làn sóng khởi nghĩa của nông dân.Trong hàng ngũ những ngư ời tham gia đấu tranh có mặt những đại biểu ưu tú nhất của tầng lớp thứ ba và tri thứ c quí tộc. Rõ ràn g sự gia tăng mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản đang phát triến và quan hệ phong kiến lỗi thời kéo theo sự ra đời các tổ chứ c xã hội đối lập với chính thể phong kiến, chế độ chuyên chế. Phong trào khai sáng Pháp và chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII cũng ảnh hư ởng to lớn đến tâm trạng của người Đức. Sinh hoạt kinh t ế và chính trị, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng Voltaire, M ontesquieu, Rouss eau .v.v… ngày càng trở nên sôi động. Sự phát triển tư bản ở Đức đòi hỏi t hủ tiêu. Song các nhà tư tưởng tư sản Đức tránh né sự va chạm trự c tiếp với chế độ hiện hành. Họ chống đối chế độ chuyên chế dư ới dạng phê phán về mặt triết học C ơ đốc giáo chính thống. Họ ngầm hiểu rằng phê phán tôn giáo tức là phê phán lực lư ợng phản động chính trị, bởi lẽ tôn giáo, đặc biệt Cơ đốc giáo, là h ệ tư tư ởng thống trị của nhà nư ớc quân chủ Phổ. Tro ng số của những đại biểu kiệt xuất của khuynh hướng dân chủ tư sản nổi lên L.Phoiobac. Trang 3
  8. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 L.Phoiobac sinh trưởng trong một gia đình lu ật sư nổi tiếng ở Đức. Năm 1823 với mục đích nghiên cứ u tôn giáo, Phoiobac vào học tại khoa thần học của trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuy ển đến Berlin, nơi Hê-ghen đang giảng triết học. Tại đây ông trở thành học trò của Hê-ghen và gia nhập phái H ê-ghen trẻ. "Nhờ Hê-ghen,– Phoiobac công nhận,– tôi đã ý thứ c được chính mình, ý thức đư ợc thế giới. Hê-ghen trở thành người cha thứ hai của t ôi…”. Năm 1828 Phoiobac gởi cho Hê-ghen bản luận án của mình m ang tên “ Về lý tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói thẳng ý nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Đôi khi Phoiobac bày tỏ hoài nghi về tinh thần tuyệt đối chế ngự sự vận động tự nhiên, như ng ngay lập tức những lập luận sắc sảo của H ê-ghen đã chinh phục học trò. Năm 1829, Phoiobac lúc đó 25 tuổi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trư ờng đại học Erlangen. Tại đây Phoiobac trình bày logic học và siêu hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản m à về sau trở thành nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trư ng – chủ nghĩa duy vật nhân bản. Khái niệm trung tâm –tình yêu. Tình yêu là bản chất của loài người. Con ngư ời biết sống trước hết là con ngư ời biết yêu."Đứa trẻ chỉ thành người khi nó y êu. Bản chất tình yêu thể hiện ở một dạng tình yêu, đó là t ình yêu của ngư ời đàn ông dành cho ngư ời đàn bà". Năm 1830, Phoiobac xuất bản tác phẩm đ ầu tiên "Quan điểm về cái chết và bất tử". Một lần nữa chủ đề tình yêu lại được nêu ra. Phoiobac nói về tình yêu thiên đường và tình yêu trần t ục, tình yêu thần t hánh và tình yêu con ngư ời. Ông khẳng định: con ngư ời yêu con người, cần phải yêu, yêu là hiến dâng. Đề cập đến sự bất tử, Phoiobac cho rằng chỉ cần những hành vi vĩ đại của lý tính con ngư ời mới bất tử, như ng nhìn chung ông bác bỏ tư tưởng phổ biến về sự bất tử của linh hồn. Sách của Phoiobac bị tịch thu, còn vị phó giáo sư bị thì mất việc. Cũng từ năm ấy Phoiobac bắt đầu cuộc sống đơn độc, thậm chí ẩn dật ở vùng quê, công bố những tác phẩm đánh dấu cách nhìn khác đối với tr iết học Hê-ghen. Năm 1831, Hê-ghen mất, Phoiobac có dịp bày tỏ toàn bộ quan điểm của mình. Cũng như Strauss , Bauer, ông xem việc phê phán tôn giáo giải phóng con người khỏi sự nô dịch của ý thức tôn giáo là mục đích tối cao. Như ng ông tuyên bố tô n giáo là hình thức sinh hoạt tinh thần cần có ở bất cứ xã hội nào. Vấn đề là ở chỗ tôn giáo đó không kìm hãm nhân cách, trái lại khơi dậy khả năng tiềm tàng nơi con ngư ời. Năm 1836 Phoiobac cưới vợ, trong suốt 25 năm Trang 4
  9. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 hầu như không rời khỏi ngôi nhà nhỏ của mình, mặc dù năm 1848 trúng cử đại biểu quốc hội vùng Frankfurt. Năm 1839 Phoiobac đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Hê-ghen", Phoiobac giải quy ết vấn đề cơ bản của triết học t heo hư ớng duy vật và xem xét giới tự nhiên, tồn tại, vật chất, như thực tại sinh ra lý tính tư duy. Vư ợt qua khỏi giới h ạn triết học Hê- ghen và Schelling, Phoiobac viết:"Thực tại của tồn tại cảm tính đơn nhất là chân lý". Thuật ngữ “chân lý” trong lối diễn đạt này có nghĩa là “thực tiễn", “tính có trư ớc”. Ở chỗ khác Phoiobac nói thêm: “Chân lý, thự c t iễn, tính cảm giác đồng nhất với nhau. Chỉ bản chất cảm tính mới là bản chất chân lý thực tiễn”. Năm 1841, Phoiobac cho ra mắt tác phẩm chính “ Bản chất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn. Những năm t iếp theo ông viết “Luận cương khởi đầu về cải cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết học cơ b ản của tương lai" (1843), Phoiobac đứ ng bên lề của diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là ngư ời thụ động về chính trị, mặc dù hoan nghênh tinh thần dân chủ tư sản của cuộc cách mạng đó. Thời kỳ cách mạng Phoiobac viết và công bố một vài tác phẩm nhưng chẳng mấy ai chú ý. Giai cấp tư sản quay lưng lại với nhà tư tư ởng vĩ đại, vì họ không thích t hú gì cái tình yêu nhân loại quá lớn của ông, còn các lực lượng khác nhận thấy ở đó nhữ ng biểu hiện của chủ nghĩa không tưởng chính trị. Mãi mãi Phoiobac cũng chỉ là một ngư ời dân chủ xã hội, mặc dầu nhữ ng năm cuối cuộc đ ời ông đọc say sưa bộ "Tư bản", trao đổi bằng thư từ với không ít nhà Mác- xít. Ông mất năm 1872, tức là sau công xã Paris (1871) thất bại. Trang 5
  10. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC L. PHOIOBAC 2.1 N ội dung triết học Phoi obac: Nền triết học mới mà Phoiobac đề cập đến là triết học phản ánh chân lý của thời đại, nó đặt ra và lý giải những vấn đề xã hội đư ơng thời mà chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm trước ông đều bất lực: “ Chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm, không phải là sinh lý học hay tâm lý học. Chân lý là nhân bản học”. T heo Phoiobac, tr iết học mới hay triết học tư ơng lai sẽ khắc phục được sự khác biệt của mình đối với tôn giáo, sẽ không còn là thứ triết học nhận thứ c tư biện, mà trở thành nhân bản học- một học thuy ết toàn diện về con người, về m ối quan hệ của nó với thế giới. Trong triết học m ới, hình ảnh con người sẽ đư ợc trình bày trên cơ sở của các dữ liệu khoa học cũng như trên cơ sở của học thuyết về Chúa. Con ngư ời trong nhân bản học không chỉ được hiểu như là một bộ phận của giới tự nhiên mà còn là m ột sinh thể tự nhiên toàn năng. Triết học mới có sức mạnh truy tìm lời giải đáp hiện thực để giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Triết học cũ là hệ thống triết học gắn liền với thần học còn triết học mới kết hợp chặt chẽ với khoa học tự nhiên, thực hiện sứ mệnh cao cả của mình là giúp con người nhận diện chính mình như một bộ phận của giới tự nhiên, nhận ra chân giá trị của cuộc sống và nhằm nỗ lực phấn đấu cho hạnh phúc ngay trong thế giới trần gian. Và để thự c hiện được sứ m ệnh lịch sử thiêng liêng đó thì “triết học cần th iết phải liên hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên, còn khoa học tự nhiên thì phải liên hệ chặt chẽ với triết học”. Vốn là n gư ời có tư tưởng cách t ân, Phoiobac mơ tới việc thiết kế những đồ án cho việc cải cách triết học và ô ng đã thự c hiện điều đó trong hai tác phẩm “Những luận điểm dự thảo cho cuộc cải cách triết học” (1842), và “Những luận đề cơ bản của triết học tư ơng lai” (1843). Trong các tác phẩm đó, ông đã mở ra một hướng đi mới cho các nhà triết học sau này, đó là truy tìm bí mật của triết học ngay trong giới tự nhiên và con người: “Hãy quan sát giới tự nhiên và con ngư ời bạn sẽ thấy trong đó những bí m ật của triết học”. 2.2 Quan niệm về con người trong triết học Phoi obac : Với tham vọng như vậy nhà triết học mới này đi sâu vào việc nghiên cứu bản chất con ngư ời bắt đầu từ việc truy tìm: M ối quan hệ giữa con ngư ời và Trang 6
  11. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 giới tự nhiên; mối qu an hệ giữa tư duy và tồn tại; mối quan hệ giữa người và ngư ời để từ đó ông đi đến kết luận về mối quan hệ giữa người và thần. 2.2.1 M ối quan hệ giữ a con ngư ời với giới tự nhiên Tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên trên nền t ảng của chủ nghĩa duy vật nhân bản, Phoiobac cho rằng, con người không phải là sản phẩm của thượng đế như các nh à thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối như H ê-ghen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên, ông viết: “Giới tự nhiên là ánh sáng, điện từ, từ tính, không khí, nư ớc, lửa, đất, động vật, thực vật, con người… bởi vì con người là thự c thể hoạt động thiếu tự chủ và vô thức”. Như vậy sự phát sinh và tồn tại của con người cũng giống như sự phát sinh và tồn tại của các hiện tượng tự nhiên khác, chỉ có điều khác là: con người là s ản phẩm tiến hoá cao nhất của giới tự nhiên, là một sinh vật bậc cao có tính vư ợt trội so với các loài động vật khác ở đời sống t inh thần của nó: “Sự khác biệt cơ bản giữa loài ngư ời và loài vật là gì? Câu trả lời chung rất đơn giản là: đó là sự khác nhau trong ý thức đúng với nghĩa chân chính của từ này…bởi ý thức theo nghĩa chính xác chỉ có ở chỗ, khi chủ thể có khả năng nhận thức được loài của mình, bản chất của mình. Động vật nhận thứ c mình như một cá thể, nó chỉ làm chủ đư ợc quá trình tự cảm giác mà thôi, chứ không phải như một loài…bởi vậy, động vật sống đơn giản m ột mình còn con ngư ời sống có bạn. Đời sống nội t âm của con vật hoà đồng với thế giới bên ngoài, còn con ngư ời sống với cả 2 chiều: nội tâm và thế giới bên ngoài. Đời sống nội tâm của con ngư ời liên quan mật thiết với loài và bản chất của loài. Con ngư ời suy nghĩ, bàn luận và nói với chính mình”. Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối quan hệ giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự sống, theo nghĩa thế giới vô cơ là tiền đề, là nền tảng của mọi sự sống nói chung, của đời sống con người nói riêng. Con ngư ời chỉ có thể tồn tại trong giới tự nhiên, trong sự tiếp xúc với thế giới khách quan bên ngoài của nó, và cũng chính thế giới này quy định sự tồn tại và phát triển của các giác quan con ngư ời chứ không phải ngược lại như chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định. Ánh sáng tồn tại không phải để cho con m ắt nhìn mà con mắt tồn tại bởi vì có ánh sáng, tương tự như vậy, không khí tồn tại không phải để cho con người hít thở mà con người hít thở bởi vì có không khí. Bởi vì nếu không có không khí thì sẽ không có sự sống. Tồn tại một m ối quan hệ tất yếu giữa thế giới vô cơ và thế giới hữ u cơ. Mối quan hệ này chính là cơ s ở, là bản chất của sự sống. Bởi Trang 7
  12. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 vậy, chúng ta không có căn cứ nào để giả định rằng nếu như con người có nhiều cảm giác hay nhiều cơ quan thì nó sẽ hiểu biết đư ợc nhiều thuộc tính hay nhiều sự vật củ a tự nhiên hơn…con người vừa có đủ những giác quan cần thiết để cảm nhận thế giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của nó. 2.2.2 M ối quan hệ giữ a tư duy và tồn tại Từ việc quan sát hình th ể bên ngoài của con ngư ời cho đến mọi hoạt động lao động sản xuất cũng như hoạt động t inh thần của nó, Phoiobac cho rằng, con ngư ời là một sinh vật có hình thể vật lý- sinh lý ở trong không gian và thời gian, nhờ vậy nó có năng lực quan sát và suy nghĩ vượt trội các loài sinh vật khác. Bản chất con người là một cái gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và tinh thần (tư duy). Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có thể tồn tại và phát triển như m ột sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong m ọi sinh vật hiện có. Và sai lầm của chủ nghĩa duy tâm là sự toan tính thủ tiêu sự thống nhất toàn vẹn đó của con ngư ời, tách tư duy con ngư ời khỏi tồn tại của nó, biến tư duy con ngư ời thành một thự c thể siêu tự nhiên có khả năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Còn sai lầm của chủ nghĩa nhị nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như những thực thể tồn tại độc lập bên cạnh nhau, đó là một sự khẳng định vòng vo, nử a vời, trái ngư ợc. Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa nhị nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh th ần, tồn tại và tư duy, Phoiobac đã thừa nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của t ồn t ại đối với tư duy là tồn tại– chủ thể, tư duy– thuộc t ính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không phải tồn tại xuất phát từ tư duy…Cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là nguy ên lý trí tuệ, là sự tất yếu và chân lý…Bản chất của tồn tại với tư cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên. T ại sao tồn tại là chủ thể, còn tư duy là thuộc tính (của chính chủ thể đó)? Để trả lời câu hỏi này, theo Phoiobac, chúng t a cần đến từ đâu, bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ đâu đến, thì tinh thần cũng đến từ đấy, ngay cả hoạt động tinh thần cũng là việc làm của cơ thể, của đầu óc con người, hoạt động đó khác với các hoạt động khác ở chỗ, nó là hoạt động của đầu óc. Không phải là người nghiên cứu sâu về sinh lý học, song Phoiobac cũng nhận thấy rằng, mỗi con ngư ời cụ thể bằng xương bằng thịt đang sống và hoạt động là những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và tinh thần, giữa phư ơng diện vật lý và p hương diện tâm lý. Sự thống nhất này phản ánh sự thống nhất giữa cấu trúc v à chức năng, giữa giải phẫu học và sinh lý Trang 8
  13. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 học. Và cũng từ đó ông dễ dàng rút ra một kết luận triết học duy vật rằng, tư duy, ý thứ c củ a con ngư ời không là cái gì khác như là thuộc tính vốn có của một dạng vật chất có tổ chứ c cao– bộ óc con người. Chính ở đ ây ông đã phần nào phỏng đoán được nội dung vấn đề cơ bản của triết học, điều mà suy nghĩ này, Ănghen đã phát biểu một cách rõ ràn g hơn trong tác phẩm “Lutvich Phoiobac và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”. Sau khi công nhận m ột cách dứt khoát rằng, tồn tại của chủ thể, tư duy là thuộc tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Phoiobac đi đến việc tìm hiểu sâu hơn bản chất tự nhiên– sinh học của con người. “ Bản chất chung của con ngư ời là gì? Những nhân tính cơ bản trong con ngư ời là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim. Con ngư ời hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực t ình cảm. Năng lực tư duy chính là ánh sáng của nhận thứ c, sức mạnh của ý chí ch ính là năng lượng của tính cách, nguồn lực tình cảm chính là tình yêu…Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn chứa đựng bản chất tối cao, tuyệt đối của con ngư ời là m ục đích tồn t ại của n ó…con người tồn t ại để nhận thức, yêu thương và mong muốn.Nhưng mục đích của lý tính, của ý chí, của tình yêu là gì? Là để làm cho con ngư ời trở t hành ngư ời tự do. Qua nhữ ng lời lẽ đ ó, nhà triết học cổ điển Đức m uốn chứng m inh rằng, bản chất chung của con người là tổng hoà mọi khát vọng chính trị, mọi năn g lực nhận thức v à nhu cầu tự nhiên-sinh học đã trầm tích trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài của nó. Mọi mong muốn, khát vọng tự nhiên của con ngư ời theo quan điểm của Phoiobac không phải xuất phát từ tư tưởng thuần tuý m à chúng phản ánh đời sống hiện thực của con người và do đời sống đó quy định. Nói cách khác, trong con người, cái sinh lý q uy định cái tâm lý, cái tự nhiên- sinh học quy định cái xã hội, nhu cầu vật chất quy định hành động xã hội. “Điều ác xuất hiện không phải trong đầu óc, trong trái tim- Phoiobac viết- mà xuất hiện chính trong dạ dày con người”. Quan điểm này của Phoiobac đã làm cho Ănghen rất chú ý. Trong t ác phẩm “Lutvich Phoiobac và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, Ănghen đánh giá cao luận điểm của Phoiobac: “Trong một cung điện, ngư ời ta suy nghĩ khác trong m ột túp lều tranh”. “Nếu như vì đói, vì nghèo mà trong cơ thể không có ch ất dinh dư ỡng, th ì trong đầu óc anh, trong tình cảm và trong trái tim anh cũng không có chất nuôi đạo đứ c”. Đây là luận điểm hoàn toàn mới so với đương t hời, vì theo quan điểm này thì điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quy định suy nghĩ và tư tưởng của nó. Tuy nhiên, Phoiobac chư a có khả năng nhìn nhận con người với tư cách là một cá thể của loài, với tư Trang 9
  14. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 cách là một thành viên xã hội, mà ông chỉ m ới dừng lại ở con người cụ thể “ theo ý kiến tôi thì chính cá thể đ ã bao quát toàn bộ bản chất con ngư ời, bản chất con người chỉ có một- đó là bản chất cá thể”. 2.2.3 M ối quan hệ giữ a con ngư ời với con người Tuy nhấn m ạnh tính cá thể của con ngư ời, song Phoiobac cũng hé mở một ý tưởng cho rằng, trong quá trình sống,con ngư ời có thể giao tiếp với những ngư ời khác, với cộng đồng xã hội. Do tiếp xúc với xã hội mà “từ một t ồn tại thuần tuý vật lý, con ngư ời trở thành một tồn tại chính trị, nói chung trở thành một cái gì đó khác với tự nhiên, tồn tại đó chỉ quan tâm đến bản thân mình”.Quan niệm cho rằng, con người là một tồn tại xã hội đã có trong triết học của Aristote, như ng Phoiobac viết: “Con ngư ời là m ột tồn tại của tự do, tồn tại có nhân cách, tồn tại của luật pháp, ở đây nhà triết học duy vật cổ điển Đức đã nhìn thấy rằng, “cái tôi”, “cái đơn tử”, “cái tuyệt đối” đư ợc miêu tả trong triết học của các bậc tiền bối mới chỉ là xuất phát điểm, là nền tảng vật lý-sinh lý của con ngư ời. Vấn đề quan trọng hơn là bản chất đích thự c của con ngư ời, tức là nhữ ng yếu tố quy định sự tồn tại của nó với tư cách là một sinh thể có tính loài hay nói theo cách của Mác là tính xã hội của con người. B ởi vì “khi con người sinh ra từ giới tự nhiên, nó m ới chỉ là một sinh vật tự nhiên đơn thuần chứ không phải là người… con người là s ản phẩm của văn hoá và của lịch sử”. Như vậy, theo Phoiobac, khi nói về con ngư ời, nhất thiết phải giả định rằng, có những người khác và chỉ có trong mối quan hệ đó thì con ngư ời m ới là con ngư ời với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Từ việc công nhận con ngư ời như là sản phẩm của văn hoá, của lịch sử Phoiobac đi đến quan điểm cho rằng tính ích kỷ không mang tính cá nhân như các nhà đ ạo đứ c học trước ông, mà nó còn mang tính xã hội. Đây là một quan điểm hoàn toàn mới so với lịch sử đương thời. Khi đọc nhữ ng lời này của Phoiobac, Lênin cho rằng đây là “phôi thai của chủ nghĩa duy vật lịch sử”. T iến xa hơn bư ớc nữa, nhà triết học mang nặng tinh thần nhân đạo coi tính ích kỷ của con ngư ời như là một động lự c thúc đẩy sự p hát triển của lịch sử xã hội . “Trong lịch sử, một thời đại mới bắt đầu từ đâu?Bắt đầu từ chỗ đông đảo quần chúng bị áp bức đưa ra tính ích kỷ chính đáng của m ình chống lại tính ích kỷ cực đoan của thiểu số người khác …tính ích kỷ của đa số nhân loại đang bị áp bức phải và sẽ thự c hiện quyền của mình và m ở ra một thời đại lịch sử mới…không thể để cho thiểu số ngư ời là cao thượng, có t ài sản, còn số khác là thấp hèn, là chẳng có gì. Tài sản phải có ở tất cả m ọi ngư ời.”. Những lời lẽ có tính tuy ên chiến với xã h ội tư bản này đư ợc Trang 10
  15. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 Phoiobac nói ra vào thời điểm lịch sử khi Tuyên ngôn Đảng cộng sản của M ác và Ănghen mới ra đời phần nào phản ánh tư tưởng chủ nghĩa xã hội của Phoiobac và được Lênin đánh giá cao trong “Bút ký triết học”, đã vư ợt lên trên quan niệm này khi đưa vào đời sống của con ngư ời những phạm trù xã hội phản ánh đời sống đa d ạng, sinh động của con ngư ời như: tự do, nhân cách, luật pháp 2.2.4 M ối quan hệ giữ a ngư ời và thần Nhìn nhận con ngư ời vừ a như m ột cá thể chứ a đầy tham vọng cá nhân, vừa là sản phẩm của con ngư ời, sản phẩm của văn hoá và lịch sử chính là cơ sở lý luận để Phoiobac xem xét mối quan hệ giữa ngư ời và thần. Phoiobac cho rằng, việc nghiên cứ u nguồn gốc v à bản chất của tôn giáo phải xuất phát từ việc nghiên cứu bản chất con ngư ời và đời sống hiện thự c của nó. Dựa trên cơ s ở lý luận của chủ nghĩa nhân bản, Phoiobac cho rằng yếu tố quan tr ọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tô n giáo đó là trạng t hái tâm lý của con ngư ời. “Thượng đế không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ – Phoiobac viết- mà là thực t hể t âm lý”. Chính sự xúc cảm mạnh, sự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ của con ngư ời là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo.Nhưng sự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ, trạng thái xúc cảm không phải là hiện tượng có tính chủ quan như chủ nghĩa duy tâm chủ quan quan niệm, m à chúng có tính khách quan, nghĩa là gắn liền với các hiện tượng tự nhiên và đ ời sống xã hội. Phoiobac viết : “Tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con ngư ời như ng trong giấc mơ đó chúng ta không phải ở trên bầu trời mà ở trên mặt đất, trong vư ơng quốc của hiện thực, chúng ta nhìn thấy các đối tượng của hiện thực không phải trong thế giới thực tế của tính tất yếu m à là trong thế giới say mê của trí tư ởng tư ợng và sự kì quặc. Nhiệm vụ của tôi là bóc trần bản chất đích thực của tôn giáo và triết học tư biện hay thần học, chuyển thế giới nội tâm ra thế giới bên ngoài, nghĩa là biến đối tượng tư ởng tượng t hành đối tượng hiện thự c”. Trên tinh thần như vậy, ông phê p hán các quan điểm cho rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh. Theo Phoiobac, tình cảm tôn giáo cũng như các ý niệm và biểu tượng của nó luôn thay đổi t heo sự thay đổi của lịch sử xã hội loài người. Từ lập trường của chủ nghĩa nhân bản, Phoiobac cho rằng, trong con người luôn có những ham muốn, nhu cầu, khát vọng và t hái độ ích kỷ. Những nhu cầu sinh học và trạng t hái tâm sinh lý này có thể được đ áp ứng hoặc có thể không đư ợc đáp ứng, từ đó gây nên trong con người hai xu hư ớng trạng t hái tâm lý: hoặc sợ hãi, Trang 11
  16. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 bất lực, nỗi buồn chán, đau khổ (nếu con ngư ời gặp những điều bất hạnh) hoặc sự ngưỡng mộ, kính phục, lòng biết ơn ( nếu con người gặp những thuận lợi). Phoiobac viết: “Tô n giáo là sự phản ánh thời thơ ấu của nhân loại hay trong tôn giáo con người là đứ a trẻ. Đứa trẻ không thể thự c hiện ý muốn của mình bằng sức mạnh của nó mà p hải nhờ đến một tồn tại mà nó lệ thuộc…tôn giáo có nguồn gốc xuất hiện, có chỗ đứng chân chính, có ý nghĩa trong thời thơ ấu của nhân loại”. Ở đây, khi nghiên cứ u vấn đề tôn giáo, Phoiobac phải nhờ vào những tư liệu của lịch sử và khảo cổ học, theo đó thì con ngư ời nguyên thuỷ là con người cảm tính chứ không phải là con người lý tính. Đời sống của người nguyên thuỷ hàng ngày bắt phải tiếp xúc với muôn vàn sự vật, hiện tượng đa dạng của giới tự nhiên như mặt trăn g, mặt trời, sấm s ét, bão lụt, giông tố, sông sâu, biển rộng, núi non hiểm trở, rừ ng rậm cây cao… và lẽ đó t ất nhiên là con ngư ời phải lệ thuộc vào chúng để tồn tại. Từ đó làm phát sinh tâm lý hay tình cảm trong con ngư ời đối với tự nhiên: “Điều mục đầu tiên của tôi trong Bản chất tôn giáo có thể nói một cách vắn tắt là: cơ sở của tôn giáo là t ình cảm về sự lệ thuộc của con người. Trong ý nghĩa đầu tiên, giới tự nhiên chính là đối tượng của tình cảm lệ thuộc này. Vì vậy, giới tự nhiên nói chung là khách thể đầu tiên của tôn giáo”. Vậy tại sao giới tự nhiên lại trở thành đối tượng đầu tiên bắt buộc con ngư ời phải lệ thuộc? Phoiobac giải thích như s au: Thứ nhất, bởi giới tự nhiên là đối tư ợng cảm giác trự c t iếp của con ngư ời, là cái tác động hàng ngày, hàng giờ lên các giác quan nhận biết củ a con ngư ời: “cái bắt con người, lệ thuộc, cái mà con người cảm thấy lệ thuộc, cái mà từ đó con người biết đư ợc sự lệ thuộc của m ình chính là giới tự nhiên, là đối tượng của cảm giác, tất cả những ấn tượng mà giới tự nhiên t ạo ra cho con ngư ời thông qua các cảm giác đều có thể trở thành lý do của sùng bái tôn giáo”. Thứ hai, sự sùng bái tự nhiên còn bắt nguồn từ việc trong quá trình sống, do thể chất yếu ớt của mình, con người thường có tâm lý sợ hãi các hiện tượng của giới tự nhiên, dẫn đến tình trạng bất lực trước các hiện tư ợng đó: “Quan niệm về sức mạnh vô biên như là đặc t ính cơ bản của thần thánh xuất hiện và phát triển trong con người đặc biệt khi con người so sánh hành động của mình với hành động của tự nhiên. Con n gười không thể tạo nên cây cỏ, không làm nên bão tố và thời tiết, không thể làm sáng loé như chớp…tất cả những hiện tượng tự nhiên này vượt trội sức mạnh của con ngư ời, làm cho con ngư ời cảm thấy bất lực. Chính vì vậy, thự c thể tạo nên các hiện tượng đó đối với con người là một thực th ể siêu nhân-thực thể có t ính thần thánh”. Trang 12
  17. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 Thứ ba, như m ột hiện tượng tâm lý, tình cảm lệ thuộc vào giới tự nhiên của con người gắn liền với quan niệm về đời sống tâm linh của nó, hay nói cụ thể hơn là gắn liền với quan niệm về cái chết. Theo quan điểm hiện đại, con ngư ời là một thực thể tự nhiên-sinh học, nên nó cũng phải tuân theo quy luật sinh-lão- bệnh-tử. Nhưng người nguyên thuỷ thì chưa thể hiểu đư ợc điều đó, họ cho rằng đau ốm chết chóc chính là sự trừng phạt của thánh thần, bởi vậy, “tình cảm về sự lệ thuộc và tình cảm về sự hữu hạn của đời ngư ời là đồng nhất với nhau. Con người luôn có ý thức rằng vào một lúc nào đó nó sẽ chết. Gía n hư con ngư ời không chết, giá như nó sống vĩnh viễn, nói tóm lại nếu như không có cái chết thì sẽ không có tôn giáo”. Luận điểm này của Phoiobac thực ra không có gì m ới, bởi cái chết là đ ề tài muôn thuở của tôn giáo, cái chết gây nên một sự sợ hãi trong con ngư ời cả về phương diện vật lý lẫn phư ơng diện tâm lý, trong đó phư ơng diện tâm lý là cơ bản, bởi con người sợ hãi cái chết khi nó hoàn toàn khoẻ mạnh, bởi “con người luôn mong muốn tồn tại vĩnh cửu. Sự mong muốn đó cũng là mong muốn đư ợc bảo toàn t ính mạng. Mọi người ai cũng muốn sống chứ không ai muốn chết”. Điều đáng nói ở đây là, Phoiobac đã coi sự sợ hãi cái chết của con người như một hình thứ c tâm lý phổ biến và vận dụng hiện tượng này vào việc giải thích nguồn gốc tâm lý của tôn giáo và coi hiện tượng này như một dạng tình cảm lệ thuộc của con ngư ời đối với giới tự nhiên và thần thánh . Trong các hình thức tín ngưỡng tôn giáo, nhà triết học cổ điển Đứ c rất quan tâm đến vấn đề cầu nguyện, bởi đây là một hiện tượng tâm lý đặc biệt phản ánh thế giới nội tâm của con người một cách sâu sắc nhất, toàn diện nhất, phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa con người và thần thánh. Phoiobac viết: “Người tín ngư ỡng hướng tới thượng đế cùng với lời cầu nguyện sùng kính, anh ta tin rằng thư ợng đế sẽ tham dự vào những đau khổ, nhữ ng lòng mong muốn của anh t a…tin rằng thư ợng đế sẽ nghe thấy tiếng nói của anh ta trong lúc cầu nguyện”. “Bản chất thầm kín của tôn giáo đư ợc bộc lộ trong lời cầu nguyện…trong cầu nguyện, con người hư ớng một cách trự c tiếp tới t hư ợng đế, cho nên thượng đế đối với con ngư ời là n guyên nhân trự c tiếp thực hiện lời cầu nguyện”. T heo cách nhìn hiện đại thì sự cầu nguyện thể hiện chứ c năng an ủi đền bù hư ảo của tôn giáo, trong sự cầu nguyện đó hoặc phần nào làm dịu bớt đi mọi nỗi đau khổ, mất mát của con người mà nó đã gánh chịu trước đó trong cuộc sống, hoặc thể hiện những lời cảm ơn của con ngư ời đối với thần thánh, hoặc xin thần thánh xá tội cho, bởi vậy cầu nguyện là hình thức phổ biến của mọi tôn giáo và cũng nhờ hình thứ c tín ngưỡng này mà tôn giáo thu hút được đa số công chúng. Trang 13
  18. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 Phân tích m ột cách toàn diện về nguồn gốc phát sinh của tôn giáo, Phoiobac có cơ sở khoa học để đi đến kết luận: “Không phải t hượng đế đã sáng tạo nên con ngư ời theo hình dáng của mình như đã miêu tả trong Kinh thánh, mà chính con ngư ời đã sáng tạo nên thượng đế theo hình dáng của mình…mọi thư ợng đế đều là tồn tại được sáng tạo nên bằng sự tưởng tượng… chính sức mạnh của sự tưởng tư ợng đã hư ớng vào những t ính chất cơ bản của con ngư ời. Con người u sầu ốm yếu phản ánh tâm trạng của m ình trong hình ảnh một thư ợng đế tương tự, con ngư ời vui vẻ thì ngư ợc lại, họ miêu t ả thượng đế với bộ mặt tươi tỉnh, sáng ngời. Tính đa dạng của con người quy định tính đa dạng của thư ợng đế”. Như vậy,có thể nói m ột cách ngắn gọn rằng, Phoiobac đã truy tìm bản chất của tôn giáo trong bản chất của con ngư ời, ông viết: “Bản chất thần thánh không là cái gì khác như là bản chất con người, bản chất đó đã được gột rửa, đư ợc giải phóng khỏi những giới hạn cá nhân, nghĩa là khỏi những con người vật lý hiện thực, đư ợc khách quan hoá, được nhìn nhận như một bản chất độc lập xa lạ. Bởi vậy, mọi sự xác định về bản chất thần thánh đều có liên quan đến việc xác định bản chất con ngư ời. Dựa trên những khảo cứu lịch sử hiện thực của nhân loại, Phoiobac thấy rằng trong thự c tế thường diễn ra sự thù địch giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, sự thù địch giữa người theo đạo và k ẻ dị giáo. Hơn nữa, có những ngư ời có chức sắc tôn giáo cao trong giáo hội, song họ vẫn có những hành vi phi đạo đức. Từ đó ông lên tiếng phản đối quan điểm của các nhà thần học cho rằng dường như phủ định thư ợng đế là một bước dẫn tới sự tiêu diệt quan hệ đạo đức. Theo Phoiobac để có một xã hội tốt đẹp thì phải tiến hành cải cách tôn giáo: “N ếu như bản chất con người là bản chất cao quý thì tình yêu hiện thực đối với con người cần phải là quy luật đầu tiên cao quý của con người. C on ngư ời đối với con người là thư ợng đế- đó chính là nền tảng thực tiễn cao nhất, là xuất phát điểm của lịch sử toàn cầu. Quan hệ của đứa bé đối với cha mẹ mình, của chồng đối với vợ, của anh đối với em , củ a bạn bề đối với nhau, nói chung là quan hệ của con người đối với con ngư ời, nói tóm lại, các quan hệ đạo đức thuần tuý chính là quan hệ tôn giáo. Quan điểm về cải cách tôn giáo đư ợc Phoiobac trình bày khá r õ trong đoạn kết của tập bài giảng về b ản chất của tôn giáo: “Từ bạn của thượng đế, trở thành bạn của con người, từ những t ín đồ trở thành ngư ời duy lý, từ những ngư ời luôn cầu nguyện thượng đế r ủ lòng thư ơng tr ở thành người lao động, từ nhữ ng nghiên cứu sinh ở thế giới bên kia trở thành những ngư ời nghiên cứu viên ở thế giới trần gian, từ những tín đồ Kitô giáo theo sự thừa nhận, theo ý Trang 14
  19. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 thức của chính họ, “là nử a súc vật, nử a thiên thần” trở thành nhữ ng con ngư ời hoàn th iện …” Những lời trên được xem như bứ c thông điệp hoà bình của ông gửi đến các thế hệ mai sau với ngụ ý rằng, con người trư ớc hết phải y êu t hương nhau thực sự ở chốn trần gian, bởi đây m ới là tình yêu chân chính theo đúng nghĩa từ này. 2.3 Ảnh hưởng của Chủ nghĩa duy vật Phoi obac đến tri ết học Mác Triết học của Mác và Ăngghen kế thừ a những tinh hoa của triết học cổ điển Đức t hế kỷ XVIII. Không chỉ kế thừa, M ác và Ăngghen đã phát triển nhữ ng t inh hoa đó và đư a chúng lên một tầm cao mới về chất. Những tiền đề triết học M ác là triết học Duy tâm biện ch ứn g của Hê-gh en và triết học Duy vật siêu hình của Feurbach . Trong triết học của Hê-ghen, Mác đã phát hiện ra và kế thừa "hạt nhân hợp lý" trong vấn đề phư ơng pháp luận triết học, đó là phép biện chứn g. T rong triết học của Feurbach, Mác đã tiếp nhận và kế thừa điểm tiến bộ về thế giới quan của Feurbach, đó là thế giới quan Duy vật. M ác cũng nhận ra những hạn chế trong triết học của Hê-ghen, đó là thế giới quan duy tâm và phư ơng pháp luận siêu hình trong triết học của Feurbach. Để sửa chữa nhữ ng hạn chế trên của Hê-ghen và Feurbach, Mác đã k ết hợp nhữ ng ư u điểm của hai triết học trên để t ạo ra triết học của mình, đó là triết học Duy vật biện chứn g . Như thế, tr iết học Duy vật biện chứng không những khắc phục đư ợc hạn chế của triết học Duy tâm biện chứn g và triết học Duy vật siêu hình mà còn nâng chúng, tức phép biện chứng và thế giới quan duy vật lên một tầm cao mới vĩ đại. Từ thời điểm đó, phép biện chứng đã trở thành phép biện chứn g duy vật và thế giới quan duy vật đã trở thành thế giới quan duy vật biện chứ ng. Các Mác và Ăngel đã p hê phán tính chất duy tâm thần bí và kế thừa phép biện chứng của Hê-ghen để xây dự ng nên phép biện chứng duy vật; phê phán nhữ ng hạn chế cả về phư ơng pháp, cả về quan điểm siêu hình, đặc biệt những quan điểm liên quan đến vấn đề xã hội của Phoiobac và tiếp thu qua điểm duy vật vô thần của ông trong cuộc đấu tr anh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, khẳng định giới tự nhiên là t ính thứ nhất, tồn t ại vĩnh viễn không phụ t huộc vào ý thức con ngư ời. Chủ n ghĩa duy vật vô thần của Phoiobac đã t ạo tiền đề qua trọng cho bước chuyển của Mác và Ă ngel từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật – một tiền đề lý luận của qua trình chuy ển từ lập trường chủ nghĩa dân chủ cách mạng– sang lập trường chủ nghĩa cộng sản. Có thể p hân tích cụ thể như sau: Trang 15
  20. Quan đi ểm v ề con người của L. P hoi obac. Những gi á trị và hạn chế K.20- Đêm 4 2.3.1. Về tôn giáo: Hê-ghen đã dệt thêu nên cả một h uyền thoại về lý trí, duy lý hoá n iềm tin vào Thượng đế, thậm chí xem lịch sử tôn giáo là lịch sử vận động của ý thức phản tỉnh. N gư ợc lại, Phoiobac đư a b ản chất tôn giáo về bản chất con ngư ời, loại Thượng đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu của triết học, đư a hình ảnh đó về đúng vị trí của nó– thần học. C.Mác nhận ra sự "nổi loạn" này ngay trong thời kỳ đang còn chịu ảnh hưởng của triết học Hê-ghen. Sự nhận thứ c lại cũng đồng thời là sự cải cách, là "suối lử a”, mở ra con đư ờng cho tr iết học thực tiễn đúng nghĩa, triết học cải tạo thế giới, gắn với tên tuổi củ a M ác và Ăngghen. Trong "Luận cương về Phoiobac ", Mác đã viết: Phoiobac hòa t an bản chất t ôn giáo và bản chất con n gư ời. Nhưng bản chất con ngư ời không p hải là một cái t rừ u t ượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội. Do không phê phán bản chất hiện thự c đó, nên Phoiobac buộc phải không nói đến quá trình lịch sử và xem xét t ình cảm t ôn giáo một cách biệt lập và giả định một cá nhân con người trừu tượng, cô lập. Do đó, ở Phoiobac bản chất con ngư ời chỉ có thể được hiểu là "loài", là tính phổ biến nội tại, gắn bó một cách thuần túy tự nhiên đông đảo cá nhân lại với nhau. Vì thế, Phoiobac không thấy rằng bản thân "tình cảm tôn giáo" cũng là một sản phẩm xã hội và cá nhân trừu tượng mà ông phân tích, trên thự c tế, là thuộc một hình thức xã hội nhất định. 2.3.2. Về con người Với quan điểm về con ngư ời của Phoiobac, theo đánh giá của A.G.Spirkin "chính là điểm xuất phát cho nhữ ng lập luận của Mác về con ngư ời và bản chất con người". Bởi vì, b ằng những quan niệm đó, ngư ời khai mở con đư ờng cho chủ nghĩa duy vật nhân bản đã giáng m ột đòn phá t an m âu thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chỉ nghĩa duy tâm khách quan của Hêgen, "đư a một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua", ông đã khẳng định một cách dứt khoát rằng "tự nhiên tồn t ại độc lập đối với mọi triết học. Nó là cơ sở trên đó con ngư ời chúng t a bản thân chúng ta cũng là m ột sản phẩm của tự nhiên đã sinh trưởng”. M ác và Ăngghen luôn đánh giá cao triết học của Phoiobac nói chung, chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng, họ tự thừa nhận m ình là môn đồ của ông, chào đón quan điểm mới đó một cách nhiệt liệt, tin và đi theo Phoiobac với m ột tinh thần hào hứng, phấn khởi. Tuy đánh giá cao Phoiobac như vậy, nhưng hai ông cũng nhận thấy rằng hạn chế cơ bản xuyên suốt toàn bộ triết học nhân bản của Phoiobac là chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng và chủ nghĩa duy tâm về lịch sử. "Lấy con người làm xuất Trang 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2