intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Vai trò động lực của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

108
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án phân tích những vấn đề lý luận về vai trò động lực của khu vực KTTN và biểu hiện vai trò động lực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, đánh giá thực trạng phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh tế-xã hội ở Nghệ An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời (năm 2000) cho đến nay, luận án đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Vai trò động lực của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ BÌNH VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NGHỆ AN HIỆN NAY Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS Mã số: 62.22.80.05 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội – 2016
  2. Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà 2. TS. Nguyễn Văn Thức Phản biện 1: GS.TS. Trần Phúc Thăng Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Trọng Tuấn Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, tại Học viện Khoa học xã hội. Vào hồi giờ ngày tháng năm 2016 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện khoa học xã hội
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghệ An là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Trung Bộ, nhưng vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển song mảnh đất này hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để khu vực KTTN phát triển. Cùng với sự phát triển của cả nước, thời gian qua khu vực KTTN ở Nghệ An đã phát huy được vai trò động lực của mình, có nhiều đóng góp trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương, đặc biệt từ khi có luật DN thì khu vực kinh tế này đã huy động được nhiều nguồn lực xã hội vào SXKD, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, nhiều DN đã tạo dựng được "thương hiệu" lớn, có nhiều đóng góp quan trọng cho nguồn thu nội địa của tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra những thành quả đó vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của Chính phủ cũng như chính quyền và nhân dân tỉnh Nghệ An, mặc dù số lượng cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp của khu vực KTTN tăng lên rất nhanh, song chất lượng hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh cũng như chính sự nội lực vươn lên để phát huy vai trò động lực của khu vực kinh tế này. Điều đó được thể hiện trên nhiều khía cạnh như; quy mô hoạt động của DN thuộc khu vực KTTN còn nhỏ bé, manh mún, công nghệ sản xuất lạc hậu, vốn và lao động ít, doanh thu thấp so với mức bình quân chung của cả nước, sức cạnh tranh trên thị trường còn yếu, trình độ quản lý của nhiều DN còn yếu kém, trình độ tay nghề của người lao động còn thấp, nhiều DN thuộc khu vực kinh tế này hoạt động chưa lành mạnh, vi phạm pháp luật nhà nước, sản xuất chưa gắn với bảo vệ môi trường... Bên cạnh đó còn gặp phải những khó khăn vướng mắc về cơ chế, chính sách và môi trường tâm lý xã hội, làm cho khu vực KTTN ở Nghệ An chưa phát huy được tiềm năng tối đa của mình, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay. Vì vậy, cần đánh giá đúng thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời cho đến nay, trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm và một số giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm phát triển khu vực kinh tế này theo tinh thần Đại hội Đảng toàn toàn quốc lần thứ XI và dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ XII đã nêu rõ; DN Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVII đưa Nghệ An trở thành một tỉnh khá trong khu vực phía Bắc vào năm 2015, tạo cơ sở để đến năm 2020 cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp. Với lý do trên việc nghiên cứu “Vai
  4. 2 trò động lực của KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay” là rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận về vai trò động lực của khu vực KTTN và biểu hiện vai trò động lực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, đánh giá thực trạng phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời (năm 2000) cho đến nay, luận án đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để đạt mục đích đề ra, luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau: Thứ nhất, tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Thứ hai, phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò động lực và biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN ở nước ta hiện nay. Thứ ba, phân tích thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An từ khi có luật doanh nghiệp ra đời cho đến nay. Thứ tư, đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An. Phạm vi nghiên cứu: Thời gian từ năm 2000 (từ khi luật DN ra đời) đến năm 2014. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về khu vực KTTN để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp chung của khoa học xã hội là: trừu tượng hóa, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, quy nạp, diễn dịch, thống kê, so sánh…Ngoài ra tác giả còn tham khảo, thu thập số liệu qua các tài liệu, báo cáo của các Sở, Ban ngành của tỉnh Nghệ An. 5. Những đóng góp mới của luận án Một là, góp phần làm rõ thêm tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển khu vực KTTN cũng như biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN
  5. 3 trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hai là, làm rõ thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An từ năm 2000 đến 2014. Ba là, nêu ra một số quan điểm và đề xuất các giải pháp cơ bản có tính khả thi để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong việc học tập, giảng dạy, nghiên cứu về khu vực KTTN ở nước ta nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng. Đồng thời có giá trị tham khảo cho việc hoạch định chính sách phát triển KTTN ở Nghệ An trong giai đoạn hiện nay và thời gian sắp tới. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm có 4 chương, 10 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. Những công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về vai trò động lực của khu vực KTTN ở Việt Nam Kể từ khi nước ta tiến hành đổi mới (từ 1986) đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò động lực của khu vực KTTN đối với nền kinh tế. Dưới đây là những công trình tiêu biểu. Công trình “Chuyển hẳn sang cơ chế hạch toán, kinh doanh XHCN: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xóa bỏ tập trung quan liêu – bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán, kinh doanh XHCN” (của Đào Xuân Sâm, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1985); Công trình “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân – lý luận và chính sách” (của Hà Huy Thành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); Công trình KTTN trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay (do Tiến sĩ Đinh Thị Thơm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003; Công trình “Sở hữu lý luận và vận dụng ở Việt Nam” (của Nguyễn Văn Thức, được công bố vào năm 2004); Công trình “KTTN Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới, thực trạng và những vấn đề” (TS. Đinh Thị Thơm chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005); Cuốn “Đổi mới và phát triển KTTN Việt Nam – thực trạng và giải pháp” (của Lê Khắc Triết, xuất bản năm 2005); Bài viết “Xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay” (đăng trên tạp chí Triết học, số 3 (166), tháng 3 năm 2005); Công trình “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển KTTN từ năm 1986 đến năm 2005” (Luận án tiến sĩ của Phạm Thị Lương Diệu, bảo vệ năm 2005); Công trình “Sở hữu tư nhân và KTTN trong nền
  6. 4 kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” (do GS.TS.Nguyễn Thanh Tuyền chủ biên, xuất bản năm 2006; “Phát triển các DNNVV trong lĩnh vực khoa học – công nghệ kinh nghiệm Hungary và vận dụng vào Việt Nam” (của GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006); Cũng bàn về vấn đề sở hữu, có bài viết “Đổi mới nhận thức về sở hữu và đảng viên làm kinh tế tư nhân” của tác giả Phạm Văn Đức (đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 16 năm 2006); Công trình "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về động lực phát triển đất nước đến năm 2020" (đề tài nghiên cứu cấp bộ do PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hà làm chủ nhiệm năm 2007); Công trình Doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và liên kết trong hội nhập (của PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh và TS.Nguyễn Minh Phong đồng chủ biên, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2007); Luận án “Phát triển DNTN ở Trung Quốc và một số gợi ý đối với Việt Nam” của tiến sĩ kinh tế Đinh Đào Ánh Thủy (hoàn thành 2007); Công trình “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỉ XXI” (PGS.TSKH. Lương Việt Hải chủ biên, 2008); Công trình “Đảng viên làm KTTN, thực trạng và giải pháp” (PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010); Công trình “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” (Nguyễn Kế Tuấn chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010); Công trình “Phát triển đội ngũ DN Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020” (PGS.TS. Hoàng Văn Hoa chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010); Công trình “Nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020” (của Ngô Doãn Vĩnh chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011); “KTTN và vai trò động lực tăng trưởng” (của Vũ Hùng Cường chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011); Các tác giả Lương Minh Cừ và Vũ Văn Thư đã nghiên cứu đề tài “Sở hữu tư nhân và KTTN ở Việt Nam hiện nay – một số nhận thức về lý luận và thực tiễn” (được công bố vào năm 2011); Công trình “Động lực thúc đẩy cải cách kinh tế tại các tỉnh ở Việt Nam, Một số bài học từ cải cách kinh tế” (của nhóm tác giả Hubert Schmitz, Đậu Anh Tuấn, Phạm Thị Thu Hằng, Neil McCulloch, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2012); Công trình “Tư duy kinh tế Việt Nam 1975 – 1989” (GS. Đặng Phong, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2009) và cuốn “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” (Đặng Phong, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2012). 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An. Trong số các các công trình nghiên cứu về thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An có các công trình tiểu biểu sau.
  7. 5 Công trình “Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 3 (1975 – 2005)” (của Ban chấp hành Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam, tỉnh Nghệ An, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008); Công trình “Tiềm năng, lợi thế và xác định cơ cấu sản phẩm chiến lược ở Nghệ An giai đoạn 2011 – 2015 (có tính đến 2020)” (Đậu Quang Vinh chủ biên, Nxb Nghệ An, 2011); Tác giả Hoàng Nam Hưng trong công trình “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo phát triển KTTN từ năm 2000 đến năm 2010” (luận văn thạc sĩ, hoàn thành năm 2012); Đặng Thành Cương trong công trình “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Nghệ An” (Luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2012); Công trình “Phát triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong gia đoạn hiện nay” (Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ của trường Đại học Vinh, do Th.s. Nguyễn Thị Diệp chủ nhiệm đề tài, Nghệ An, 2012, Mã số: B2010 - 27- 90). 1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An Trong số các các công trình nghiên cứu về giải pháp tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An, có các công trình tiểu biểu sau. Công trình Tiềm năng, lợi thế và xác định cơ cấu sản phẩm chiến lược ở Nghệ An giai đoạn 2011 – 2015 (có tính đến 2020) (của Đậu Quang Vinh chủ biên, Nxb Nghệ An, 2011); Tác giả Hoàng Nam Hưng trong công trình “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo phát triển KTTN từ năm 2000 đến năm 2010” (luận văn thạc sĩ, hoàn thành năm 2012); Đặng Thành Cương trong công trình “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào tỉnh Nghệ An” (Luận án tiến sĩ kinh tế, bảo vệ năm 2012); Công trình “Phát triển KTTN ở miền Tây Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” (Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ của Trường Đại học Vinh, do ThS. Nguyễn Thị Diệp chủ nhiệm đề tài, Nghệ An, 2012, Mã số: B2010 - 27- 90); Luận văn cao học của Nguyễn Thị Trang, chuyên ngành kinh tế phát triển, với đề tài "phát triển KTTN ở tỉnh Nghệ An" bảo vệ năm 2014. Tiểu kết chương 1 Đã có nhiều công trình nghiên cứu về khu vực KTTN, vai trò động lực của KTTN ở nước ta với các mức độ và mục đích khác nhau. Đối với thực trạng phát triển khu vực KTTN ở tỉnh Nghệ An, cũng đã có một số công trình nghiên cứu, các công trình đó đã bước đầu làm rõ được đường lối, quan điểm của Đảng bộ tỉnh Nghệ An đối với khu vực KTTN, thực trạng của khu vực KTTN ở một số ngành, lĩnh vực, vùng, miền của Nghệ An, các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò động lực của KTTN. Tuy nhiên, các công trình đó chủ yếu tiếp cận vấn đề từ góc độ kinh tế học, chưa có công
  8. 6 trình nào đi từ góc độ tiếp cận triết học để phân tích một cách toàn diện và có hệ thống về thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An và các giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đi trước đã đạt được những kết quả nhất định và là nguồn tài liệu hữu ích cho tác giả triển khai luận án của mình. Tóm lại, liên quan đến đề tài có những vấn đề sau đây cần tiếp tục làm rõ thêm là; sự tồn tại và phát triển khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng có tất yếu không? khu vực KTTN có phải là động lực thúc đẩy nền kinh tế không, nếu có thì mức độ thúc đẩy của khu vực KTTN so với các khu vực kinh tế khác như thế nào? Những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong việc phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An hiện nay ra sao? Cần làm gì để tiếp tục phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An trong thời gian tới. Đây là những vấn đề sẽ được đề cập trong luận án Vai trò động lực của KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An hiện nay. Đó cũng là những vấn đề cơ bản mà luận án này sẽ giải quyết từ góc độ triết học. Chương 2 VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. Một số khái niệm cơ bản 2.1.1. Khái niệm khu vực KTTN Hiện nay, có ít nhất 2 cách hiểu về khái niệm KTTN. Thứ nhất, KTTN là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Thứ hai, KTTN gồm có; kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Từ các cách hiểu trên, tác giả luận án có một nhận thức chung cơ bản về KTTN như sau: Khu vực KTTN là những hình thức tổ chức kinh tế được hình thành và phát triển dựa trên chế độ tư hữu, do cá nhân hay tập thể cá nhân lập ra hoặc hoạt động dưới những hình thức liên doanh, liên kết, mà ở đó có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu tư nhân. 2.1.2. Vai trò động lực của khu vực KTTN 2.1.2.1. Khái niệm động lực PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà cho rằng động lực của sự phát triển là cái thúc đẩy sự phát triển, tất cả những cái đóng vai trò là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của một sự vật nào đó đều là động lực của sự phát triển của sự vật ấy.
  9. 7 2.1.3. Bản chất và đặc điểm của khu vực KTTN 2.1.3.1.Bản chất của khu vực KTTN Về quan hệ sở hữu Đây là quan hệ sở hữu tư nhân giữa người và người về tư liệu sản xuất, sở hữu tư nhân cũng có quá trình phát triển từ thấp đến cao theo sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Trong lịch sử có hai hình thức: Sở hữu tư nhân nhỏ và sở hữu tư nhân lớn, sở hữu tư nhân nhỏ tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất và quá trình tạo ra sản phẩm chủ yếu bằng sức lao động của chính mình và của các thành viên trong gia đình, sở hữu tư nhân lớn lại được hình thành từ sở hữu tư nhân nhỏ và khi đã thành sở hữu tư nhân lớn thì chính nó lại là cơ sở tạo nên đối kháng về giai cấp, giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, do vậy những hình thức khác nhau của sở hữu tư nhân thường là những hình thức sở hữu đặc trưng ở những phương thức sản xuất khác nhau. Về quan hệ quản lý Nếu sở hữu tư nhân là nhỏ (trong các hộ tư nhân như: nông dân, thợ thủ công cá thể, tiểu thương,…) thì quan hệ quản lý có tính chất giống như quản lý trong một gia đình và chịu sự phân công quản lý của người chủ gia đình đối với vấn đề SXKD, vì vậy nó mang tính chất gia trưởng chứ không phải là quan hệ bóc lột. Trong quá trình phát triển, các hộ cá thể có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất, cần nhiều nhân công, loại hình kinh tế hộ tất yếu phải thay đổi, hộ cá thể đã chuyển thành hộ tiểu chủ, vì vậy quan hệ bóc lột đã xuất hiện. Về quan hệ phân phối Thực chất, quan hệ phân phối là việc giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình tái sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, thực hiện phân phối theo ba nguyên tắc cơ bản sau để đem đến sự công bằng và dân chủ cho người lao động; phân phối theo tài sản; phân phối theo giá trị sức lao động; phân phối thông qua các quỹ phúc lợi và bảo hiểm của doanh nghiệp. Vậy, bản chất chung của khu vực KTTN chính là dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, dù là kinh tế cá thể, tiểu chủ hay kinh tế tư bản tư nhân. 2.1.3.2. Đặc điểm của khu vực KTTN - Đối với loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ. Loại hình này có các đặc điểm sau. Thứ nhất; kinh tế cá thể, tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ, hoạt động SXKD chủ yếu dựa vào vốn và lao động của bản thân và gia đình. Thứ hai; đối với SXKD của kinh tế cá thể, tiểu chủ, quy mô và vốn tài sản nhỏ, manh mún, phân tán; công nghệ sản xuất lạc hậu; trình độ lao động thấp, dễ bị phân hoá trong nền kinh tế thị trường. Thứ
  10. 8 ba; kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất. Ở đó, chủ sở hữu cũng đồng thời là người quản lý và trực tiếp lao động. Thứ tư; kinh tế cá thể, tiểu chủ là loại hình hoạt động sản xuất đa ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau.. - Đối với kinh tế tư bản tư nhân Thứ nhất, phần lớn DNTN nước ta do một cá nhân làm chủ, vì vậy việc lựa chọn hình thức, quy mô SXKD hết sức linh hoạt, tự chủ.Thứ hai, DNTN nước ta trải qua nhiều thăng trầm theo đường lối chủ trương của Đảng nên đến nay vẫn còn non trẻ. Phần lớn các DNTN mới ra đời sau khi có Luật DNTN và Luật Công ty (1990) và hiện nay là Luật Doanh nghiệp (1999, 2005). Thứ ba, sự phát triển lớn mạnh của các DNTN góp phần tạo nên môi trường kinh tế có sức cạnh tranh cao, khắc phục được những yếu tố gây cản trở, trì trệ cho nền kinh tế. Thứ tư, trình độ sản xuất và sở hữu chưa cao, thể hiện rõ nét nhất là loại hình một chủ vẫn chiếm ưu thế, hình thức công ty, CTCP còn chiếm tỷ trọng thấp, các hộ kinh tế cá thể làm ăn độc lập, manh mún là phổ biến, sự liên kết hợp tác giữa các DNTN với nhau còn rời rạc.Thứ năm, trình độ quốc tế hoá còn thấp, một mặt do khu vực KTTN còn non trẻ, mặt khác do chính sách mở cửa của nền kinh tế cho đến nay vẫn chưa, thông thoáng, nhất là đối với khu vực KTTN. Thứ sáu, DNTN nước ta phát triển không đều, doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào những vùng có cơ sở hạ tầng thuận lợi, dân cư đông đúc, đầu tư trong một số ngành có sinh lãi cao, trình độ phát triển DNTN có sự chênh lệch lớn của các vùng miền trên cùng lãnh thổ. Thứ bảy, trong quá trình SXKD, bên cạnh nhiều DNTN làm ăn chân chính, có một số DNTN kinh doanh trái pháp luật, cản trở sự phát triển của xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của DNTN. 2.1.4. Tính tất yếu của khu vực KTTN ở Việt Nam Thứ nhất, trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta còn thấp kém, lạc hậu. Do đó, chúng ta phải duy trì nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư bản chủ nghĩa, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Thứ hai, lực lượng sản xuất phát triển không đồng đều giữa các vùng, các ngành và tính chất quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến lên CNXH. Thứ ba, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Sự phát triển của quan hệ sản xuất đã diễn ra theo chiều hướng, bên cạnh sự tập trung còn có sự tách biệt hoá quá trình sản xuất thành nhiều khâu độc lập nhưng hợp tác với nhau và chịu sự chi phối của toàn xã hội. Thứ tư, xu thế toàn cầu hoá, hội nhập, đòi hỏi năng lực tư duy của cá nhân cần được khẳng định, thể hiện và phát huy.
  11. 9 Thứ năm, nền kinh tế thị trường ở nước ta chỉ phát triển lành mạnh với điều kiện có sự phát triển bình đẳng của các khu vực kinh tế, trong đó có KTTN. 2.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò động lực của khu vực KTTN 2.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò động lực của khu vực KTTN C.Mác cho rằng: "Cái bản chất tư nhân nổi bật của nó biểu hiện ra là sự không phụ thuộc vào tài sản của Nhà nước" [21, tr. 454], C.Mác còn khẳng định, chế độ sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất là điều kiện tất yếu để giải quyết lực lượng sản xuất và phát triển nền sản xuất xã hội. Ph. Ăngghen viết: "Đối với công trường thủ công và đối với giai đoạn phát triển ban đầu của đại công nghiệp không thể có hình thức sở hữu nào khác ngoài quyền tư hữu, không thể có chế độ xã hội nào ngoài xã hội xây dựng trên cơ sở tư bản".Từ đó, chúng ta thấy rằng C. Mác và Ph. Ăngghen xác định việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa (chứ không phải là sở hữu tư nhân nói chung) là đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản; trong thời kỳ quá độ, tất yếu phải còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu trong đó có sở hữu tư nhân, hay nói cách khác là còn tồn tại khu vực KTTN; chỉ có phát triển KTTN mới làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới, V.I.Lênin cho rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH thì trong một mức độ nào đó chủ nghĩa tư bản là không tránh khỏi và tương ứng với nó vẫn còn sở hữu tư nhân và KTTN, vì vậy trong nền kinh tế thời kỳ quá độ vẫn còn có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả CNTB và CNXH. 2.2.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò động lực của khu vực KTTN - Giai đoạn trước đổi mới Trong thời kỳ phục hồi kinh tế 1954 - 1957, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ tận gốc quan hệ sản xuất phong kiến (chủ đất và tá điền). Trong phát triển không phân biệt bất cứ khu vực kinh tế nào, lúc này kinh tế quốc doanh chiếm tỷ trọng nhỏ bé, kinh tế hợp tác chưa phát triển, tham gia lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu là KTTN, kinh tế cá thể.. Trong giai đoạn cải tạo và xây dựng CNXH 1958 – 1960, Đảng ta chủ trương cải tạo CNXH; biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế XHCN gồm hai hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh và tập thể; coi kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh là đối tượng trực tiếp của công cuộc cải tạo này
  12. 10 Trong thời kỳ 1960 - 1975, Đảng ta chủ trương xây dựng CNXH theo phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH. Đây cũng là thời kỳ khu vực KTTN bị thu hẹp, bị khống chế nặng nề nhất trong toàn bộ nền kinh tế. Thời kỳ cả nước xây dựng CNXH (1976 - 1985), Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất được thực hiện trên phạm vi cả nước. Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (9/1979) không chỉ cho phép "bung ra" và "cởi trói" cho sản xuất, mà còn cho phép "bung ra" và cởi trói cho cả tư duy và đường lối kinh tế, tức là trở lại với quan điểm kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc dân phải giữ vai trò chủ đạo nhưng vẫn để cho một số tư sản dân tộc hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước. Ban Bí thư đã đi tới việc ban hành Chỉ thị 100/CT vào ngày 13/1/1981 cho áp dụng cơ chế khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp của Việt Nam về mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và cải tiến cơ chế khoán 100 nói riêng, theo hướng có lợi cho nền kinh tế trong thời gian tiếp theo. - Giai đoạn đổi mới +Thời kỳ từ năm 1986 - 1990, là sự khởi đầu công cuộc đổi mới., các quan điểm đổi mới kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra dần dần được cụ thể hoá thêm một bước. Ví dụ, về nông nghiệp, sau Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động (năm 1981) thì ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng (khoá VI) đã ra Nghị quyết 10 "về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt ngày 21/12/1990, Quốc hội ban hành Luật Công ty và Luật DNTN (có hiệu lực từ ngày 15/4/1991). + Thời kỳ từ năm 1991 - 1999, tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991), Đảng ta đã xác định mô hình kinh tế nước ta là; nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức SXKD phù hợp với tổ chức và trình độ của lực lượng sản xuất, với các tiêu chí mọi đơn vị kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật; +Thời kỳ từ năm 2000 đến nay, là giai đoạn Luật doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực thi hành thay thế cho Luật công ty và Luật DNTN, đồng thời những nội dung đổi mới quan trọng của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) đã tạo điều kiện cho KTTN trong giai đoạn này phát triển mạnh hơn nhiều lần so với giai đoạn 1991 - 1999 và dần dần khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân. Đến tháng 3/2002, Hội nghị Trung ương 5 khoá IX đã phát triển thêm một bước quan điểm thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, đồng thời cũng đánh giá cao vai trò KTTN và xác định: “KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần theo
  13. 11 định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế” [66, tr. 57,58]. Đến Đại hội X (4/2006), nhận thức về KTTN của Đảng phát triển lên một tầm cao mới: " KTTN có vai trò quan trọng là một trong những động lực của nền kinh tế" [71, tr. 354] .Tại Đại hội X, sự đổi mới ấn tượng nhất đó là việc Đảng ta cho phép đảng viên làm KTTN với điều kiện phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Tại Đại hội XI (tháng 1/2011), Đảng ta tiếp tục giữ quan điểm về vai trò, vị trí của khu vực KTTN như tại Đại hội X: KTTN là một trong những động lực của nền kinh tế" Đặc biệt trong Hiến Pháp năm 2013, vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến Pháp: Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải huy động theo cơ chế thị trường, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, các cơ chế, chính sách tạo ra sự bất bình đẳng. Về hình thức sở hữu, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, tôn trọng sự đa dạng hình thức sở hữu, bác bỏ quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ. Mới đây nhất trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, vai trò của khu vực KTTN nói chung, DNTN nói riêng đã được nâng tầm và khẳng định; khu vực KTTN không chỉ là sự tồn tại tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà còn là một trong những động lực, “trụ cột” của nền kinh tế. 2.3. Biểu hiện vai trò động lực của khu vực KTTN ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay 2.3.1. Khu vực KTTN góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả nước Từ khi có Luật doanh nghiệp ra đời và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương V khoá IX, khu vực KTTN đã đóng góp vào GDP và công nghiệp rất cao, nhanh hơn so với các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân đạt 382.804 tỷ đồng ( chiếm 45,61%) vào năm 2005. Ngược lại đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không tương xứng với nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, sự ưu đãi…) mà nó được thừa hưởng. Đến năm 2014, KTNN đóng góp 28,73%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 17,89%, trong đó KTTN: 43,33%, còn lại 10,05% thuế sản phẩm từ trợ cấp sản phẩm, điều này chúng ta khẳng định dứt khoát hiệu quả của khu vực KTTN đang ngày càng đi lên và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.Từ năm 2005 - 2013, mức huy động vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng liên tục, từ 24,98% năm 2005 lên 41,83% năm 2008 và đến năm 2013 tăng lên 48,57%,
  14. 12 trong khi đó DNNN ngày càng giảm dần, năm 2005 đạt 54,88% xuống 32,61% năm 2013. Không chỉ tăng thêm về nguồn vốn, mà còn có đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng nhanh nền kinh tế. các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN còn có sự đóng góp lớn trong công tác an sinh xã hội. 2.3.2. Khu vực KTTN góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại Một là, xét về cơ cấu ngành, khu vực KTTN đã góp phần chuyển dịch kinh tế chung của cả nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tỷ trọng khu vực nông - lâm nghiệp và thuỷ sản trong cơ cấu chung đã giảm dần từ 24,53% năm 2000 xuống 20,97 năm 2005 và 20,91% và còn 17,70 năm 2014. Qua các năm ta thấy tỷ trọng khu vực kinh tế nông - lâm nghiệp và thuỷ sản giảm đều dần, trong khi đó tỷ trọng khu vực ngành công nghiệp và xây dựng tăng lên đều qua các năm từ 36,73 năm 2000 lên 41,02% năm 2005 và 40,24% năm 2009, năm 2014 tỷ lệ là 33,21%. Hai là, về cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự chuyển biến tích cực theo hướng phát huy ngày càng hiệu quả sự đóng góp của các loại hình kinh tế mới trong nền kinh tế quốc dân. Ba là, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực KTTN cũng có những đặc điểm đáng chú ý, các hộ cá kinh doanh thể chiếm số lượng ngày càng nhiều phát triển tự nhiên, theo xu hướng khát vọng làm giàu, phân bổ rộng khắp, có mặt ở hầu hết các vùng, miền trên cả nước. Việc hình thành các loại hình DNTN góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động tăng tiềm lực kinh tế và giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời có tác dụng đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế nước ta theo hướng hiện đại. 2.3.3. Khu vực KTTN góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế Sự trỗi dậy của khu vực KTTN trong thời gian qua với mức đóng góp 43,33% GDP vào năm 2014, trong khi đó DN nhà nước là 28,73%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 17,89%, còn lại thu từ thuế sản phẩm từ trợ cấp sản phẩm 10,5%. Sức sống mãnh liệt này đã thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy kinh tế phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy quá trình đổi mới phương thức quản lý nhà nước đối với DN, hướng tới việc góp phần và phát huy các nguồn lực trong nền kinh tế. 2.3.4. Khu vực KTTN góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực mới cho thị trường lao động
  15. 13 Lợi thế nổi bật của khu vực KTTN là có thể thu hút một lực lượng lao động đông đảo, đa dạng, phong phú ở mọi trình độ từ lao động thủ công đến lao động trí tuệ ở tất cả mọi vùng, miền của đất nước, ở tất cả mọi tầng lớp dân cư, v.v… vào tất cả mọi loại hình sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế này. Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân trong quá trình phát triển thường xuyên áp dụng các khoa học công nghệ mới hiện đại nên trình độ, kỹ năng của người lao động cũng nhanh chóng được nâng cao. 2.3.5. Khu vực KTTN góp phần tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại Để đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, cần giúp DN khu vực KTTN phát triển và phát huy vai trò động lực trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta vốn bị thành kiến trong thời gian quá dài. Sẽ không có một nền kinh tế thị trường lớn mạnh nếu quy mô của khu vực KTTN nhỏ bé bị kìm hãm, vì vậy đòi hỏi khu vực DNNN phải được sắp xếp lại, chỉ giữ những DN 100% vốn nhà nước ở những ngành, những lĩnh vực có vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc doanh, số còn lại phải tiến hành cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê, xác định rõ DN, SXKD vì mục đích công ích, đạt lợi nhuận. Tiểu kết chương 2 Chương II, tác giả trình bày một số khái niệm cơ bản về khu vực KTTN, vai trò động lực của khu vực KTTN. Bản chất và đặc điểm, tính tất yếu của khu vực KTTN trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta đồng thời trình bày một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò động lực của khu vực KTTN. Đặc biệt, luận án đã trình bày quá trình nhận thức của Đảng ta về KTTN trước và từ khi đổi mới đến nay. Với sự tương hợp của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, KTTN đã phát huy vai trò động lực của mình trong nền kinh tế. Vì vậy cần đề cao vai trò của các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN, coi khu vực kinh tế này là một động lực quan trọng, “trụ cột” của nền kinh tế thực sự. Những vấn đề lý luận được trình bày trong chương 2 là cơ sở của việc đánh giá vai trò động lực khu vực KTTN ở Nghệ An từ năm 2000 đến 2014 dưới sự lãnh đạo đổi mới tư duy của các cấp chính quyền trong việc vận dụng các quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng từ khi có Luật DN (2000) ra đời cho đến nay.
  16. 14 Chương 3 VAI TRÒ ĐỘNG LỰC CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở NGHỆ AN HIỆN NAY 3.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến khu vực KTTN ở Nghệ An 3.1.1. Điều kiện tự nhiên - Về vị trí địa lý Nghệ An nằm ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, có diện tích tự nhiên là 16.490,85 km2, dân số đến năm 2014 là 3.037.440 người, với mật độ dân số 184 người/km2 đang chiếm vị trí thứ tư cả nước với gần 3,64%. Phía bắc, Nghệ An giáp tỉnh Thanh Hóa (197 km), tỉnh Hà Tĩnh ở phía Nam, phía Tây chung đường biên giới với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào với ba tỉnh: Hủa Phẳn, Xiêng Khoảng, BôlyKhămxay có chung 419,5 km đường biên giới, phía Đông giáp biển Đông với bờ biền dài 82 km. Với vị trí này, tạo cho Nghệ An có vai trò quan trọng trong mối giao lưu kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế, sẽ là động lực thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đẩy nhanh tiến độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. - Về tài nguyên đất Tỉnh Nghệ An là địa phương có diện tích tự nhiên lớn nhất cả nước, đất ở Nghệ An có nhiều thành phần đa dạng, phân bố xen kẽ là một điều kiện thuận lợi để kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước về đầu tư tại Nghệ An với nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. - Về khí hậu. Nghệ An nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, song không thuận lợi là do sự hoạt động của gió Tây Nam dưới tác dụng bức chắn địa hình của dãy Trường Sơn gây nên khí hậu khô, ảnh hưởng gió lào, nắng nóng, mưa dầm dài lâu, thường làm giảm ý chí của các nhà đầu tư. -Về tài nguyên rừng Hiện nay, diện tích rừng của tỉnh là trên 685.000 ha đứng đầu cả nước, chiếm khoảng 6,5% diện tích rừng cả nước, nhìn chung rừng ở đây rất đa dạng, có tiềm năng khai thác và giá trị kinh tế cao, là điều kiện thuận lợi để các DN có thể đầu tư phát triển kinh tế trang trại, lâm nghiệp, chế biến, dược liệu..., góp phần vừa làm giàu, vừa thúc đẩy kinh tế của tỉnh tăng trưởng. -Về tài nguyên khoáng sản
  17. 15 Tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản như vàng, đá quý, rubi, đá trắng, đá granit, đá bazan... đặc biệt là đá vôi (nguyên liệu sản xuất xi măng), đá xây dựng, cát, sỏi,...được phân bổ gần như đồng đều ở các địa phương trong tỉnh, là một lợi thế lớn trong việc kêu gọi các DNTN tích cực đầu tư vào các ngành công nghiệp như; khai khoáng, sản xuất xi măng, nguyên liệu xây dựng, công nghiệp chế biến... -Về tài nguyên biển Nghệ An có bờ biển dài 82 km, diện tích vùng biển 4.230 hải lý vuông, trữ lượng hải sản của tỉnh đạt 80.000 tấn, trong đó có khả năng khai thác 35.000 - 40.000 tấn. Tiềm năng khai thác du lịch rất lớn, là điều kiện thuận lợi các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN đầu tư, phát triển từ kinh doanh du lịch, dịch vụ, đầu tư xây dựng các khu nghỉ mát, Resort cao cấp... 3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội * Về tăng trưởng kinh tế Trong những năm qua, các lĩnh vực kinh tế - xã hội tăng trưởng khá và chuyển dịch đúng hướng với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 – 2015, đạt 7,89%, thu nhập bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 29 triệu đồng/năm. (tăng 2 lần so với 2010). Với mức tăng trưởng này Nghệ An vẫn là tỉnh nghèo, mức thu nhập bình quân chỉ bằng 70% so với cả nước, kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Tỉnh cần sớm phải có nhiều cơ chế, chính sách để thu hút DN đầu tư tại Nghệ An. * Về văn hóa – xã hội Nghệ An là tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng, là một trong những yết hầu con đường xuyên Việt, là nơi gặp gỡ giao lưu của các huyết mạch giao thông đường thủy, bộ tạo cho Nghệ An sớm trở thành một trung tâm kinh tế - văn hóa có vị trí đặc biệt trong lịch sử dân tộc và văn hóa Việt Nam. Đây là một cơ hội để khu vực KTTN phát triển ngành du lịch, dịch vụ. * Nguồn nhân lực Đến năm 2014, dân số Nghệ An đạt 3.037.440 người, đứng thứ tư trong cả nước, sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội Thanh Hóa và được đánh giá là có cơ cấu " dân số vàng, là điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTN thu hút nguồn lao động, nhất là doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ, điện tử, cơ khí, lắp ráp… * Hệ thống kết cấu hạ tầng - Các Khu công nghiệp - Các Cụm công nghiệp Hiện nay, các khu công nghiệp và cụm công nghiệp đã lấp đầy diện tích, sự phát triển này là cơ hội để DN tùy thuộc vào khả năng có thể lựa chọn nhiều ngành, nghề đầu tư tại Nghệ An.
  18. 16 - Khoa học - công nghệ ; Hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông (bao gồm đường biển, hàng không, đường sắt, Cửa khẩu); Hệ thống cung cấp nước sinh hoạt; Thông tin - viễn thông; Tài chính- Ngân hàng- Bảo hiểm; Cơ sở y tế; Siêu thị, khách sạn nhà hàng; Các điểm du lịch chủ yếu, đủ đáp ứng nhu cầu DN khi tiến hành đầu tư, sản xuất kinh doanh tại Nghệ An. - Vốn đầu tư phát triển Nhìn chung, các dự án đầu tư trong và ngoài nước đã và đang đi vào hoạt động trên địa bàn tỉnh, bước đầu đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và có triển vọng trong tương lai. -Vị trí của Nghệ An trong chiến lược phát triển chung của cả nước và vùng Bắc Trung Bộ Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, tỉnh Nghệ An với trung tâm là thành phố Vinh được xác định là một trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 30/7/2013 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2020, về cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp. 3.2. Thực trạng vai trò động lực của khu vực KTTN ở Nghệ An từ 2000 - 2014 3.2.1. Quan điểm chỉ đạo và kết quả vai trò động lực khu vực KTTN ở Nghệ An 3.2.1.1.Sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền ở Nghệ An trong việc phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An khóa XV ngày 08/8/2001 ra Nghị quyết về:“phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng làng nghề thời kỳ 2001- 2005”. Ngày 29/03/2003, nhằm tạo bước đột phá thu hút các doanh nghiệp đầu tư tại Nghệ An, UBND đã ra Quyết định số 112/2003/QĐ – UBND “về việc ban hành một số chính sách ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh Nghệ An”; Quyết định số 104/2003/QĐ – UBND ngày 08/12/2003 “Về cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao mức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa” quy định cụ thể một số cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới, cải tiến công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, có khả năng cạnh tranh thị trường trong và ngoài nước, tạo ra hiệu quả sản xuất cao. Quyết định số 112/2003/QĐ.UB ngày 29/12/2003 "về việc ban hành quy định một số chính sách ưu đãi đầu tư tại tỉnh Nghệ An"; Quyết định số 82/2004/QĐ – UBND ngày 2/8/2004 ban hành quy định “về khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp, nghề và làng nghề trên địa bàn tỉnh”. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã họp Hội nghị lần thứ 2 (ngày 28/04/2006) và ra Nghị quyết về
  19. 17 "Chương trình xúc tiến đầu tư gắn với phát triển nguồn thu ngân sách tỉnh, giai đoạn 2006-2010";Hội nghị lần 10 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (Khóa XVI) ngày 22/05/2008 về "Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Để phát huy vai trò động lực của khu vực KTTN trong sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2020, UBND tỉnh đã từng bước ban hành nhiều quyết định khuyến khích, hỗ trợ cho các DN như: Quyết định số 101/2007/QĐ-UBND ngày 06/09/2007 của UBND tỉnh Nghệ An về "Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh Nghệ An"; Quyết định số 56/2008/QĐ-UBND ngày 26/09/2008 "Về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Nghệ An đến năm 2020"; Quyết định số 80/2008/QĐ-UBND ngày 18/12/2008 về "Công nhận làng có nghề, làng nghề và chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp và làng nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An”; Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 16/01/2009 của UBND tỉnh ban hành "Cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư đổi mới công nghệ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa ở Nghệ An" ; Quyết định số 83/2009/QĐ-UBBND ngày 4/9/2009 ban hành quy định "về chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp nhỏ trên địa bàn tỉnh Nghệ An"; Quyết định 348/QĐ- UBND ngày 09/2/2012 "về việc phê duyệt đề án phát triển DN Nghệ An giai đoạn 2011-2015"; Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 28/03/2009 "về việc ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư các dự án công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An"; Nghị quyết số 123/NQ-HĐND ngày 16/7/2014 "về việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020"; Quyết định số 3373/QĐ-UBND.ĐT ngày 21/7/2014 "Về việc phê duyệt đề án tập trung thu hút đầu tư có hiệu quả vào tỉnh Nghệ An đến năm 2020 và các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh" nhằm phấn đấu đến năm 2015 PCI của tỉnh Nghệ An thuộc nhóm khá của cả nước và đứng trong nhóm 30 tỉnh, thành phố có số điểm số PCI tốt nhất, đến năm 2020 đứng trong tốp 15 của cả nước; Quyết định số 4654/QĐ-UBND ngày 19/9/2014 "về việc ban hành chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng trọng yếu trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020", phấn đấu đẩy nhanh tốc độ xây dựng các công trình trọng yếu, nhằm từng bước hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, trước mặt tập trung đầu tư xây dựng hoàn thành các công trình trọng yếu góp phần tạo điều kiện thuận lợi để các DN trong và ngoài tỉnh đầu tư SXKD. 3.2.1.2. Những kết quả đạt được trong việc phát huy vai trò động lực khu vực KTTN ở Nghệ An
  20. 18 - Thứ nhất, khu vực KTTN có tốc độ tăng trưởng nhanh, góp phần quan trọng vào việc phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương. Năm 2000 - 2004 mức huy động vốn SXKD bình quân hàng năm tăng chậm, nhưng từ năm 2004 - 2007 số vốn tăng liên tục, đặc biệt từ 2007 - 2013 số vốn SXKD của của khu vực kinh tế này tăng vọt nhanh chóng từ 20.001.510 triệu đồng (năm 2007) tăng lên 113.596.000 triệu đồng (2013). Như vậy, tỉ trọng vốn SXKD của khu vực KTTN trong tổng số vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên nhanh chóng, từ 12,17 % năm 2000 sau 10 năm tăng 78,62% năm 2013 và tất yếu tỷ lệ đó ngày càng thay đổi theo hướng ưu thế ngày càng tăng cho khu vực KTTN ở tỉnh Nghệ An. - Thứ hai, hiệu quả SXKD của khu vực KTTN ngày càng cao, đóng góp lớn cho ngân sách của tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần tái cấu trúc kinh tế Nghệ An theo hướng hiện đại. Doanh thu thuần SXKD của các DN thuộc khu vực KTTN từ 2000 đến 2013 cao dần và tốc độ tăng nhanh vọt so với doanh nghiệp Nhà nước. Nếu năm 2000 khu vực KTTN đạt 1.170 triệu đồng (chiếm 22,56%) thì đến 2010, sau 10 năm mức doanh thu lên tới 40.285.408 triệu đồng (chiếm 64,17%), mặc dù chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế song vẫn tăng mạnh vào năm 2013 là 80.119.255 triệu đồng (chiếm 77,82%). Về số liệu nộp ngân sách và tỷ trọng so với thu ngân sách của cả tỉnh 4 năm gần đây, năm 2010: 2.014.622 triệu đồng (45,8%); năm 2011: 2.884.783 triệu đồng (46,1%); năm 2012: 3.971.005 triệu đồng (73,7%); năm 2013: 3.531.000 triệu đồng (45,4 %). Nhiều doanh nghiệp đã khắc phục khó khăn, vượt qua cơn khủng hoảng, tiếp tục gặt hái được nhiều thành công và có thành tích nộp thuế cho Nhà nước đạt cao. Đến ngày 15/11/2014, tính theo cơ cấu ngành, tỷ trọng lớn nhất là lĩnh vực thương mại, dịch vụ thuộc khu vực KTTN chiếm 32,19%; xây dựng (bao gồm cả tư vấn) chiếm 24%; công nghiệp khai thác, chế biến chiếm 12,64%, còn lại là các ngành nghề khác. - Thứ ba, khu vực KTTN tham gia giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề xã hội; tạo nhiều việc làm mới, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Doanh nghiệp nhà nước từ 2000 – 2011, không tạo thêm công ăn việc làm mới cho người lao động mà ngược lại đã mất đi 11.387 chỗ làm việc. Ngược lại số lao động làm việc trong DNTN của tỉnh đã tăng gấp 9 lần từ năm 2000 đến 2007, đặc biệt tăng nhanh từ 2007 đến 2013, số lao động trong các doanh nghiệp tăng lên rất nhanh, từ 56.991 người (2007) lên 136.972 (2013) điều này cho thấy lực lượng lao động trong khu vực KTTN ở tỉnh ta trong những năm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2