intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Trái phiếu

Chia sẻ: Tran Dinh Viet | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

439
lượt xem
109
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu về Trái phiếu nhằm giúp bạn nắm vững 1 số kiến thức về trái phiếu, phát hành trái phiếu, lãi suất trái phiếu, mệnh giá trái phiếu,... Cùng tham khảo để nắm bắt nội dung chi tiết nhé.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Trái phiếu

  1. TRÁI PHIẾU I. KHÁI NIỆM: Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở - hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành (CHỨNG KHOÁN NỢ). Hiểu theo nhĩa đơn giản thì trái phiếu là 1 khoản vay giữa nhà phát hành ( người đi - vay) với nhà đầu tư (người cho vay). II. MỤC ĐÍCH PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU: Là một hình thức huy động vốn (vay nợ) của Chính Phủ và Doanh nghiệp nhằm giải - quyết vấn đề tài chính. Là công cụ giúp Chính Phủ thực hiện chính sách vĩ mô (chính sách tiền tệ) nhằm giữ - nền kinh tế ổn định và tăng trưởng. Tạo kênh đầu tư tương đối ổn định, hiệu quả cho nhà đầu tư. - III. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN: Chủ thể phát hành trái phiếu:Chính phủ Trung ương, Chính quyền địa phương, - doanh nghiệp, công ty. Chính phủ khi cần huy động vốn cho ngân sách (trong trường hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ) , doanh nghiệp khi huy động vốn để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh . Người mua trái phiếu (trái chủ ) chỉ là người cho chủ thể phát hành vay tiền và là - chủ nợ của chủ thể phát hành trái phiếu. Khác với người mua cổ phiếu là người Chủ sở hữu Công ty. Thu nhập của trái phiếu là tiền lãi, là khoản thu cố định không phụ thuộc vào kết - quả sản xuất kinh doanh của công ty. Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi Công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trước - hết Công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các Chủ trái phiếu trước, sau đó mới chia cho các Cổ đông. 1
  2. IV. ĐẶC TRƯNG: Mệnh giá trái phiếu: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi - trên trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn. Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc - người phát hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu. Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách c ủa chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó. Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Và một điều hiển nhiên là rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao. Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người - phát hành hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn cóa thời gian từ 1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm tr ở lên. Thời điểm đáo hạn: là ngày tháng cụ thể thực hiện khoản chi trả cuối cùng. Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái - phiếu. Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái phiếu thường được mỗi năm hai hoặc một lần. Giá phát hành: Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường - giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách thích hợp. Có thể phân biệt 3 trường hợp: 1. Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá): Là phát hành trái phiếu với giá đúng bằng mệnh giá của trái phiếu. Trường hợp này thường xảy ra khi lãi suất thị trường bằng lãi suất danh nghĩa của trái phiếu phát hành. 2. Giá phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu): Là phát hành trái phiếu với giá nhỏ hơn mệnh giá của trái phiếu. Phần chênh lệch giữa giá phá hành 2
  3. trái phiếu nhỏ hơn mệnh giá của trái phiếu gọi là chiết khấu trái phiếu. Trường hội này thường xảy ra khi lãi suất thị trường lớn hơn lãi suất danh nghĩa của trái phiếu phát hành. 3. Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng): Là phát hành trái phiếu với giá lớn hơn mệnh giá của trái phiếu. Phần chênh lệch giữa giá phát hành trái phiếu lớn hơn mệnh giá của trái phiếu gọi là phụ trội trái phiếu. Trường hợp này thường xảy ra khi lãi suất thị trường nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa của trái phiếu phát hành. Chiết khấu và phụ trội trái phiếu chỉ phát sinh khi doanh nghiệp đi vay bằng hình thức phát hành trái phiếu và tại thời điểm phát hành có sự chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất danh nghĩa được các nhà đầu tư mua trái phiếu chấp nhận. Chiết khấu và phụ trội trái phiếu được xác định và ghi nhận ngay tại thời điểm phát hành trái phiếu. Sự chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất danh nghĩa sau thời điểm phát hành trái phiếu không ảnh hưởng đến giá trị khoản phụ trội hay chiết khấu đã ghi nhận. Dù trái phiếu được bán với giá nào (ngang giá, giá chiết khấu hay giá gia tăng), thì lợi tức luôn được xác định theo mệnh giá của trái phiếu và khi đáo hạn, người có trái phiếu sẽ được thanh toán theo mệnh giá của trái phiếu. V. PHÂN LOẠI: Có nhiều cách phân loại trái phiếu. 1) Phân loại theo người phát hành: Trái phiếu của Chính phủ: Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.. Chính phủ luôn được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít r ủi ro nhất. Trái phiếu của ngân hàng và các tổ chức tài chính : các tổ chức này có thể phát hành trái phiếu để tăng thêm vốn hoạt động. 3
  4. Trái phiếu của doanh nghiệp: Là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn hoạt động. Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng. Trái phiếu công ty có đặc điểm chung sau: Trái chủ được trả lãi định kỳ và tr ả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu đ ược ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức đảm bảo cho khoản vay. 2) Phân loại lợi tức trái phiếu: Trái phiếu có lãi suất cố định: Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo một tỷ lệ phần trăm (%) cố định tính theo mệnh giá. Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi): Là loại trái phiếu mà lợi tức được trả trong các kỳ có sự khác nhau và được tính theo một lãi suất có sự biến đổi theo một lãi suất tham chiếu. Trái phiếu có lãi suất bằng không: Là loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi, nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn. 3) Phân loại dựa vào hình thức trái phiếu: Trái phiếu vô danh: Là loại trái phiếu không ghi tên của người mua và trong sổ sách của người phát hành. Trái chủ là người được hưởng quyền lợi. Những phiếu trả lãi đính theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay. Trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên của người mua và trong sổ sách của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quy ền s ở h ữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính. 4) Phân loại dựa vào tính chất trái phiếu: 4
  5. Trái phiếu có thể chuyển đổi: Là loại trái phiếu của công ty cổ phần mà trái chủ được quyền chuyển sang cổ phiếu của công ty đó. Việc này được quy định cụ thể về thời gian và tỷ lệ khi mua trái phiếu. Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu: Là loại trái phiếu có kèm theo phiếu cho phép trái chủ được quyền mua một số lượng nhất định cổ phiếu của công ty. Trái phiếu có thể mua lại: Là loại trái phiếu cho phép nhà phát hành được quyền mua lại một phần hay toàn bộ trước khi trái phiếu đến hạn thanh toán. 5) Phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành: Trái phiếu bảo đảm: Là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có giá trị làm vật đảm bảo cho việc phát hành. Khi nhà phát hành mất khả năng thanh toán, thì trái chủ có quyền thu và bán tài sản đó để thu hồi lại số tiền người phát hành còn n ợ. Trái phiếu bảo đảm thường bao gồm một số loại chủ yếu sau: Trái phiếu có tài sản cầm cố: Là loại trái phiếu bảo đảm bằng việc người phát hành cầm cố một bất động sản để bảo đảm thanh toán cho trái chủ. Thường giá trị tài sản cầm cố lớn hơn tổng mệnh giá của các trái phiếu phát hành để đảm bảo quyền lợi cho trái chủ. Trái phiếu bảo đảm bằng chứng khoán ký quỹ: Là loại trái phiếu được bảo đảm bằng việc người phát hành thường là đem ký quỹ số chứng khoán dễ chuyển nhượng mà mình sở hữu để làm tài sản bảo đảm. Trái phiếu không bảo đảm: Là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm vật bảo đảm mà chỉ bảo đảm bằng uy tín của người phát hành. VI. LỢI ÍCH VÀ RỦI RO CỦA VIỆC MUA TRÁI PHIẾU: Khi quyết định đầu tư vào một lĩnh vực nào đó thì chắc chắn chúng ta sẽ phải cân nhắc những lợi ích cũng như rủi ro nhất định mà nó mang lại. Việc đầu tư trái phi ếu một mặt mang lại nhiều lợi ích cho trái chủ mặt khác cũng chứa đựng nhiều rủi ro: LỢI ÍCH: - Trái phiếu là công cụ nợ có độ tin cậy cao nhất, đặc biệt là trái phiếu chính phủ. - Trong môi trường lạm phát thấp, đầu tư trái phiếu là một cách an toàn đ ể duy trì nguồn thu nhập thường xuyên. - Khi thị trường chứng khoán biến động, đầu tư trái phiếu là một cách giúp đ ảm bảo an toàn vốn đầu tư và phân tán rủi ro. 5
  6. - Dù làm ăn kém hiệu quả, công ty vẫn phải trả đủ tiền lãi, không cắt giảm hoặc bỏ như cổ phiếu. Nếu công ty ngừng hoạt động, thanh lý tài sản, trái chủ được trả tiền trước người có cổ phần ưu đãi và cổ phần thông thường. RỦI RO Rủi ro do lãi suất thị trường: Giá của một trái phiếu công ty sẽ thay đổi theo - hướng ngược lại với lãi suất thị trường. Khi lãi suất thị trường tăng, giá trái phiếu sẽ giảm và ngược lại. Chẳng hạn, nhà đầu tư bán một trái phiếu trước ngày đáo hạn, thì khi lãi suất thị trường tăng, nhà đầu tư sẽ lỗ vốn. Có nghĩa là bán trái phiếu thấp hơn giá mua vào. Khi lãi suất thị trường giảm, giá trái phiếu nhà đầu tư đang nắm giữ sẽ tăng. Bởi lãi suất định kỳ của trái phiếu đã được ấn định từ trước, lãi suất thị trường gi ảm làm cho các trái phiếu cũ với mức lãi suất cao hơn trở nên hấp dẫn hơn. Trái phi ếu có th ời gian đáo h ạn càng dài thì mức độ tăng giá càng cao. Ngược lại, khi lãi su ất th ị tr ường tăng, giá trái phiếu sẽ giảm. Trái phiếu có thời gian đáo hạn càng dài thì mức giảm giá càng lớn. Rủi ro tín nhiệm: mức độ rủi ro tín nhiệm của trái phiếu được đánh giá dựa trên - các yếu tố kinh tế và khả năng hoàn trả lãi và gốc trái phiếu của nhà phát hành. Trái phiếu chính phủ thường được coi là có mức độ rủi ro thấp nhất, vì Chính ph ủ có khả năng thu thuế hoặc phát hành tiền để trả nợ. Các công ty không có những quyền đó, do vậy trái phiếu công ty có mức độ rủi ro cao hơn và phải tr ả lãi suất cao hơn cho nhà đầu tư. Rủi ro thanh khoản: khi nhà đầu tư trái phiếu cần tiền mặt mà thị trường lại thiếu - tính thanh khoản, sẽ khó lòng tìm được người sẵn sàng mua lại trái phiếu, hoặc nếu tìm được thì phải bán lại với giá rẻ hơn so với giá trị thực của trái phiếu. Rủi ro khi TTCK sụt giá mạnh: thông thường, giá trái phiếu không biến động - nhiều như giá cổ phiếu, do vậy khi TTCK sụt giá mạnh, các nhà đầu tư có xu hướng chuyển đầu tư từ cổ phiếu sang trái phiếu, qua đó đẩy giá trái phiếu tăng lên. Tuy nhiên, khi TTCK đã xuống đến mức đáy, nhà đầu tư lại có xu hướng chuyển sang cổ phiếu đang ở mức giá thấp, điều đó làm giá trái phiếu giảm trở lại. Rủi ro tái đầu tư : Tính toán tỷ lệ lợi nhuận nội tại một trái phiếu dựa trên giả - định là lượng tiền mặt thu vào được tái đầu tư. Thu nhập từ những hoạt đ ộng tái đầu tư như thế đôi khi được gọi là “lãi-trên-lãi” và phụ thuộc mức lãi suất thị trường vào thời điểm tái đầu tư, cũng như chiến lược tái đầu tư. Khả năng thay đổi tỷ lệ tái đầu tư theo một chiến lược do những thay đổi lãi suất thị trường trên thị trường được gọi là rủi ro tái đầu tư. Rủi ro do thu hồi Trái phiếu công ty có một điều khoản cho phép nhà phát hành thu - hồi hay “gọi” tất cả hay một phần trái phiếu mới trước ngày đáo hạn. Nhà phát hành thường giữ lại quyền này để có thể linh động chi trả tiền vốn nhằm thu hồi trái phiếu trong tương lai nếu lãi suất thị trường xuống thấp hơn lãi suất trái phiếu. Đối 6
  7. với nhà đầu tư, có 3 bất lợi với điều khoản về lệnh “gọi”. Thứ nhất, mức tiền mặt giao dịch cho một trái phiếu có điều khoản lệnh “gọi” không được biết chắc. Thứ hai, do nhà phát hành sẽ ra lệnh “gọi” thu hồi trái phiếu khi lãi suất thị trường xuống, nên nhà đầu tư chịu rủi ro tái đầu tư. Thứ ba, khả năng tăng tr ị giá vốn c ủa trái phiếu sẽ giảm bớt, vì giá của một trái phiếu có điều khoản về lệnh “gọi” không thể tăng cao hơn nhiều so với mức giá mà nhà phát hành sẽ gọi thu hối trái phiếu. Rủi ro tín dụng là nguy cơ công ty phát hành không có khả năng chi trả đúng hạn. - Tức là sẽ không thể chi trả mệnh giá và lãi đúng hạn. Rủi ro tín dụng được đánh giá bằng các dịch vụ đánh giá khả năng tín dụng của cá nhân hay công ty. Rủi ro lạm phát hay rủi ro sức mua phát sinh bởi trị giá lưu lượng tiền mặt của - một trái phiếu thay đổi do lạm phát. Lạm phát là kẻ thù của nhà đầu tư trái phiếu, bởi nó ăn mòn giá trị đồng tiền. Lạm phát càng cao, lãi suất thực của trái phi ếu (bằng lãi suất danh nghĩa của trái phiếu trừ lạm phát) càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Ví dụ, nếu nhà đầu tư mua một trái phiếu có lãi suất 8%/năm, nhưng tỷ lệ lạm phát là 9%/năm, thì thực tế, sức mua lưu lượng tiền mặt đã giảm. Ngoại trừ trái phiếu lãi suất thả nổi, còn đầu tư vào tất cả trái phiếu khác điều chịu rủi ro lạm phát, vì mức lãi suất được công ty phát hành cam kết sẽ cố đ ịnh trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Rủi ro về tỷ giá :Một trái phiếu không dựa trên đơn vị đồng nội tệ không chịu ảnh - hưởng của lưu lượng tiền mặt đồng nội tệ. Lưu lượng tiền mặt đồng nội tệ lệ thuộc vào tỷ giá hối đoái và thời điểm thanh toán. Ví dụ, một nhà đ ầu tư mua trái phiếu dựa vào đơn vị đồng bảng Anh. Nếu đồng bảng Anh mất giá so với đồng USD, thì người đầu tư sẽ nhận được ít USD hơn. Rủi ro ở đây được gọi là rủi ro về tỷ giá hay rủi ro tiền tệ. Rủi ro thanh lý: hay rủi ro về tính thị trường phụ thuộc vào khả năng bán dễ dàng - một trái phiếu mới bằng hay gần bằng trị giá của nó. Cách đo lường chủ yếu khả năng thanh lý là mức chênh lệch giữa giá đặt mua và giá đặt bán. Chênh lệch càng lớn, rủi ro thanh lý càng nhiều. Đối với một nhà đầu tư định giữ lại trái phiếu cho đến ngày đáo hạn, rủi ro thanh lý ít quan trọng hơn. Rủi ro do biến cố bất ngờ :Đôi khi khả năng chi trả lãi và mệnh giá của nhà phát - hành thay đổi lớn lao và bất ngờ bởi vì một tai nạn do thiên nhiên hay công nghiệp hoặc một thay đổi về quy định nào đó… Các rủi ro này được gọi chung là r ủi ro do biến cố bất ngờ Rủi ro tái thiết kết cấu :Thường phát sinh do có những sự kiện như mua đứt cổ - phần để thúc đẩy công ty, kế nhiệm hay những sửa đổi hoặc tái thiết kết cấu biểu đối kê tài sản công ty. Nhóm thiệt hại thường là những chủ trái phiếu vì phải chịu đựng sự xuống giá thị trường đối với các trái quyền của họ. Để “ăn chắc” khi đ ầu tư vào thị trường chứng khoán, thiết nghĩ, các nhà đầu tư cần nên nghiên cứu kỹ, tránh không gặp phải những rủi ro trên. VII. THỰC TRẠNG. KHÓ KHĂN: 1) 7
  8. năm2009 (Nguồn http://www.thesaigontimes.vn/Home/thoisu/sukien/31358/) Các khó khăn của thị trường trái phiếu Việt Nam: Thứ nhất: Quy mô nhỏ, thanh khoản thấp. Thị trường trái phiếu Việt Nam có quy mô quá nhỏ. Chủ yếu trái phiếu Chính phủ đang ''thống lĩnh'' thị trường, trong khi trái phiếu của các DN phát hành rất hạn chế. Tính thanh khoản của các loại trái phiếu còn thấp. Thị trường trái phiếu Chính phủ thiếu một cơ chế giao dịch có khả năng cung cấp thanh khoản cho các trái phiếu Chính phủ như các nhà tạo lập thị trường, hợp đ ồng mua l ại. 8
  9. trái phiếu Chính phủ phát hành với khối lượng và giá trị niêm yết lớn, trong khi nh ững người nắm giữ trái phiếu Chính phủ trên thị trường sơ cấp là các nhà đầu tư có tổ chức (trừ các đợt phát hành riêng lẻ qua hệ thống Kho bạc). Nhu cầu giao dịch phát sinh là các giao dịch lớn và ít mang tính tương thích thời điểm, hạn chế tính thanh khoản của trái phiếu. Về năng lực hệ thống giao dịch, trái phiếu hiện được niêm yết theo giá và áp d ụng nguyên tắc đấu giá giống như cổ phiếu (ưu tiên về giá, ưu tiên về thời gian), không áp dụng biên độ dao động giá. Tuy nhiên, cổ phiếu và trái phiếu là hai loại hàng hóa có đặc điểm và tính chất hoàn toàn khác nhau, việc áp dụng giao dịch trái phiếu và cổ phi ếu như nhau trên cùng một hệ thống giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán là không có hiệu quả. Do đó, cần tách biệt giao dịch trái phiếu và giao dịch c ổ phi ếu ra thành 2 bảng giao dịch riêng biệt là cần thiết. Hơn nữa, giữa các trái phiếu cùng chủ thể phát hành nhưng khác đợt phát hành cũng khác nhau về lãi suất và thời gian đáo hạn. Việc yết giá trái phiếu theo thị giá cũng không làm nổi bật sự khác biệt đó. Thứ hai: Hệ thống các nhà đầu tư chưa phát triển. Hệ thống các nhà đầu tư chưa phát triển, nhất là các nhà đầu tư tổ chức. Hiện nay thiết lập được hệ thống các nhà tạo lập thị trường; các thể chế trên thị trường chưa hoàn chỉnh. Nhiều định chế tài chính trung gian như các quỹ đầu tư tương hỗ, quỹ đ ầu tư mạo hiểm, công ty định mức tín nhiệm... chưa được thành lập. Thị trường trái phiếu vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư và có rất nhiều nguyên nhân khiến các nhà đầu tư ít quan tâm đến loại chứng khoán này. Lý do là giao dịch trái phiếu đòi hỏi một lượng vốn lớn, chỉ thích hợp với các nhà đầu tư có tổ chức, trong khi thị trường trái phiếu hiện nay có rất ít các nhà đầu tư có tổ chức. Thứ ba: Tính đồng bộ của thị trường này còn thấp. Khả năng tập trung và phân bổ nguồn lực tài chính qua thị trường chưa thực s ự hi ệu quả, còn có sự chưa ăn khớp giữa cơ cấu và kỳ hạn huy động vốn với sử dụng vốn. Sự phối hợp giữa các kênh huy động vốn còn chưa đồng bộ; vai trò của trái phiếu Chính phủ trong việc định hướng lãi suất thị trường còn hạn chế. tỷ lệ huy động vốn dài hạn qua kênh tín dụng ngân hàng hiện nay thấp. Trong khi đó, việc sử dụng quá nhiều vốn ngắn hạn cho đầu tư dài hạn, làm giảm hiệu quả sử dụng và tăng nguy cơ r ủi ro tài chính; việc phối hợp điều hành lãi suất giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn chưa thật ăn khớp, tiến trình cải cách hệ thống tổ chức tín dụng còn chậm; việc kiểm soát các dòng vốn trong nền kinh tế chưa thực sự có hiệu quả, vẫn còn tình trạng vốn dài hạn chuyển sang đầu tư ngắn hạn và ngược lại. Thứ tư: Hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh. 9
  10. Khung pháp luật mới được hình thành bước đầu; một số lĩnh vực vẫn chưa có hệ thống văn bản pháp lý hoàn chỉnh, nhất là lĩnh vực chứng khoán. Các nguyên tắc quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán... tuy đã được áp dụng nhưng còn ở phạm vi hẹp. Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết nên hạn chế sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro như hoán đổi lãi suất, mua bán kỳ hạn hay tái mua lại nhằm giúp nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình. Thứ năm: Tính cạnh tranh thấp. Trái phiếu Chính phủ chưa cạnh tranh được với sự thuận tiện của hình thức gửi tiết kiệm, đầu tư kỳ phiếu ở các ngân hàng thương mại cùng với tính thanh khoản kém hơn nên chưa thu hút được tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Cơ chế xác định lãi suất đấu thầu trên thị trường sơ cấp hiện không mang tính thị trường vì áp dụng lãi suất chỉ đạo nên chưa thu hút đ ược nhu c ầu đ ầu t ư c ủa các cá nhân, tổ chức. Quy định lãi suất đặt thầu phải cao hơn lãi suất chỉ đạo sẽ khiến cho lãi suất trúng thầu mang tính khiên cưỡng chủ quan hơn là mang tính khách quan thị trường. Điều này cũng có thể dẫn tới tình trạng khối lượng trúng thầu sẽ bị hạn chế đi rất nhiều so với khối lượng dự định phát hành và sẽ chỉ bó hẹp trong phạm vi một số nhỏ các nhà đầu tư. Khối lượng trúng thầu thấp cộng với một số nhỏ các nhà đầu tư n ắm giữ sẽ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Thứ sáu: Từ phía các công ty, chưa quen với kênh huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Thị trường trái phiếu công ty kém phát triển do các công ty chưa quen với việc huy động vốn vay trực tiếp qua phát hành trái phiếu mà vẫn dựa vào nguồn vốn vay của ngân hàng, đặc biệt là các Tổng công ty lớn, các DN Nhà nước do có khả năng tiếp c ận các nguồn vốn vay ngân hàng, vay ưu đãi. Các đơn vị này cũng thiếu tổ chức định mức tín nhiệm giúp cho việc xác định tín nhiệm và làm tăng tính minh bạch cho các trái phiếu phát hành; chưa xây dựng được đường cong lợi suất phi rủi ro cho trái phiếu Chính phủ phát hành làm tiêu chuẩn cho việc định lãi suất phát hành các công cụ nợ khác như trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị... Thứ bảy: Thông tin thị trường chưa đầy đủ. Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, nguyên nhân quan trọng khiến thị trường trái phiếu của Việt Nam kém hấp dẫn chính là việc thiếu một hệ thống cung cấp thông tin đầy đủ. Thể hiện rõ nhất là cho đến nay vẫn chưa có những công ty đ ịnh mức tín nhiệm. 10
  11. Hiện nay, trên thị trường đang có 3 loại trái phiếu và được phát hành bởi Chính ph ủ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến nay, quy mô phát triển của thị trường này còn nhỏ bé (chỉ chiếm 7% GDP). Bên cạnh những vướng mắc xuất phát từ hệ thống văn bản chính sách khiến tính thanh khoản của trái phiếu không được cao, lượng doanh nghiệp có uy tín tham gia phát hành... thì việc thiếu thông tin cũng khiến cho các nhà đầu tư "dè dặt" hơn trong việc đầu tư vào loại hình này. Thứ tám: Phí giao dịch cao. Theo quy định, việc giao dịch trái phiếu Chính phủ phải thông qua các CTCK- là tổ chức trung gian thu phí cả người mua lẫn người bán. Để một giao dịch trái phiếu Chính phủ 100 tỉ đồng được hoàn tất thì nhà đầu tư phải mất đến cả 100 triệu đồng tiền phí, mà thông thường những giao dịch mua bán trái phiếu Chính phủ là những giao dịch lớn, ít nhất có giá trị từ 100-300 tỉ đồng. Chính điều này làm cho thị trường trái phiếu Chính phủ của VN không thu hút được nhiều nhà đầu tư giao dịch, nhất là các NH nước ngoài. 2) GIẢI PHÁP Thị trường trái phiếu của Việt Nam cần phát triển theo hướng thị trường hóa với sự đa dạng hóa các chủ thể tham gia và hàng hóa giao dịch để tạo nền tảng cho phát triển lâu dài của thị trường vốn nói chung và thị trường cổ phiếu nói riêng. GIẢI PHÁP NGẮN HẠN: A. Thứ nhất: Cần cụ thể hoá các tiêu chuẩn phê duyệt trái phiếu. Bộ Tài chính và Ngân hàng nước (NHNN) cần phải cụ thể hoá các tiêu chuẩn phê duyệt phát hành trái phiếu công ty, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu của các tổ chức tín dụng. Cần có những biện pháp và hệ thống đánh giá chuẩn hơn để xác định lãi suất phát hành hợp lý, qua đó giảm gánh nặng nợ vay. Ttăng khối lượng phát hành thay vì phát hành nhiều đợt với số lượng nhỏ nhằm giảm chi phí phát hành và thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư có tổ chức tham gia. Thể chế pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô cần được cải thiện hơn nữa nhằm nâng mức xếp hạng, đủ điều kiện để đạt được tiêu chuẩn đầu tư của các nguồn quỹ l ớn trên thế giới. Bộ Tài chính nên tiến hành ban hành mẫu Bản cáo bạch chung cho các công ty muốn phát hành trái phiếu và công bố thông tin về kế hoạch ngân sách trung hạn c ủa chính quyền địa phương. Thứ hai:Thành lập sàn giao dịch trái phiếu. 11
  12. Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh nên tham khảo ý kiến của các nhà làm luật và các tổ chức tham gia thị trường chứng khoán để thành lập một sàn giao dịch trái phiếu giữa các nhà môi giới. Sàn giao dịch trái phiếu này phải tạo đ ược môi trường giao dịch có hiệu quả cho các nhà tạo lập thị trường, vì trái phiếu không thể áp dụng một phương thức giao dịch giống như giao dịch cổ phiếu. Đồng thời, phải hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp phát hành. Bên cạnh đó, thủ tục chuyển nhượng cũng phải đơn giản, nhanh chóng. Đối với trung tâm lưu ký chứng khoán, cần nâng cao năng lực của các trung tâm này hoặc góp phần phát triển một trung tâm lưu ký chung trong khu vực, tạo điều kiện giao dịch thuận tiện và dễ dàng hơn cho các nhà đầu tư. Thứ ba: Chính sách đa dạng hóa các chủ thể phát hành trái phiếu. Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các loại trái phiếu, các phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường vốn; phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc gia. Cần có chính sách khuyến khích các Tổng công ty nhà nước phát hành trái phiếu có mục đích để huy động vốn dài hạn cho đầu tư đổi mới công nghệ và tạo hàng cho thị trường chứng khoán. Trước mắt, triển khai áp dụng cho các Tổng công ty hoạt động ở những lĩnh vực hàng không, điện lực, bưu điện và dầu khí. Đây là những lĩnh vực mà nền kinh tế hiện rất cần được tăng cường đầu tư và phát triển để tạo đà cho công nghiệp hóa. Thứ tư: Đa dạng hóa phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Cần có kế hoạch phát hành trái phiếu đô thị đi kèm theo với nhiều tiện ích khác nhau nhằm giúp cho các nhà đầu tư luôn có được hàng hóa đa dạng phù hợp với chiến l ược đầu tư của mình, qua đó tạo điều kiện cho chính quyền địa phương nâng cao khả năng huy động vốn. Có thể nghiên cứu phát hành trái phiếu đô thị dưới các hình thức: Trái phiếu đa thời hạn: tức là trái phiếu có nhiều ngày đáo hạn khác nhau. • Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu giá bán thấp hơn mệnh giá. • Trái phiếu thanh toán từng phần: đây là loại trái phiếu mà chính quyền địa • phương thực hiện thanh toán từng phần khoản nợ của trái phiếu theo thời gian. Loại trái phiếu này sẽ tăng thêm độ an toàn cho người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu option: cho phép người mua trái phiếu có quyền đòi nợ đối với người • phát hành tại bất kỳ một thời gian nào đó trong tương lai. Trái phiếu có lãi suất thay đổi: lãi suất của nó có thể được thay đổi và điều chỉnh • theo từng thời kỳ khi lãi suất thị trường có sự biến động. 12
  13. Trong điều kiện phát triển thực tế của các địa phương, nhu cầu vốn tài trợ cho đ ầu t ư phát triển rất lớn và cấp thiết, chính phủ nên xem xét và bổ sung thêm một s ố qui đ ịnh pháp lý nhằm tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư cho các dự án đ ầu tư c ủa đ ịa phương thông qua phương thức phát hành loại trái phiếu thu nhập, loại trái phiếu được phát hành dựa trên nguồn thu tài chính của dự án, công trình và không được cân đ ối từ ngân sách địa phương. Chính quyền các tỉnh cần có chính sách khuyến khích các cơ quan công quyền có chức năng công ích phát hành trái phiếu để tài trợ cho các dự án, cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội địa phương. Trong trường hợp cần thiết, chính quy ền đ ịa phương có thể thực hiện bảo lãnh để tăng thêm uy tín cho đơn vị phát hành. Trái phiếu thu nhập có thể phát hành theo các mục đích như: Trái phiếu xây dựng nhà ở: tài trợ cho việc xây dựng những khu dân cư cho • những gia đình có thu nhập thấp; Trái phiếu bệnh viện: tài trợ cho việc xây dựng và vận hành các bệnh viện; • Trái phiếu hệ thống cấp thoát nước: tài trợ cho những dự án cấp thoát nước cho • dân cư và các ngành thuộc khu vực đô thị; Trái phiếu công nghiệp: tài trợ để xây dựng các khu công nghiệp, sân bay, bến • cảng, xử lý nước thải, ô nhiểm môi trường … Thứ năm: Thu hút và phát triển các “nhà kiến tạo thị trường”. Các nhà kiến tạo thị trường thường là các quỹ đầu tư, các công ty chứng khoán với các hoạt động cơ bản như: đầu tư, môi giới, đại lý, bảo lãnh phát hành trái phiếu. Họ là những nhà phân phối trái phiếu thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao nên có thể đưa trái phiếu vào giao dịch trên thị trường theo những phương thức khác nhau. Để thu hút các nhà kiến tạo thị trường, cần dần nới lỏng sự can thiệp và điều hành của cơ quan quản lý tức Bộ Tài chính về lãi suất trái phiếu như lâu nay. Nên bãi bỏ lãi suất trần trái phiếu, hay nói cách khác lãi suất trái phiếu không nhất thiết phải ổn đ ịnh theo thời gian mà thay đổi theo thị trường. Bộ Tài chính cần đa dạng các kỳ hạn với vi ệc phát hành trái phiếu dài hạn hơn để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị tr ường v ốn, kèm theo đó là xây dựng kế hoạch phát hành theo lịch biểu chặt chẽ đ ể cung c ấp đi ều đặn khối lượng trái phiếu cho thị trường; đồng thời, sử dụng kỹ thuật phái sinh đ ể phòng chống rủi ro đối với các trái phiếu dài hạn và điều chỉnh đường cong lãi suất chuẩn bằng việc đưa vào áp dụng hợp đồng mua bán lại. Thứ sáu: Tạo tính thanh khoản cho trái phiếu. Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt. 13
  14. Cần đa dạng hoá phát hành trái phiếu: Trái phiếu có lãi suất thay đ ổi theo lãi suất th ị trường, trái phiếu có kỳ hạn thay đổi, trái phiếu với các loại tiền tệ khác nhau nh ư USD, EUR, … Giải pháp này nhằm mục đích tạo tính thanh khoản cho trái phiếu. Cùng với giải pháp này, liên kết thị trường tiền tệ và vốn nhằm tăng tính thanh khoản cho trái phiếu cũng được xem giải pháp cải cách tài chính của Việt Nam. Thứ bảy: Khuyến khích hình thành tổ chức định mức tín nhiệm trong và ngoài nước. Công ty định mức tín nhiệm (CRA) giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế. CRA sẽ đánh giá các ngành kinh tế, phân tích tiền tệ, phân tích đánh giá các phương trình đầu tư của Chính phủ, chẳng hạn như chương trình phát triển mía đường, chương trình xây dựng các nhà máy xi măng,…giúp minh bạch hoá thông tin của doanh nghiệp, tổ chức phát hành trái phiếu. Từ đây, nhà đầu tư có thể biết được mức độ rủi ro khi đ ầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu địa phương và trái phiếu chính phủ. Từ đó, họ có cơ sở để ra quyết định có đầu tư hay không, và đầu tư thì với lãi suất mong đợi của họ là bao nhiêu? Điều này cũng giúp cho những doanh nghiệp, địa phương và Chính phủ có mức độ tín nhiệm cao sẽ được huy động vốn với chi phí thấp, chứ không cào bằng lãi suất trái phiếu như trước đây. Ngoài CRA trong nước, thì cần cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Như vậy, với CRA trong nước và nước ngoài sẽ gọi vốn đầu tư vào Việt Nam: Một trong những lý do khiến các nhà đầu tư chưa dám đầu tư mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam như chúng ta mong đợi, cũng là vì thiếu một công ty định mức tín nhiệm trên thị tr ường vốn Vi ệt Nam. Dựa trên các kết quả CRA mang lại, các nhà đầu tư mới có công cụ để thẩm định, lựa chọn danh mục đầu tư, dự báo tình hình phát triển doanh nghiệp và đ ưa ra quy ết định đầu tư. Thông qua bảng xếp hạng tín dụng, nhà đầu tư sẽ hiểu rõ hơn về sức mạnh tài chính của các công ty, dễ dàng đánh giá các tổ chức tài chính có quan hệ kinh doanh hoặc quan tâm tới việc mua trái phiếu của các công ty này. Thứ tám: Các doanh nghiệp cần nâng cao, đổi mới tư duy quản lý doanh nghiệp và sử dụng vốn có hiệu quả. Cần tạo được niềm tin cho nhà đầu tư; bảo đảm an toàn tài chính; yêu cầu các doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải tuân thủ theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và Quốc tế; đầu tư đổi mới công nghệ, các số liệu phải được hạch toán kịp thời, chính xác v ới thực trạng. 14
  15. Xây dựng và thẩm định dự án thật kỹ trước khi quyết định đầu tư; phải nhân diện được rủi ro trong hoạt động kinh doanh và có biện pháp hạn chế rủi ro; đ ảm bảo t ỷ l ệ l ợi nhuận phải cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Thứ chín: Đẩy mạnh việc phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Để đảm bảo cho việc huy động vốn ở thị trường quốc tế với chi phí rẻ, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ Quốc tế và minh bạch hoá thông tin; khi đó mới được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá cao. Ngoài ra, cần có kế hoạch sử dụng nguồn vốn huy động ngay nhằm tránh lãng phí,mà chúng ta còn phải vừa trả lãi. Vì vậy, phải xem xét những dự án có hiệu quả, s ử d ụng vốn được ngay, giải ngân được ngay thì mới tính đến phương án phát hành. Thứ mười: Hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước. Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ đáp ứng được yêu cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường trái phiếu của khu vực và quốc tế. Bổ sung các chế tài xử lý nghiêm minh về dân sự, hình sự để phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động trên thị trường trái phiếu. Áp dụng các tiêu chuẩn giám sát thị trường theo thông lệ quốc tế; đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các thành viên tham gia thị tr ường; kiểm tra, giám sát hàng hoá đưa ra thị trường, đảm bảo tính công khai, minh bạch; tăng cường năng lực giám sát, cưỡng chế thực thi của cơ quan giám sát thị trường. Củng cố bộ máy, nâng cao năng lực quản lý, giám sát của Nhà nước đối với thị trường trái phiếu; từng bước tách bạch chức năng quản lý với chức năng giám sát các hoạt động của thị trường; sớm nghiên cứu thành lập Cơ quan giám sát tài chính quốc gia, giúp Thủ tướng Chính phủ điều phối chính sách và công cụ cảnh báo, điều hành, giám sát hoạt động tài chính tiền tệ ở tầm vĩ mô. GIẢI PHÁP DÀI HẠN: B. Thứ nhất: Phát triển thị trường trái phiếu theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc, vận hành theo các thông lệ quốc tế tốt nhất, có khả năng liên kết với các thị trường khu vực và quốc tế. Thứ hai: Phát triển mạnh các kênh cung cấp vốn cả trong và ngoài nước cho thị trường; mở rộng hệ thống các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức; phát triển đầy đủ các định chế trung gian; đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp, … đảm bảo có đ ầy đ ủ các yếu tố cấu thành một thị trường trái phiếu phát triển trong khu vực. 15
  16. Thứ ba: Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá; hài hoà giữa mục tiêu huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững thị trường trái phiếu với ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Thứ tư: Tăng cường quản lý nhà nước, thực hiện có hiệu quả chức năng thanh tra, kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên thị trường. # THỰC TRẠNG Quy mô của thị trường trái phiếu Việt Nam hiện chỉ ở mức 17% GDP Năm 2009 được xem là năm không thành công trong việc phát hành các loại trái phiếu chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh. Ngược lại, trái phiếu doanh nghiệp phát hành năm qua lại khá thu hút các nhà đầu tư, nhất là loại trái phiếu thả nổi. Theo Bộ Tài chính, trong năm 2009, nhu cầu huy động vốn bằng trái phiếu chính phủ cho ngân sách vào khoảng 200.000 tỉ đồng. Song, tổng khối lượng trái phiếu chính phủ đã phát hành trong năm chỉ được khoảng 20.000 tỉ đồng, đạt 14% kế hoạch đề ra. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã huy động được 470 triệu đô la Mỹ trái phiếu bằng ngoại tệ tại thị trường trong nước. Ngoài ra, tổng khối lượng trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh đã phát hành khoảng 2.700 tỉ đồng. Còn theo một nguồn tin khác, báo cáo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, cho biết khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành thành công trong năm qua là 15.000 tỉ đồng, tính cả giá trị quy đổi của đợt phát hành bằng ngoại tệ.Cũng theo báo cáo này, năm 2009 có khoảng 15.000 tỉ đồng trái phiếu chính phủ đến hạn, như vậy về cơ bản Chính phủ không huy động thêm được vốn trong năm qua. Một điều dễ nhận thấy là năm qua việc phát hành các loại trái phiếu chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh trên thị trường sơ cấp khá ảm đạm. Báo cáo này cho biết tính chung trong năm 2009 có khoảng 70 đợt phát hành bao gồm trái phiếu Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội và trái phiếu TPHCM, tuy nhiên chỉ có khoảng 5.000 tỉ đồng trái phiếu huy động được trên tổng số 71.400 tỉ đồng đưa ra gọi thầu. Loại trái phiếu phát hành thành công nhất trong năm qua là trái phiếu Kho bạc nhưng tỷ lệ bán được cũng chỉ ở mức 15%, còn đa số các loại trái phiếu chỉ bán được dưới 7% so với kế hoạch. Đặc biệt trái phiếu chính quyền địa phương hoàn toàn không thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, còn trái phiếu của Ngân hàng Phát triển cũng chỉ bán được 2% so với tổng khối lượng chào bán. Sở dĩ có tình trạng này là do sự chênh lệch quá lớn về lãi suất giữa hai thị trường sơ cấp và thứ cấp, trung bình từ 100-200 điểm. Ngoài ra, báo cáo này còn lý giải rằng do Chính phủ 16
  17. không phải chịu áp lực lớn trong việc huy động vốn vì một phần trái phiếu phát hành thành công trong các năm trước được chuyển sang giải ngân trong năm nay (khoảng 8.000 tỉ đồng), đồng thời bản thân các dự án sử dụng vốn trái phiếu cũng có tiến độ giải ngân chậm.Với thị trường thứ cấp, tình hình cũng không sáng sủa hơn bao nhiêu, thanh khoản luôn ở mức thấp thể hiện qua các con số thống kê như sau: tổng giá trị trái phiếu được chuyển nhượng qua sàn trong năm 2009 vào khoảng 77.500 tỉ đồng, chỉ bằng 40% so với mức 195.600 tỉ đồng của năm 2008. Giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trong một phiên giao dịch trung bình là 300 tỉ đồng, thấp hơn nhiều so với mức 800 tỉ đồng của năm 2008. Trái phiếu doanh nghiệp: chớp thời cơ Năm 2009, thị trường trái phiếu doanh nghiệp lại khá sôi động với nhiều đợt phát hành thành công, trong đó chủ yếu là hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi. Do lo ngại rủi ro biến động lãi suất ở mức cao mà cả nhà phát hành lẫn đầu tư đều tập trung vào loại hình trái phiếu này. Ước tính đã có khoảng 18.000 tỉ đồng giá trị trái phiếu có lãi suất thả nổi được bán ra, chiếm 77% trong tổng giá trị trái phiếu huy động được (hơn 26.000 tỉ đồng).Bên cạnh đó, trái phiếu chuyển đổi cũng là kênh huy động vốn được nhiều doanh nghiệp sử dụng trong năm 2009, nhất là từ quí 3 trở đi, khi mà thị trường chứng khoán có sự phục hồi rõ rệt. Doanh nghiệp bất động sản là những nhà phát hành khá nhanh nhạy khi nhìn thấy thị trường bất động sản cũng có dấu hiệu ấm lên, và được sự hỗ trợ từ thị trường chứng khoán, liền tung ra các đợt phát hành tương đối lớn và khá thành công như Vincom (phát hành 100 triệu đô la Mỹ trái phiếu chuyển đổi quốc tế kỳ hạn năm năm, niêm yết trên thị trường chứng khoán Singapore), Hoàng Anh Gia Lai (1.450 tỉ đồng)… Thuật ngữ trái phiếu - Lãi suất coupon (Coupon Rate): Là lãi suất ghi trên trái phiếu, chẳng hạn 7% hay 8,25%. Đây là lãi suất nơi phát hành trái phiếu trả cho người nắm giữ trái phiếu. - Chiết khấu (Discount): Thông thường để dễ tính toán, người ta thường ấn định lãi suất coupon cho trái phiếu ở một mức nào đó, ví dụ 7%. Khi phát hành trái phiếu ra thị trường, nếu người mua không chấp nhận mức lãi suất này thì nơi phát hành sẽ bán giảm giá trái phiếu. Ví dụ trái phiếu có mệnh giá 100.000 đồng nhưng bán với giá 93.000 đồng thì mức chiết khấu là 7%. - Lợi suất hiện hành (Current Yield): Là mức lợi nhuận thu được từ trái phiếu so với giá hiện hành của nó. Ví dụ trái phiếu có lãi suất coupon là 7%, mệnh giá là 100.000 đồng nhưng giá trên thị trường hiện chỉ còn 80.000 đồng. Lấy lợi nhuận thu được hàng năm (7.000 đồng) chia cho giá hiện hành (80.000 đồng) và nhân cho 100, sẽ có lợi suất hiện hành là 8,75%. - Lợi suất đáo hạn (Yield to Maturity): Là mức lợi nhuận thu được từ trái phiếu nếu giữ cho đến ngày đáo hạn với giả định tiền lãi coupon được tái đầu tư với mức lãi tương ứng. Với loại trái phiếu nói trên, giả sử thời gian đáo hạn là bốn năm thì lợi suất đáo hạn sẽ là 13,8%. Ngày nay thay vì mất công tính toán, người ta có thể sử dụng các trang web tính lợi suất tự động như trang: 17
  18. - Điểm/Điểm phần trăm (Basic Point/Percentage Point): Lưu ý cách gọi mức tăng, giảm lãi suất. Ví dụ lãi suất từ 8,50% tăng lên 8,62% thì được gọi là tăng 12 điểm hay 0,12 điểm phần trăm. - Đường cong lãi suất(Yield Curve): Là đồ thị biểu diễn mối liên hệ giữa những mức lợi suất được quan sát tại một thời điểm của các loại trái phiếu có nhiều kỳ hạn khác nhau. Đường cong lãi suất đi lên khi trái phiếu dài hạn có lợi suất cao hơn trái phiếu ngắn hạn (bình thường). Đường cong sẽ biến thành đường thẳng n ếu tất c ả các m ức l ợi su ất đ ều x ấp x ỉ ngang nhau (dấu hiệu kinh tế bất ổn). Đường cong đi xu ống n ếu l ợi su ất c ủa trái phi ếu ng ắn hạn cao hơn trái phiếu dài hạn (dấu hiệu kinh tế trì trệ). TRÁI PHIẾU >< CỔ PHIẾU Trái phiếu có một số điểm khác biệt cơ bản so với cổ phiếu. Về thu nhập định kỳ, lãi suất trái phiếu được ấn định ngay từ khi phát hành, trong khi cổ tức của cổ phiếu lại biến động tùy theo kết quả hoạt động kinh doanh c ủa công ty phát hành. Về mức độ rủi ro, trái phiếu thường được đánh giá có mức độ rủi ro thấp hơn, do vậy giá trái phiếu thường ít biến động hơn so với giá cổ phiếu. Đó cũng chính là lý do vì sao trái phiếu thường hấp dẫn những nhà đầu tư không thích mạo hiểm. Giữa trái phiếu và cổ phiếu có một gạch nối liên kết, đó là trường hợp trái phi ếu chuy ển đ ổi được. Trái phiếu chuyển đổi cho phép người mua trái phiếu trong những điều ki ện nào đó, có thể đổi trái phiếu lấy cổ phiếu thưởng, theo một tỷ lệ và mức giá đã ấn định. Khi đó, từ vai trò chủ nợ, nhà đầu tư trở thành một trong các chủ sở hữu của doanh nghiệp và chuyển chứng khoán nợ thành chứng khoán vốn. Trái phiếu chuyển đổi đem lại tiềm năng về một kho ản l ợi vốn thông qua sự tăng giá của cổ phiếu phổ thông, đồng thời là một sự bảo vệ khi giá thị trường của cổ phiếu phổ thông rơi xuống dưới giá trị chuyển đổi, vì công cụ chuyển đổi sẽ đ ược đánh thấp hơn một phiếu thường. giá không trái thông Tuy nhiên, không có mối quan hệ cổ phiếu chuyển đổi sang trái phiếu. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2