Xã hội học số 4(120), 2012 13<br />
<br />
<br />
<br />
TỪ KHÁI NIỆM “NÔNG DÂN” TỚI “XÃ HỘI TIỂU NÔNG” Ở VIỆT NAM:<br />
DẪN VÀO MỘT NGHIÊN CỨU VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN<br />
<br />
BÙI QUANG DŨNG*<br />
<br />
Nhiều nghiên cứu khoa học xã hội hiện nay cho thấy một bức tranh khá đa dạng<br />
liên quan tới tình hình nông nghiệp và xã hội nông thôn từ sau Đổi Mới cho tới thập niên<br />
đầu tiên của thế kỷ XXI. Một mặt, ta chứng kiến quá trình tích tụ ruộng đất và phân hóa<br />
xã hội; mặt khác, lại vẫn thấy nét nổi bật trong nông nghiêp và các quan hệ ruộng đất<br />
hiện nay: nền “sản xuất nhỏ” của nông dân và sự tồn tại một xã hội tiểu nông1.<br />
Sự phát triển của nền nông nghiệp và nông thôn Việt Nam tùy thuộc rất nhiều<br />
vào mức độ, khả năng biến đổi của các quan hệ ruộng đất này. Dù hiện tượng trao đổi<br />
đất diễn ra tại mỗi vùng như thế nào thì, cuối cùng, tích tụ ruộng đất ở nhóm cư dân<br />
này, sẽ tạo ra tình trạng không đất ở một một nhóm cư dân khác. Việc tích tụ đất đai<br />
sẽ hỗ trợ cho chủ trương hướng tới nền nông nghiệp hàng hoá của Việt Nam; tu y<br />
nhiên, nó cũng sẽ làm gia tăng mối quan tâm về nghèo đói và công bằng xã hội, khi<br />
mà cơ hội việc làm phi nông nghiệp tại nông thôn cũng như trình độ của lực lượng lao<br />
động hiện nay vẫn còn thấp.<br />
Bài viết này phân tích tình hình nghiên cứu về các quan hệ ruộng đất và xã hội<br />
nông thôn trong thời gian qua từ các công trình của các học giả trong nước và quốc tế.<br />
Ngoài việc phân tích, nhận diện một vài khái niệm làm việc liên quan tới vấn đề, bài<br />
viết cũng dành thảo luận về các khía cạnh của chiến lược phát triển nông thôn Việt<br />
Nam hiện nay.<br />
Khái niệm “Nông dân”<br />
Các môn khoa học xã hội, khi đề cập tới tình hình các nước đang phát triển, đều<br />
không thể nào bỏ qua được vấn đề nông nghiệp và nông dân. Trong khi đó, một cách có<br />
phần nghịch lý, từ “nông dân” (peasant) lại là ví dụ điển hình về sự nhầm lẫn về nghĩa<br />
của một từ thông dụng với nghĩa xã hội học của nó. Thậm chí, có lẽ, cách dùng thông<br />
dụng của từ này lại dễ nắm bắt hơn cả. Người ta luôn hiểu khi nào thì một người là nông<br />
dân, và khi nào thì không, ngay cả khi bàn về trường hợp những tiểu chủ giàu có, người<br />
lĩnh canh, người lao động nông nghiệp không có đất, trong một loạt những bối cảnh lịch<br />
sử và văn hoá đặc thù. Nhìn chung, giới nghiên cứu khoa học xã hội đã mất nhiều công<br />
sức để thảo luận về một định nghĩa chính xác.<br />
Các nhà nghiên cứu nhân học định nghĩa nông dân thông qua những thói quen và<br />
chuẩn mực văn hoá, đặc trưng bằng sự thu hẹp tầm nhìn và định hướng đến truyền thống.<br />
Những nỗ lực mô tả nông dân như là một phạm trù khái quát như thế, lẫn lộn với các loại<br />
hình học nhằm kết hợp mọi hình thức kinh tế xã hội khác nhau được gọi là nông dân. Tuy<br />
<br />
*<br />
PGS.TSKH, Viện Xã hội học.<br />
1<br />
Bùi Minh, Bế Quỳnh Nga, Đặng Thị Việt Phương. Ruộng đất, nông dân và phát triển nông thôn. Tạp<br />
chí xã hội học, số 3/2012.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 14<br />
<br />
<br />
<br />
nhiên, cũng như trong giới kinh tế học Marxist, không có một định nghĩa chính xác hay<br />
hữu dụng nào được nêu ra, và thuật ngữ này vẫn bị coi là một phạm trù kinh tế - xã hội có<br />
tính mô tả hơn là tính khám phá hữu ích (Oxford Dictionary of Sociology).<br />
Cuốn sách nổi tiếng của Eric Wolf về các cuộc chiến tranh nông dân thế kỷ XX,<br />
dành một phần viết về Việt Nam, đều lấy cảm hứng từ sự phân tích kinh tế nông dân như<br />
là cội nguồn của các phong trào xã hội và các cuộc chiến tranh nổi dậy. Ngoài cuốn Nông<br />
dân, các bài báo gần đây nhất của tác giả đều nỗ lực làm rõ sự phân biệt giữa nông dân và<br />
các hình thức khác của người sản xuất nông nghiệp.<br />
Wolf xác định các đặc trưng của nông dân bằng cách đối lập nó với cái mà ông gọi<br />
là “người nguyên thủy” và nông gia. Nông dân được định nghĩa là những người trồng trọt<br />
ở nông thôn và họ không phải là nông gia (chủ các nông trại). Nông trại về cơ bản là một<br />
doanh nghiệp, ở đó các yếu tố đầu vào của sản xuất được kết hợp lại, sau đó các sản<br />
phẩm của nông trại sẽ được bán ra ngoài thị trường với giá cao hơn. Còn người nông dân,<br />
xét về phương diện kinh tế lại không điều hành doanh nghiệp, mà quản lý nền kinh tế gia<br />
đình. Vậy điều gì là cái giúp phân biệt giữa nông dân và người nguyên thủy, là người<br />
cũng sống ở nông thôn bằng trồng trọt và chăn nuôi ?<br />
Wolf đồng ý với Sahlins rằng "xã hội nông dân" có đặc trưng riêng biệt so với các<br />
xã hội cổ truyền khác, là vì nó phụ thuộc rất nhiều vào những hình thức chính trị và kinh<br />
tế cao hơn. Các cộng đồng nông dân phải phục tùng quyền lực từ bên ngoài, và họ phải<br />
cung đốn lương thực, thực phẩm, trích từ nền kinh tế tự cung tự cấp của họ. Mỗi một<br />
nông dân phải mang đến lâu đài một phần mùa màng của mình, phải đến đó làm lao dịch<br />
và đóng thuế cho chính quyền trung ương. Kinh tế nông dân vừa phải cung cấp cho việc<br />
sinh tồn của làng, vừa phải trích ra để nuôi sống xã hội (Wolf, 2000).<br />
Vị trí của gia đình gắn liền với cái bối cảnh chính trị xã hội xung quanh, được thảo luận<br />
trong nhiều bài nghiên cứu, như là một cách diễn giải về người nông dân. Theo nhiều học<br />
giả, thì gia đình là then chốt để đánh giá vị trí “đầy mâu thuẫn” của nông dân với tư cách là<br />
người kiểm soát các nguồn lực sản xuất nông nghiệp (đất đai, gia súc...), và là đối tượng của<br />
các quan hệ bóc lột. Bản thân gia đình có khả năng đưa ra các quyết định sản xuất chủ yếu và<br />
để làm điều đó, gia đình phải cân đối các nhu cầu tiêu dùng của mình với các đòi hỏi từ phía<br />
tầng lớp cai trị (Meillassoux, 1979;W Roseberry, 2000;H. Friedmann , 2001).<br />
Một mặt nông dân tiến hành các hoạt động kinh tế tự túc, nhằm vào tiêu dùng bản<br />
thân và gia đình, mặt khác, họ được coi là những đơn vị sản xuất của hệ thống kinh tế<br />
nói chung và do đó họ phụ thuộc vào một hệ thống quan hệ bóc lột (W. Roseberry,<br />
2000). H. Friedmann cố gắng tìm cách thay thế cho khái niệm nông dân bị phê phán là<br />
quá trừu tượng và đề nghị thay bằng một khái niệm mới về “những người sản xuất hàng<br />
hóa giản đơn”. Tác giả này đối lập sản xuất hàng hóa giản đơn với sản xuất nông dân,<br />
theo đó, nông dân được coi như đơn vị sản xuất hộ gia đình, chỉ liên kết phần nào với<br />
thị trường, còn người sản xuất giản đơn lại liên kết hoàn toàn với thị trường (dẫn lại W.<br />
Roseberry, 2000).<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 15<br />
<br />
<br />
Đã có nhiều cố gắng để định nghĩa về kinh tế nông dân (peasant economic), bằng cách<br />
tìm ra mối liên hệ giữa các nhóm xã hội khác nhau như người tá điền trong các lãnh địa<br />
phong kiến,người tiểu nông và người lao động công nhật. Điều này nhấn mạnh tầm quan<br />
trọng của gia đình nông dân như là đơn vị của sản xuất lẫn tiêu dùng, vai trò gia đình trong<br />
hoạt động canh tác nông nghiệp, mối quan hệ giữa nền nông nghiệp tư bản và tiền tư bản.<br />
Một cách vắn tắt, có thể nói rằng đặc điểm cốt yếu của kinh tế nông dân thể hiện ở chỗ "Gia<br />
đình là một đơn vị của lao động và tiêu dùng" (Meillassoux, 1979). Kinh tế gia đình chủ yếu<br />
sản xuất lương thực, thực phẩm cho sự tiêu dùng trực tiếp, sản xuất các công cụ và vật dụng<br />
cần thiết cho hoạt động sản xuất và tái sản xuất các thành viên gia đình. Hình thức kinh tế<br />
này gắn liền với một kiểu tổ chức xã hội riêng biệt.<br />
Người nông dân vừa là tác nhân kinh tế vừa là chủ một gia đình. Một gia đình nông<br />
dân không đơn giản là một đơn vị sản xuất, đó cũng là một đơn vị tiêu dùng. Gia đình<br />
nông dân không chỉ nuôi dưỡng các thành viên của nó mà còn cung cấp cho họ những<br />
hoạt động khác. Người già được chăm sóc cho tới lúc chết. Kết hôn và các hình thức thừa<br />
kế đảm bảo tái sản xuất đơn vị gia đình cả về mặt sinh học cũng như về mặt xã hội. Trẻ<br />
con được nuôi nấng và được xã hội hóa phần lớn trong gia đình. Rất nhiều chức năng của<br />
một hệ thống xã hội như thế đòi hỏi đóng góp lao động và bản chất của thứ lao động này<br />
là ở chỗ nó không được trả công.<br />
Như thế, hình thức sản xuất này rất chặt chẽ vì nó liên quan tới tất cả các phương diện<br />
của đời sống từng thành viên gia đình hay nhóm nói chung. Nhưng cũng chính trên cơ sở đó<br />
mà nó tạo nên một thứ bảo hiểm và an toàn rất lớn cho tái sản xuất và đời sống nhóm. Về mặt<br />
lịch sử, hình thức tổ chức sản xuất này gắn liền với lao động thủ công và chính điều đó giải<br />
thích tại sao tồn tại những quy mô gia đình lớn trong các kiểu xã hội nông nghiệp. Chừng nào<br />
mà các cộng đồng kinh tế kiểu này (gia đình, bộ lạc, v.v…) còn được sử dụng đất đai không<br />
phải trả tiền thì nó còn tiếp tục giữ vai trò bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là mục đích của<br />
kinh tế gia đình. Các thành viên gia đình (bố mẹ, vợ chồng, con cái của họ) không được<br />
"hoàn lại" theo lao động trực tiếp mà theo lao động mà họ góp cho cộng đồng trong suốt cả<br />
cuộc đời. Sự kiện này là đối lập lại hệ thống kinh tế hiện đại dựa trên chế độ làm công ăn<br />
lương, căn cứ vào thời gian lao động hay khối lượng sản phẩm1.<br />
Luận điểm về hình thái lao động gia đình không được trả công, có lẽ gần gũi với<br />
cảm hứng từ một nghiên cứu kinh điển của Chayanov về “kinh tế nông dân”. Chayanov<br />
cho rằng đặc điểm cơ bản của kinh tế nông dân là kinh tế gia đình. Toàn bộ tổ chức của<br />
<br />
1<br />
Trong loại xã hội như thế, nông nghiệp tạo ra các mối liên hệ xã hội do hoạt động nông nghiệp không<br />
phải là cái cho năng suất ngay. Từ khi bắt đầu sản xuất (làm đất, gieo hạt, v.v...) đến thời kỳ thu hoạch,<br />
phải có thời gian chờ cho lúa chín. Trong khoảng thời gian này, người sản xuất phải có số lương thực<br />
dự trữ từ trước và khoản này là "nợ" của họ đối với những người sản xuất trước đó, và những người<br />
này, tới lượt mình, lại nợ của những người khác nữa. Năm này qua năm khác, việc thay thế các nhóm<br />
sản xuất nông nghiệp diễn ra thông qua sự thay thế các thế hệ.Các mối quan hệ này kéo dài suốt cả chu<br />
trình sống, nó tạo ra một cơ cấu thứ bậc trên cơ sở tham gia trước (hay sau), xác định nguồn gốc xã hội.<br />
Đó là cái mà theo Meillassoux, tạo thành hệ thống các quan hệ họ hàng. Nhìn từ phía các quan hệ xã hội<br />
này (quan hệ họ hàng hay gia đình), ta thấy rằng chính nó cấu thành bộ xương sống cho tổ chức kinh tế<br />
(Meillassoux, 1979).<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 16<br />
<br />
<br />
<br />
dạng kinh tế này do quy mô, cấu trúc của gia đình, các nhu cầu tiêu dùng và số lượng lao<br />
động quy định. Đây là lý do giải thích tại sao quan niệm về lời lãi của kinh tế nông dân<br />
khác với kinh tế tư bản và tại sao những quan điểm của kinh tế tư bản không thể áp dụng<br />
cho nền kinh tế nông dân (Chayanov, 2000).<br />
Những gì đúng đối với gia đình lại càng đúng đối với các giai cấp. Giới nghiên cứu<br />
nỗ lực nhằm đinh nghĩa phương thức sản xuất nông dân, cũng như khẳng định rằng nông<br />
dân là một giai cấp. Điều này liên quan đến những cuộc tranh luận về tiềm năng cách<br />
mạng của nông dân,đặc biệt là giữa những nhà lý thuyết Marxist. Thảo luận của Marx<br />
trong cuốn sách về nông dân Pháp (Ngày 18 tháng Sương mù của Luis Bonaparte)<br />
thường được viện dẫn, để làm mềm dẻo hơn các định nghĩa. Phân tích những điều kiện<br />
kinh tế xã hội của cuộc chính biến, Marx nhận xét rằng cơ sở của tình hình là tầng lớp<br />
tiểu nông. Marx nhấn mạnh rằng, chừng nào mà hàng triệu gia đình tồn tại trong những<br />
điều kiện kinh tế chia tách lối sống và lợi ích của họ với các giai cấp khác, thì họ tạo<br />
thành giai cấp; và chừng nào những người tiểu nông Pháp đơn giản liên kết với nhau ở<br />
cấp độ địa phương và quyền lợi của họ không tạo ra các mối liên kết mang tính dân tộc,<br />
thì họ không hình thành giai cấp (Dẫn lại theo Roseberry, 2000 ) .<br />
H. Mendras nhấn mạnh rằng, khác với người nguyên thuỷ và người lao động nông<br />
nghiệp, chân dung xã hội nông dân có thể xác định bằng năm đặc tính. Thứ nhất, đó là<br />
tính tự trị tương đối của các nhóm nông dân trong quan hệ với xã hội xung quanh; thứ hai<br />
là tầm quan trọng về mặt cấu trúc của nhóm gia đình trong việc tổ chức đời sống kinh tế<br />
và đời sống xã hội; thứ ba, hệ thống kinh tế tương đối tự chủ, không phân biệt tiêu dùng<br />
và sản xuất và không có quan hệ với nền kinh tế xung quanh; thứ tư, các nhóm địa<br />
phương hiểu biết lẫn nhau và chỉ có mối quan hệ yếu với các nhóm bao quanh; và cuối<br />
cùng, các thân hào và chức sắc đóng vai trò hoà giải giữa các nhóm nông dân với xã hội<br />
bao quanh (Mendras, 1976).<br />
Từ những luận bàn nói trên, ta có thể định danh bản chất kinh tế xã hội của nông<br />
dân: nhân vật này thuộc về loại chân dung của các xã hội tiền tư bản.<br />
Xã hội tiểu nông ở Việt Nam<br />
Vấn đề “xã hội tiểu nông” dẫn ta trở lại những cái mốc sớm sủa nhất trong thư tịch<br />
nghiên cứu về xã hội nông thôn Việt Nam. Về mặt lịch sử, ta biết rằng chế độ sở hữu lớn<br />
phong kiến ở Đàng ngoài (Bắc Bộ) không phát triển theo hướng tạo thành hai giai cấp<br />
hoàn toàn đối lập nhau. Một trong những nguyên nhân tạo nên chế độ sở hữu ruộng đất<br />
manh mún là tập quán chia ruộng đất tư cho con cái: người Việt Nam dù thuộc tầng lớp<br />
nào cũng chia đều tài sản (ruộng đất v.v…) cho các con mà không phân biệt trưởng thứ<br />
(Trương Hữu Quýnh, 1983). Một số học giả còn cho rằng việc chia đều tài sản ruộng đất<br />
là nguyên tắc chủ yếu của thừa kế trong xã hội Việt Nam, nếu có ngoại lệ dành cho người<br />
trưởng nam, thì đó là do liên quan tới ruộng hương hỏa (Samuel Baron và Abbe Richard,<br />
dẫn theo Yu, 1994). Còn phải thêm vào đó việc khai khẩn ruộng đất liên tục, nguồn bổ<br />
sung thường xuyên cho chế độ sở hữu nhỏ về ruộng đất của người tiểu nông. Trong khi<br />
đó, tại Đàng trong (Nam Bộ), do nhiều lý do khác nhau, chế độ sở hữu lớn phong kiến<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 17<br />
<br />
<br />
phát triển mạnh mẽ (Trương Hữu Quýnh, 1983).<br />
Trong thời hiện đại, các tài liệu còn cho thấy những đường nét khác nhau rõ hơn<br />
nữa của mối quan hệ giữa các chế độ sở hữu đất đai và những khuôn mẫu giai cấp và<br />
nhóm xã hội đặc thù. Theo Robequain và Yves Henry, thì vùng châu thổ miền Bắc là nơi<br />
ruộng đất phân tán nhất. Chế độ tiểu tư hữu ở miền Bắc phát triển lạ lùng so với Nam kỳ.<br />
Vấn đề là ở chỗ, vì đất công là quỹ cho chương trình phúc lợi của làng, nên tỷ lệ đất công<br />
phản ánh gần đúng "chỉ số kết gắn xã hội". Từ đó thì có thể hiểu là các làng mạc miền<br />
Nam không có cùng dung lượng kết gắn và hoạt động xã hội như các phần nông thôn kia<br />
của Việt Nam. Một học giả Mỹ nhận xét rằng nông dân Nam Bộ chủ yếu là tá điền, nên<br />
nhiệt tình hơn nông dân Bắc Bộ, là những người tiểu sở hữu, trong các phong trào xã hội<br />
chính trị (Gabriel Kolko, 2003). Còn nhà nghiên cứu khác, thì cố gắng nêu bật tầm quan<br />
trọng của việc biến cuộc cải cách điền địa thành trung tâm trong chính sách phát triển,<br />
nhằm giải quyết các mẫu thuẫn xã hội trong nông thôn (R. Sansom, 1971).<br />
Nông nghiệp Việt Nam trong thập niên 1980 được đánh dấu bằng các chính sách<br />
cải cách trong nông nghiệp; đầu tiên là Khoán 100 (Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung<br />
ương Đảng, năm 1981); tiếp sau đó là Khoán 10 về “đổi mới quản lí nông nghiệp” (Nghị<br />
quyết 10 của Bộ Chính trị, ban hành tháng 4/1988), quy định giao lại ruộng đất cho nông<br />
dân quản lí. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986) và các nghị quyết sau đó thừa<br />
nhận nền kinh tế thị trường trong sản xuất nông nghiệp. Những thay đổi trong chính sách<br />
đất đai của Việt Nam góp phần đáng kể trong việc tăng nhanh sản lượng nông nghiệp và<br />
phát triển nông thôn.<br />
Về mặt học thuật, ngày càng có nhiều nghiên cứu, từ phía các học giả quốc tế và<br />
giới nghiên cứu trong nước, về các vấn đề của nền nông nghiệp, xu hướng tiến lên sản<br />
xuất lớn “xã hội chủ nghĩa”, lẫn mối quan tâm có tính hệ thống về các tầng lớp và giai<br />
cấp xã hội. Xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu nhằm nhận diện cơ cấu giai cấp xã hội<br />
của nông dân (Trần Hữu Quang,1984; Lê Minh Ngọc, 1984). Thực tiễn phát triển nền sản<br />
xuất hàng hóa trong nông thôn Nam Bộ cung cấp vô số bằng chứng cho thấy cần nhìn<br />
vấn đề từ góc độ vai trò của các tầng lớp đối với phát triển. Thảo luận về “tầng lớp trung<br />
nông”, tác giả vừa dẫn, nhấn mạnh tới các đặc điểm kinh tế xã hội của tầng lớp này, và<br />
gợi ý một cách có lý rằng các chính sách phát triển cần đặc biệt lưu ý tới hiện tượng này<br />
(Lê Minh Ngọc, 1984).<br />
Thời kì tập thể hóa, ở miền Bắc đã có khoảng 80% hộ nông dân tham gia vào hợp<br />
tác xã. Họ góp chung đất đai và các tư liệu sản xuất khác vào hợp tác xã dưới sự quản lý<br />
chung (Nguyễn Sinh Cúc, 1995). Ở miền Nam, tập thể hoá tiến hành muộn hơn và cũng<br />
thu hút được ít nông hộ tham gia hơn. Ở ĐBSCL, chỉ có không đến 6% số hộ nông dân<br />
tham gia hợp tác xã nông nghiệp (Pingali and Xuan, 1992). Khác với miền Bắc, ở miền<br />
Nam hộ nông dân vẫn là đơn vị sản xuất cơ bản mặc dù họ tham gia hợp tác xã nông<br />
nghiệp. Họ vẫn giữ quyền sở hữu tư nhân đối với các công cụ sản xuất và cung cấp các<br />
dịch vụ nông nghiệp song hành với hợp tác xã. Việc phân chia ruộng đất sau hợp tác hóa<br />
chủ yếu dựa trên tình trạng sở hữu đất đai của hộ từ trước năm 1975 (Ravallion và van de<br />
Walle, 2001).<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 18<br />
<br />
<br />
Giới nghiên cứu nhấn mạnh tới các tác động chính sách đối với việc định hình một chế<br />
độ ruộng đất có tính bình quân trong nông thôn, nhất là ở miền Bắc. Những quy định về phân<br />
chia đất đai trong Nghị quyết “Đổi mới quản lí nông nghiệp” năm 1988 cho phép những hộ<br />
có khả năng sản xuất tốt hơn đấu thầu tiếp đất canh tác. Tuy nhiên, đề xuất chính sách đó vấp<br />
phải những phản ứng của nông dân vì cho rằng nó góp phần tạo ra những bất bình đẳng trong<br />
xã hội nông thôn. Cho đến năm 1994, hầu hết các địa phương miền Bắc đều áp dụng việc<br />
phân chia đất trên cơ sở bình quân đầu người (Luong and Wealth, 1998, tr. 65-66). Đây là<br />
một trong những nguyên cớ tạo ra trình trạng manh mún ruộng đất.<br />
Các nghiên cứu gần đây nhất cho thấy tình trạng không đất phổ biến trong nhóm<br />
nông dân nghèo ở cả 2 vùng đồng bằng ( ĐBSH và ĐBSCL). Nếu xét riêng trong nhóm<br />
nghèo nhất, tỉ lệ người không có ruộng là khoảng 5% ở ĐBSH so với 40% ở ĐBSCL<br />
(Ravallion and Van de Walle, 2006). Việc gia tăng tình trạng không đất trong nông dân<br />
khiến nhiều người quan ngại về những vấn đề xã hội nảy sinh (Smith and Tran, 1994;<br />
Akram-Lodhi, 2005). Tuy nhiên, có nghiên cứu lại cho rằng tình trạng không đất không<br />
hẳn gắn với nghèo đói (Ravallion và Van de Walle, 2008).<br />
Biến số vùng thậm chí còn cung cấp những hàm ý sâu sắc hơn liên quan tới mối<br />
quan hệ giữa cơ cấu xã hội nông với các nỗ lực chính sách. Nhiều bằng chứng cho thấy<br />
hình thái kinh tế tiểu nông đã đạt tới cái “giới hạn” phát triển của nó, và với yêu cầu hội<br />
nhập và phát triển hơn nữa nền nông nghiệp thương phẩm, thì chế độ kinh tế này không<br />
còn thích hợp nữa. Trong những nghiên cứu gần đây về nông thôn vùng đồng bằng sông<br />
Cửu Long, người ta nhận thấy rằng các nông hộ thuộc tầng lớp trung nông không đủ đất<br />
canh tác và vốn đầu tư, nên không có đủ sức để tham gia vào các cơ hội làm ăn thật sự có<br />
hiệu quả. Cái quan niệm về vai trò trung tâm của tầng lớp trung nông hiện nay trong nền<br />
kinh tế Nam bộ có lẽ không còn chính xác nữa (Trần Hữu Quang, 2010).<br />
Bài nghiên cứu về mấy vấn đề về ruộng đất, dựa trên kết quả của cuộc “Điều tra<br />
nông dân”, đặc biệt lưu ý tới quá trình tích tụ ruộng đất và bóng dáng một tầng lớp “nông<br />
dân mới”, các chủ nông trại với quy mô vài chục ha đất canh tác (Bùi Quang Dũng, Đặng<br />
Thị Việt Phương, 2011). Trong nhiều xuất bản phẩm về cùng sự kiện, người ta gọi họ là<br />
các “Nông gia” hay “Nhà nông” và thảo luận nhiều về các quan hệ xã hội tương ứng ( Đỗ<br />
Thái Đồng, 1994; Trần Đình Thiên, 2009; Nguyễn Thị Tố Quyên 2010).<br />
Tuy nhiên, dù sự phân hóa xã hội trong nông thôn, với những nhân vật mới như các<br />
nông gia, và người làm thuê trong nông nghiệp, chúng ta vẫn đang đứng trước một “xã<br />
hội tiểu nông” (Bùi Quang Dũng và đồng nghiệp, 2011). Điều mà Nguyễn Từ Chi viết từ<br />
gần ba chục năm trước, hiện vẫn còn có thể dùng để xác định cái chân dung đó: xã hội<br />
nông thôn Việt Nam vẫn là một “cái biển tiểu nông”, trong đó “từng hộ nông dân tự do,<br />
dù thuộc giai cấp hay thành phần xã hội nào, vẫn là một tế bào kinh tế độc lập, với lý<br />
tưởng vươn lên của nó; vươn lên về mặt kinh tế đã đành, vươn lên cả về mặt xã hội<br />
nữa...” (Nguyễn Từ Chi, 1996).<br />
Phát triển nông thôn<br />
Như phần trình bày ở trên cho thấy, bức tranh chung của khu vực nông thôn Việt Nam<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 19<br />
<br />
<br />
vẫn là sự tồn tại của một “xã hội tiểu nông”. Kinh tế hộ dù sao vẫn là kinh tế hộ gia đình tiểu<br />
nông nằm trong phương thức sản xuất tiền tư bản, chứ không phải là thành phần của kinh tế thị<br />
trường tư bản chủ nghĩa như kinh tế trang trại ( Đỗ Thái Đồng, 1994).<br />
Trong khi đó, sự phát triển của nền nông nghiệp và xã hội nông thôn Việt Nam tủy<br />
thuộc rất nhiều vào sự chuyển hóa của lao động và ruộng đất, nói cách khác, tùy thuộc<br />
vào mức độ, khả năng giải thể chế độ kinh tế tiểu nông hiện nay. Tất cả điều này diễn đạt<br />
tầm quan trọng của việc phác thảo chiến lược phát triển nông thôn hữu hiệu.<br />
Trong khi ghi nhận những kết quả tốt đẹp của chính sách Đổi mới, các nhà nghiên<br />
cứu lưu ý rằng còn nhiều vấn đề cơ bản đối với sự phát triển nông thôn hiện vẫn chưa<br />
được giải quyết. Vấn đề chọn lựa một mô hình cho phát triển nông nghiệp và nông thôn<br />
trở thành vấn đề hàng đầu tại các thảo luận học thuật trong giới nghiên cứu trong nước và<br />
nước ngoài. Nhiều ý kiến cho rằng nông thôn đang quay trở lại với “con đường tiến hóa<br />
tự nhiên” (Vũ Tuấn Anh, 1990). Và cái mô hình phát triển mà nhiều người kỳ vọng là<br />
cùng với sự “bung ra” của nông hộ, ruộng đất sẽ tập trung vào tay một số hộ làm ăn giỏi,<br />
còn những nông dân khác hoặc sẽ tìm được các công việc khác (phi nông nghiệp), hoặc<br />
trở thành những người lao động làm thuê trong nông nghiệp. Các tổ chức hợp tác sẽ hình<br />
thành tự nguyện ở những lĩnh vực cần tới sự hợp tác (Vũ Tuấn Anh, 1990; Đỗ Thái<br />
Đồng,1994; Võ Thị Kim Sa, 2012).<br />
Nếu mô hình trên được coi như con đường phát triển chủ đạo của kinh tế và xã hội<br />
nông thôn, thì hiện vẫn còn rất nhiều điều kiện, khiến cho quá trình này khó có thể mang<br />
tính chất của một quá trình tiến hóa tự nhiên! Giới nghiên cứu nhấn mạnh tới hai điều<br />
kiện quan trọng nhất: việc thiếu quyền sở hữu tư nhân đối với ruộng đất, cái điều kiện căn<br />
bản nhất cho quá trình tập trung ruộng đât và quyền tự chủ của hộ gia đình với tư cách<br />
chủ thể kinh doanh vẫn chưa được đảm bảo trên thực tế (Vũ Tuấn Anh, 1990; Đỗ Thái<br />
Đồng,1994).<br />
Đã có mấy chục năm, hai miền Nam Bắc Việt Nam đã đi khá sâu vào những quỹ<br />
đạo kinh tế đối lập với nhau, miền Bắc nằm trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, miền Nam<br />
nằm trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Đấy là chưa nói tới những ảnh hưởng do sự tiếp<br />
xúc của nông dân tại hai vùng nông thôn với các nền văn hóa khác nhau.Văn hóa miền<br />
Nam với nhiều tầng cổ xưa khác với miền Bắc và ảnh hưởng nhiều từ giao tiếp văn hóa<br />
phương Tây, vì thế mà tính liên tục của lịch sử không hẳn đã nổi trội hơn những đảo lộn<br />
và đứt đoạn. Tất cả những đặc điểm này cần phải được tính tới trong các nỗ lực phát triển<br />
nông thôn (Đỗ Thái Đồng, 1989).<br />
Trong khi đồng tình với nhận xét về tình trạng khác biệt văn hóa và vùng miền, thì<br />
các học giả nước ngoài lại lưu ý nhiều hơn tới tác động của các chính sách. Davide<br />
Dapice, trong bài nghiên cứu xuất sắc của mình về tình trạng chậm phát triển của các tỉnh<br />
phía Bắc, thay vì nhấn mạnh tới các đặc trưng lịch sử - văn hóa, lại lưu ý tới tầm quan<br />
trọng quyết định của các chính sách phát triển (Davide Dapice, 2004).<br />
Các nhà nghiên cứu thống nhất rằng cần tránh lặp lại mô hình nền kinh tế nhị<br />
nguyên ở các quốc gia chậm phát triển, đặc biệt là các nước thuộc địa. Đó là hai nền kinh<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 20<br />
<br />
<br />
tế trong mỗi xã hội: nền kinh tế công nghiệp thành thị với trình độ sản xuất tiên tiến, năng<br />
động và giàu có, và đầu kia là nền kinh tế nông thôn với hầu hết đất đai và dân số nghèo<br />
khổ. Lý luận chủ nghĩa nhị nguyên hình thành trên cái nền kinh tế xã hội đó, nó chấp<br />
nhận cái thực tế đối nghịch nói trên và coi phát triển công nghiệp và đô thị là giải pháp để<br />
cải tạo khu vực nông nghiệp và nông thôn chậm phát triển (B. Hainsworth, 1987). Trên<br />
thực tế, việc phổ biến mô hình lý thuyết nói trên không tạo ra giải pháp thật sự hữu hiệu<br />
cho phát triển nông thôn tại các quốc gia đang phát triển.<br />
Các chương trình phát triển nông thôn, do Liên hiệp quốc thúc đẩy, xuất hiện từ<br />
thập kỷ 70, trở thành một trong những con đường giải quyết bài toán phát triển nông<br />
nghiệp và xã hội nông thôn, thay cho việc vận dụng lý luận về nền kinh tế nhị nguyên.<br />
Mục tiêu của chương trình phát triển nông thôn trước tiên dựa trên một giả định là các<br />
nông gia muốn tiếp tục sống lâu dài ở nông thôn, và do đó cần hướng dẫn họ hội nhập<br />
vào một nền kinh tế thương phẩm, thay vì làm tan rã nền kinh tế nông hộ. Theo tinh thần<br />
này, các chương trình phát triển nông thôn dựa vào các cộng đồng, và bằng nhiều cách,<br />
tránh cho nó khỏi tan rã. Tiến hành công nghiệp hóa nông thôn và mối quan hệ hữu cơ<br />
giữa nhà nước với nông dân là những nội dung then chốt khác của chương trình phát triển<br />
nông thôn (A. Chowdhuzy, 1993).<br />
Từ phía các nhà nghiên cứu trong nước, nội dung của chương trình phát triển nông<br />
thôn được thể hiện thành quan điểm “lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và lấy công<br />
nghiệp hóa nông thôn làm hướng ưu tiên trước mắt” (Đỗ Thái Đồng, 1989; Đặng Kim Sơn<br />
và đồng nghiệp, 2008). Một chính sách như thế phải xuất phát từ vai trò tự chủ của nông hộ,<br />
từ quyền lợi thiết thân của hàng triệu nông dân, và từ khả năng liên kết sức mạnh to lớn của<br />
họ để phát triển đất nước trong những bước đi ổn định và vững chắc.<br />
Bên cạnh những thảo luận có tính lý thuyết nói trên, nhiều học giả nêu lên các giải<br />
pháp cụ thể hơn cho chiến lược phát triển nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn<br />
trở thành một trong những điểm nóng của thảo luận chính sách. Một lực lượng lao động lớn<br />
vẫn nằm ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở nông thôn cao hơn thành thị và<br />
việc làm nông thôn tăng chậm hơn, tạo nên sức ép về việc làm ở khu vực nông thôn. Năng<br />
xuất lao động thấp và diện tích đất đai dành cho canh tác bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa và<br />
công nghiệp cũng là lý do tạo nên những khó khăn về công ăn việc làm tại khu vực nông<br />
thôn. Trong bối cảnh này, mô hình kinh tế hộ nông dân với hoạt động phi nông nghiệp được<br />
coi là hữu ích để giải quyết một trong những nan đề của phát triển là tình trạng thiếu việc làm<br />
với một dân số nông thôn quá đông đúc. Nội dung của mô hình này hiện nay, lấy lại ý tưởng<br />
trong mô hình của Chayanov, do Singh, Squire và Strauss (1986) phát triển, là nỗ lực đáng kể<br />
để giải quyết bài toán phát triển nông nghiệp (Lê Xuân Bá và đồng nghiệp, 2006).<br />
Đồng tình với cách đặt vấn đề về phát triển khu vực phi nông nghiệp trong nông<br />
thôn, Nicholas và đồng nghiệp, nêu ra một loạt những khuyến nghị về phát triển nông<br />
thôn, trong đó đặc biệt chú ý tới việc tăng năng xuất đất và tăng thu nhập từ lao động<br />
trồng trọt. Thậm chí, các học giả này còn khuyến cáo chính phủ và các tổ chức quốc tế ở<br />
Việt Nam nên coi đa dạng hóa cây trồng là con đường quan trọng để tăng thu nhập, dù<br />
đấy không phải là cách duy nhất (Nicholas và đồng nghiệp, 2003).<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 21<br />
<br />
<br />
Gắn liền với những nội dung trên là đề nghị về các chính sách phát triển xã hội áp<br />
dụng đối với các tầng lớp và nhóm xã hội khác nhau. Các khuyến nghị này xuất phát từ<br />
tình hình một xã hội nông thôn đã phân hóa sâu sắc thành các nhóm, tầng lớp với những<br />
năng lực, nhu cầu và nguyện vọng hết sức khác nhau.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tài liệu trích dẫn<br />
<br />
Akram-Lodhi, và A. Haroon. 2005. "Vietnam's agriculture and mechanisms of social<br />
differentiation." Journal of Agrarian change 5(1).<br />
Bùi Quang Dũng, và Đặng Thị Việt Phương. 2011. "Một số vấn đề ruộng đất qua cuộc<br />
điều tra nông dân 2009-2010." Tạp chí Khoa học Xã hội (9).<br />
Bùi Thế Cường, Đặng Thị Việt Phương, và Trịnh Huy Hóa. 2010. "Từ điển xã hội học<br />
Oxford." Hà Nội: NXB ĐHQG.<br />
Đặng Kim Sơn. 2008. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam: Hôm nay và mai sau.<br />
Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.<br />
Đỗ Thái Đồng. 1989. "Những vấn đề cơ cấu xã hội và sự phát triển ở một xã nông thôn<br />
Nam Bộ " Tạp chí Xã hội học (3):49.<br />
Đỗ Thái Đồng. 1994. "Kinh tế hộ gia đình và những xu thế mới trong hợp tác hóa ở đồng<br />
bằng sông Cửu Long." Tạp chí Xã hội học (2):12.<br />
Lê Minh Ngọc. 1984. "Về tầng lớp trung nông ở đồng bằng sông Cửu Long " Tạp chí Xã<br />
hội học (2):25.<br />
Lê Xuân Bá và cộng sự. 2006. "Các yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao<br />
động nông thôn Việt Nam." Hà Nội: Ipsard.<br />
Luong, Hy Van, và Jonathan Unger Wealth. 1998. "Power, and poverty in the transition<br />
to market economies: The process of socio-economic differentation in rural<br />
China and Nothern Vietnam." The China Journal (40):61-93.<br />
Meillassoux, C. 1979. Femmes, Greniers and capitaux. Paris.<br />
Mendras, H. 1966. "Sociologie rural." in Aspects de la sociologie Francaise: Les editions<br />
ouvriers.<br />
Mendras, H. 1976. Societe paysannes. Paris: Armand Colin.<br />
Minot, Nicholas, Bob Baulch, and Michael Epperecht. 2003. "Poverty and inequality in<br />
Vietnam: Spatial patterns and geographic determinants."<br />
Nguyễn Sinh Cúc. 1995. Nông nghiệp Việt Nam (1945-1995). Hà Nội: NXB Thống kê.<br />
Nguyễn Từ Chi. 1996. Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người. Hà Nội: NXB Văn<br />
hóa thông tin.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học số 4(120), 2012 22<br />
<br />
<br />
Pingali, Prabhu L, và Vo-Tong Xuan. 1992. "Vietnam: Decollectivization and rice<br />
productivity growth." Economic development and cultural change (4):697-718.<br />
Ravallion, Martin, và Dominique Van de Walle. 2001. "Breaking up the collective farm<br />
(Policy research working paper 2710." Washington DC: World Bank.<br />
Ravallion, Martin, và Dominique Van de Walle. 2006. "Does rising landlessness signal<br />
success or failure for Vietnam's agrarian transition? (Policy research working<br />
paper 3871)." World Bank.<br />
Ravallion, Martin, và Dominique Van de Walle. 2008. Đất đai trong thời kỳ chuyển đổi:<br />
Cải cách và nghèo đói ở nông thôn Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa Thông tin.<br />
Roseberry, William. 2000. "Từ nghiên cứu nông dân đến nghiên cứ quá trình vô sản<br />
hóa." in Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nước và Việt<br />
Nam, edited by Benedict J. Tria Kerkvliet and James Scott.<br />
Sansom, R. 1970. The economics of insurgency in the Mekong delta of Vietnam. London:<br />
M.I.T Press.<br />
Smith, William, và Tran Thanh Binh. 1994. "The impact of the 1993 land law on rural<br />
households in the Mai Don district of Son La province." Vietnam: ActionAid.<br />
Trần Hữu Quang. 1984. "Nhận diện cơ cấu xã hội giai cấp nông dân." Tạp chí Nghiên<br />
cứu Kinh tế.<br />
Trần Hữu Quang. 2010. "Trung nông và sự chuyển biến của cơ cấu xã hội ở nông thôn<br />
Tây Nam Bộ." tại hội thảo Khoa học xã hội và phát triển bền vững vùng đồng<br />
bằng sông Cửu Long. Cần Thơ.<br />
Vũ Tuấn Anh 1990. "Về sự chuyển biến cơ cấu xã hội và định hướng giá trị ở nông thôn<br />
trong quá trình đổi mới kinh tế " Tạp chí Xã hội học (4):9.<br />
Wolf, E. 1996. Peasants: Prentice Hall.<br />
Wolf, E. 2000. "Giai cấp nông dân và các vấn đề của nó." in Một số vấn đề về nông<br />
nghiệp, nông dân và nông thôn ở các nước và Việt Nam. Hà Nội: NXB Thế giới.<br />
Yu, Insun. 1994. Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />