DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG<br />
TRONG BẢO VỆ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA<br />
(QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TỈNH BẮC NINH)<br />
TRẦN ĐỨC NGUYÊN<br />
<br />
Tóm tắt<br />
<br />
Việc bảo vệ, giữ gìn các di tích lịch sử văn hóa đã và đang được cả xã hội quan tâm, trong đó ghi<br />
nhận những đóng góp rất lớn của cộng đồng. Với sự tham gia của cộng đồng, nhiều di tích đã được<br />
trùng tu, tu bổ tránh được sự hủy hoại của thiên nhiên, môi trường, đồng thời đưa vào sử dụng, đáp<br />
ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm thì cũng xuất hiện<br />
những hạn chế như xây dựng, tu bổ sai nguyên tắc, làm sai lệch giá trị của di tích… Điều này đã đặt<br />
ra cho các cơ quan quản lý nhiệm vụ định hướng, giám sát khi huy động các nguồn lực từ cộng đồng<br />
trong bảo vệ di tích lịch sử văn hóa<br />
<br />
Từ khóa: Di tích, di tích lịch sử - văn hóa, cộng đồng, vai trò của cộng đồng<br />
<br />
Abstract<br />
<br />
The protection and preservation of the cultural - historical monuments have been interested<br />
by the whole society, in which recognizing the enormous contribution of the community. With the<br />
participation of the community, many relics have been restored, repaired, avoiding the destruction<br />
of the nature, environment; and put into use, meeting the demand of enjoying culture of the people.<br />
However, besides the advantages, it also appears some disadvantages such as construction, repairing<br />
in wrong principle, distort the value of the relics... This has posed to management authorities the tasks<br />
of directing, supervising when mobilizing the resources from the community in protecting the cultural<br />
- historical monuments.<br />
<br />
Keyword: Relic, cultural - historical monument, community, role of community<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
C<br />
ộng đồng là một thuật ngữ đã và cách tiếp cận và phân loại trong nghiên cứu), dù<br />
đang được sử dụng trên nhiều lĩnh tiếp cận từ những góc độ lý thuyết khoa học<br />
vực khác nhau như xã hội học, văn khác nhau và hướng tới sự quan tâm học thuật<br />
hóa học, nhân học, sử học, kinh tế học, chính với những dạng thức cụ thể không giống nhau<br />
trị học… Ở mỗi lĩnh vực, khái niệm cộng đồng của cộng đồng thì cách hiểu về cộng đồng vẫn<br />
được hiểu theo những tiêu chí, nội hàm phù có một số điểm thống nhất như: cộng đồng<br />
hợp. Tuy nhiên theo một số nhà nghiên cứu, là tập hợp của một số đông người; có bản sắc<br />
dù ít nhiều có sự hiểu khác nhau nhưng vẫn riêng; các thành viên phải có sự gắn kết với<br />
có thể đưa ra được những điểm chung trong nhau; có ý thức cộng đồng… Theo tác giả,<br />
khái niệm cộng đồng. Theo tác giả Phạm Hồng cộng đồng được phân thành ba loại là cộng<br />
Tung (trong bài viết Cộng đồng: Khái niệm, đồng địa lý, cộng đồng văn hóa và cộng đồng tổ<br />
<br />
Số 6 - Tháng 12 - 2013 VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
55<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
chức. Trong đó, cộng đồng văn hóa được hiểu tạo. Họ luôn mong cho các di tích - nơi cư ngụ<br />
là các thành viên có chung một bản sắc hay của “bậc tối cao” được khang trang, to đẹp. Do<br />
những đặc trưng văn hóa nào đó và dù có thể vậy, trong phạm vi này, theo chúng tôi có thể<br />
không cùng địa bàn quần cư, họ vẫn thường quan niệm cộng đồng là những người cùng<br />
xuyên có những tương tác nào đó và dễ nhận hoặc khác địa bàn sinh sống, chung các yếu tố<br />
biết lẫn nhau (1). Hai tác giả Tô Duy Hợp, Lương về văn hóa và có sự quan tâm, đóng góp đối<br />
Hồng Quang khi nghiên cứu về cộng đồng đã với việc trùng tu, tu bổ các di tích lịch sử văn<br />
nhấn mạnh đến các yếu tố địa vực, kinh tế hay hóa.<br />
nghề nghiệp và các yếu tố có tính văn hóa. Các Luật Di sản văn hóa của nước ta có ghi: “Di<br />
tác giả này cũng chia cộng đồng thành ba loại: tích lịch sử văn hóa là công trình xây dựng, địa<br />
loại hình cộng đồng thuần khiết và không thuần điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc<br />
khiết; cộng đồng theo tính trồi (cộng đồng lãnh công trình, địa điểm đó, có giá trị lịch sử, văn hóa,<br />
thổ, cộng đồng huyết thống, cộng đồng tộc khoa học” (3, tr.33). Trên thực tế, di tích lịch sử<br />
người…) và cộng đồng lịch sử (2, tr.32). Nhưng văn hóa là những nơi lưu giữ một bộ phận giá<br />
một số ý kiến lại cho rằng trên thực tế không trị văn hóa khảo cổ, nơi diễn ra sự kiện lịch<br />
có loại cộng đồng riêng biệt nào cả mà dường sử quan trọng, có ý nghĩa đối với dân tộc, đất<br />
như tất các cộng đồng đều ở dạng hỗn hợp nước hoặc địa phương: những địa điểm ghi<br />
hay là phức hợp của một vài kiểu loại khác dấu chiến công chống xâm lược, chống áp bức;<br />
nhau. Chẳng hạn, làng xóm là một cộng đồng những địa điểm lưu niệm về nhân vật lịch sử,<br />
địa vực cư trú, nhưng trong đó lại tồn tại cả anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, khoa<br />
những cộng đồng khác như cộng đồng nghề học; những công trình kiến trúc nghệ thuật<br />
nghiệp, cộng đồng tín ngưỡng… có giá trị. Di tích lịch sử văn hóa là một phận<br />
Trong lĩnh vực bảo vệ di tích lịch sử văn hóa, quan trọng cấu thành di sản văn hóa, mỗi di<br />
khi đề cập tới cộng đồng, chúng tôi cho rằng tích hàm chứa giá trị văn hoá - lịch sử - khoa<br />
đây là tập hợp những nhóm người có chung học nhất định, phản ánh một chặng đường lịch<br />
đặc trưng về văn hóa, đó là cùng theo/thờ sử của cộng đồng dân cư, quá trình hình thành<br />
phụng một tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào đó và phát triển xã hội qua mỗi thời đại.<br />
như Phật giáo, Đạo giáo, tín ngưỡng thờ Mẫu, So với các bộ phận khác của di sản văn<br />
thờ Thành hoàng, thờ tổ tiên… Cộng đồng này hóa vật thể thì các di sản này có những đặc<br />
có thể trùng khớp với cộng đồng cư trú (làng trưng riêng: các di tích tồn tại, gắn với từng địa<br />
xã, khu phố) nhưng cũng có thể không, thậm phương, địa bàn cư trú, gắn với các khu dân cư,<br />
chí còn rộng hơn trên phạm vi cả nước, thậm với cộng đồng cụ thể. Xét từ góc độ sáng tạo<br />
chí là ngoài nước. Các thành viên thuộc cộng thì các di tích phần lớn đều do cộng đồng, góp<br />
đồng này có chung một niềm tin vào các vị công sức xây dựng nên. Trong lịch sử có những<br />
thần linh, cầu mong sự che chở, ban ơn, mang trường hợp di tích được triều đình, vua chúa,<br />
lại cho họ những điều tốt lành trong cuộc quan lại hoặc những người có tiềm lực kinh tế<br />
sống. Những niềm tin như vậy đã tạo sự thống đầu tư tiền bạc, vật liệu để xây dựng như các<br />
nhất tinh thần, củng cố đạo lý chung, đồng lăng tẩm, đền đài tại kinh thành Huế hay đình<br />
thời góp phần vào nhiều hoạt động xã hội tại Đình Bảng (Bắc Ninh)... nhưng trong quá trình<br />
cộng đồng bằng một thái độ mà theo các nhà tạo dựng các di tích đó cộng đồng vẫn đóng vai<br />
nghiên cứu, là một “sự dấn thân, không vụ lợi”. trò quan trọng bằng sức lao động của tập thể<br />
Một trong những hoạt động đó là việc tham và sự sáng tạo của những nghệ nhân. Những<br />
gia đóng góp giữ gìn, bảo vệ những địa điểm mảng chạm khắc tinh sảo, những kiểu dáng<br />
thờ tự của cộng đồng - khi các di tích bị xuống độc đáo trong kiến trúc... do người dân tạo<br />
cấp, hư hỏng thì các thành viên của cộng đồng nên là những di sản văn hóa tiêu biểu mà ngày<br />
sẵn lòng góp công, góp của để trùng tu, tôn nay vẫn còn nguyên giá trị. Trong qúa trình tồn<br />
<br />
56 Số 6 - Tháng 12 - 2013<br />
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA<br />
<br />
<br />
tại, các di tích như đình, chùa, đền, miếu… đã dựng sửa sang, điện thờ nguy nga, chùa chiền<br />
chịu nhiều tác động của môi trường tự nhiên, rộng rãi” (5, tr.37- 38). Ngày nay, tại các di tích<br />
của chiến tranh tàn phá. Các di tích này vẫn còn lưu giữ được hàng ngàn tấm bia hậu như<br />
tồn tại cũng là nhờ công sức của cộng đồng. vậy, qua đó có thể thấy ngay từ xưa, ý thức bảo<br />
Người dân đã huy động công sức, tiền của để vệ, giữ gìn các di tích đã thu hút được sự quan<br />
trùng tu, tu bổ cho các di tích. Qua đó, chúng tâm và tham gia một cách tự nguyện của cộng<br />
ta thấy di tích và cộng đồng có mối quan hệ đồng.<br />
mật thiết với nhau, trong đó cộng đồng đóng Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ<br />
vai trò rất quan trọng trong quá trình sáng tạo, của nhiều lĩnh vực như kinh tế, công nghệ,<br />
hình thành và tồn tại của các di tích. khoa học, chất lượng cuộc sống của người<br />
Trong lịch sử, việc cộng đồng tham gia bảo dân được tăng lên, văn hóa khẳng định được<br />
vệ, giữ gìn di tích, đặc biệt là các di tích gắn với vai trò quan trọng trong đời sống xã hội: là<br />
tôn giáo - tín ngưỡng là hoạt động phổ biến “nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục<br />
tại các xóm làng, khu dân cư. Sự đóng góp của tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh<br />
cộng đồng cho tu bổ di tích không ít hơn sự tế - xã hội”. Sự phát triển xã hội về nhiều mặt,<br />
đầu tư của chính quyền. Những hành động tốt nhất là về kinh tế vừa thể hiện được những ưu<br />
đẹp ấy được duy trì trong các điều kiện lịch sử điểm nhưng cũng có những tác động tiêu cực<br />
khác nhau và được ghi lại trên các di vật như không nhỏ đến văn hóa truyền thống. Nhiều<br />
bia đá, chuông, khánh, hoành phi, câu đối..., di sản bị trào lưu công nghiệp hóa - hiện đại<br />
trong đó, nhiều nhất là được ghi trên bia đá. hóa làm ảnh hưởng, thậm chí phá hủy. Vì vậy<br />
Các tấm bia ghi lại sự đóng góp tiền của, công vấn đề bảo vệ, giữ gìn và phát huy giá trị di sản<br />
sức của những người hảo tâm vào việc tu bổ văn hóa truyền thống trong điều kiện hiện nay<br />
di tích. Tùy từng loại hình, bia có những tên đã, đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội.<br />
gọi khác nhau như bia hậu thần, bia hậu phật, Các di tích lịch sử văn hóa có vị thế quan trọng<br />
bia hậu hiền… Văn bia tại chùa Linh Cảm (xã trong hệ thống di sản văn hóa của mỗi dân tộc.<br />
Việt Đoàn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) dựng Việc bảo vệ, giữ gìn các di tích phụ thuộc vào<br />
năm Quang Bảo thứ 4 (1557) có ghi: “…Thắng nhiều yếu tố như chính sách, công tác quản lý,<br />
tích Khám Sơn vốn có chùa, chùa hiển linh từ khoa học kỹ thuật… nhưng vai trò của cộng<br />
xa xưa. Phàm có việc cầu, đảo đều cảm ứng… đồng vẫn là một yếu tố hết sức quan trọng.<br />
Năm tháng qua đi, chùa cũ kỹ. Muốn sửa cũ Tổ chức UNESCO khẳng định: “theo nghĩa<br />
thành mới tất phải chờ vào bậc đại đàn, có lực rộng nhất, di sản thiên nhiên và văn hóa thuộc<br />
lượng lớn, phương sách lớn mới thành… trên về mọi người...”, đồng thời nhấn mạnh vai trò<br />
có Thánh Thiên tử đặc ban cấm tiền cung tiến, của cộng đồng trong việc bảo vệ các di sản<br />
Hoàng thái hậu lại lấy tiền quan cúng vào, dưới ấy: “bổn phận của toàn thể cộng đồng là phải<br />
có các thái lão, thiện nam tín nữ một vùng có tham gia vào việc bảo vệ di sản văn hóa và<br />
tấm lòng lành đó khởi xướng lên. Chúng dân thiên nhiên” (6). Ở nước ta, Luật Di sản văn hóa<br />
đổ về như nước cùng vui làm việc thiện, giúp khẳng định “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản<br />
tài vật…”(4, tr.149). Hay văn bia “Ninh Phúc quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam<br />
thiền tự bi ký” tại chùa Bút Tháp dựng năm và là bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có<br />
Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714) cũng nói về điều này: vai trò lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ<br />
“chùa Ninh Phúc được mở dựng bởi bậc thánh nước của nhân dân”. Trong những năm qua,<br />
đời trước nhưng qua nhiều năm đã hư hại” nên Nhà nước ta đã đầu tư nhiều kinh phí cho việc<br />
được nhiều quan viên trong triều hưng công bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa<br />
cho tu sửa thêm khang trang hơn mà “chẳng nói chung, các di tích lịch sử văn hóa nói riêng.<br />
tiếc ngàn vàng sắm mua toàn gỗ tốt” đồng Bên cạnh đó, Nhà nước còn ban hành các<br />
thời “lại được dân làng góp sức mời thợ cất chính sách, chủ trương nhằm huy động các<br />
<br />
Số 6 - Tháng 12 - 2013 VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
57<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
nguồn lực từ cộng đồng. Đây là chủ trương xã đa dạng, nhiều loại hình gồm cả di sản văn<br />
hội hóa với tinh thần “nhà nước và nhân dân hóa vật thể và phi vật thể còn tồn tại đến ngày<br />
cùng làm”, là chủ trương đúng đắn và phù hợp nay. Trong kho tàng di sản đó, các di tích lịch<br />
với hoàn cảnh đất nước hiện nay, nhằm trả lại sử văn hóa là một thành tố quan trọng, góp<br />
cho cộng đồng những giá trị văn hóa mà họ đã phần tạo nên bản sắc văn hóa của vùng Kinh<br />
tạo nên và trao quyền làm chủ những giá trị đó Bắc. Việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy giá trị các<br />
cho họ. Vì lẽ đó, cộng đồng sẽ quan tâm nhiều di tích ở Bắc Ninh trong những năm qua đã đạt<br />
hơn và luôn có ý thức bảo vệ các di tích. Như được những thành công đáng ghi nhận, trong<br />
vậy, vai trò của cộng đồng tham gia vào hoạt đó vai trò của cộng đồng được thể hiện khá rõ<br />
động bảo vệ di tích có ý nghĩa quan trọng góp nét. Theo số liệu thống kê của Ban Quản lý di<br />
phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. tích Bắc Ninh, trên toàn tỉnh hiện có khoảng<br />
1259 di tích gồm ba loại hình là di tích khảo cổ,<br />
Trên thực tế, sự tham gia của cộng đồng<br />
di tích lịch sử và di tích kiến trúc nghệ thuật.<br />
vào việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích trong<br />
Tính đến năm 2013 đã có 498 di tích được xếp<br />
những điều kiện cụ thể cũng đặt ra cho các nhà<br />
hạng với 194 di tích cấp quốc gia và 304 di tích<br />
quản lý một số vấn đề đáng lưu tâm. Trong bài<br />
cấp tỉnh… Hai di tích là chùa Dâu và chùa Phật<br />
viết này, chúng tôi đưa ra trường hợp nghiên<br />
Tích được xếp hạng di tích đặc biệt quan trọng<br />
cứu tỉnh Bắc Ninh.<br />
của quốc gia.<br />
Bắc Ninh ngày nay, một phần chủ yếu<br />
Các di tích ở nước ta có chung đặc điểm<br />
thuộc xứ Kinh Bắc xưa, nằm gần kề kinh thành<br />
là được xây dựng chủ yếu bằng các vật liệu<br />
Thăng Long - Hà Nội. Đây là vùng đất có lịch<br />
truyền thống như gạch, gỗ, đá… nên thường<br />
sử và truyền thống văn hiến lâu đời. Nơi đây<br />
bị tác động của môi trường, thiên nhiên làm<br />
sớm có sự xuất hiện của con người. Các nghiên nhanh bị xuống cấp, hư hỏng. Do vậy các di<br />
cứu khảo cổ cũng như nhiều nguồn tư liệu cho tích cần được theo dõi, quản lý và tiến hành<br />
thấy người Việt cổ đã khai phá và tụ cư ở vùng các hoạt động trùng tu, tu bổ. Hiện nay việc<br />
đất này cách ngày nay khoảng 4000 năm. Theo tu bổ, tôn tạo di tích được thực hiện chủ yếu<br />
năm tháng, dân cư ngày càng đông đúc, lại là bằng hai nguồn: thứ nhất thông qua sự hỗ<br />
nơi có nhiều thuận lợi về giao thông thủy bộ trợ của nhà nước, kinh phí theo chương trình<br />
nên Kinh Bắc đã từng được chọn là thủ phủ của mục tiêu quốc gia, chống xuống cấp di tích;<br />
nước ta với thành Luy Lâu - một đô thị cổ, nơi thứ hai, huy động các nguồn lực từ cộng đồng.<br />
diễn ra nhiều hoạt động kinh tế - văn hóa sôi Những năm qua, tỉnh Bắc Ninh đã có những<br />
động vào những năm đầu công nguyên. Trải chính sách nhằm khuyến khích, thu hút và tạo<br />
qua thời gian, vùng đất này ghi dấu nhiều sự điều kiện cho các tổ chức, đoàn thể, cá nhân<br />
kiện lịch sử quan trọng của dân tộc, là nơi phát tham gia vào hoạt động bảo tồn, phát huy giá<br />
tích của nhà Lý - triều đại phát triển rực rỡ thời trị của di tích. Điều này đã góp phần huy động<br />
phong kiến, một vùng đất hiếu học, có truyền được một nguồn lực lớn từ cộng đồng tham<br />
thống khoa bảng, lại sản sinh ra nhiều danh gia. Qua khảo sát cho thấy, cộng đồng tham<br />
nhân có những đóng góp quan trọng trong gia trùng tu, tu bổ di tích gồm hai dạng chính:<br />
lịch sử như Lý Công Uẩn, Lê Văn Thịnh, Nguyễn<br />
Gia Thiều... rồi sau này là Nguyễn Văn Cừ, Ngô - Đóng góp một phần kinh phí, nhân lực,<br />
Gia Tự, Hoàng Quốc Việt... Kinh Bắc - Bắc Ninh vật liệu…cùng với kinh phí của nhà nước với<br />
mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. phương châm “nhà nước và nhân dân cùng<br />
làm”.<br />
Những nét tiêu biểu đó đã cho thấy Bắc<br />
- Đóng góp toàn bộ kinh phí, ngày công<br />
Ninh là vùng đất giàu truyền thống lịch sử và<br />
vào việc trùng tu, tu bổ cho các di tích.<br />
văn hiến. Vùng đất này đã hình thành và lưu<br />
giữ một kho tàng di sản văn hóa phong phú, Kinh phí được người dân ủng hộ trùng<br />
<br />
58 Số 6 - Tháng 12 - 2013<br />
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA<br />
<br />
<br />
tu, tôn tạo di tích tùy theo khả năng kinh tế dân Đình Bảng cùng khách thập phương đã<br />
của từng địa phương. Với số lượng di tích lớn, đồng lòng nhất trí ủng hộ tiền bạc, công sức<br />
ngân sách của nhà nước đầu tư cho trùng tu, để xây dựng lại đền Đô. Theo thống kê, vào thời<br />
tu bổ còn hạn chế thì sự huy động nguồn lực điểm những năm 1989, trong khoảng 5 năm,<br />
từ nhân dân đã góp phần có hiệu quả ngăn nhân dân Đình Bảng và hàng triệu tấm lòng<br />
chặn tình trạng xuống cấp của di tích. Do vậy, đại nghĩa của khách thập phương đã công đức<br />
ở hình thức thứ nhất nhà nước đầu tư hỗ trợ bằng tiền mặt và hiện vật, công sức lao động<br />
một phần kinh phí, số còn lại sẽ huy động sự trị giá gần 6 tỷ đồng... Qua nhiều lần tu bổ,<br />
ủng hộ, đóng góp từ cộng đồng. Với phương đến nay đền Đô là quần thể di tích với nhiều<br />
thức đó nhiều di tích đã được trùng tu, tu bổ hạng mục kiến trúc khang trang, một không<br />
kịp thời, tránh khỏi nguy cơ bị hủy hoại, biến gian văn hóa tâm linh - điểm đến hấp dẫn của<br />
dạng, nhiều di tích được đưa vào phục vụ nhu du khách trong và ngoài nước. Bên cạnh đó,<br />
cầu đời sống văn hóa của người dân. Theo số ban quản lý di tích đền Đô hiện nay (một mô<br />
liệu thống kê, năm 2010 tỉnh Bắc Ninh đã tiến hình quản lý với sự tham gia của người dân địa<br />
hành trùng tu, tu bổ được 21 di tích với tổng phương) đang hoạt động có nhiều hiệu quả,<br />
số kinh phí huy động được từ cộng đồng lên đảm bảo được an ninh trật tự cũng như giữ<br />
tới gần 5 tỷ đồng; năm 2011 huy động được gìn được tính thiêng, các yếu tố truyền thống<br />
gần 15 tỷ đồng để tu bổ cho 16 di tích. Trường của khu di tích. Những thành tựu này đã được<br />
hợp cụ thể như: xây dựng Tam bảo chùa Đọ chính quyền và du khách ghi nhận.<br />
Xá (phường Ninh Xá, thành phố Bắc Ninh), Việc tham gia của cộng đồng đã góp phần<br />
nhà nước hỗ trợ 200 triệu đồng, huy động của bảo tồn, gìn giữ được nhiều di tích đồng thời<br />
cộng đồng số tiền đạt gần 4 tỷ đồng; tu bổ tòa làm cho các di tích đó gắn với đời sống văn<br />
tiền tế đình Đông Yên (xã Đông phong, huyện hóa của cộng đồng. Có thể thấy trong thời<br />
Yên Phong), nhà nước hỗ trợ 50 triệu, người gian qua, sự đóng góp (nhất là về kinh phí)<br />
dân đóng góp kinh phí là 1,3 tỷ đồng… Ngoài chủ yếu tập trung vào các di tích tôn giáo - tín<br />
ra còn phải kể tới một số trường hợp khác như ngưỡng như đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ<br />
chùa Diên Phúc, chùa Phong xá, đình Trần Xá họ... Những di tích thuộc loại này đã thu hút<br />
(huyện Yên Phong), chùa Yên Lã (Từ Sơn), đình số lượng lớn người dân tới để thi hành các<br />
Xuân Ổ (thành phố Bắc Ninh)… là các di tích sinh hoạt văn hóa tâm linh đồng thời sẵn lòng<br />
được trùng tu với số lượng kinh phí khá lớn đầu tư kinh phí tiền bạc vào các hoạt động tu<br />
huy động được từ người dân địa phương cũng bổ, tôn tạo cho di tích. Nhìn chung người đi lễ<br />
như của khách thập phương*. luôn có tâm lý là cầu mong thánh thần phù hộ,<br />
Vai trò của cộng đồng trong việc bảo tồn, đem lại cho họ những điều tốt lành, mỗi người<br />
phát huy giá trị di tích có lẽ được thể hiện đến với di tích đều mang những nguyện vọng<br />
điển hình nhất là trường hợp khôi phục, tôn riêng và mong muốn gửi gắm nguyện vọng đó<br />
tạo khu di tích các vua nhà Lý ở Đình Bảng, đến thánh thần. Do vậy việc đóng góp kinh phí<br />
Từ Sơn gồm đền Đô, chùa Ứng Tâm, chùa Kim để trùng tu di tích như là một cách thể hiện sự<br />
Đài, chùa Quang Đổ... Những di tích này bị thời tâm thành của người dân.<br />
gian, chiến tranh làm xuống cấp, thậm chí bị Các di tích thuộc loại hình khác như di tích<br />
phá hủy hoàn toàn. Đền Đô - nơi thờ tám vị vua khảo cổ, di tích lịch sử, di tích lưu niệm danh<br />
Lý, trước khi được nhà nước ra quyết định xếp nhân... dường như ít thu hút được sự quan tâm<br />
hạng chỉ còn là bãi đất trống và một tấm bia của cộng đồng. Người dân đến những di tích<br />
“Cổ Pháp điện tạo bi”, niên đại 1604, do Hoàng này ít hơn, nắm bắt được nội dung, giá trị của<br />
giáp Phùng Khắc Khoan soạn ghi lại việc nhà di tích cũng sơ sài. Các di tích này chủ yếu được<br />
Lê cho xây dựng lại đền Đô. Được sự quan tâm, trùng tu, tu bổ bằng nguồn ngân sách của nhà<br />
ủng hộ của chính quyền địa phương, người nước, cộng đồng có tham gia nhưng với số<br />
<br />
Số 6 - Tháng 12 - 2013 VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
59<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
lượng đóng góp rất nhỏ. Có thể thấy đây là thể giải quyết dứt điểm vấn đề này. Ở một số di<br />
một vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý trong tích đã xảy ra tình trạng mất cắp cổ vật, di vật,<br />
việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của một phần nguyên nhân là do người dân chưa<br />
cộng đồng về vai trò, giá trị của các loại hình nêu cao tinh thần cảnh giác, chưa phối hợp<br />
di tích trong đời sống xã hội hiện nay. Nhiều đồng bộ trong việc bảo vệ di tích. Các di tích<br />
di tích vừa mang giá trị về lịch sử, vừa mang bị mất cắp cổ vật, di vật là đình Bái Uyên (xã<br />
giá trị văn hóa tâm linh nhưng người dân biết/ Liên Bão, huyện Tiên Du), đình Cả (xã Nội Duệ,<br />
quan tâm đến vấn đề văn hóa tâm linh nhiều huyện Tiên Du), đình Yên Việt (xã Đông Cứu,<br />
hơn. Di tích đền Phấn Động (xã Tam Đa, huyện huyện Gia Bình)…Thậm chí có di tích bị trộm<br />
Yên Phong) là một trong những di tích thuộc cắp vài lần như di tích thờ danh nhân Nguyễn<br />
phòng tuyến sông Cầu, theo thời gian được du Phúc Xuyên (phường Đại Phúc, thành phố Bắc<br />
khách biết đến nhờ việc thờ Mẫu nhiều hơn. Ninh) năm 2004 bị mất câu đối, năm 2006 lại<br />
Du khách đến đây chủ yếu là lễ cầu lộc thánh mất bình hương…<br />
và tiến hành nghi lễ hầu đồng. Nhiều du khách Để nâng cao vai trò và huy động được sự<br />
khi được hỏi thì hoàn toàn không biết về sự tham gia của cộng đồng trong hoạt động bảo<br />
kiện lịch sử cũng như các di tích thuộc phòng vệ di tích lịch sử - văn hóa, theo chúng tôi cần<br />
tuyến sông Cầu. chú ý tới một số vấn đề sau:<br />
Nhận thức của cộng đồng trong bảo vệ, - Tăng cường các hoạt động tuyên truyền<br />
phát huy giá trị di tích đóng vai trò rất quan Luật Di sản văn hóa, các văn bản về bảo vệ, phát<br />
trọng. Người dân có nhận thức đúng về giá trị huy giá trị di tích lịch sử văn hóa dưới nhiều<br />
của các di tích mới có hành động bảo vệ di tích hình thức khác nhau nhằm đưa các văn bản<br />
một cách hợp lý, ngược lại nhận thức của cộng này vào cuộc sống và có hiệu lực trong thực<br />
đồng chưa cao, sẽ dẫn đến sự thờ ơ đối với giá tế, đồng thời nâng cao nhận thức của người<br />
trị của di tích. dân, hình thành ý thức, thái độ trân trọng đối<br />
Ở hình thức thứ hai, các di tích được trùng với các loại hình di sản văn hóa truyền thống<br />
tu, tu bổ hoàn toàn bằng nguồn lực được huy trên quê hương.<br />
động từ cộng đồng thì đã xảy ra những hiện Việc tuyên truyền di tích để người dân có<br />
tượng sai phạm như xây dựng trái quy định cách ứng xử tích cực, phù hợp là vấn đề cần<br />
dẫn đến hiện tượng làm méo mó, sai lệch thiết nhất. Trong quá khứ cũng như hiện nay,<br />
những giá trị, đặc biệt là làm mất tính nguyên truyền thống đấu tranh, tinh thần yêu nước,<br />
gốc của di tích như thay thế cột gỗ bằng cột bê tự hào dân tộc luôn là vấn đề được coi trọng<br />
tông cốt thép, nền lát đá hoa, xây dựng Phật hàng đầu. Lịch sử hào hùng của dân tộc ngày<br />
điện kiểu hai tầng… Nhiều tượng cổ có niên nay được lắng đọng, thể hiện qua các di tích.<br />
đại vài trăm năm bị đưa ra sơn son thếp vàng Do vậy cần tuyên truyền, định hướng giúp cho<br />
thay thế cho nước sơn tuyệt đẹp trước đây. người dân nhận thức đúng vai trò, giá trị của<br />
Ở một số nơi nhận thức của người dân về loại hình di tích này từ đó họ có sự quan tâm,<br />
di sản văn hóa còn hạn chế dẫn đến việc lấn đầu tư hợp lý, tránh tình trạng quá thiên về các<br />
chiếm đất đai, xây dựng nhà cửa, công trình di tích gắn với tôn giáo tín ngưỡng.<br />
dân sinh, vi phạm vào vùng bảo vệ, làm mất - Đặc điểm của các di tích là thường gắn<br />
cảnh quan, không gian của di tích (như tại bó chặt chẽ với một cộng đồng cụ thể (làng<br />
chùa Phi Tướng, thành cổ Luy Lâu...) hay việc xóm, khu phố, cụm dân cư...), do vậy cần tạo<br />
khai thác, kinh doanh trái phép cát trên sông điều kiện để người dân tham gia bảo vệ, sử<br />
Cầu đã ảnh hưởng trực tiếp đến các di tích dụng và khai thác giá trị của di tích. Việc trao<br />
thuộc phòng tuyến. Ngành văn hóa, chính cho cộng đồng quyền chủ động quản lý các<br />
quyền địa phương trong nhiều năm vẫn chưa di tích, thành lập các ban quản lý di tích do<br />
<br />
<br />
60 Số 6 - Tháng 12 - 2013<br />
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA<br />
<br />
<br />
chính người dân địa phương bầu chọn cũng còn đối với các loại hình di sản văn hóa khác<br />
làm cho người dân cảm thấy được quyền làm như lễ hội, nghề truyền thống, các loại dân ca,<br />
chủ của mình, từ đó tạo niềm tự hào, có ý thức dân vũ... Chỉ có dựa vào sức mạnh của cộng<br />
trách nhiệm đối với các di tích. Ban quản lý đồng, chúng ta mới có thể bảo tồn, phát huy<br />
di tích đền Đô là mô hình quản lý hoạt động các di sản văn hóa một cách có hiệu quả trong<br />
có hiệu quả trong nhiều năm qua. Do vậy cần điều kiện hiện nay.<br />
phổ biến, nhân rộng mô hình quản lý này đến<br />
T.Đ.N<br />
nhiều di tích khác. Nhằm giúp cho công tác<br />
quản lý di tích có chất lượng, hiệu quả, các cơ (ThS, Khoa Di sản văn hóa)<br />
quan quản lý nhà nước cần đóng vai trò định<br />
hướng, giám sát hoạt động của các ban quản Chú thích<br />
lý tại các di tích này, đồng thời thường xuyên<br />
* Số liệu của Ban Quản lý di tích tỉnh Bắc Ninh<br />
tổ chức các lớp tập huấn, phổ biến kiến thức về<br />
di tích, về di sản văn hóa cũng như nghiệp vụ<br />
Tài liệu tham khảo<br />
quản lý cho các thành viên của các ban quản<br />
lý này để họ nâng cao được nhận thức về quản 1. Phạm Hồng Tung (2009), Cộng đồng: Khái<br />
lý và bảo vệ di tích. Bên cạnh đó, sự phối hợp niệm, cách tiếp cận và phân loại trong nghiên cứu,<br />
đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, Số 12/2009,<br />
với cộng đồng, nơi có di tích là điều cần thiết. tr. 21-29<br />
Cộng đồng là sợi dây liên hệ giữa di tích với<br />
2. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000),<br />
cơ quan quản lý, những hiện tượng vi phạm di<br />
Phát triển cộng đồng, Lý thuyết và Vận dụng, Nxb.<br />
tích sẽ nhanh chóng bị cộng đồng phát hiện<br />
Văn hóa - Thông tin.<br />
và thông tin được truyền tải đến những cơ<br />
quan có thẩm quyền xử lý. 3. Luật di sản văn hóa năm 2001 được sửa dổi,<br />
bổ sung năm 2009, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009,<br />
- Cần thiết phải xây dựng cơ chế nhằm<br />
tr.33<br />
khuyến khích, động viên các tổ chức doanh<br />
nghiệp, đoàn thể cá nhân tích cực đầu tư, ủng 4. Đinh Khắc Thuân (2010), Văn bia thời Mạc,<br />
hộ các hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị di Nxb. Hải Phòng.<br />
tích. Đối với các doanh nghiệp, cần có những<br />
5. Phạm Tuấn (2005), Lịch sử chùa Bút Tháp qua<br />
chính sách ưu đãi khi tham gia đầu tư kinh phí<br />
tư liệu Hán nôm, Tạp chí Xưa và Nay, Số 235.<br />
cho các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa. Bên<br />
cạnh đó, cần chú ý biểu dương, khen thưởng 6. Công ước quốc tế về du lịch văn hóa: Việc<br />
kịp thời đối với các cá nhân, tổ chức tham gia quản lý du lịch ở những nơi có di sản quan trọng.<br />
tích cực, có hiệu quả trong việc trùng tu, tôn Được ICOMOS thông qua tại Đại hội đồng lần thứ<br />
tạo cũng như phát huy giá trị của các di tích. 12 ở Mehico, tháng 10/1999.<br />
<br />
- Ban hành chính sách quản lý và sử dụng<br />
Ngày nhận bài: 3 - 5 - 2013<br />
các nguồn tài chính huy động từ cộng đồng<br />
theo hướng ưu tiên cho việc trùng tu, tu bổ Ngày phản biện, đánh giá: 6 - 9 - 2013<br />
cho di tích...<br />
Ngày chấp nhận đăng: 10 - 12 - 2013<br />
Trên đây là một số vấn đề mà chúng tôi<br />
mong muốn đưa ra nhằm góp phần làm cho<br />
hiệu quả xã hội hóa việc bảo tồn, phát huy giá<br />
trị di tích lịch sử văn hóa ngày càng được nâng<br />
cao. Vai trò của cộng đồng cần được đề cao<br />
không chỉ đối với việc bảo vệ các di tích mà<br />
<br />
<br />
Số 6 - Tháng 12 - 2013 VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
61<br />