intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vẻ đẹp bí ẩn của người phụ nữ trong hội họa

Chia sẻ: Nguyenthimin Min | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:42

384
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cũng như các nhà thơ, họa sĩ nào cũng ít nhiều sáng tác về đề tài thiếu nữ. Từ những danh họa tên tuổi đến những họa sĩ mới bước vào nghề, phái đẹp luôn là nguồn cảm hứng dồi dào. Mỗi họa sĩ có một phong cách sáng tác, và hình ảnh người thiếu nữ trong tranh của họ cũng có đặc trưng riêng biệt, không ai giống ai. Tuy nhiên, tranh của các danh họa Việt Nam có nhiều sự khác biệt đối với các họa sĩ trẻ, nhất là ở phong cách, nhìn vào có thể nhận biết...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vẻ đẹp bí ẩn của người phụ nữ trong hội họa

  1. I. MỞ ĐẦU Phụ nữ được đàn ông âu yếm gọi là phái đẹp. Mỗi người phụ nữ là một nét đẹp riêng biệt, độc đáo. Chính vì vậy mà đề tài vẻ đẹp người phụ nữ luôn là đ ề tài thu hút rất nhiều nghệ sĩ. Trong dân gian, vẻ đẹp người phụ nữ được cụ thể hóa: “Cổ tay em trắng như ngà Con mắt em liếc như là dao cau Miệng cười như thể hoa ngâu Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.” Hay: “Hai má có hai đồng tiền Càng nom càng đẹp càng nhìn càng ưa.” Vẻ đẹp bí ẩn của người phụ nữ cũng từ lâu đã được đi vào hội họa với bao tác phẩm. Mỗi họa sĩ đều lựa chọn cho mình cách khắc họa nhân vật nữ của mình theo những gì mà họ cảm nhận. Ngoài những bức tranh về thiên nhiên, phong cảnh, tĩnh vật…thì vẻ đẹp lắng động của người phụ nữ được coi là một mạch nguồn cảm xúc trong sáng tạo của rất nhiều họa sĩ. Nói về cái đẹp, Kant có nhận xét "Cái đẹp không nằm trong đối tượng, mà nằm trong sự đánh giá của chủ thể” . Và vẻ đẹp của người phụ nữ cũng được người họa sĩ gửi gắm trong từng bức tranh và tùy theo thú vui thưởng ngoạn của mỗi người mà có những cách hiểu, cách cảm tranh khác nhau. Trong bài tiểu luận này nhóm xin trình bày một vài nét cơ bản, những cách cảm tranh về đề tài người thiếu nữ với những vẻ đẹp bí ẩn mà người họa sỹ muốn người xem tranh hiểu được ý nghĩa ngầm ẩn của từng bức tranh. 1
  2. II. NỘI DUNG 1. Vài nét về hội họa 1.1 Khái niệm: Hội họa là một ngành nghệ thuật trong đó con người sử dụng màu vẽ để tô lên một bề mặt như là giấy, hoặc vải, để thể hiện các ý tưởng nghệ thuật. Kết quả của công việc đó là các tác phẩm hội họa hay còn gọi là các tranh vẽ, người tạo nên các bức vẽ thường là các họa sỹ. Hội họa là một trong những loại hình nghệ thuật quan trọng và phổ biến nhất. Nói cách khác, hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng của người nghệ sỹ bằng các tác phẩm hội họa sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật) của họa sỹ. Hội họa là một bộ môn của chuyên ngành Mỹ thuật, ở đó người hoạ sỹ đã phản ánh thế giới quan, những tư duy, trí tuệ của mình trước những sự vật hiện tượng khách quan. Trong một tác phẩm đạt được vẻ đẹp hoàn chỉnh ta luôn luôn nhận thấy một tư duy sáng tạo thẩm mỹ, một phong cách biểu đạt nghệ thuật và trên tất cả là một hình tượng nghệ thuật mang tính thống nhất cao độ. Hội hoạ là một ngôn ngữ nghệ thuật. Người họa sỹ phải vẽ làm sao thể hiện được cái điều mình muốn nói trong một ngôn ngữ mà người khác có thể đọc được, hiểu được, nhằm truyền đạt được những ý tưởng, những cảm xúc, chinh phục được cái gu thẩm mỹ của người khác. Hội họa là loại hình nghệ thuật tạo hình, dùng đường nét, bố cục, hình khối, màu sắc và sáng tối để xây dựng hình tượng nghệ thuật, để biểu hiện cuộc sống phong phú và đa dạng trên một mặt phẳng được gọi là tác phẩm hội họa hay là tranh. Cũng có thể nói, hội họa là môn tạo hình đặc trưng bởi sự biểu hiện không gian trên một mặt phẳng bằng các yếu tố tạo hình. Không gian mà ta đề cập tới ở trong tranh chỉ là một không gian ảo và chỉ có thể cảm nhận bằng thị giác. Bức vẽ có thể giống hoàn toàn 2
  3. hiện thực hoặc được giản lược và ước lệ đi rất nhiều. Cũng có những tác phẩm diễn tả được không gian hư cấu nhưng vẫn gợi lên sự liên tưởng về thực tế. 1.2 Lịch sử hội họa Hội họa đã có từ rất lâu, những hình vẽ về thú vật đã xuất hiện vào kh oảng 30.000 tới 10.000 năm trước Công nguyên trên trong các hang động miền Nam nước Pháp và Tây Ban Nha. Theo các nhà khoa học, người hang động dùng mỡ động vật trộn với các loại bột màu làm màu nước và dùng lông thú hay cành cây để vẽ. Tiêu biểu là những bức hình trong hang Chauvet tại Pháp có 32.000 năm tuổi được xem là tác phẩm hội họa cổ nhất được biết đến ngày nay. Ở đây, người nguyên thủy đã dùng đất đỏ và than để có thể vẽ ngựa, tê giác, sư tử, bò và voi mammoth. Đây là những bức vẽ thuộc hội họa hang động. Cách đây 30.000 năm, con người đã phát minh ra các dụng cụ căn bản để vẽ tranh và không ngừng cải tiến trong các thế kỷ tiếp theo. Người Ai C ập khoảng 5000 năm trước, đã phát huy kỹ thuật vẽ tranh của riêng mình bằng cách sơn màu nước trên bùn thạch cao hay đá vôi. 1.3 Những yếu tố cơ bản tạo nên tác phẩm hội họa • Đường nét: Theo định nghĩa khoa học thì đường nét là tập hợp những điểm trong chuyển động, như vậy sẽ có rất nhiều đường: đường thẳng, đường cong, đường tròn, đường xoáy ốc, đường gẫy khúc. Như vậy, trong thụ cảm thị giác bao giờ thị giác cũng tạo thành những phương hướng nhất định, gợi lên những cảm xúc thẩm mỹ rất cao.  Những đường thẳng đứng và nằm ngang tạo sự ổn định, chắc chắn và tĩnh. 3
  4.  Những đường xiên tạo cảm giác nghiêng ngả, bấp bênh, không ổn định.  Nếu những đường xiên nhịp nhàng uốn lượn không gãy khúc tạo cảm giác xao động, lung linh hay sự hồi tưởng. Khi tạo hình cho những nhân vật có tính cách dịu dàng, quyến rũ thì đường cong là những đường chủ đạo và ngược lại những nhân vật gai góc, phản diện thường được mô tả bằng những đường nét gấp khúc, thô ráp. • Hình khối: Đây là hiệu quả thụ cảm của thị giác đối với vật thể trong không gian do tác động của ánh sáng. Điều kiện để có một hình khối đó là: ánh sáng, vật thể và thị giác. Các họa sỹ thường dùng yếu tố đường nét để tạo thành hình thể trên một mặt phẳng. Và một vật thể phải có một hình dáng nhất định và nó chi ếm chỗ tức là chiếm một phần thể tích nào đó của không gian trong mặt phẳng bức tranh. • Màu sắc: Nghệ thuật hội họa còn được ví là “bà chúa của màu sắc”. là một đặc trưng của ngôn ngữ hội họa, màu sắc đã góp phần tạo ra bức tranh đẹp, hấp dẫn và lộng lẫy, đem lại cho người xem sự lạc quan, yêu đời, ni ềm vui sướng, phấn khởi. Ngược lại, nó cũng đem đến cho người xem sự sợ hãi, buồn bã hay chán nản. Màu sắc có nguồn gốc tự nhiên và đồng thời cả nguồn gốc xã hội. Điều này do sự liên tưởng và kinh nghiệm sống của con người tạo nên. Màu đỏ cho người ta liên tưởng tới cảm giác nồng cháy, sự hy sinh, đổ máu, màu cờ của một số nước, tổ quốc. Màu xanh đem lại cảm xúc tươi mát, hòa bình, hạnh phúc. • Bố cục: Đường nét, hình khối và màu sắc là những thuộc tính vốn có của sự vật và nó ở trạng thái tự nhiên. Thế nhưng quan sát nó dưới những góc nhìn và dặt trong 4
  5. những không gian khác nhau. Chính điều đó đặt ra cho người nghệ sĩ phải có sự sắp xếp lại để khi tái hiện lại cho hiệu quả thẩm mỹ cao hơn. Điều này khác hẳn với máy móc của nghệ sỹ nhiếp ảnh. Bởi vì ngoài việc khám phá giá trị sâu lắng bên trong tác phẩm thì người họa sỹ phải làm cho những hình ảnh ấy vượt khỏi trạng thái tự nhiên và trở lên thuận mắt, ưa nhìn, đồng thời mang những ý nghĩa của giá trị nhân sinh. • Kĩ thuật vẽ bao gồm: Sơn dầu, Màu nước, Lụa, Sơn mài, Gốm, Đơn sắc, Vẽ chấm, Sfumato, Thủy mặc, Vật liệu mới (hội họa), Hội họa số… • Vật liệu vẽ bao gồm: Giấy, Vải, Gỗ, Tường… • Màu vẽ: Có nhiều loại màu vẽ khác nhau. Các màu vẽ gồm chất màu được trộn lẫn trong một chất mang. Các tính chất của hai thành phần này như độ nhớt, đ ộ hòa tan, tốc độ bay hơi,…quyết định đặc trưng của các loại màu khác nhau. Ví dụ như: Sơn dầu, Màu nước trộn dầu, Sơn acrylic, Màu bột, Mực, Pastel, Tempera, Màu sáp, Màu nước, Bích họa, Màu phun. • Phong cách: Từ phong cách được sử dụng với hai nghĩa:  Dùng để chỉ các yếu tố kĩ thuật và phương pháp để phân biệt một họa sĩ này với các họa sĩ khác.  Dùng để chỉ một trường phái hội họa trong đó phân loại một nhóm các họa sĩ có chung một kĩ thuật và phương pháp thể hiện. • Một vài trường phái hội họa: Ấn tượng, Baroc, Cấu trúc, Chấm học, Dã thú, Graffiti, Hard-edge, Hậu ấn tượng, Hậu hiện đại, Hiện đại, Hiện thực, Hiện thực lãng mạn, Hiện thực xã 5
  6. hội, Lãng mạn, Lập thể, Mannerism, Ngây thơ, Pop-Art, Siêu thực, Tân cổ điển, Thị giác (Op-Art), Trừu tượng… 2. Vẻ đẹp bí ẩn của người phụ nữ trong hội họa “Những bức tranh cũng có linh hồn, và linh hồn chúng lấy từ linh hồn của người họa sĩ” (Vincent Van Gogh). Cũng như các nhà thơ, họa sĩ nào cũng ít nhiều sáng tác về đề tài thiếu nữ. Từ những danh họa tên tuổi đến những họa sĩ mới bước vào nghề, phái đẹp luôn là nguồn cảm hứng dồi dào. Mỗi họa sĩ có một phong cách sáng tác, và hình ảnh người thiếu nữ trong tranh của họ cũng có đặc trưng riêng biệt, không ai giống ai. Tuy nhiên, tranh của các danh họa Việt Nam có nhiều sự khác biệt đối với các họa sĩ trẻ, nhất là ở phong cách, nhìn vào có thể nhận biết được ngay. Có những bức tranh đã quá nổi tiếng, ăn sâu vào ký ức của người yêu hội họa, như bức “ Thiếu nữ bên hoa huệ” của danh họa Tô Ngọc Vân. Ông vẽ bức này năm 1943, mô tả chân dung một thiếu nữ mặc áo dài trắng bên cạnh lọ hoa huệ tây (hoa loa kèn) trắng muốt, tinh khôi. Bức tranh “Thiếu nữ bên hoa huệ” (Sơn dầu) – Tô Ngọc Vân. Tuyệt tác này được coi là một tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của họa sĩ Tô Ngọc Vân, và cho cả nền mỹ thuật Việt Nam đầu thế kỷ 20. “ Thiếu nữ bên hoa 6
  7. huệ” mô tả chân dung của một người thiếu nữ mặc áo dài trắng đang nghiêng đầu một cách tự nhiên về phía lọ hoa huệ tây trắng. Hình dáng cô gái cùng những chi tiết và màu sắc xung quanh tạo thành một hình khối giản dị, toát lên một nét buồn vương vấn, nhẹ nhàng. Hoa huệ cắm trong lọ bên cạnh cô gái không phải là loại hoa huệ bông nhỏ thường dùng trong các ngày rằm mà là hoa huệ tây hay tên phổ biến là hoa loa kèn. Hoa loa kèn là thứ hoa chỉ có vào tháng ba, tháng tư Hà Nội. Màu chủ đạo là màu trắng thuần khiết của những bông hoa, bên cạnh dáng vẻ trang nhã của một thiếu nữ Hà Nội cùng với chiếc áo dài trắng cổ điển, gợi cho người xem những mỹ cảm về tuổi thanh xuân. Đấy là vẻ đẹp của cả hoa lẫn người và mùa xuân. Người phụ nữ trong tranh của Tô Ngọc Vân luôn được thể hiện với lòng trân trọng chứ không sa vào khoái cảm nhục thể, nhưng cũng không quá mơ hồ, ẻo lả hoặc kiêu kỳ như tranh của các họa sĩ đương thời. Vẽ phụ nữ là sở trường của Tô Ngọc Vân. Khi theo học Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1926 - 1931) ông đã say mê hình tượng thiếu nữ với tà áo dài truyền thống. Sau này, ông thuê người mẫu đến nhà vẽ tranh sơn dầu, sơn mài. Một nhà phê bình mỹ thuật đã viết về ông: “Những thiếu nữ trong tranh Tô Ngọc Vân đều có vẻ đẹp dịu dàng, thuần khiết, giàu nữ tính. Họ duyên dáng, kín đáo và tế nhị, lịch s ự, quý phái trong từng cử chỉ, dáng điệu khiến người xem có cảm tưởng họ sinh ra từ không khí, ánh sáng và những cánh hoa. Và dường như chung quanh họ được bao bọc bởi một không gian êm đềm, thơ mộng. Vẻ đẹp của họ là vẻ đẹp của phụ nữ Hà Nội, phụ nữ Á Đông: mong manh mà bền vững, bí ẩn mà quyến rũ, lúc nào cũng như đắm chìm, soi rọi vào thế giới nội tâm chính mình, ngay cả nỗi buồn thành thực, ngây thơ của họ cũng hết sức đáng yêu”. Nếu Tô Ngọc Vân đã từng nhận xét : “Không ai vẽ mắt thiếu nữ ươn ướt như sắp khóc tài bằng Mai Trung Thứ”, thì người đương thời lại nhận xét: “Không ai vẽ thiếu nữ duyên dáng, gợi cảm, đa tình tài bằng Tô Ngọc Vân” . Mọi người đều công nhận người hoạ sĩ duy sắc mải miết chạy theo ánh sáng mặt trời Tô Ngọc Vân là chủ nhân những tranh sơn dầu thiếu nữ nổi tiếng một thời. Từ cô gái e ấp bên song cửa đọc bức thư, chị em trong buổi trưa hè tịch mịch, cô gái áo 7
  8. trắng dưới bóng nắng đến chị em đi du xuân, ngắm trăng, lả luớt bên hoa huệ, hoa sen, tư lự bên án thư. Trong đó phải kể đến tác phẩm “ Hai thiếu nữ và em bé”. Là một trong những tác phẩm đẹp nhất của Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1944 về đề tài thiếu nữ. Tác giả đã chọn một góc ấm cúng nhất của ngôi nhà cổ để chị em có thể tâm sự bên nhau. Người chị mặc áo vàng trong dáng ngồi đoan trang trên chiếc chõng tre, dáng dấp thiếu phụ toát lên từ cử chỉ hai bàn tay chắp vào nhau, nếp áo dài r ủ là mềm mại. S ự xuất hiện đứa bé trai đang ngồi nghịch dưới sàn nhà cho thấy đây là một thiếu phụ hạnh phúc với cuộc sống gia đình viên mãn. Cô em mặc áo trắng, nếp áo bối rối xô lệch theo dáng ngồi bồn chồn bất an. Trong lòng cô đang dâng trào sóng gió tình yêu ban đầu khó nói, cần sự khuyên bảo nơi người chị. Bức mành buông lơ lửng cho ta thấy ngoài kia là cành cây phù dung hoa trắng tinh khiết, ánh nắng phản chiếu làm đôi má hai chị em phớt hồng trên khuôn mặt trái xoan kiều diễm. Cảnh gia đình Việt Nam xưa hiện lên trong từng chi tiết kiến trúc cảnh vật, con người. Toàn bộ bức tranh là hòa sắc vàng tươi lộng lẫy chan hoà ánh sáng thiên nhiên gần gũi. Bức tranh “Hai thiếu nữ và em bé” – Tô Ngọc Vân Danh họa Trần Văn Cẩn cũng sáng tác nhiều tranh thiếu nữ, và thường gắn với một loài hoa nào đó. Theo ông, đó là biểu trưng của sự sống của cái đẹp. Đặt thiếu nữ bên hoa là thể hiện cho một kiểu so sánh, đối trọng, 8
  9. phù trợ. Bức “Em Thúy” của Trần Văn Cẩn được coi là một trong những tác phẩm chân dung thành công nhất của mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20. "Em Thúy", tác phẩm sơn dầu của họa sĩ Trần Văn Cẩn được vẽ năm 1943, khi chiến tranh thế giới lần hai đang tr ở nên quyết liệt. Sự tàn bạo và đau thương của chiến tranh đã đổ sụp xuống đầu nh ững người dân vô tội, trong đó có biết bao phụ nữ và trẻ em. Đó cũng là nỗi lo xen l ẫn những thương cảm, xót xa đang xâm chiếm tâm hồn họa sĩ. Phải làm sao khắc họa được một vẻ đẹp dung dị, thơ ngây, để nhắc nhở người xem về trách nhiệm đối với những người sống xung quanh...Tác phẩm được hoàn thành chỉ sau vài buổi vẽ, em Thúy ngồi trên ghế mây, đôi vai gầy nhỏ, đôi mắt mở to, tin tưởng dù có v ẻ h ơi ng ỡ ngàng. Cách vẽ thật nhẹ nhàng, trong trẻo, tinh tế như một lời tâm sự về cái đẹp dịu dàng, về sự thanh khiết của tuổi thơ, khiến ta rung cảm. bồi hồi, xúc động. Nguyễn Gia Trí (1908 - 1993) - hoạ sĩ, nhà đồ hoạ, biếm hoạ Việt Nam. Ông cùng với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn là bốn cây đại thụ của nền mỹ thuật hiện đại của Việt Nam (nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn). Tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mĩ thuật Đông Dương năm 1936, ông là người đi đầu trong việc chuyển những bức tranh sơn mài từ trang trí thành những tuyệt phẩm nghệ thuật và từ đó ông đã được mệnh danh là "người cha đẻ những bức tranh sơn mài tân thời của Việt Nam". Cây cọ tài hoa của Nguyễn Gia Trí thể hiện bức “Thiếu nữ trong vườn” cũng được đánh giá là một trong những tác phẩm tranh xuân về thiếu nữ hoàn mỹ nhất. Bức tranh khắc họa vườn hoa muôn sắc màu, trong đó các cô gái đang vui đùa, giá trị hiện thực toát lên từ hình khối, động tác. Sắc vàng kim được dát trên nền trời, trên những tấm áo điểm 9
  10. xuyết vỏ trứng, những vệt vàng lộng lẫy trên từng đường lượn như tôn vẻ đẹp thanh tân thiếu nữ. Bức tranh “Thiếu nữ trong vườn”(Sơn mài)- Nguyễn Gia Trí Các họa sĩ bậc thầy Việt Nam luôn để lại những dấu ấn cá nhân về mặt bút pháp. Nếu như Tô Ngọc Vân tài hoa, mẫu mực; Nguyễn Sáng chính xác, ngang tàng; Nguyễn Tư Nghiêm thâm trầm, khúc triết; Dương Bích Liên chắt lọc, tinh tế; Bùi Xuân Phái nặng tình, run rẩy… thì nghệ thuật Nguyễn Phan Chánh thấm đẫm hồn quê, chân phương, bình dị. Xuất thân từ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương do người Pháp đào tạo, nhưng Nguyễn Phan Chánh lại thành công và thành danh ở lĩnh vực tranh l ụa - một loại hình nghệ thuật mang đậm chất Á Đông từ chất liệu cho đến cách tạo hình. Với mảng tranh lụa, danh họa Nguyễn Phan Chánh thật sự là người thành công với đề tài thiếu nữ. Những bức “Chơi ô ăn quan”, “Lên đồng”, “Cô gái rửa rau”, “Em cho chim ăn”... là những đỉnh cao trong nghệ thuật sáng tạo của ông. Đó là những tác phẩm nghệ thuật, xác lập tên tuổi và khẳng định Nguyễn Phan Chánh là người đặt nền móng cho tranh lụa Việt Nam. Đặc biệt phải nhắc đến bức: “ Chơi ô ăn quan”, “rất Nhật mà không phải Nhật, rất Tây mà không phải Tây”. Nguyễn Phan Chánh làm người xem ngỡ ngàng khi vẽ những em bé vui chơi mà không nghịch ngợm, chăm chú mà điềm 10
  11. tĩnh, ngây thơ mà tư lự... đã gây một tiếng vang lớn trong cuộc Triển lãm đấu xảo Quốc tế Pa-ri năm 1931. Bức tranh “Chơi ô ăn quan” – (Tranh lụa) Nguyễn Phan Chánh Sau này ông còn có những bức tranh về phụ nữ với vẻ đẹp rất đời thường, khiến cho người xem không thể bỏ qua: “Hai thiếu nữ đội nón thúng quai thao”, “Thiếu nữ chải tóc”, “Hái rau muống”, “Tối cho con bú”, “Kỳ lưng”, “Tắm ao”... Tranh lụa “Cô gái rửa rau” – Nguyễn Phan Chánh. Trong bóng dáng và diện mạo con người và thiên nhiên cố đô, hình bóng nguời phụ nữ xứ Huế từ lâu đã được khắc sâu trong nghệ thuật hội họa với bao tác phẩm, dáng hình và tình cảm sâu nặng, với những vẻ đẹp sâu lắng hài hòa xao đ ộng lòng người. Những tác phẩm ấy đã có ý nghĩa nhân văn lớn lao trong việc khẳng định và làm tỏa sáng hơn những giá trị tinh thần, phẩm chất của người phụ nữ Huế nói chung và của người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Vẽ đẹp lắng đọng, kín đáo của người phụ nữ Huế được coi là một mạch nguồn xúc cảm say đắm trong sáng tạo của các họa sĩ Việt Nam trong suốt thế kỷ XX. Trải qua bao năm tháng, cảnh sắc, con người Huế cũng có nhiều thay đổi, nhưng cốt cách, phẩm chất thẩm mỹ bên trong của người phụ nữ Huế thì vẫn bền chặt, sâu lắng những cảm xúc, chiều sâu chất Huế. Hình ảnh c ủa người phụ nữ Huế hiện ra với bao vẻ đẹp đời thường, bình dị, mộc mạc. Những bóng hình và tâm trạng, tình cảm và nghĩ suy của người phụ nữ Huế xưa dường như còn đó trong 11
  12. tranh dân gian làng Sình như tranh “Con ảnh nữ”, “ Đồ cô”, “ Bà mối” và trong bộ tranh “Bát Âm rực rỡ sắc màu”. Đến đầu thế kỷ XX cùng với sự xuất hiện của các chất liệu hội họa Châu Âu và kỷ thuật, phong cách tạo hình mới, một số tranh chân dung các Bà Hoàng đã được thể hiện với bút pháp hiện thực trong phẩm phục cung đình cao sang, quý phái. Nửa đầu thế kỷ XX nhiều họa sĩ hàng đầu của Việt Nam đã từng đến sống và vẽ về Huế, vẽ về những tà áo dài tím đã đi vào thi ca, âm nhạc, những tà áo trắng mộng mơ, tinh trắng trong thơ Hàn Mạc Tử. Mỗi thành công trong tác phẩm của họ là sự kết tinh của việc dày công nghiên cứu tìm tòi sáng tạo nghệ thuật riêng biệt, độc đáo. Dưới ảnh hưởng không thể khác của mỹ thuật phương Tây, nhiều họa sĩ đã để lại những dấu ấn tạo hình đặc sắc như Lê Văn Miến, Tôn Thất Sa, Lương Quang Duyệt, Mai Trung Thứ, Tôn Thất Đào, Nguyễn Khoa Toàn, Nguyễn Đỗ Cung, Tô Ngọc Vân, Phạm Đăng Trí, Phạm Viết Song, Lương Xuân Nhị… Nhiều người đã để lại những tác phẩm hội họa có giá trị nghệ thuật cao không chỉ ghi nhận vẻ đẹp của cảnh sắc và xứ Huế mà còn khám phá vẻ đẹp chiều sâu, ẩn dấu thầm lặng của người phụ nữ Huế. Chính những cái lắng đọng, trầm tư ở phong thái và lối ứng xử của người phụ nữ Huế đã tiềm ẩn một vẻ đẹp cuốn hút, lôi cuốn sự khám phá ở nhiều họa sĩ. Trong các tác phẩm của Mai Trung Thứ có bức “ Thiếu nữ Huế” vẽ năm 1939. Đây là một bức tranh đẹp và khá lạ đối với thời kỳ đó, cô gái có một vẻ trầm tư, đường nét thanh mảnh, đôi mắt to tròn lặng nhìn một cách hồn nhiên. Bàn tay đặt hờ hững trông thật dịu dàng, nữ tính, tà áo dài với vệt sáng phấn màu hồng trắng gợi lên bao cảm xúc về vẻ đẹp nội tâm của người con gái Huế những năm 1930. Phong thái của người thiếu nữ trong tranh của Mai trung Thứ được biểu đạt tinh tế, kín đáo với đôi chút trầm lắng, rụt rè của thiếu nữ Huế vùng “đây thôn Vỹ”, Kim Luông nền nã, giản dị đời 12
  13. thường mà có một sức hút kỳ lạ về vẻ đẹp nội tâm chứ không phải là một thiếu nữ đài các, “cành vàng lá ngọc”. Bức tranh “Thiếu nữ Huế” – Mai Trung Thứ Đặc biệt với Tôn Nữ Tường Hoa –một họa sĩ sinh ra và lớn lên ở mảnh đất c ố đô này nên những cảm nhận của bà về thiếu nữ Huế thật độc đáo, tinh tế và mang những vẻ đẹp bí ẩn. Bà thuộc dòng dõi quý tộc triều đình. Bà có rất nhiều tranh vẽ các thiếu nữ, đặc biệt là những thiếu nữ tuổi đôi mươi trong những tà áo dài trắng tinh khôi, thuần khiết và trong sáng, thuần khiết từ hình thể được vuốt mảnh trong tà áo dài như hé gợi một thoáng nội tâm nhân vật, thầm thì trong sắc màu l ộng lẫy ho ặc tr ầm ấm. Cách diễn hình và sắc mơ màng, thơ mộng, với bố cục thông thoáng giữa diễn tả và gợi tả. Tôn Nữ Tường Hoa đã làm cho người xem được đắm mình trong mạch chảy dân tộc, cảm nhận trọn vẹn được sự êm ả, thanh thản, bình dị, tr ữ tình c ủa con người Việt Nam. Bút pháp và lối diễn hình mềm mại, uyển chuyển, tinh tế gây ra những hiệu quả thẩm mỹ vô cùng thú vị. Trong tranh, người thiếu nữ e ấp, thướt tha nhưng mang một vẻ đẹp đầy sức sống. Ở đây, tài năng kỳ lạ của Tôn Nữ Tường Hoa như cho thấy được vẻ đẹp của tự do trong tinh thần mỗi con người. Ta bắt gặp những cô gái lơ đãng, những cặp mắt không đến một đích nào đôi khi man dại và mộng mị, có cái gì đ ẹp và quyến rũ người xem. Những đóa hoa trong tranh lược tả một cách lập lòe, hoặc những khóm hoa lẫn vào trời đất đầy huyền hoặc bên cạnh những thiếu nữ má hồng tân thời e ấp làm dáng. Sự chuyển động hình thể của cô gái cho thấy một sức sống tươi tr ẻ và trong sáng tuổi đôi mươi yêu cái đẹp. Búp tay nõn nà nâng nhẹ những chiếc lá. Những cử chỉ động tác đều toát lên những cảm xúc lay động lòng người. 13
  14. Tranh “Thiếu nữ 2”, “Thiếu nữ 3” (Sơn dầu) – Tôn Nữ Tường Hoa Hình ảnh thiếu nữ và hoa là những hình ảnh gần gũi và biểu trưng của cuộc sống và cái đẹp. Đó cũng chính là điều mà tâm hồn người nghệ sỹ khát khao đạt tới. Cái đẹp trong bức tranh lụa của Tường Hoa thật mộc mạc, dung dị bởi chất liệu cổ truyền. Tôn Nữ Tường Hoa vẽ bức “Thiếu nữ và hoa sen” là chủ động biểu hiện hệ đối tượng: thiếu nữ - hoa sen. Thiếu nữ má hồng tân thời e ấp làm dáng. Sự chuyển động hình thể của cô gái cho thấy một sức sống tươi trẻ và trong sáng tuổi đôi mươi yêu cái đẹp. Búp tay nõn nà nâng nhẹ cánh hoa trắng tinh. Những cử chỉ động tác đều toát lên những cảm xúc lay động lòng người. Bức tranh diễn tả một tâm hồn và một đôi mắt biết nói của nhân vật, có điều gì đó rất thiêng liêng được họa sỹ gửi gắm trong đóa sen trắng tinh khôi. Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân đã nói "Hoạ sĩ vẽ không phải để nói, mà là để im lặng", "Cái ta đọc thấy nơi tác phẩm nghệ thuật, là nằm ở phần ngầm của tảng băng mà Hemingway đã một lần thức giấc", quả thật tranh của Tường Hoa ẩn chứa một vẻ đẹp tinh tế, một tâm hồn đa cảm của nhân vật. Bức tranh thật đẹp, một vẻ đẹp trong suốt của màu, và một vẻ đẹp ngây thơ của hình. Cái vẻ đẹp đầy tính bản năng đã hiện ra trước cả sự điêu luyện của kỹ thuật và trải nghiệm. Đấy là một khả năng mà nếu không có nó, người ta không thể trở thành nghệ sĩ. Sự kết hợp hài hòa giữa bố cục, đường nét, màu sắc, 14
  15. chất liệu đã làm cho bức tranh trở nên hấp dẫn hơn. Màu trắng của hoa sen tượng trưng cho sự đơn sơ, thanh khiết, trung thực, sự điêu luyện của nét và hình, bảng màu tế nhị không phô trương, ẩn chứa nét đẹp trong sạch, thanh cao, thể hiện sự u buồn nơi đôi mắt người thiếu nữ. Bức tranh họa hình chân dung của một thiếu nữ với mái tóc xõa dài mặc áo dài trắng, khuôn mặt nghiêng nhìn bông hoa sen trắng đang cầm trên tay một cách tự nhiên bằng vẻ u sầu, suy tư đã làm rung động biết bao trái tim người thưởng thức tranh. Hình dáng cô gái cùng những chi tiết và màu sắc xung quanh tạo thành một hình kh ối giản dị, toát lên một nét buồn vương vấn, nhẹ nhàng. Bộ áo dài trắng làm tôn lên vẻ đẹp thanh tú, mềm mại, nuột nà của cô thiếu nữ xuân thì. Bên hoa sen chỉ bố c ục một người, người thiếu nữ đang ngồi ngắm hoa sen, một tay nâng hoa, tay kia cầm bó hoa, gương mặt trong sáng và tinh tú, những bông hoa trắng ngần như càng tôn thêm vẻ trinh nguyên của nhân vật. Tà áo dài trắng, mái tóc ôm ấp khuôn mặt ngây thơ, trầm tư đã hội tụ những yếu tố đẹp của thiếu nữ Huế thấm đượm công, dung, ngôn, hạnh. Toàn bộ tác phẩm như một bài thơ xuất sắc ca ngợi vẻ đẹp thuần khiết và trinh trắng của người thiếu nữ Việt. Bên cạnh hoa sen, hoa cát đằng cũng là một biểu tượng được Tường Hoa đ ưa vào tranh cùng hình ảnh cô thiếu nữ duyên dáng, e ấp. Bức tranh “ Thiếu nữ và hoa cát đằng” với chất liệu lụa đã tôn lên vẻ đẹp của người thiếu nữ. Những đường cong tròn trịa, cái nghiêng mình mềm mại của cơ thể, những mảng nhấn đậm ở tóc, màu áo, cánh hoa…càng làm cho bức họa thêm sinh động. Tranh vẽ với gam màu nhẹ nhàng, tinh tế làm cho bức tranh vừa mang đậm tính dân tộc vừa mang đậm tính hiện đại. Phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất tận của các họa sỹ, với người nghệ sỹ đó không chỉ là vẻ đ ẹp của hình sắc mà còn là cái đẹp trong quan niệm. Đó là hình ảnh bất biến nh ưng không bất định mà uyển chuyển, biến tấu kỳ diệu trong từng cây cọ, khi mờ khi tỏ trong vô vàn sắc điệu. Hình ảnh thiếu nữ hiện ra trong bức tranh với dáng vẻ trữ tình, trong sáng, gợi điều gì đó vừa thanh cao vừa bình lặng. Hoa cát đằng tượng trưng cho sức sống trường tồn mãnh liệt của người thiếu nữ đang tuổi xuân thì. 15
  16. “Thiếu nữ và hoa sen”, “Thiếu nữ và hoa cát đằng” (tranh lụa) – Tôn Nữ Tường Hoa Họa sĩ Hoàng Đình Tài, một họa sĩ với nhiều ký họa chiến trường, là học trò của danh họa Nguyễn Sáng khẳng định: “ Họa sĩ nào trong đời cũng vẽ thiếu nữ. Bản thân tôi cũng không ngoại lệ. Vì vẽ về phụ nữ là vẽ về vẻ đẹp, về sự phồn vinh và hơn nữa, họ là một nửa của thế giới”. Trong sự nghiệp hội họa của mình, Hoàng Đình Tài cũng vẽ hàng chục chân dung thiếu nữ, nhiều bức tranh sơn mài miêu tả phong cảnh thiếu nữ du xuân, đi hội... với sự thể hiện những khát vọng thanh bình và một tình yêu mãnh liệt. Cũng với đề tài thiếu nữ và hoa với sự dịu dàng, e ấp của người thiếu nữ, tuy nhiên, khi đến với bức tranh “Thiếu nữ bên hoa sen” thì sự dịu dàng e ấp đó không còn nữa mà ta thấy nó mang một vẻ đẹp khác. 16
  17. “Thiếu nữ bên hoa sen” – Nguyễn Sáng Những đường nét vuông vắn vừa thẳng đứng vừa nằm ngang tạo cho chúng ta một sự ổ định chắc chắn và tĩnh. Những đường ngang với màu sắc không rõ nét nhưng nó lại mang nhiều sắc độ. Không gian tại nên trong bức tranh là một không gian rõ nét, không gian đó như được cắt xén đi trong góc của một ngôi nhà trước một bức tường chắc nịch. Một cô gái với đôi mắt mở to nhìn thẳng vào chúng ta đó là một sự táo bạo không e lệ, ngại ngùng. Cái nhìn thẳng đó tạo nên một nét khỏe khoắn cho bức tranh. Mái tóc dài được xõa ra với sự bồng bềnh trong chiếc áo dài làm nên nét hiện đ ại c ủa cô gái trong trang phục truyền thống. Thế nhưng trong sự táo bạo khỏe khoắn đó chúng ta vẫn nhận ra được sự dịu dàng không phải e ấp ngại ngùng của người thiếu nữ với một dáng ngồi điệu đà, bàn tay dài cong lên trông như rất chắc chắn nhưng nó lại giống như một dải lụa dài mềm mại. Bình hoa sen được đạt gần bên, nó không phải để khoe sắc. Nếu tác giả vẽ người thiếu nữ ngồi trước hồ sen với một hồ nước mênh mông bát ngát thì người con gái hiện ra sẽ là một cô gái quê, một cô gái mang sự e ấp, ngại ngùng để làm duyên làm dáng với những bông hoa. Nhưng ở đây tác giả vẽ với một không gian cố đ ịnh tạo nên nét hiện đại và sự khỏe khoắn, táo bạo của người thiếu nữ. Hoa sen tranh không phải để cho cô gái làm duyên với nó mà nó đ ược dặt nh ư dang góp vào tinh thần tự do của cô gái. Nó mang một vẻ đẹp tự do trong tinh th ần. cô không còn bị đè lên bởi cảnh vật xung quanh mà thoát ra khỏi nó đẻ mang nét tuiow vui, khỏe khoắn cho bức tranh làm nên nét đẹp riêng cho người thiếu nữ. Về bố cục, bức tranh được tạo nên với đường thẳng đứng và dường nằm ngang ẩn khuất đằng sau cô gái, nhưng nó vẫn hiện ra rõ nét. Cô gái ngồi ngay giữa bức tranh trở thành đối tượng trung tâm cho tác phẩm nhằm tô đậm thêm nét đẹp ẩn khuất bên trong tinh thần của người thiếu nữ. Bức tranh gần giống với tranh dân gian, tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống nó tạo nên sự khỏe khoắn nhất quán trong bức tranh. Nguyễn Sáng đã đặt những đường nét, màu sắc, hình khối để phán ánh những giá tr ị sâu lắng bên trong tinh thần của người thiếu nữ, và còn cho chúng ta thấy được bức tranh không 17
  18. nằm trong trạng thái của tự nhiên mà nó còn được tác giả phối hợp rất nhuần nhuy ễn đường nét màu sắc, hình khối để tạo nên bố cục bức tranh làm cho nó trở nên thuận mắt hơn. Đồng thời tác phẩm cho chúng ta thấy một giá trị nhân sinh về một l ối s ống tự do và hiện đại, mang vẻ đẹp tươi vui khỏe khoắn. Cũng có cảm hứng về đề tài phụ nữ, nhưng họa sĩ Nguyễn Thanh Bình lại có cách thể hiện khá riêng biệt so với các họa sĩ đương đại. Ai xem tranh c ủa ông cũng thoáng giật mình vì vẻ đẹp nhòe mờ của các cô gái với sắc đen trắng. S ự hòa tan gi ữa hình thể và không gian đã làm cho người mẫu trở nên huyền ảo hơn, dù dáng vóc thân quen của mỗi ai đó đang hiện hữu... Là họa sĩ dân tộc Tày, Vi Quốc Hiệp cũng rất thành công khi đưa hình ảnh người phụ nữ dân tộc phía bắc vào tranh. Ông từng tâm sự: “ Trong cuộc sống, phụ nữ (đặc biệt là phụ nữ dân tộc thiểu số) thường là những người vất vả và thiệt thòi bởi quan niệm trọng nam khinh nữ. Tiếp xúc với chị em dân tộc thiểu số, tôi thấy h ọ tuy vất v ả nhưng luôn tự hào trước mọi người về trang phục của dân tộc mình. Với họ, dù đi lao động trên nương rẫy hay làm việc trong nhà, đi chợ hay sang nhà hàng xóm, bao giờ họ cũng diện bộ trang phục dân tộc đẹp nhất...” Lợi thế của nhà văn là thông qua thuật ngôn từ, nhà văn đưa người đọc vào thế giới tưởng tượng phong phú với những cung bậc cảm xúc thăng hoa khi thâm nhập vào những ngóc ngách tâm hồn sâu kín nhất, nhạy cảm nhất của mỗi con người, có thể dẫn người đọc đến bất cứ tầng nào của nội tâm. Mỗi người bằng sự cảm nhận và hiểu biết riêng sẽ có như sự tưởng tượng mang tính cảm quan riêng. Hội họa không thể làm được điều này. Hội họa là nghệ thuật của đường khối, màu sắc chủ yếu gây ấn tượng với người xem qua thị giác. 18
  19. Trong bức Chợ trái cây , họa sĩ Nguyễn Quang Vinh đã sử dụng chất liệu sơn dầu trong bức tranh của mình. . “Chợ trái cây” (Sơn dầu) - Nguyễn Quang Vinh Sơn dầu là loại chất liệu dễ bảo quản, dễ vẽ, vì vậy đây là chất liệu đ ược các họa sĩ sử dụng nhiều nhất trong hội họa. Trong tranh của mình, họa sĩ Nguyễn Quang Vinh sử dụng chất liệu sơn dầu với sự hòa sắc hết sức phong phú. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên rất đời thường, mộc mạc ở một phiên chợ. Người Á Đông quan niệm việc đi chợ là việc của người phụ nữ. Khi đi chợ, chúng ta dễ dàng bắt gặp ở đó số đông là hình ảnh các bà, các mẹ, các chị ở chợ còn nam giới thì số lượng ít hơn rất nhiều. Ở phiên chợ trong tranh tác giả cũng có thể hiện bóng dáng mờ nhạt của những người đàn ông nhưng đó chỉ là hình ảnh khuất sau làm tôn lên hình ảnh những người phụ nữ. Qua bức tranh của mình, tác giả làm nổi bật lên hình ảnh người phụ nữ ở hai vai trò: người mua hàng và người bán hàng. Người mua đang lựa chọn cho mình những trái cây ưng ý nhất, người bán thì dường như không thiết tha lắm với khách mua hàng, bởi những rổ trái cây tươi ngon đẹp mắt của họ dường như rất thu hút người mua. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lựa chọn hình ảnh người phụ nữ ở phiên chợ để phản ánh. Người Việt ta thường có cách đánh giá người phụ nữ qua việc đi chợ thông qua cách chi tiêu, cách chọn những món đồ sẽ mua. Trước đây, khi chế độ khoa cử còn tồn tại, 19
  20. người vợ còn phải tảo tần buôn bán, là trụ cột kinh tế gia đình. Người chồng chỉ chăm lo đèn sách, đến kỳ thi thì lên kinh ứng thí. Văn học dân gian đã ghi nhận lại nhiều hình ảnh người vợ tảo tần nuôi chồng như vậy: “Em thời canh cửi trong nhà Nuôi anh đi học đăng khoa bảng vàng Trước là vinh hiển tổ đường Bõ công đèn sách lưu phương đời đời.” Hay: “Em là con gái Phụng Tiên Bán rau mua bút mua nghiên cho chồng Nữa mai chồng chiếm bảng rồng, Bỏ công tẩm tưới vun trồng cho rau.” Thông qua “Chợ trái cây”, một mặt tác giả giới thiệu và tôn vinh những sản vật quê hương, nhưng đồng thời cũng ca ngợi những tấm gương lao động những người tạo ra những hoa thơm trái ngọt dâng tặng cho đời. Việc tạo ra những nông s ản đã là c ả một quá trình, nhưng đi bán những thành quả lao động cũng là một công đoạn đòi hỏi sự khéo léo và tinh tế. Điều đặc biệt ở bức tranh là tác giả đã chú ý tạo lớp nan tiền cảnh hậu cảnh. Vị trí sắp xếp các loại trái cây, các nhân vật giúp tạo ra một chiều sâu trên không gian mặt phẳng. Điều ấy đặc biệt kích thích thị giác người xem, giúp người xem hình dung ra một phiên chợ sinh động như phiên chợ hiện hữu ngoài đời. Trong suốt chiều dài của dòng lịch sử và chiều sâu của lòng dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã liệt oanh viết nên những trang sử vàng son làm vẻ vang giống nòi như Bà Trưng, Bà Triệu; nữ tướng Bùi Thị Xuân của Quang Trung; Cô Giang, Cô Bắc của Việt Nam Quốc Dân Đảng... Còn về thi văn, ta có Bà Đoàn Thị Điểm, Bà Huy ện Thanh Quan, Bà Hồ Xuân Hương, Bà Sương Nguyệt Ánh... đều là những nữ sĩ tài hoa, nức 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2