intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng CNXH đặc sắc ở Trung Quốc và bài học thực tiễn trong phát triển - 1

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

303
lượt xem
48
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lời mở đầu Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, đưa đất nước ngày càng phát triển. Những cuộc cải cách...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng CNXH đặc sắc ở Trung Quốc và bài học thực tiễn trong phát triển - 1

  1. Lời mở đầu Trư ớc khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đ ã trải qua h àng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, n ghèo nàn, lạc hậu. Sau khi th ành lập Trung Quốc đã lựa chọn con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, đ ưa đất nước ngày càng phát triển. Những cuộc cải cách của Trung Quốc trong quá trình xây d ựng Chủ Nghĩa Xã Hội được ghi nhận như những cố gắng lớn lao nhằm tìm ra lối thoát cho một quốc gia Xã hội chủ nghĩa trì trệ trở th ành năng động, phát triển. Nó còn đóng góp nhiều kinh nghiệm cho các nước phát triển đi lên hiện đ ại. Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, cũng phải trải qua nhiều n ăm dưới ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa đ ế quốc thực dân cùng với các cuộc chiến tranh liên miên đã làm cho đ ất n ước bị tàn phá nặng nề. Ngay sau khi thành lập nước chúng ta đã kiên quyết xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội, cũng thực hiện nhiều cải cách trong kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn của Việt Nam đã từ lâu quan tâm đ ến việc theo dõi cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc, lấy đó làm kinh nghiệm cho Việt Nam. Có ngư ời cho rằng công cu ộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam rất giống với cải cách kinh tế ở Trung Quốc, thậm chí cho rằng là “bản sao” của cuộc cải cách ấy. Tuy nhiên nếu xem xét kĩ th ì thấy rằng bên cạnh nhiều điểm tương đồng, cải cách kinh tế và mở cửa ở Trung Quốc với đổi mới kinh tế ở Việt Nam còn có nhiều đ iểm rất khác nhau. Tìm h iểu sự tương đồng và khác biệt này sẽ giúp cho ta thấy được những gì có thể
  2. tham kh ảo, những gì không thể hoặc không nên tham khảo từ cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc vào Việt Nam để có những đường lối chính sách phù hợp, thúc đ ẩy nhanh sự phát triển kinh tế nói riêng và của toàn đ ất nước nói chung. Nội dung I. Hoàn cảnh tiến hành đổi mới và cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam. Đối với công cuộc cải cách, đổi mới thì hoàn cảnh có vai trò hết sức quan trọng. Tuy đ ó không phải là điều kiện quyết đ ịnh đối với th ành công của cuộc cải cách, đổi mới đó nhưng nó lại góp phần vào sự thành công và thắng lợi. Và thực tế lịch sử ở Việt Nam và Trung Quốc đã chứng minh điều đó . Qua nghiên cứu chúng ta th ấy giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng và khác biệt về hoàn cảnh khi tiến hành cải cách, đổi mới. 1 . Về điểm tương đồng: Thứ nhất cả Việt Nam và Trung Quốc đ ều tiến hành cải cách, đổi mới trong đ iều kiện điểm xuất phát thấp, nền kinh tế lạc h ậu, và đều là những nước nông nghiệp với trình độ kĩ thuật lạc hậu, còn phụ thuộc vào “nền văn m inh đòn gánh”, đ ời sống của nhân dân thuộc loại thấp, những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như ăn, ở… vẫn chư a được giải quyết đ ầy đ ủ; cơ sở công nghiệp yếu mỏng, mất cân đối, công nghiệp lạc hậu gây khó khăn cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nơi sản sinh và nuôi dưỡng yếu tố bất lợi cho việc h ình thành và phát triển kinh tế thị trường. Trong khi đó nông nghiệp được coi là nghành chủ yếu nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng lạc hâu, trì trệ, công cụ canh tác còn thô sơ, lạc hậu, n ăng suất thấp kém, sản lượng ít không đủ đ áp ứng nhu cầu trong nước. Mặt khác cơ chế kinh tế khi chưa đổi mới kìm hãm nền kinh tế, nhiệt tình lao động, năng lực sáng tạo và nguồn lực tài nguyên chưa được khai thác, huy
  3. động đầy đủ, thậm chí còn b ị xói mòn. Cơ ch ế kinh tế vận động thiếu năng lực, kém hiệu quả mất cân đối, nguy cơ bất ổn đ ịnh tiềm tàng trong đời sống. Kinh tế xã hội tích nén lại, tình trạng thiếu hụt kinh niên đ ang gia tăng nhanh trong đời sống xã hội… Th ứ hai cả hai n ước có cùng chung ý thức hệ mong muốn thực hiện, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế nghèo nàn lạc hậu, muốn bỏ qua chế độ Tư b ản chủ nghĩa, quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian dài cả hai nước đ ều theo đuổi mô h ình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mà có nguồn gốc là mô hình kinh tế kế hoạch hoá Xô Viết, mô h ình đó đã lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng b iểu hiện ở năng su ất sút kém ở mọi nghành, kinh tế lạc hậu về khoa học, kĩ thuật, đ ời sống nhân dân thiếu thốn, nhưng vẫn luôn hi vọng, tin tưởng vào sự thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội. Cả hai nước đều cùng ch ịu tác động của văn hoá, lịch sử truyền thống tương tự nhau. Di sản nặng nề của tư tưởng phong kiến, quan liêu vẫn phát huy và ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc, đó chính là nguyên nhân kìm hãm hai nước trong tình trạng trì trệ, kém phát triển lâu dài. Th ứ ba tuy hai nước bắt đ ầu cải cách và đổi mới không cùng thời gian nhưng bối cảnh quốc tế suốt thời kì đó không có sự thay đ ổi lớn và nh ững yếu tố tác động đến cuộc cải cách n ày vẫn tồn tại. Đáng kể nhất là việc Liên Xô và các nước Đông Âu đang trong qu á trình từ bỏ mô hình Chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết và chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đặc biệt lúc này kinh tế Nhật Bản và n ền kinh tế công nghiệp mới NIEs trong khu vực đ ã đ ạt được những thành tựu nổi bật và kinh nghiệm quý báu. Điều đó thúc đ ẩy Việt Nam và Trung Quốc phải đổi mới
  4. đ ể theo kịp các nước. Đây cũng là lúc th ế giới đ ang đi đến đòi hỏi sự hợp tác phân công lao động của tất cả các nước, xu hướng hợp tác hoá, quốc tế hoá ngày càng cao bất kể sự khác nhau về chính trị, văn hoá. Đồng thời nguy cơ các thế lực Tư b ản chủ nghĩa và phản động đang tìm m ọi cách phá hoại cách mạng, thực hiện âm mưu diến biến ho à bình để thay đ ổi, xoá bỏ chế độ Chủ nghĩa xã hội. Th ứ tư là sự yếu kém về năng lực lãnh đ ạo, tổ chức và sự trì trệ trong phát triển kinh tế xã hội đã làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đ ạo của Đảng cộng sản, vào nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Vì thế cần phải sáng tạo trong đường lối kinh tế và công tác lãnh đạo phải triệt để sáng suốt. 2 . Về sự khác biệt: Thứ nhất về đ iều kiện tự nhiên Trung Quốc là nước đông dân, lãnh thổ rộng lớn ( thứ ba trên thế giới ), chính điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư , khoa học kĩ thuật hiện đại do tạo được thị trư ờng có nhiều ưu thế, hấp dẫn về tài nguyên, lao động. Tuy nhiên nó cũng tạo ra sự khó khăn cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và quản lý… Còn ở Việt Nam tuy ít dân hơn, diện tích cũng nhỏ hơn, quy mô vừa phải hợp lí, do đó tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp nhận sự chỉ đạo vĩ mô của nhà nước. Th ứ hai về điều kiện xã hội: ở Việt Nam phải gánh chịu hậu quả của hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm với hơn 30 năm đấu tranh không ngừng, đ ã tàn phá nền kinh tế nặng nề, khả năng phục hồi lâu, còn ở Trung Quốc không có chiến tranh mà ch ỉ có một số cuộc nội chiến, đụng độ ở vùng biên giới ít gây ảnh hưởng đ ến nền kinh tế và cùng với đó là một số chính sách kinh tế xã hội như cuộc cách m ạng đại văn hoá đã có ảnh hưởng tích cực đ ến sự phát triển kinh tế, nó đ ã đ ẩy m ạnh bánh xe tiến trình lịch sử Trung Quốc h àng chục năm. Mặt khác người
  5. Trung Quốc sớm tỉnh ngộ, nhận ra lý do đ ưa đất nước làm vào khủng hoảng ngh èo n àn còn người Việt Nam ch ưa phân biệt được đâu là lỗi do chính trị, đâu là lỗi do m ình nên chưa tìm được lối thoát cho nền kinh tế. Th ứ ba về đ iều kiện bên ngoài: Trung Quốc có một lực lượng đông đ ảo n gười Hoa và người Hoa kiều đang sống ở nhiều nước và khu vực trên thế giới đ ặc biệt là ở các nước và vùng lãnh thổ như Hồng Kông, Đài Loan, Singapo, Malaxia đây đ ược coi là bốn nước Trung Quốc nhỏ, có tiềm n ăng về vốn, kỹ thuật, tri thức quản lý kinh doanh, truyền thống tổ chức chặt chẽ… những người n ày có quan hệ mật thiết với đất nước, trợ giúp rất nhiều cho công cuộc cải cách, đổi mới ở Trung Quốc. Còn ở Việt Nam mặc dù cũng có một cộng đồng người Việt kiều đ ang sinh sống và học tập ở nước ngo ài nhưng số lượng vừa phải, không đủ mạnh như Trung Quốc để góp phần vào sự phát triển chung của đất nươc. Th ứ tư về địa vị chính trị: Trung Quốc là nước có uy thế chính trị lớn, là một trong năm thành viên th ường trực của hội đồng bảo an liên hiệp quốc. Trong những n ăm 60 Trung Quốc có sự phân biệt trong quan hệ với Liên Xô và các nước Đông Âu, thắt chặt mối quan hệ chính trị kinh tế với Mĩ và các n ước Tây Âu. Trong khi đó Việt Nam khi tiến hành cải cách, đổi mới còn đang bị Mĩ cấm vận n ên gặp nhiều khó khăn, địa vị chính trị thấp kém. Th ứ năm là về thời đ iểm tiến h ành cải cách: Trung Quốc tiến hành đổi mới sớm hơn Việt Nam (năm 1978) còn Việt Nam tiến hành n ăm 1986, do đó Việt Nam đ ã có nhiều kinh nghiệm tiếp thu trực tiếp từ Trung Quốc. II. Nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường ở Việt Nam và Trung Quốc:
  6. Ngay từ đầu cuộc cải cách và đổi mới, Trung Quốc và Việt Nam đều xem xét và trư ớc sau lần lư ợt xác định lựa chọn nền kinh tế thị trường, hàng hoá nhiều thành phần thay thế cho nền kinh tế tập trung cao độ trước đ ây. Từ đại hội XIV Đảng cộng sản Trung Quốc (tháng 10-1992), Trung Quốc tuyên bố mục tiêu của họ là thực hiện nền kinh tế thị trư ờng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam từ đ ại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã dùng khái niệm kinh tế h àng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù có khác nhau về chữ nghĩa, nhưng cả hai loại quan đ iểm trên đều có nhiều cái chung: thứ nhất là đều chủ trương lấy chế độ công hữu làm nền tảng, tuy có thừa nhận tính đa d ạng của các thành phần kinh tế khác nhau; thứ hai là đều xem phân phối theo lao động là chính, đồng thời thừa nhận các h ình thức phân phối khác nhau; thứ ba là khẳng đ ịnh vai trò định hướng và khống chế của nh à nư ớc; đồng thời thừa nhận vai trò điều tiết thị trư ờng. Sở dĩ có những quan điểm chung n ày là vì Việt Nam và Trung Quốc có những nét tương đồng về hoàn cảnh lịch sử của đất nư ớc. Tuy nhiên giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn có những sự khác nhau trong cách làm và thực hiện các chính sách, kế hoạch. 1 . ở Trung Quốc: Khi cải cách mới bắt đầu, tuy Trung Quốc chưa n êu lên một cách rõ ràng ph ải thực hiện kinh tế thị trường trong điều kiện chủ n ghĩa xã hội, nh ưng trong thực tiễn đã bắt đầu cải cách theo phương hướng này. Sau khi hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng cộng sản Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc thực hiện cơ ch ế thị trường đầu tiên ở nông thôn với biện pháp b an đầu là thực hiện chế độ khoán sản lượng đến hộ gia đình, làm cho nông dân trở th ành chủ thể kinh doanh tự chủ, nâng cao giá nông sản phẩm, mở của thị
  7. trư ờng thành thị và nông thôn, điều n ày là hoàn toàn phù h ợp với Trung Quốc một đ ất nước có 80% dân số là nông dân. Bởi vì Trung Quốc có ổn đ ịnh hay không trư ớc hết phải xem 80% dân cư đó có ổn định không, không có ổn định ở nông thôn thì không có ổn định ở thành thị; còn ở th ành thị, tiến hành thí điểm cải cách m ở rộng quyền tự chủ kinh doanh xí nghiệp, giảm bớt kế hoạch pháp lệnh đối với sản xuất và tiêu thụ … Những cải cách n ày tuy mới chỉ là b ước đầu nhưng nó đã phá vỡ thể chế kinh tế kế hoạch, làm cho cuộc cải cách của Trung Quốc từ đ ây bước vào qu ỹ đạo đi theo hư ớng thị trường. Đại hội XII Đảng cộng sản Trung Quốc n ăm 1982 đã tổng kết những kinh nghiệm bước đ ầu của cải cách ở th ành thị và nông thôn, nêu lên phương châm “kinh tế kế hoạch là chính, điều tiết thị trư ờng là phụ”, phân kế hoạch thành hai loại là kế hoạch pháp lệnh và kế hoạch mang tính chỉ đ ạo; đồng thời yêu cầu tự giác lợi dụng quy luật giá trị, vận dụng các đòn b ẩy kinh tế nh ư giá cả, thuế, cho vay…hướng dẫn các xí nghiệp thực hiện kế hoạch Nhà nước. Mặc dù việc nhận thức về thị trường lúc đó còn có tính h ạn chế tương đối, nhưng đối với lý luận kinh tế kế hoạch truyền thống mà nói, đây là một lần đột phá. Theo đà cải cách nông thôn đạt được thành tựu to lớn, để thích ứng với trọng điểm của cải cách chuyển từ nông thôn sang thành thị. Hội nghị Trung ương 3 khoá XII Đảng cộng sản Trung Quốc n ăm 1984 đ ã thông qua “Nghị quyết của trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc về cải cách thể chế kinh tế”, nêu rõ kinh tế xã h ội chủ nghĩa là kinh tế h àng hoá trên cơ sở chế độ công hữu. Phát triển đ ầy đủ kinh tế h àng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện tất yếu đ ể thực hiện hiện đại hoá kinh tế của Trung Quốc. Chỉ có phát triển đ ầy đủ kinh tế hàng hoá, mới có thể làm cho nền kinh tế có sức sống chân
  8. chính. Chính vì thế lúc n ày nền kinh tế thị trường của Trung Quốc tồn tại nhiều thành phần kinh tế đó là: kinh tế nhà nư ớc, kinh tế tập thể, kinh tế hỗn hợp, kinh tế tư doanh, kinh tế cá thể, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vị trí chủ đ ạo, các thành phần kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể và tư doanh ở cả th ành th ị và nông thôn đ ều cần phải tiếp tục khuyến khích phát triển. Cũng trong thời gian n ày Trung Quốc tuyên bố đã kết thúc thời kì qu á độ, đ ang ở giai đo ạn đầu tiên của chủ n ghĩa xã hội, và giai đ oạn này kéo dài kho ảng 100 n ăm. Chính việc xác định n ày đ ã cho phép Trung Quốc duy trì nền kinh tế thị trường có nhiều th ành ph ần khác nhau trong một thời gian d ài. Điều này rất quan trọng vì nó làm cho các thành phần kinh tế và lực lượng thị trường trong và ngoài nước yên tâm đầu tư và kinh doanh. Mặt khác Trung Quốc đ ã h ạn chế, khắc phục được mặt trái của cơ chế thị trư ờng, đem lại sự công bằng, bình đẳng hơn cho người lao động, đây là bản chất n ền kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Về vấn đề này, báo cáo chính trị tại đại hội XV Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1997 đã kh ẳng định rõ: kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phát triển kinh tế thị trư ờng dưới điều kiện của Chủ nghĩa xã hội. Điều kiện của Chủ nghĩa xã hội là n ắm vững chuyên chính d ân chủ nhân dân, độc quyền sự lãnh đ ạo của Đảng cộng sản, kiên trì chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Những tiêu chí trên đây đã tạo ra sự khác biệt về bản chất giữa Chủ nghĩa tư bản và Chủ nghĩa xã hội khi cùng áp dụng n ền kinh tế thị trường. Đó cũng là nét đặc sắc của Chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng ở Trung Quốc. 2 . ở Việt Nam: Tháng 12-1986 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diến ra trong bối cảnh đ ất nước đang trong cuộc khủng hoảng kinh tế
  9. – xã hội trầm trọng. Trong khi đó các thế lực thù địch hợp sức tấn công Chủ nghĩa xã hội quyết liêt. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, từ khảo nghiệm thực tế, từ trong phong trào quần chúng nhân dân kết hợp với trí tuệ của toàn Đảng, Đại hội VI đã đề ra đ ường lối đổi mới to àn diện đất nước, khẳng đ ịnh quyết tâm đổi mới theo tinh thần cách mạng và khoa học, đổi mới tư duy, khắc phục quan niệm, nhận thức giản đơn về Chủ nghĩa xã hội, về sản xuất hàng hoá và thị trư ờng Xã hội chủ nghĩa. Một trong những đường lối đổi mới quan trọng nhất là đổi mới về cơ chế và chính sách kinh tế. Đại hội VI kiên quyết xoá bỏ cơ ch ế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, từng bước thực hiện cơ chế hạch toán kinh tế trong kinh doanh, thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các th ành ph ần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hư ớng xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng phát triển lâu d ài, h ợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà n ước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành n ền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hư ớng xã hội chủ nghĩa đã trở thành một đường lối kinh tế quan trọng, sự thực sự lựa chọn đó không phải xuất phát chủ yếu từ những phân tích lí luận và nghiên cứu mô hình kinh tế mà là kết quả của một quá trình tìm tòi, mõ mẫm, làm thử hơn 10 năm khi thực hiện chuyển đổi kinh tế. Trong những năm 80 n ền kinh tế Việt Nam lâm vào trầm trọng và kéo dài, tăng trưởng chậm, lạm phát rất cao, thất nghiệp lớn, nợ nần trong và ngoài nư ớc khó trả, h àng hoá thiếu thốn, kể cả lương thực, đời sống nhân dân khó kh ăn. Đứng
  10. trư ớc nhiệm vụ cấp bách phải sớm ra khỏi khủng hoảng, thoát khỏi nghèo nàn lạc h ậu và phát triển kinh tế, Việt Nam đ ã lựa chọn con đường cải cách kinh tế sâu rộng và toàn diện gọi là chính sách “đổi mới”. Quá trình đổi mới kinh tế cũng giống nh ư Trung Quốc, chủ yếu là quá trình: chuyển từ một nền kinh tế chỉ có hai thành ph ần là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chuyển sang một nền kinh tế nhiều thành phần bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hỗn hợp và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; đó là quá trình chuyển từ một n ền kinh tế điều hành theo cơ ch ế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp chuyển sang n ền kinh tế vận h ành theo cơ chế thị trường có cạnh tranh và sự điều tiết của nhà nước; đó cũng là quá trình chuyển từ một nền kinh tế khép kín và tự cấp tự túc sang nền kinh tế mở, cả đối với trong và ngoài nước. Quá trình cải cách kinh tế đó đ ã chuyển một nền kinh tế không hiệu quả sang một nền kinh tế có hiệu quả, từ sự đ iều hành duy ý chí sang sự quản lý kinh tế hiện thực, chứ không có nghĩa là hoàn toàn thay đổi mục tiêu xây dựng Chủ nghĩa xã h ội của dân tộc Việt Nam. Nền kinh tế nhiều thành phần đ ó vận h ành theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là xây dựng một đất nước trong đó d ân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn m inh. Đến đầu những n ăm 90 những nội dung trên được diễn đạt thu gọn trong một câu đ ã trở th ành quen thuộc “xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hư ớng Xã hội chủ n ghĩa”. Lúc này những đ ề xuất tại đ ại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam 1986 đã b ắt đ ầu phát huy kết quả. Tuy nhiên một đặc điểm nổi bật của tình hình triển khai thực hiện chính sách cải cách thời gian đó là Việt Nam mở đầu đ ường lối cải cách,
  11. đồng thời tìm lối thoát ra khỏi khủng hoảng chủ yếu bằng sức lực của chính m ình trong khi nguồn viện trợ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa đã cạn dần và gần như chấm dứt khi Chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, đ ồng thời cuộc cấm vận kinh tế do Mĩ và các n ước đồng minh áp đ ặt sau chiến thắng của Việt Nam n ăm 1975 ngày càng khép chặt. Việc thực hiện các chính sách đổi mới kinh tế vừa do áp lực của bối cảnh tình hình, vừa nhằm tìm ra con đường phát triển lâu dài thích hợp với các điều kiện của Việt Nam đã và đem lại kết quả nhanh chóng. Chỉ một chính sách giải toả “ngăn sông cấm chợ” cho phép nông dân tự do bán nông phẩm làm ra, giảm bớt sự can thiệp độc quyền của nhà nước, đ ã xoá bỏ được chế độ tem phiếu lương thực và tăng nhanh sản lượng đưa Việt Nam từ một nước nhập khẩu sang một nước xuất khẩu lương thực thứ hai, thứ ba thế giới, cùng với nó lạm phát giảm từ trên 700% xuống còn 45%, các doanh nghiệp vừa và nhỏ được h ình thành tự do kinh doanh trong thị trường. Đến năm 1993-1994 kinh tế Việt Nam đ ã thoát khỏi khủng hoảng, tăng trưởng đạt 7 -8% n ăm, lạm phát giảm còn 1 - 2%, tạo thêm nhiều việc làm, đ ời sống nhân dân cải thiện rõ rệt… Trong điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam những kết quả đó được đ ánh giá là to lớn và rất quan trọng, nó chứng tỏ một nền kinh tế phụ thuộc vào viện trợ từ bên ngoài có thể vươn lên tự chủ bằng sức lực của mình, một nền sản xuất kém hiệu quả có thể trở thành hiệu quả nhờ thay đ ổi cơ chế quản lý kinh tế, nó cũng chứng tỏ chính sách phát triển kinh tế hàng hoá hoàn toàn phù h ợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và có khả năng phát huy các nguồn lực của đ ất nước đ ể tạo ra bước phát triển tương đối nhanh và vững chắc. Tuy nhiên khác với Trung Quốc hiện nay Việt Nam đ ang đ ặt mình ở thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, nghĩa là ch ưa bước vào
  12. chủ nghĩa xã hôi, chưa xác đ ịnh thời gian ( dù một cách tương đối ), n ên cải các thành ph ần kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần có thể còn e ngại, hoài nghi, b ăn khoăn về tính chất tạm thời và ngắn hạn của chính sách, do đó có thể chư a dám đ ặt ra những kế hoạch làm ăn lâu dài. Như vậy mô h ình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một vấn đề mới, h iện còn đang trong giai đo ạn hình thành và hoàn thiện. Tuy có nhiều kết quả có th ể khẳng đ ịnh sự đúng đắn và ý ngh ĩa to lớn của nó, song còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu và phát triển. III. Những cải cách và đổi mới trong kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam. Trong n ền kinh tế cả Việt Nam và Trung Quốc đều có những cải cách cụ thể trong từng lĩnh vực, ngh ành ngh ề để tạo n ên sự phát triển chung cho to àn đất nước: 1. Chế độ sở hữu: Trước cải cách, theo quan niệm truyền thống, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (dư ới hai hình thức nhà nước và tập thể; trong đó kinh tế nhà nước là hình thức cao, kinh tế tập thể là h ình thức thấp của chế độ công hữu, hình thức thấp phải quá độ sang h ình th ức cao). Cũng theo quan niệm này, chế độ công hữu không chỉ xem xét là đồng nhất với chủ nghĩa xã hội, m à còn không dung hợp với cơ chế thị trường; bỏi vậy chế độ công hữu càng lớn, càng thu ần nhất thị càng có nhiều chủ nghĩa xã hội, còn tư hữu bị đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Những nhận thức sai lầm trên đã đẩy nền kinh tế ở Trung Quốc và Việt Nam đ i đến trì trệ, tụt hậu. Cùng với việc thừa nhận n ền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội, cả Trung Quốc và Việt Nam đã có sự đột phá lớn trong vấn đề sở hữu. Cả hai n ước đã chọn kết cấu sở hữu đa nguyên
  13. gồm: chế độ công hữu, chế độ sở hữu hỗn hợp, chế độ phi công hữu trong đó coi chế độ công hữu là chủ thể, địa vị của chế độ công hữu chủ yếu ở vốn của sở hữu nhà nước và tập thể chiếm ưu thế trong tổng số vốn xã hội. Tiếp đó Đảng cộng sản h ai n ước tiếp tục cải cách chế độ sở hữu khi tách rời chế độ công hữu với h ình thức thực hiện chế độ công hữu. Đây chính là biện pháp mà Đảng và nhà n ước ta đ ã học tập từ cải cách của Trung Quốc. Theo đó thì trước cải cách, chế độ công hữu và hình thức thực hiện nó là đồng nhất với nhau, thì ngày nay hình thức thực h iện chế độ công hữu rất đ a d ạng, có thể thông qua hình thức sở hữu hỗn hợp cổ phần, h ình thức tổ chức vốn của xí nghiệp hiện đại. Thông qua h ình thức cổ phần nhà nước, một mặt vừa đảm bảo vai trò chủ thể của công hữu, mặt khác đảm bảo tránh sự phân hoá hai cực, thực hiện mục tiêu giàu có. 2. Nông nghiệp: cả Việt Nam và Trung Quốc đ ều lấy đ ây làm nội dung quan trọng nhất của công cuộc cải cách, đ ổi mới, với Trung Quốc ngay sau Hội n ghị TW lần 3, nông thôn Trung Quốc đã thực hiện ngay chế độ khoán trong sản xuất nông nghiêp. Ch ế độ khoán thực chất là hình thức lao động hợp đồng, được kí kết giữa ba bên: nhà nước, tập thể, hộ hay nhóm hộ nông dân. Sau khi kí kết, các đội sản xuất căn cứ vào kế hoạch của nhà nước và điều kiện cụ thể của m ình đ ể giao ruộng đ ất và các h ạng mục sản xuất cho các hộ hoạc nhóm hộ nhận khoán kinh doanh. Trong quá trình th ực hiện hộ nông dân phải nộp thuế nông nghiệp, phải bán một số lượng sản phẩm theo yêu cầu của nh à nước. Bên cạnh đ ó, nông d ân còn ph ải nộp một phần sản phẩm thu nhập cho tập thể đ ể gây công quỹ, phần còn lại hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của nông dân. Tất nhiên phần hoa lợi mà nông dân đ ược hưởng phải thoả đáng, có tác dụng khuyến khích vật chất với
  14. n gười lao động. Như vậy chế độ khoán ở nông thôn Trung Quốc là hình thái cụ th ể của việc tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng kinh doanh ruộng đ ất. Với việc tách rời như vậy, người nông dân đã phát huy đ ược quyền tự chủ trong kinh doanh sản xuất. Qua thực tế, chế độ khoán đã làm cho kinh tế tập thể và hoạt động kinh doanh của gia đình có mối liên h ệ chặt chẽ với nhau trên cơ sở b ình đ ẳng, cùng có lợi thể hiện qua các hợp đồng kinh tế. Ch ế độ khoán trong nông nghiệp ở Trung Quốc bắt đầu từ năm 1979 tới nay đã qua hai giai đo ạn: từ 1979 đến 1983 là giai đoạn hình thành các hình thức khoán, từ 1984 đ ến nay là giai đoạn tiến tới ho àn thiện chế độ khoán tới hộ. Nhìn chung tới năm 1984, 100% các đội sản xuất đ ã thực hiện chế đ ộ khoán. Với chế độ khoán, h ình thức của nó khá đa d ạng như khoán theo chuyên môn, tính thù lao theo sản lư ợng: khoán sản lượng tới tổ, tới người lao động và tới hộ. Sự đa dạng về hình thức khoán có ưu điểm là nó phù hợp với tình hình phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng, những hình thức khoán nói trên song song cùng tồn tại và bổ sung cho nhau. Nhìn chung tâm lý của người nông dân thích khoán tới hộ h ơn. Hình thức này dần dần trở th ành phổ biến. Qua thực tế diễn b iến về nông nghiệp Trung Quốc trong những n ăm gần đ ây cho th ấy chế độ khoán m ang tính phổ biến vì nó phù hợp với đ iều kiện khách quan của Trung Quốc, phù h ợp với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lư ợng sản xuất. Ch ế độ khoán đã đ em lại những thắng lợi cơ bản cho nông nghiệp Trung Quốc. Sản lượng lương thực tăng nhanh, nếu năm 1978 là 304,7 triệu tấn thì năm 1987 là 402 triệu tấn. Những sản phẩm khác trong nông nghiệp như bông, dầu, mía, thịt…
  15. đ ều tăng. Điều đáng chú ý là ở nông thôn Trung Quốc cả nông, lâm, ngư n ghiệp và chăn nuôi đ ều phát triển nhanh chóng. Theo đà phát triển của nông nghiệp, thì các nghành phi nông nghiệp ở nông thôn cũng phát triển mạnh. Tỉ trọng giá trị sản lư ợng của công nghiệp, xây d ựng, giao thông vận tải và thương nghiệp ở nông thôn trong tổng giá trị sản phẩm của kinh tế nông thôn tăng từ 31,4% năm 1978 lên 46,9% n ăm 1986. Cũng giống như Trung Quốc, kể từ năm 1976 Việt Nam đã bắt đầu tiến hành cải cách nhưng đến n ăm 1986 m ới th ực sự đ i vào cải cách có hiệu quả. Ngày 13/1/1981 Ban chấp hành TW Đảng cộng sản Việt Nam ban h ành chỉ thị 100 CT/TW về “cải tiến công tác khoán”, mở rộng khoán sản phẩm đ ến nhóm lao động “trong hợp tác xã nông nghiệp”, đ ánh d ấu bước đột phá đầu tiên trong tư duy quản lý kinh tế, tạo động lực quan trọng thúc đẩy quá trình đổi mới trong nông n ghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế nư ớc ta. Trong thời kì đầu của cuộc cải cách, cả Trung Quốc và Việt Nam đều thực hiện chính sách nâng giá nông sản, giảm giá vật tư nh ưng lại có kết quả trái ngược nhau. ở Trung Quốc chính sách này đ ã chẳng những làm cho thu nh ập của nông d ân tăng lên mà còn thúc đ ẩy sản lư ợng tăng trưởng theo định hướng. Còn ở Việt Nam động lực đổi mới này suy giảm nhanh chóng do trong nền kinh tế mức trợ cấp chung vẫn cao, thâm hụt ngân sách nhà nước tăng, tỉ lệ lạm phát cao. Đến năm 1987 ở nhiều n ơi, phần còn lại của nông dân sau khoán chỉ còn 20% hay th ấp hơn nữa, nhiều người không nộp đủ sản lượng phải nợ hợp tác xã, sản xuất nông n ghiệp lại bị trì trệ. Thời tiết xấu năm 1987 đã làm giảm sản lượng lương thực
  16. khoảng 800.000 tấn, dẫn đ ến thiếu lương thực trầm trọng ở nhiều nơi. Trong giai đoạn 1985-1991, Trung Quốc thực hiện cải cách lưu thông, bỏ thu mua nông sản, áp dụng mua theo hạn ngạch, được bán phần vượt mức khoán, đ ồng thời tự do hoá bán buôn, bán lẻ, đa dạng hoá thị trường. Tại Việt Nam chính sách tương tự cũng đã được thực hiện và cho kết quả rất tốt: nhà nước xoá bỏ bao cấp, phân bón, vật tư được bán theo giá thị trường và nông sản cũng do th ị trường quyết đ ịnh, thị trường trong nư ớc thông thoáng dần. Về bản chất, hệ thống chính sách n ày cho phép các nguồn tài nguyên trong nền kinh tế được phân bổ và sử dụng hiệu quả h ơn, quan hệ thương mại giữa lĩnh vực nông nghiệp và các lĩnh vực khác trở nên công b ằng hơn. Nông dân đã được lợi nhờ chủ động quản lý sản xuất nay lại được lợi nhờ chủ động sử dụng thị trư ờng, quan hệ phân phối sản phẩm được tiếp tục cải thiện về vĩ mô, nhờ đó hiệu quả của chính sách khoán được nhân lên gấp bội. Năm 1989, sản lượng lương thực đang là 19,6 triệu tấn phải nhập khẩu lương thực, sang năm sau tăng vọt lên 21,5 triệu tấn, b ình quân lương thực đầu người trở lại và vượt qua mức trên 300 kg của thời kì 1955-1958, chuyển sang xuất khẩu và từ đó trở đi sản lượn g lương thực mỗi n ăm tăng thêm 1 triệu tấn, lượng gạo xuất khẩu n ăm sau cao hơn năm trước. Một điểm khác biệt cơ bản giữa cải cách nông nghiệp của Việt Nam và Trung Quốc trong thời kì này là: tại Việt Nam, nếu có chính sách “khoán sức cho dân” h ợp lí sẽ tạo nên khả năng tích lu ỹ tái sản xuất mở rộng cho nhân dân thực hiện, tạo nên quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng phi nông n ghiệp, phá vỡ vòng vây việc làm và thu nhập của ccs đồng bằng đông dân, đ ây là
  17. cơ hội xuất hiện đầu thập kỉ 80 ở Trung Quốc mà Đặng Tiểu Bình đã nắm bắt lấy thúc đẩy bằng các chủ trương táo b ạo, tạo nện hiện tượng “công nghiệp hương trấn thần kì”. Tuy nhiên do sự tập trung cho nông nghiệp không đủ mạnh, đầu thập kỉ 90 và nửa sau thập kỉ 90 ở Việt Nam cộng th êm tình trạng cánh kéo giá đã không tạo được lực đẩy cần thiết giúp nông dân vượt qua ngưỡng tích luỹ tư b ản đ ể phát triển nghành nghề phi nông nghiệp trên quy mô rộng ở nông thôn. Bước sang giai đo ạn 1992-1997 ở Trung Quốc thực hiện pháp chế hoá cải cách: ban hành lu ật nông nghiệp, luật khuyến nông… Tự do hoá giá cả, nông sản, tách quản lý của nhà nước, của chính quyền khỏi chức n ăng kinh doanh doanh nghiệp. Còn ở Việt Nam ngày 10/6/1993 Ban chấp hành TW Đảng ra nghị quyết 5: thuế nông nghiệp giảm 1/2, luật thuế sử dụng đ ất được ban h ành thay thế cho thuế nông nghiệp (giúp giảm thu cho nông dân 20%), tổ chức hệ thống khuyến nông. Nghị quyết đi vào cuộc sống tạo nên những biến đổi to lớn: đầu tư n gân sách cho nông nghiệp tăng nhanh (1993 đ ầu tư 3.495 tỉ đến 1997 là 4.712 tỉ ); tín dụng cho nông nghiệp, nhất là các hộ gia đình tăng nhanh ( n ăm 1995 tổng số vốn vay của nông dân từ quỹ tín dụng là 369,1 tỉ đ ến năm 1998 là 1.619 tỉ ). Hệ thống khuyến nông được thành lập và hoạt động có hiệu quả ở tất cả các tỉnh, phát triển tới huyện, xã. Năm 2001 tất cả n ước có 468 trạm khuyến nông cấp huyện, 2174 câu lạc bộ khuyến nông, 1136 hợp tác xã khuyến nông với tổng cán bộ là 5851 người… Hệ thống chính sách trên đ ã góp phần làm cho sản xuất nông n ghiệp Việt Nam tiếp tục tăng trư ởng vững chắc với tỉ lệ bình quân 4-5% năm, các n ghành sản xuất hàng hoá hình thành, anh ninh lương th ực bảo đảm, lúa gạo, cà
  18. phê, hạt điều, hạt tiêu… trở th ành m ặt h àng xu ất khẩu quan trọng. Thu nhập của nông dân tăng lên, t ỷ lệ đó i nghèo giảm bình quân 2% năm. Hiện nay cả Việt Nam và Trung Quốc đ ều tiếp tục thực hiện các chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp bằng biện pháp tăng khả n ăng cạnh tranh và đều đạt được thành tựu to lớn. Tuy vậy cả Trung Quốc và Việt Nam đ ều không tránh khỏi những sai lầm trong quá trình cải cách. Sai lầm của Trung Quốc là không nh ất quán lựa chọn ưu tiên phát triển th ành th ị hay nông thôn. Bước vào giai đoạn cải cách kinh tế, với những chính sách mới, nông nghiệp nông thôn tỏ rõ vai trò quan trọng của mình nhưng khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá bắt đầu tăng tốc, lại xuất hiện những thách thức mới về lựa ưu giữa công nghiệp và nông n ghiệp. Bên cạnh những thành tựu quan trọng của công cuộc cải cách kinh tế nông n ghiệp và những tuyên bố của chính phủ rằng cải cách nông nghiệp là trọng điểm, sự nhình nh ận vai trò nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá vẫn chưa hợp lí. Hệ thống chính sách thực tế vẫn không hướng về hỗ trợ nông nghiệp, chính phủ vẫn mua với giá quy định h ơn 10% h ạt lương thực của nông dân qua đó đ iều tiết tài nguyên từ nông thôn ra th ành thị. Còn tại Việt Nam, thực tế quá trình đổi mới chính sách cho th ấy chúng ta dễ mắc phải một sai, một lầm sau: Một lầm là do cho rằng phải nhanh chóng từ bỏ cơ ch ế thị trường chuyển sang áp dụng kế hoạch hoá n ền kinh tế. Tron g khi thực tế là một nền kinh tế tiểu nông, chúng ta mới đi bước đ ầu ở chặng đường đ ầu của giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Một sai là quá trình nh ấn mạnh tính độc lập tương đối của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Sai lầm n ày dẫn đến chủ trương vội vã lo ại bỏ mọi thành phần kinh tế, kể cả kinh tế hộ, chỉ áp dụng hai hình thức sở hữu tập thể và toàn dân, kết quả là quan
  19. h ệ sản xuất mới chẳng những không mở cửa mà còn ch ặn đường lực lượng sản xuất phát triển. 2 . Công nghiệp: ở Trung Quốc ngay từ năm 1979 khi bắt đầu bước vào cải cách, đổi mới Trung Quốc đ ã thực hiện chính sách giảm bớt quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp nặng, đồng thời chú trọng tăng quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp nhẹ. Đưa việc phát triển công nghiệp nhẹ vào vị trí quan trọng, tiếp tục thực hiện “sáu ưu tiên” đối với công nghiệp nhẹ. Công nghiệp nặng không chèn ép công nghiệp nhẹ và đảm bảo cho công nghiệp nhẹ tăng trưởng ổn đ ịnh. Bản thân công nghiệp phải nâng cao trình độ kĩ thuật và thích ứng với nhu cầu thay đổi của thị trường. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp nhẹ phải được quy hoạch theo mức tiêu thụ của nhân dân, và theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì tốc độ n ày phải cao h ơn tốc độ tăng trưởng của thu nhập quốc dân và tốc độ tăng trưởng về sức mua hàng hoá của nhân dân thì m ới đ ảm bảo được sự ổn đ ịnh của thị trường. Theo dự tính của Trung Quốc, đến cuối thế kỉ tổng sản lượng của công nghiệp nhẹ sẽ chiếm khoảng 45% tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Cơ cấu sản phẩm công nghiệp phải thay đổi tuỳ theo mức tiêu thụ và cơ cấu tiêu thụ và phát triển theo hư ớng: mới, tốt, rẻ, đẹp, đ a d ạng và vừa túi tiền của cư d ân. Mặt khác phải đưa công nghiệp nặng vào qu ỹ đạo phục vụ việc cải tiến kĩ thuật nông n ghiệp, công nghiệp nhẹ và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cần khắc phục tình trạng sản phẩm trung gian của công nghiệp nặng được chi dùng quá nhiều cho bản thân công nghiệp nặng ( thí dụ vào cuối thập kỉ 70, điện dùng đến 70%, than đá 64%, dầu mỏ 65%...) không đ ể tốc độ phát triển công nghiệp nặng biến động quá lớn. Cần phải khống chế chặt chẽ tổng quy mô đầu tư vốn cố định và cơ cấu đ ầu
  20. tư . Trong cơ cấu của bản thân công nghiệp nặng, cần khống chế sự phát triển nhanh về sản lượng của nghành chế tạo cơ khí, đồng thời phải hiện đ ại hoá nghành n ày để làm cơ sở đẩy nhanh tốc độ phát triển của các nghành công nghiệp khai thác và sản xuất nguyên vật liệu. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng coi việc hiện đại hoá phương pháp lao động trong công nghiệp nặng có tác dụng quyết định đối với sự phát triển, vì theo họ đó là sự vật chất hoá trí tuệ, là cái mốc của tiến bộ kĩ thuật. Chính vì th ế trong những năm qua, cơ cấu của nền kinh tế đã bư ớc đầu giảm được tỉ lệ mất cân đối giữa công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Năm 1979 quan h ệ tỉ lệ giữa ba khu vực này là 1,12:1:1 và tới năm 1982 thì thay đổi theo tỉ lệ 0,99:1:0,98. Nh ìn vào quan hệ tỉ lệ trên thì công nghiệp nặng đã giảm tỉ trọng và công nghiệp nhẹ đã chiếm tỉ trọng lớn nhất. Trong đường lối về phát triển công nghiệp, Trung Quốc rất coi trọng vấn đ ề h iện đ ại hoá, coi hiện đ ại hoá công nghiệp là tiền đề để thực hiện hiện đại hoá các n ghành khác. Theo Trung Quốc hiện đ ại hoá công nghiệp bao gồm hai mặt: hiện đ ại hoá công nghệ và hiện đại hoá cơ cấu kinh tế. Để thực hiện hiện đ ại hoá công n ghệ, trong những năm đầu đổi mới cải cách, Trung Quốc rất coi trọng vốn và kĩ thuật phương Tây và cho rằng “mở cửa” là đ ể lợi dụng vốn và kĩ thuật nước ngoài phục vụ hiện đại hoá. Chính vì vậy, trong suốt thập kỉ 80 nhiều hình thức nh ư: vay vốn, hợp tác liên doanh, thành lập các đặc khu kinh tế, các th ành phố mở cửa… đã được áp dụng, cùng với nó Trung Quốc tiến hành cải cách các doanh nghiệp nhà nước, phát triển xí nghiệp hương trấn – một hình thức công nghiệp hoá nông thôn đ iển hình, thực hiện các chính sách về thuế, giá cả , phát triển nguồn nhân lực, khoa học kĩ thuật… tạo đà cho sự phát triển nhanh của công nghiệp. Trong cải
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2