YOMEDIA
ADSENSE
"Phiên chợ Giát" từ góc nhìn hiện tại
75
lượt xem 11
download
lượt xem 11
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Xét theo thành phần ở đây có thể nói đến sự chiếm ưu thế của cách thức miêu tả tạo nên khoảng dừng của thời gian kể và bao gồm hai mệnh đề được ngăn cách bằng một dấu chấm phẩy
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: "Phiên chợ Giát" từ góc nhìn hiện tại
- "Phiên chợ Giát" từ góc nhìn hiện tại
- Xét theo thành phần ở đây có thể nói đến sự chiếm ưu thế của cách thức miêu tả tạo nên khoảng dừng của thời gian kể và bao gồm hai mệnh đề được ngăn cách bằng một dấu chấm phẩy. Sự tồn tại dạng văn bản này không hề ngẫu nhiên vì chúng là hai phần khác hẳn nhau có điểm quy hồi là nhân vật được miêu tả trong giấc mơ của lão Khúng. Mệnh đề đầu tiên là một khoảng dừng của thời gian câu chuyện, nhưng lại là thời gian truyện kể, bao gồm các chi tiết cơ thể đi kèm với các tính từ miêu tả của người kể chuyện – lúc này đứng ở cùng vị trí của lão Khúng khi đang nhớ lại giấc mơ: cao vóng, lủng củng, gồ ghề, gườm gườm, nổi cuồn cuộn. Trong số đó chỉ có một tính từ mang tính định giá rõ nhất: gườm gườm. Thái độ của nhân vật – thường sẽ định hướng cho người nghe chuyện - chỉ thực sự được bộc lộ trong một tính từ miêu tả tổng quát ở mệnh đề sau: ghê tởm. Đoạn miêu tả cụ thể, chi tiết và cận cảnh nhân vật trong giấc mơ của lão Khúng ngoài ra còn có chức năng khởi động. Nó được miêu tả từ con mắt của lão Khúng ở thời hiện tại trong chiều hướng nhớ lại quá khứ. Như vậy nhân vật được kể và tả trong giấc mơ của lão Khúng có vẻ như chịu một sự đánh giá theo hướng phủ định từ góc nhìn của chính lão. Xét theo tiến trình lời kể, có thể thấy sự sắp xếp logic của người kể chuyện: đi từ miêu tả sang hành động, từ khoảng dừng của thời gian truyện kể sang thời gian diễn tiến của câu chuyện. Một nhân vật thứ ba với tư cách đối tượng của câu chuyện xuất hiện: con bò của lão Khúng trong trạng thái đang chờ đợi giờ phán quyết ở giấc mơ – một sự phán quyết tàn nhẫn với hành động khủng khiếp mà kết quả của nó hiện ra ở những chữ cuối cùng của đoạn diễn ngôn: khiến cho một con mắt dính đầy máu trồi ra ngoài. Tuy nhiên, một hiệu quả khá bất ngờ hiện ra có thể ghi nhận: cảm xúc “ghê tởm” không phải của người kể. Nó thuộc góc nhìn của riêng lão Khúng trước cảnh diễn của giấc mơ này. Điều này gắn với một xu hướng của văn xuôi giai đoạn đầu đổi mới trong thỏa ước kể chuyện: lời phát ngôn của nhân vật trở nên tách biệt với phát ngôn của người kể chuyện. Việc phân biệt hai loại lời phát ngôn này càng trở nên quan trọng để không vi phạm thỏa ước đọc truyện. Nhân vật của truyện kể này là một người nông dân, ít nói và không ai rõ ông ta có suy nghĩ nhiều đến thế không. Nhưng chắc chắn suy nghĩ của ông ta sẽ bị phân mảnh“… như nhiều đàn bò của nhiều nhà tự nhiên đem nhốt chung
- vào một chuồng và suốt đêm chúng nó húc nhau, rượt đuổi nhau lung tung beng cả lên, ở trong ngăn chuồng quá đỗi chật hẹp là cái đầu của lão”. Người kể chuyện có nói tường minh điều này khi đứng tách ra khỏi vị trí nhân vật chính để nhận xét vừa hiển ngôn vừa so sánh mở rộng kiểu tu từ – nhưng không định giá - về cách thức suy nghĩ của nhân vật. Sự xuất hiện của điểm nhìn của lão Khúng như là điểm nhìn chính của truyện kể, thay thế dần điểm nhìn truyền thống của người kể chuyện buộc người đọc thận trọng khi phán xét; những điều ấy mang lại một sự khác biệt căn bản giữa tác phẩm Nguyễn Minh Châu thời điểm sau 1980 với những tác phẩm thời chiến tranh. Ví dụ đoạn văn miêu tả suy nghĩ nhân vật khi dong bò và nghĩ tới cảnh công trường; ở đó nhờ thu hẹp điểm nhìn, trộn lẫn hai vị trí, truyện kể của Nguyễn Minh Châu có thể đặt kề nhau hai chủ đề tưởng như cách rất xa nhau, được thể hiện bằng hai câu văn. Hơn nữa những điều được nêu ra ở đây là dưới con mắt của nhân vật chính – trong một tiến trình suy nghĩ kiểu đầu Ngô mình Sở - chứ không phải rành mạch duy lý của người kể chuyện. Người kể chuyện giờ đây đã từ bỏ quyền phán xét và định hướng cho người nghe chuyện: Phải, hồi bấy giờ thằng Dũng hãy còn nhỏ, là một đứa chúa nghịch ở trong xóm, con khoang đen tuy đã đẻ vài lứa nhưng trông vóc dáng bề ngoài còn là một ả gái tơ đầy quyến rũ và cũng không hiểu sao y như thường xảy ra với những người đàn bà đặc biệt hấp dẫn đàn ông - những lão bò đực đầu đàn đầy hung dữ của ngoài chục xã cứ lăn xả vào mà húc nhau, rượt nhau, gây ra những trận kịch chiến khủng khiếp để quyết giành lấy con khoang đen cho kỳ được. Cũng từ ngày sinh ra đời chưa bao giờ con khoang đen và thằng Dũng được sống dưới bầu trời rộng rãi và náo nức là thế, trong một khung cảnh lao động lãng mạn là thế - một công trường thủ công - đúng như tên trong các sách vở của Mác thường nói và chủ tịch Bời là người đã có công biến thành sự thực nhãn tiền: khắp mọi xó xỉnh trong cả huyện, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con được điều về đông nghìn nghịt, người đã đông mà trâu bò lại càng đông hơn; dân các xã cùng trâu bò trước khi kéo quân về đã được phiên chế thành cơ ngũ: tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn đâu ra đấy với các vị tư lệnh cùng chính ủy, kèn tiến quân, kèn lui quân, trống cái, trống ếch, cờ đuôi nheo, cờ lá chuối, cờ rước thần, cờ đỏ sao vàng, những phù hiệu cấp chức bằng vải, bằng giấy lòe loẹt trên các bả vai và ống tay áo, loa phóng thanh từng buổi, từng giờ vang vang công bố cho toàn công trường những kỷ lục năng suất.
- Chúng ta thấy ở đây phát ngôn có chủ thể là lão Khúng, nhưng người thực hiện vẫn là người kể chuyện với lối nói nhiều tầng bậc, trau chuốt. Chỉ có hai câu cho hai chủ đề cách nhau khá xa, con bò là điểm hồi quy liên kết lại. Không đơn giản ở đây là sự đối chiếu, mà là mạch nhớ của nhân vật chính – một lão nông – dưới ngòi bút người kể chuyện. Nhưng nếu như câu thứ nhất còn một câu in dấu ấn của sự pha trộn điểm nhìn, người phát ngôn; thì câu thứ hai điểm nhìn của nhân vật đã chiếm ưu thế. Có đến hai điểm nhìn nhân vật lồng vào nhau chỉ trong một câu, nhưng tất nhiên đều biến dạng qua cảm xúc của lão Khúng. M ột loạt các ngữ danh từ kế tiếp nhau thực hiện việc liệt kê nhằm miêu tả ấn tượng còn lại trong đầu nhân vật, như một hình ảnh của kính vạn hoa. Tiếng nói của người kể chuyện biến mất, dù chưa hoàn toàn, nhường chỗ cho nhân vật chính, để từ đó dứt bỏ sự đánh giá theo lối hoàn tất và phán xét đối với những gì được thể hiện. Hơn nữa, người nghe chuyện còn lắng nghe thấy âm vang của những loại ngôn từ khác vọng vào trong lời kể này. Đó là lời của người kể chuyện, của nhân vật chính, của những khẩu hiệu, nghị quyết, b ài phát biểu và cả niềm tin đương thời. Chúng tạo nên những bè đối thoại với nhau, lồng vào nhau trong bản tổng phổ rất ngắn này. Một dấu hiệu của tính đa thanh trong tiểu thuyết. Đoạn văn mở đầu như vậy đã thiết lập mối liên hệ giữa ba nhân vật qua hành động khủng khiếp (bổ xuống giữa đầu con bò) được miêu tả ở khoảng cách rất gần: lão Khúng, nhân vật mà lão Khúng thấy và con bò. Tất cả được nhìn qua góc nhìn hẹp của nhân vật chính, ghi dấu ấn hiện tại, chưa hoàn tất. Có thể nói đoạn văn mở đầu đã hoàn thành chức năng màn giao đãi trong vở kịch cổ điển: giới thiệu nhân vật và mâu thuẫn kịch. Hơn nữa, sự xuất hiện của hành động trong đoạn diễn ngôn đóng vai trò một sự liên kết ngầm nối liền toàn bộ các hành động khác trong truyện kể, và sẽ là ẩn dụ cho hành động chính của truyện kể: đưa con bò đến lò sát sinh. Thời điểm “báo trước” cái chết – còn được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc giữ vai trò điểm nhịp - sẽ trở thành một ngưỡng chờ đợi cho cả người kể chuyện, nhân vật lẫn người nghe chuyện. Có thể liên hệ ở đây thủ pháp dựng kết cấu hay gặp trong các kịch bản phim hành động của Mỹ nói riêng và các loại bộ phim hành động nói chung. Chúng ta sẽ còn quay lại hiệu ứng đón trước này ở phần sau.
- Cái mốc chỉ ra quan hệ giữa hai dòng thời gian, câu chuyện và truyện kể, được nêu ra nhiều lần nữa ở những đoạn kiểu như: “Nghĩ tiếp về giấc mơ…”. Trong cả đoạn rất dài này, dĩ nhiên không thể nói đến một sự trùng khít tuyệt đối giữa hai dòng thời gian, người nghe chuyện thỉnh thoảng đứng tách ra lắng nghe người kể chuyện bình luận. Nhưng phần lớn thời gian ấy anh ta đứng ở vị trí của lão Khúng thứ hai để nghe người kể chuyện bình luận. Có những lúc, hai điểm nhìn trùng khít nhờ sự thâm nhập của lời kể gián tiếp tự do vào trong diễn ngôn của truyện kể, như đoạn lão Khúng đứng chênh vênh giữa mơ và thực, giữa thực tại và quá khứ: “Pin! pin! pin! Lạ lùng sao, con bò bỗng kêu rống lên lanh lảnh như… ”. Nỗ lực của người kể chuyện trong truyện kể này là tạo ra một sự kết nối giữa các tuyến thời gian chồng lên nhau: hiện tại của văn bản, hiện tại của câu chuyện. Chính ở chỗ chồng ghép và kết nối này lại hiện ra một khoảng trống lờ mờ, một sự đứt gãy của dòng thời gian kể. Thông thường, các nhà văn sử dụng những liên từ hay thủ pháp ngôn từ nhằm nối – và cũng để phân biệt - hai không gian hậu cảnh và tiền cảnh, hai dòng thời gian quá khứ và hiện tại. Nguyễn Minh Châu lại bỏ trống. Sự thay đổi cách kể và điểm nhìn thuật chuyện đã tạo điều kiện cho một sự đa dạng trong cách đánh giá không chỉ với nhân vật mà cả với chính những điều có thể coi như “luận đề” của tác phẩm. Tôi gọi đó là cá nhân hóa điểm nhìn. Bản thân việc cá nhân hóa điểm nhìn – hệ quả của nó là sự thu hẹp góc nhìn trước thực tại – đã là một lời tuyên bố bằng thủ pháp nghệ thuật mà Nguyễn Minh Châu sẽ trình bày hiển ngôn sau nhiều năm. Chính cách làm này khiến cho thực tại truyện kể hiện ra một cách chủ quan hơn, nhưng cũng khách quan hơn, vì người nghe chuyện ý thức rõ hơn những giới hạn (cũng là những điều không có thật) được đặt ra trong truyện kể chứ không còn ảo tưởng vào năng lực, chân lý tối cao phán xét và định hướng của người kể chuyện như trước. Cả câu chuyện nương theo tuyến thời gian hiện tại, mở rộng và phát triển theo hướng kể lại những mẩu khác nhau trong cuộc đời lão Khúng. Một quá khứ được hiện tại bày ra, cắt mảnh, theo những suy tư bất định của nhân vật chính, một người nông dân kiệm lời cả đời gắn với mặt đất. Kiểu dựng truyện này có thể không xa lạ với nhà văn và bạn đọc Việt Nam qua những tiểu thuyết được dịch đương thời của T. Aimatov. Câu chuyện của lão Khúng và về cuộc đời lão vì thế dường như không có thời điểm bắt đầu
- cụ thể. Dường như nó bắt đầu từ vô cùng, từ cái thời điểm hiện diện con người lão Khúng. Khởi đầu từ một thời điểm bất kỳ, chọn khoảnh khắc hiện tại có sự đồng quy của thời gian kể với thời gian truyện, nhà văn thâu tóm cả cuộc đời nhân vật. Cách thức kể này hẳn không xa lạ với các nhà văn Việt Nam cách Nguyễn Minh Châu cả nửa thế kỷ. Có điều những câu chuyện của Nam Cao – kiểu kết cấu tác phẩm mà Nguyễn Minh Châu học được rất nhiều – với quá khứ được phơi bày qua lời kể kế tiếp ngay sau đó của một kẻ thứ ba nào đó có góc nhìn bao trùm, tức người kể chuyện ở hậu cảnh; và tuân theo nguyên tắc tuyến tính của diễn ngôn có chức năng nhân quả rõ rệt: lý giải quá trình tha hóa của nhân vật. Tính nhân quả được chọn lựa trình bày trong tiến trình truyện kể luôn thể hiện quan điểm của người kể chuyện, đánh giá. Thế mà quá khứ của lão Khúng được nhớ lại qua lời kể - tuyến thời gian hậu cảnh - hình như lại không liên can trực tiếp đến việc lý giải hay đánh giá tiến trình hành động cụ thể trong hiện tại của lão Khúng: đem bò đi bán và thả bò. Vì thế sẽ là vô nghĩa để lắp ghép lại chúng lại theo tiến trình thời gian. Bản thân vị trí của chúng trong toàn bộ tiến trình truyện kể dường như là võ đoán.
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn