100 Nhân Vật Nổi Tiếng Nhất Văn Hóa Trung Quốc
lượt xem 79
download
Đời Đường Hán Dũ có sáng tạo một phả hệ thánh nhân tương truyền cho nhau gọi là "Đạo thống" như vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ, vua Vũ truyền ngôi cho Thương Thang, Thương Thang truyền ngôi cho Chu Văn Vương, Chu Văn Vương truyền ngôi cho Chu Võ Vương, Chu Công, Văn Vương, Võ Vương lại truyền cho đến Khổng Tử, Mạnh Tử. Văn Vương là hệ thốnng mắc xích quan trọng trong hệ thống tương truyền ấy....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: 100 Nhân Vật Nổi Tiếng Nhất Văn Hóa Trung Quốc
- 100 Nhân Vật Nổi Tiếng Nhất Văn Hóa Trung Quốc 1. Chu Văn Vương. 2. Chu Công. 3. Quản Trọng. 4. Lão Tử. 5. Khổng Tử. 6. Tôn Võ. 7. Mặc Tử. 8. Thương Ưởng. 9. Mạnh Tử. 10. Trang Tử. 11. Khuất Nguyên. 12. Tuân Khanh. 13> Trâu Diễn. 14> Hàn Phi. 15> Tần Thủy Hoàng. 16> Trần Thắng. 17> Thúc Tôn Thông. 18> Đồng Trọng Thư. 19> Hán Võ Đế. 20> Trương Khiên. 21> Tư Mã Thiên. 22> Tô Võ. 23> Lưu Hâm. 24> Trương Lăng. 25> Thái Luân. 26> Hứa Thận. 27> Trịnh Huyền. 28> Tào Tháo. 29> Quan Vũ. 30> Gia Cát Lượng. 31> Nguyễn Tịch. 32> Vương Bật. 33> Cát Hồng. 34> Đào Uyên Minh. 35> Lương Võ Đế. 36> Hiếu Văn Đế. 37> Nhan Chi Thôi. 38> Ngụy Trưng. 39> Đường Thái Tông. 40> Huyền Trang. 41> Võ Tắc Thiên. 42> Huệ Năng. 43> Vương Duy. 44> Lý Bạch. 45> Nhan Chân Khanh. 46> Đỗ Phủ.
- 47> Dương Viêm. 48> Lục Vũ. 49> Hàn Dũ. 50> Bạch Cư Dị. 51> Tống Thái Tổ. 52> Dương Nghiệp. 53> Tất Thăng. 54> Phạm Trọng Uyên. 55> Bao Chửng. 56> Thiệu Ung. 57> Tư Mã Quang. 58> Vương An Thạch. 59> Tô Thức. 60> Nhạc Phi. 61> Chu Hi. 62> Lục Cửu Uyên. 63> Thành Cát Tư Hãn. 64> Quách Thủ Kính. 65> Văn Thiên Tường. 66> Thi Nại Am. 67> Minh Thái Tổ. 68> La Quán Trung. 69> Trịnh Hoà. 70> Vương Dương Minh. 71> Lý Thời Trân. 72> Thang Hiển Tổ. 73> Từ Quang Khải. 74> Hoàng Tông Hi 75> Cố Viêm Võ. 76> Vương Phu Chi. 77> Thanh Thánh Tổ (Khang Hi). 78> Thanh Cao Tông (Càn Long). 79> Tào Tuyết Cần. 80> Lâm Tắc Từ. 81> Cung Tự Trân. 82> Ngụy Nguyên. 83> Tăng Quốc Phiên. 84> Hồng Tú Toàn. 85> Lý Hồng Chương. 86> Dịch Kỳ. 87> Từ Hi. 88> Trương Chi Động. 89> Nghiêm Phục. 90> Khang Hữu Vi. 91> Viên Thế Khải. 92> Đàm Tự Đồng. 93> Tôn Trung Sơn. 94> Thái Nguyên Bồi. 95> Lương Khải Siêu.
- 96> Vương Quốc Duy. 97> Trần Độc Tú. 98> Lỗ Tấn. 99> Lý Đại Chiêu. 100> Đào Hành Tri. Một Số Nhân Vật Tiêu Biểu CHU VĂN VƯƠNG (Năm sinh không rõ mất năm 1033 trước Công nguyên) _ Đời Đường Hán Dũ có sáng tạo một phả hệ thánh nhân tương truyền cho nhau gọi là "Đạo thống" như vua Nghiêu truyền ngôi cho vua Thuấn, vua Thuấn truyền ngôi cho vua Vũ, vua Vũ truyền ngôi cho Thương Thang, Thương Thang truyền ngôi cho Chu Văn Vương, Chu Văn Vương truyền ngôi cho Chu Võ Vương, Chu Công, Văn Vương, Võ Vương lại truyền cho đến Khổng Tử, Mạnh Tử. Văn Vương là hệ thốnng mắc xích quan trọng trong hệ thống tương truyền ấy. _ Kỳ thực, vào đời Chu Văn Vương, nước Chu chỉ là một trong nhiều nước được vua Trụ phong cho và Văn Vương chẳng qua cũng chỉ là một trong những chư hầu của vua Trụ nhà Thương mà thôi. Địa vị Văn Vương sở dĩ được đề cao lên đến hàng thánh nhân, căn bản là vì qua sự đề cao tôn sùng của các tư tưởng gia hậu thế khiến Chu Văn Vương trở thành điển hình cho phong cách chính trị của các bậc đế vương. _ Chu Văn Vương trong sự thật lịch sử là một người thống trị có tinh thần vụ thực tên thật là Cơ Xương. Sách Thượng Thư khen tặng ông "không dám ham mê việc săn bắn rong chơi" suốt ngày ông chuyên cần chính sự, rất ít khi được ăn cơm đúng bữa. Ông còn đốc xúc thúc giục mọi người chăm lo trồng trọt phát triển nông nghiệp. Đồng thời ông chú ý thương yêu dân chúng, nuôi dưỡng cô nhi quả phụ, thực hành một hệ thống chính sách ích quốc lợi dân, vì vậy mà đất phong của ông hưng thịnh lên. _ Văn vương Cơ Xương còn là một nhà chiến lược có tầm nhìn xa trông rộng. Ông dùng thân phận một vị chư hầu "Tây bá" đóng ở đất Quan Trung ngấm ngầm triển khai chuẩn bị trận quyết đấu sinh tử với triều Ân Thương. Một mặt, ông làm thiện tích đức, hình thành thế đối đầu với vua Trụ tàn bạo hoang dâm khiến "các chư hầu quay về quy phục ông". Sau khi được tha ở ngục Dũ Lý, ông dâng đất Lạc Thủy cho vua Trụ để xin vua Trụ bỏ hình phạt "Bào lạc" (một loại hình phạt tàn khốc bắt người có tội nung vào lò lửa) càng khiến thanh danh ông được nâng cao. Mặt khác, ông liên kết thế lực với các chư hầu chung quanh rồi dẫn quân tiến thẳng về kinh đô nhà Thương. Đại quân ông vượt sông Hoàng Hà, tiến vào vùng Hà Đông đánh hạ các nước Thi (nay thuộc Sơn Tây), nước Can (nay thuộc Hà Nam). Một đạo khác men sông Vị thủy tiến về hướng đông, hạ cứ điểm quan trọng ở đất Vinh (nay là thành phố Tây An) hình thành
- thế gọng kiềm bao vây kinh đô nhà Thương. Là một mưu lược gia thiên tài, Cơ Xương tuy thu được một loạt thắng lợi quân sự chính trị, chiếm 2/3 đất đai thiện hạ, nhưng vẫn còn phải xưng tôi thần với nhà Thương. Ông đợi chờ thời cơ, tích lũy lương thực, lực lượng để đánh trận cuối cùng. Trận đánh cuối cùng ấy sẽ do con trai ông là Cơ Phát hoàn thành. _ Nhãn quan chính trị gia của Cơ Xương biểu lộ ở điểm ông rất coi trọng nhân tài và thành thật tìm cầu người hiền năng. Có lẽ mọi người đều biết câu chuyện giữa ông và Khương Tử Nha, Khương Tử Nha, tức Khương Thượng, vốn là người phương đông, từng làm nghề giết trâu bò ở kinh đô Triều Ca nhà Thương, lại từng bán rượu trên bến Mạnh Tân, tuổi đã quá 60 mà vẫn nghèo khổ lưu lạc chỉ có một chí khí hơn người. Nghe nói "Tây bá" Văn Vương chiêu hiền đãi sĩ, họ Khương ngày ngày đến câu cá trên dòng suối dưới chân núi Kỳ Sơn, hi vọng được gặp gỡ Tây bá. Quả nhiên Tây bá Văn Vương đi săn qua gặp Khương Tử Nha, sau lúc bàn luận, hết sức tâm đắc. Văn vương vui mừng bảo: "Tiên vương Thái công ta sớm vẫn hi vọng có hiền nhân phò tá, có lẽ ông là hiền nhân mà tiên vương Thái công ta hi vọng đó chăng !". Nhân vậy, Khương Tử Nha cùng lên xe về triều bái làm sư phụ, hết sức tôn kính. Quả nhiên Khương Tử Nha không kỳ vọng của Văn Vương, ông hiến cho Văn Vương rất nhiều mưu hoạch. Sử gọi là: "Thiện hạ chia ba, hai phần theo về với Chu, phần lớn là nhờ mưu kế của Thái công". Do vì Văn Vương tâm thành cầu kiếm người tài nên kết quả "phần lớn kẻ sĩ đều theo về", trong đó có cả Bá Di, Thúc Tề. Sự nghiệp của Văn Vương ngày càng hưng thịnh phát đạt. _ Cơ Xương trị nước "làm việc nhân kính người lão, yêu trẻ nhỏ lễ với bậc dưới mình", phong tục trong nước nhờ vậy càng hướng về điều thiện. Các chư hầu hay biết đều tôn Cơ Xương là "vị vua được trao mệnh trời". Lấy đức trị thiên hạ, lễ với người hiền sĩ và tận lực lo quốc chính, đó chính là hình tượng đế vương trong lý luận chính trị văn hoá của Nho gia. Vì vậy, dù suốt đời Cơ Xương chỉ là một vua chư hầu địa phương, nhưng các hậu Nho sau này vẫn tôn ông vào hàng thánh nhân. Văn Vương, Võ Vương, Chu Công trở thành những mẫu mực để các bậc đế vương học tập và là điển hình tối cao cho các đại thần lấy đó khuyên răn đế vương, trải qua các triều đại không thay đổi. _ Ảnh hưởng quan trọng hơn nữa về văn hoá của Cơ Xương còn liên quan đến nguồn gốc bộ kinh Chu Dịch. Theo truyền thuyết, thời gian Cơ Xương bị giam giữ trong ngục Dũ Lý, ông suy diễn "bát quái" (8 quẻ) thành "lục thập tứ quái" (64 quẻ) và dùng những quái tượng tinh mật phức tạp suy diễn sự biến hoá của trời đất vạn vật, đó gọi là "Văn vương bị giam giữ, suy diễn Chu Dịch". Chuyện Văn Vương sáng tạo Chu Dịch tuy là tưởng tượng của người đời sau, nhưng từ xưa đến nay, người Trung Quốc đều quy tác phẩm kinh điển này do Chu Văn vương sáng tác, điều đó hẳn không tách rời với ảnh hưởng đạo đức của ông. CHU CÔNG (Không rõ năm sinh, năm mất) _ Các Nho gia cổ đại Trung Quốc vốn có thuyết "Chu Khổng chi giáo" (sự giáo hóa của họ Chu và họ Khổng), "Khổng" tức Khổng Tử, người được coi là thánh nhân, còn "Chu" tức Chu công Cơ Đán. Ở Trung Quốc chưa hề có người nào được xếp ngang hàng với Khổng Tử, Chu công chỉ là một ngoại lệ duy nhất. _ Chu công là con thứ tư của Chu Văn Vương, em ruột của Chu Võ Vương nên gọi là Thúc Đán. Sau khi Chu Võ Vương chết, Thành vương mới 12 tuổi, Chu Công Đán nắm quyền nhiếm chính. Sách Thượng thư Đại truyện viết: "Chu công nắm quyền chính, trong một năm cứu loạn (trấn áp những cuộc mưu phản), hai năm khắc phục người Ân phục quốc, ba năm tiêu diệt đất Am, bốn năm kiến định hầu vương, năm năm an định nhà Chu, sáu năm định ra lễ nhạc, bảy năm phụ giúp chính trị cho Thành vương". Chỉ trong vòng bảy năm ngắn ngủi, ông đã hoàn thành nhi ều công việc quan trọng như thế đủ biết công lao lớn của ông. _ Xét công lao sự nghiệp của Chu công thì "cứu loạn" (trấn áp những cuộc mưu phản, "khắc Ân" (khắc phục người Ân phục quốc), và "tiêu Am" (tiêu diệt đất Am) là ba cộng việc quan trọng ổn định nền thống trị của Tây Chu. Từ đây, vương triều Chu giai quyết được nội loạn
- trong vương thất và mối lo người Ân đòi phục quốc, phát triển phạm vi thống trị của chính quyền trung ương lớn rộng hơn, đặt cơ sở cho 800 năm thống trị của vương triều Tây Chu _ Những công việcmà Chu công đã hoàn thành trong bảy năm khôgn chỉ có ý nghĩa với triều Tây Chu. Năm thứ tư khi Chu Công chấp chính, ông tiến hành đại quy mô phân phong toàn quốc, kết hợp cao độ giữa quan hệ chính trị với huyết thống của quốc gia, hình thành một chế độ tông pháp hoàn bị và nghiêm mật. Dưới chế độ ấy, nước và nhà kết hợp làm một, nước là nhà được mở rộng ra, nhà là mô thức của nước. Chu thiên tử là vua chung của thiên hạ và là giòng họ lớn nhất trong thiên hạ xác lập hệ thống kết cấu cho xã hội truyền thống của Trung Quốc. Tuy từ đời Tần Hán về sau, chính quyền phong kiến quốc gia phân ly với một bọ phận tông tộc và dùng chế độ quận huyện làm cơ sở phong kiến quan liêu và lấy chế độ "tuyển chọn người hiền năng" thay cho chế độ huyết thống nhưng tinh thần tông pháp đã thâm nhập vào cơ thể văn hoá Trung Quốc như Lương Khải Siêu đã từng nói: "Tổ chức của Trung Quốc lấy phép nhà làm đơn vị chứ không lấy cá nhân làm đơn vị đó mới gọi là tề gia trước rồi mới trị nước sau. Chế độ tông pháp đời Chu, ngày nay về hình thức tuy đã bị bỏ nhưng về tinh thần vẫn giữ". _ Chu công phân phong cho các chư hầu xong rồi lập tức chế ra lễ nhạc, đây là một sự kiện lớn được các Nho gia ca tụng. Theo truyền thuyết, lễ chế do Chu công sáng tạo ra lớn rộng bao la, từ ăn uống ẩm thực, quan hôn, tế táng, triều kiến đến những việc ăn ở thường ngày không có phương diện nào không có "lễ chế" quy định cụ thể. Chu công chế ra lễ còn có hiệu ứng sâu xa với văn hoá muôn đời sau. Đầu tiên, nó hoàn toàn bị hoá, hệ thống hoá, quy phạm hoá các thể chế còn hỗn loạn dưới đời Ân, xác lập "Đức" trong "Lễ", dùng huyết thống làm sợi chỉ quán xuyến tổ chức thể chế "tế tự - xã hội - chính trị". Thực chất "Lễ hoá" là định danh phận cụ thể cho mối quan hệ nhân luân. Lễ chế do Chu công sáng tạo được các Nho gia sau này liên tục kế thừa và phát triển nó, nó đầy đủ sức mạnh quy định mọi hành vi đời sống và tâm lý tình cảm của người Trung Hoa, nó còn ấn định cả nhiều quan niệm về thiện ác đúng sai. Văn hoá Trung Hoa vì đó mà được gọi là nền văn hoá của "Lễ", Vương Quốc Duy gọi lễ là "tủy của người đời Chu". Luận điểm này khôgn những chỉ rõ địa vị quan trọng của Lễ trong văn hoá Trung Quốc mà còn nêu bật cống hiến có tính quan trọng của Chu Công trên con đường phát triển của lễ chế văn hoá Trung Quốc. _ Là một chính trị gia có tầm nhìn xa, Chu công hết sức đề cao lý luận chính trị "Kính Đức bảo dân", ông cảnh cáo giai cấp thống trị "Trời không đủ tin", "Không dựa vào Mệnh Trời", chỉ có "Kính đức bảo vệ dân" mới là kế sách cai trị lâu dài. Ông còn vận dụng tư tưởng bảo vệ dân hoà vào giáo hoá chính trị, ông cho rằng phải luôn hướng dẫn, dạy dỗ, khuyên răn dân chúng. Chu công chính là ngưởi mở đầu cho truyền thống coi giáo hoá dân là sự nghiệp lớn của Trung Quốc. Chu công dạy dỗ Thành vương ảnh hưởng lớn đến sự giáo dục các Thái tử đời sau này và ông luôn luôn được nêu lên như một tấm gương sáng người sau muốn nói theo. _ Chu công là người cần mẫn trung thành. Lúc Võ Vương vừa chết, các em Võ vương như Quản Thúc, Thái Thúc, Hoắc Thúc tung tin đồn khắp nơi rằng Chu công nắm quyền là có hại tới Thành vương còn trẻ tuổi, Chu công không hề lay chuyển bởi những tin đồn ấy, ông cương nghị nói với Thái Công Vọng: "Nếu tôi không nắm quyền, thiên hạ sẽ xảy ra đại loạn, tôi làm sao có mặt mũi trả lời với tiên vương". Lòng ông sáng như nhật nguyệt. Cầm quyền bảy năm, Chu công trả quyền lại cho Thành vương "ngồi quay về bắc mà xưng thần", "khúm núm như sợ hãi", "xử sự hết sức cần mẫn". Tinh thần không vì có công lớn mà sinh kiêu ngạo, không vì cầm quyền và nảy ra ý đoạt luôn ngai vàng của Chu công, được các nhà Nho sau truyền tụng và tôn sùng vì lẽ ấy, Chu công trở thành điển hình lớn nhất của bậc tôi thần ở Trung Quốc. _ Từ thời Xuân Thu trở đi, Chu công được các kẻ thống trị và các học giả coi như bậc thánh nhân. Khổng Tử tôn sùng Chu công ca ngợi tài năng của Chu Công, Khổng Tử còn cảm thán: "Ta suy sụp lắm thay ! Từ đây rồi ta không còn nằm mộng thấy Chu công". Mạnh Tử là người đầu tiên ca ngợi Chu công là "Cổ thánh nhân", đặt Chu công ngang hàng với Khổng Tử. Tuân Tử gọi Chu công là đại Nho. Đến đời Hán, Lưu Hâm, Vương Mãng đổi tên sách "Chu Quan" thành "Chu Lễ" và cho rằng do Chu công viết ra, họ còn coi địa vị Chu công cao còn hơn Khổng Tử. Hàn Dũ đời Đường vì dèo bỉu khinh chê thuyết của Phật và Lão, cực lực cổ xúy đạo thống Nho gia và đặt ra thứ tự hệ thống các thánh nhân là Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng
- Tử, Mạnh Tử. Từ đó về sau, người ta gọi tắt bằng câu "Chu Khổng", bàn tới Khổng Tử ắt phải đề cặp tới Chu công và lưu hành cách nói "Khổng Chu chi giáo" (sự giáo hoá của Khổng Tử và Chu công). _ Ảnh hưởng văn học của Chu công Cơ Đán tóm lại là hết sức lớn. Ảnh hưởng ấy tuy trải qua mấy ngàn năm thay đổi mà vẫn chưa hề bị suy giảm. LÃO TỬ (Sống khoảng từ năm 580 đến năm 500 trước Công nguyên) _ Nói tới văn hóa Trung Quốc, tuyệt đối không thể tách rời Lão Tử, ông chính là nhân vật vĩ đại tương đương với Khổng Tử trong văn hoá Trung Quốc. _ Về cuộc đời của Lão Tử, lịch sử khiếm khuyết ghi chép minh xác, sử học gia đời Hán là Tư Mã Thiên trong Sử ký chép rằng Lão Tử, tức Lão Đam. họ Lý tên Nhĩ người huyện Khổ nước Sở (nay là ấp Lộc tỉnh Hà Nam) từng làm chức giữ kinh sách đời Chu. Kiến thức của ông rộng lớn, tương truyền Khổng Khâu từng có lần tìm đến học Chu Lễ nơi ông, vãn niên ông sống đời ẩn dật "trứ tác sách có ý đạo đức" 5000 lời. Cuộc đời ghi chép giản lược như thế tất nhiên khiến độc giả đời sau lấy làm tiếc rẻ. _ Tuy chúng ta không hiểu rõ cuộc đời Lão Tử, nhnưg về ảnh hưởng của ông trong văn hoá Trung Quốc coi "Đạo" là một phạm trù tối cao và dùng "Đạo" để thuyết minh vấn đề có tính quy luật của nguồn gốc vạn vật và sự vận động biến hoá của thế giới vạn vật. Quan niệm về "Đạo Trời" vốn đã có từ rất lâu ở Trung Quốc,nhưng chỉ đến Lão Tử mới được coi là thuần túy có tính cách triết học. Những câu như "Đạo khả đạo, phi thường đạo" (đạo mà có thể nói ra không phải là đạo thường), "Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt, hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng; hoảng hề hốt hề, kỳ trung hữu vật" (đạo là cái gì chỉ mập mờ thấp thoáng; mập mờ thấp thoáng mà bên trong có hình tượng; thấp thoáng mập mờ mà bên trong có vật) Những câu như vậy đầy thi ý, đầyy triết lý "huyền diệu". _ Tư tưởng triết học của Lão Tử có hệ thống rất phong phú, trong ấy vừa đi sâu tìm hiểu bản thể vũ trụ, vừa có hệ thống về học thuyết nhận thức luận vừa hàm chứa phong phú tư tưởng biện chứng pháp. Tư tưởng của Lão Tử có ảnh hưởng cực lớn đến các tư tưởng gia Tiên Tần và Lưỡng Hán: từ Lão Tử trực tiếp phát triển đến Dương Chu, Liệt Tử, Trang Tử cho đến cả các hoc phái về Dịch truyện. Người khai sáng đạo Nho là Khổng Tử, từng hỏi lễ nơi Lão Tử mà quan điểm "vô vi tri vị" là của Lão Tử hoặc câu "Thiên hà ngôn tai" (trời có nói gì đâu) của Khổng là cũng theo tông chỉ "Vô ngôn" (không nói) của Lão Tử. Trong thiên "Hiến vấn" sách Luận ngữ khi nói câu "dĩ đức báo oán" (lấy đức báo oán) là đã trực tiếp dẫn dụng tới văn cú c ủa Lão Tử rồi vậy; Nho gia sau Khổng Tử chia ra làm hai (học phái của Tử Tư Mạnh Tử và hhọc phái của Tuân Tử) đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của Lão học. Pháp gia và Lão Tử lại có quan hệ mật thiết, các chương "Giải Lão" và "Dụ Lão" trong bộ Hàn Phi Tử của Hàn Phi là những chương sách chú giải Lão Tử sớm nhất mà nhnữg quan niệm trong ấy như "Quân đạo vô vi, thần đạo hữu vi" (đạo của vua là vô vi, đạo của tôi thần là hữu vi) rõ ràng là có nguồn gốc từ Lão Tử. Bộ Sử ký chính vì vậy cũng hấp thu được nhiều lợi ích từ tư tưởng Lão Tử. Sau đời Tần Hán, hầu như bất cứ môn phái triết học nào cũng chịu ảnh hưởng của Lão học, từ bộ Đạo Đức Kinh hàng trăm trào lưu triết học đều rút ra được tư liệu làm phong phú tư tưởng môn phái mình. Với công lao ấy, Lão Tử đủ được xưng tụng là ông tổ của triết học Trung Quốc. _ Triết học của Lão Tử tuy là có ý vị của hình nhi thượng học nhưng xết về thực chất vẫn là một loại triết học chính trị có tính xã hội và là một loại "đạo thuật của bậc vua chúa", vì vậy mà tư tưởng của ông trở thành một thứ sách lược quyền mưu của giai cấp thống trị có ảnh hưởng sâu xa đến chính trị chuyên chế ở Trung Quốc. Thí dụ như Lão Tử luận về "vô vi" (không làm), "vô vi" mới có thể "vô bất vi" (không gì không làm). Các đế vương đầu đời Hán rút từ bài học "vô vi" của Lão Tử, dùng "vô vi" làm cương lĩnh trị quốc, từ đó nắm được thế chủ động sáng
- tạo ra cục diện hưng thịnh đầu đời Hán. Sau này còn nhiều đế vương sau nhiều thời gian động loạn của xã hội đều áp dụng chính sách để cho dân chúng nghỉ ngơi. Lý luận chủ đạo của chính sách "dữ dân hưu tức" (nghĩ ngơi cùng dân) ấy đều xuất phát từ tư tưởng "vô vi nhị trị" của Lão Tử vậy. _ Tư tưởng của Lão Tử không chỉ ảnh hưởng tới các chính trị gia và tư tưởng gia mà thôi. Hơn 2000 năm nay, tư tưởng của Lão đã thâm nhập vào xương cốt của người Trung Quốc và biến thành triết học đời sống để lập thân xử thế của người Trung Quốc. _ Sách Sử ký phần "Lão Tử liệt truyện " chép: "Lão Tử tu đạo đức, cái học của ông chuyên về ẩn dật vô danh... Lão Tử là bậc quân tử ở ẩn vậy". Cái gọi là "ẩn dật vô danh" tức là trốn thoát khỏi đấu tranh của các giai cấp chính trị ẩn cư nơi rừng núi, quý trọng các đạo dưỡng sinh, không đuổi theo vinh lợi. Tư tưởng ấy được các đại phu học giả nhiều đời lấy làm y cứ để thoát ly xã hội, ảnh hưởng sâu sắc tới loại tư tưởng "văn hoá ẩn sĩ" ăn sâu vào xương tủy người Trung Quốc. _ Lão Tử còn là một đại sư về biện chứng pháp. Ông đưa ra luận điểm "thủ Nhu viết cường" (giữ chỗ yếu gọi là mạnh) đưa ra ý tưởng khuyên người ta không nên để lộ tài năng của mình mà che giấu ưu thế và sức mạnh tự thân mới dễ bảo toàn được bản thân. Lão Tử chính là người sáng tạo truyền thống trí tuệ Trung Quốc "thủ thư" (giữ phận mái tức giữ chỗ yếu), "quý Nhu" (quý sự mềm yếu), "trí túc" (tự biết đủ) nhưng cũng chính từ điểm này ông đã tạo thành nhược điểm trong tính cách người Trung Quốc. Lão Tử cho rằng "học mạc đại ư bất tri túc" (không có tai hoạ nào lớn bằng tai họa không biết đủ) ông chủ trương "tri túc giả phú" (người biết đủ là giàu có), "tri túc bất nhục" (biết đủ thì không nhục) lấy những quan niệm ấy để tiêu trừ tham muốn của con người. Loại thuyết "tri túc" ấy khuyên người ta nên ở yên với hiện trạng, đừng cầu tiến thủ phát triển có ảnh hưởng sâu sắc đến tính chất người Trung Quốc. Câu "tri túc thường lạc" (biết đủ thì được an vui) trong đời sống xã hội Trung Quốc luôn luôn thịnh hành là dấu ấn sâu đậm của tư tưởng "tri túc" của Lão Tử vậy. Hoặc như lí thuyết "khúc tắc toàn, uổng tắc trực..." (cong ắt được bảo toàn, thẳng ắc gãy...) của Lão Tử tuy bao hàm một loại biện chứng pháp ở đời sống nào đó, nhưng luôn luôn nhấn mạnh "cong ắt được bảo toàn" tức là đã tiêu diệt mất tinh thần độc lập của chủ thể, tạo thành ý thức nô lệ, không dám đấu tranh với các hiện tượng sai trái. Lão Tử còn đặc biệt nhấn mạnh đến các quan điểm "thanh tĩnh bất thanh" (thanh tĩnh không tranh giành), "nhu nhược xử hạ" (mềm yếu ở chỗ dưới) nhưng "bất tranh" và "xử hạ" tất nhiên khiến con người mất hết tinh thần phấn đấu, cam nguyện ở dưới kẻ khác. Chính chủ trương này đã hình thành tính cách nhu nhược, thoát ly thực tế của người Trung Quốc. _ Trong văn hoá sử Trung Quốc, Lão Tử không chỉ là ông tổ sáng tạo nên Đạo gia, một tư tưởng gia có phong cách triết nhân, mà ông còn được coi như một vị "Thần", đây là một hiện tượng văn hoá hết sức thú vị. _ Lão Tử được coi như vị Thần do Đạo giáo hưng khởi ở thời Đông Hán, do vì các kẻ thống trị đầu đời Hán dùng thuật thanh tĩnh của Hoàng (đế) và Lão (Tử) ra trị thiên hạ nên các học giả chuyên về đạo Hoàng Lão hưng khởi lên. Tư tưởng Hoàng Lão bao hàm nhiều nhân tố thần bí, các học giả chuyên về đạo Hoàng Lão đa số là các phương sĩ thần tiên, vì đó cái hoạ của Hoàng Lão mới kết hợp làm một với phương thuật thần tiên. Hình tượng Lão Tử ngày càng được thần bí hoá. Đầu đời Hán, Lão Tử còn là một người "quân tử ở ẩn". Đến đời Vương Sung, "đạo của Lão Tử" đã nhuốm ma lực "có khả năng cứu đời". Sách Liệt tiên truyện nhiễm nhiên đưa tên Lão Tử vào hạng thần tiên. Thời Hán Hoàn Đế, Lão Tử bắt đầu được các vương công đại thần thờ bái, dân gian xấy rất nhiều miếu thờ Lão Tử. Một số tôn giáo dân gian thờ Lão Tử như một lãnh tụ tôn giáo. Trương Đạo Lăng lập ra cái "Ngũ đấu mễ gạo" (đạo năm đấu gạo) tôn xưng Lão Tử trở thành thủy tổ Đạo giáo. Đến đời Cát Hồng đời Đông Tấn, hình tượng "Thần" của Lão Tử của Lão Tử đã hoàn bị, ông trở thành vô thượng tôn quý mà thần bí với mô tả "thân dài chín xích, mặt vàng, mồm chim, mũi to, lông mày dài chín thốn, tai dài bảy thốn, chân có hình bát quái". _ Từ đời Đường, Tống về dưới sự cung phụng của các kẻ thống trị, địa vị của Lão Tử ngày
- càng cao. Đường Thái Tông nhận Lão Tử là tổ tiên của mình (vì cùng có họ Lý), Đường Cao Tông truy tặng tôn hiệu Lão Tử là "Thái thượng huyền nguyên hoàng đế". Như vậy chưa đủ, Tống Chân Tông lại gia phong thêm cho Lão Tử là "Thái thượng Lão quân hỗn nguyên thượng đức hoàng đế". Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, một vị triết học gia mà được phong làm "hoàng đế" có lẽ là trường hợp duy nhất. KHỔNG TỬ (Sinh năm 551 - mất năm 479 trước Công nguyên) _ Người ta bình luận khen tặng Khổng Tử ra sao đều không thể gọi là quá lời. Trước đây hơn 2.000 năm, đại sử học gia Tư Mã Thiên khi đi thăm Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử từng cảm khái viết: "Khổng Tử áo vải, truyền hơn mười đời, được các học giả coi là tông sư, từ thiên tử vương hầu đến thứ dân đều coi ông là bậc chí thánh". _ Năm 1982, một học giả Mỹ viết: "Hành vi cao quý và tư tưởng lí luận đạo đức của Khổng Tử không chỉ ảnh hưởng đến người Trung Quốc, mà còn ảnh hưởng tới toàn nhân loại". Khổng Tử là người nước Lỗ thời Xuân Thu, tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Từ thiếu niên đến 30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học và tập luyện nắm vững các tri thức về lễ nghi, âm nhạc, xạ tiễn, ngự xạ, thư (viết chữ), số (toán học) là sáu ngành tri thức căn bản thời ấy. Sau đó, ông đi giảng dạy bốn phương nghiên cứu học vấn trong vài chục năm rồi san định, biên soạn các sách được đời sau gọi là Lục kinh như: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu. Ông tự nói về mình "ba mươi thì lập thân, bốn mươi thì hết nghi ngờ, năm mươi hiểu mệnh trời, sáu mươi nói điều gì cũng thuận tai, bảy mươi có thể tùy ý muốn mà không sai trái" (tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ). Sáu kinh kể trên là bộ Luận ngữ do các đệ tử ông biên soạn sau này được người Trung Quốc gọi là Thánh điển. _ Khổng Tử sống trong thời ký thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu, thiên tử nhà Chu đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, cục thế xã hội biến chuyển thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi người chọn cho mình một thái độ sống khác nhau. Là một triết nhân, thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ vừa sùng thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân nghĩa để giữ sự tồn tại chung và khai sáng ra hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần là học phái Nho gia tạo ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc. _ Hệ thống tư tưởng Nhân và Nghĩa của Khổng Tử, bất kể hàm nghĩa phong phú phức tạp đến đâu, nói cho cùng cũng chỉ là thiết lập một trật tự nghiêm cẩn cho quyền lực của bậc đế vương và thành lập một xã hội hoàn thiện. Hệ thống tư tưởng của ông ảnh hưởng tới hơn 2.500 năm lịch sử Trung Quốc. _ Khổng Tử tuy sáng lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia nhưng không được các quân vương thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu học như Tử Cống, Tử Tư, Mạnh Tử, Tuân Tử, truyền bá rộng về sau. Đức trị, Nhân chính và nhân cách hoàn thiện của Khổng Tử xem ra thích hợp với xã hội cổ đại Trung Quốc. Trải qua nhiều nỗ lực của bọn thống trị và các sĩ đại phu triều Hán, Khổng Tử và tư tưởng Nho gia của ông mới trở thành hệ thống tư tưởng chính thống. Đổng Trọng Thư đời Hán hấp thu nhân cách hoàn thiện và học thuyết nhân chính của Khổng Mạnh, phụ hội thêm cho Công Dương Xuân Thu lợi dụng âm dương bổ sung thay đổi lý luận trở thành học thuyết Thiên nhân hợp nhất cùng với học thuyết chính trị của Tuân Tử, khoác tấm áo thần học cho Nho học. Từ đó, Khổng Tử áo vải thuở sinh tiền chưa hề được hưởng chút vinh hoa phú quý, đến khi chết rồi mới được ân thưởng như thế. Từ Hán về sau, thời nào ông cũng được phong thụy hiệu, như đời Đường phong thụy ông ta là Văn Tuyên Vương, thời Tống phong ông là Chí thánh Văn Tuyên Vương, thời Nguyên phong thêm là Đại thành Chí thánh Văn Tuyên Vương, thời Minh tôn xưng là Chí thánh tiên sư, thời Thanh phong hiệu cho ông dài nhất là Đại thành Chí thánh Văn Tuyên Vương Khổng Tử, chính như Lỗ Tấn nói: "Ở Trung Quốc, Khổng phu tử được tất cả bọn quyền thế thờ phụng". _ Từ Hán đến Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh học để lưu truyền. Đường Thái
- Tông sau khi hoàn thành toàn diện thống nhất quốc gia, liền cho kinh học gia Khổng Dĩnh Đạt chú giải hiệu đính lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thư, Tả truyện, Lễ ký thành bộ Ngũ kinh chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện kinh học từ đời Hán đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa trở thành sách giáo khoa dùng trong thi cử ở đời Đường. Khổng học càng đựoc giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường Thái Tông nói rất rõ: "Nay trẫm yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn và đạo của Chu (công) Khổng (Tử) coi như chim thêm cánh, như cá gặp nước, không thể không có được". Từ đó, Khổng Tử với đế vương, với chính phủ các triều đại đều có quan hệ như Đường Thái Tông đã hình dung. _ Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời kỳ nhà Tống, vị hoàng đế khai quốc là Tống Thái tổ Triệu Khuôn Dẫn lập tức chủ trì nghi thức long trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng hiếu để, vua còn thân chủ trì khoa thi tiến sĩ mà nội dung hoàn toàn theo Nho học. Đối với Nho học mới bột hưng ở thời Tống, chúng ta thường gọi đó là Lý học. _ Nội dung và kết cấu của Lý học hết sức rộng lớn, bắt đầu từ Hàn Dũ đời Đường, trải qua nỗ lực của các ông Tôn Phục, Thạch Giới, Hồ Viên, Chu Đôn Di, Thiệu Ung, Trương Tái, Trình Di, Trình Hiệu đời Bắc Tống cho đến Chu Hi đời Nam Tống là người tập đại thành hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Lý học. Lý học Trình Chu nhấn mạnh Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín như lẽ trời (thiên lý) dùng học thuyết Khổng Mạnh làm nguồn gốc, hấp thu thêm các tư tưởng học thuyết của Phật giáo và Đạo giáo cung cấp sự nhu yếu cho xã hội quân chủ chuyên chế. Chu Hi tập chú giải thích các kinh điển Nho gia như Luận ngữ, Mạnh tử trở thành những sách giáo khoa bắt buộc của sĩ tử trong xã hội phong kiến và là tiêu chuẩn pháp định trong khoa cử của chính phủ, người nào phản đối lại dễ dẫn đến tai họa chết người. Điều ấy xem ra xa vời với chủ trương thiện lương, trí tuệ, ngoan cường của Khổng Tử thời Xuân Thu, góp phần tạo nên một hình ảnh Khổng Tử khác mang màu sắc vì yêu cầu giữ thiên lý mà diệt mất nhân dục, đạo mạo bàn xuông dẫn đến tiêu diệt cá tính, thậm chí hư ngụy giả dối nữa. _ Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái công học của Trần Lượng, Diệp Thích, phái tâm học cả Vương Dương Minh cũng đều tôn sùng Khổng Tử, hấp thu một phần tư tưởng cơ bản của ông. Những học thuyết này đều được lưu truyền rộng rãi và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội văn hoá Trung Quốc. _ Do vì Khổng học được các đại sĩ phu tôn sùng, được các vương triều đua nhau đề xướng nên Khổng học thuận lợi thẩm thấu vào mọi lãnh vực trong mọi giai tần xã hội, từ rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc Trung Quốc, là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và tập tính. _ Khổng Tử là đại tư tưởng gia, đồng thời là nhà đại giáo dục trong lịch sử. Lý luận giáo dục của ông là "hữu giáo vô loại" không phân biệt một ai chỉ cầu mở mang dân trí, "học nhi ưu tắc sĩ", học để ra làm quan hữu dụng cho đời, "tam nhân hành tất hữu ngã sư" (đi cùng với ba người ắt có một đáng làm thầy ta), ông khiêm tốn hiếu học và coi việc học là phải liên tục không bao giờ mệt mỏi để đạt đến nhân cách hoàn thiện. Ông còn là người chỉnh lý tập đại thành văn hiến điển tịch trước đời Tần, những tác phẩm chỉnh lý hiệu đính của ông được người đời sau gọi là lục kinh nghiên cứu toàn diễn Trung Quốc cổ đại về đủ mặt xã hội, văn hoá, học thuật, đồng thời là gốc nguồn của văn hoá Trung Quốc hàm chứa nhiều di sản văn hoá dân gian thẩm thấu sâu đậm vào sự phát triển của văn hoá Trung Quốc. _ Tư tưởng Khổng Tử ảnh hưởng tới các mặt sử học, văn học, nghệ thuật, âm nhạc ở Trung Quốc. Một bộ Xuân Thu của ông đã vạch ra con đường phát triển hơn 2.000 năm trong sử học Trung Quốc. Ngày nay, Khổng Tử vẫn được coi như thánh nhân văn hoá và được cả thế giới Tây phương xưng tụng đủ biết ảnh hưởng tư tưởng của ông là to lớn đến dường nào. TÔN VÕ (Không rõ năm sinh năm mất)
- _ Nếu Khổng Tử được xưng tụng là "Văn thánh nhân" thì Tôn Võ là "Võ thánh nhân" của Trung Quốc. "Văn thánh nhân có bộ Luận ngữ lưu truyền ở đời, "Võ thánh nhân" có bộ Tôn Tử binh pháp nổi tiếng thiên cổ. _ Tôn Võ, tên tự là Trường Khanh cũng được gọi là Tôn Tử, Tôn Võ Tử, Ngô Tôn Tử, người nước Tề cuối đời Xuân Thu, sinh ra trong một gia đình có truyền thống võ học quân sự. Nhưng tài năng quân sự kiệt suất của Tôn Võ chưa hề được cố hương nước Tề của ông trọng dụng. Khoảng năm 512 trước Công nguyên, Tôn Võ từ nước Tề chạy sang nước Ngô, được đại thần Ngũ Tử Tư tiến cử với Ngô vương Hạp Lư, tài năng kinh thế hãi tục và kiến giải bác đại tinh thâm qua 13 thiên Binh pháp Tôn Võ mới được Ngô vương trọng dụng. Từ đó, Tôn Võ sống đời sống binh mã ở nước Ngô 30 năm, lập nhiều chiến công hiển hách. Ảnh hưởng của Tôn Võ đối với đời sau, chủ yếu là thông qua bộ Tôn Tử binh pháp từ khi được lưu truyền và thực hiện. _ Tôn Tử binh pháp được xưng tụng là "Tổ sư của binh gia trăm đời" bam hàm cả tư tưởng quân sự có hệ thống uyên bác sâu sắc và quân điểm mới mẻ, phạm vi nó luận thuật bao quát các mặt chuẩn bị chiến tranh như các tư tưởng an định toàn quân, tầm nhìn chiến lược xa, quan điểm khôgn đánh vẫn thắng và những mưu lược kỳ lạ khống chế đối phương, nhnữg trận pháp, những quyền mưu hết sức phong phú. 13 thiên sách Tôn Tử binh pháp chỉ trong vòng trên dưới 6.000 chữ mà nội dung rất đầy đủ, luận thuật tinh vi, văn chương rực rỡ, ảnh hưởng rất lớn trong xã hội Trung Quốc. Sách Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu gọi Tôn Tử binh pháp là binh kinh, Tôn Trung Sơn lại khen tặng đây chính là sách triết học quân sự tối cổ của văn hoá Trung Quốc. _ Nếu nói trước thời Tây Hán, Tôn Tử binh pháp chủ yếu chỉ mới lưu truyền trong dân gian thì từ thời Đông Hán trở về sau, nó được triều đình các thời đại tôn sùng. Thời Đông Hán, chính pgủ quy định: ngày lập thu mỗi năm "binh quan đều phải theo binh pháp Tôn (Võ) và Ngô (Khởi) tập 64 trận". Thời Bắc Tống, đứng trước tình hình nước suy thế yếu, biên giới luôn luôn bị quấy nhiễu, triều đình bèn tổ chức chỉnh lý các sách binh thư, đứng đầu là sách Tôn Tử binh pháp và sáu bộ binh pháp khác là Tư Mã pháp, Uất Liêu tử, Lục Thao, Ngô tử, Tam lược, Đường Lý vấn đối gọi chung là Võ kinh thất thư (bảy bộ kinh võ học) để thi võ học, bồi dưỡng tướng sĩ... Từ đó, "Tôn Tử binh pháp" được xác nhận là kinh điển lý luận quân sự của triều đình, trở thành sách bắt buộc phải đọc của các người chỉ huy quân sự. _ Được chính phủ và các quân sự gia tôn sùng khiến địa vị Tôn Tử binh pháp ngày càng cao. Đại quân sự gia Tào Tháo khẳng định: "Ta đọc binh thư chiến sách rất nhiều mà trứ tác của Tôn Võ là sâu sắc nhất". Mưu lược đại sư Gia Cát Lượng cũng biểu lộ: "Trong chiến tranh không có mưu lược nào ngoài sách Tôn Võ, không có kế nào ngoài sách Tôn Võ". Nhà cách mạng Vương An Thạch nói một câu thú vị: "Chỉ cần dùng một hai câu trong sách Tôn Võ là đã có thể thành công". Trải qua các triều đại, tất cả các lý luận gia quân sự đều coi trọng việc nghiên cứu lý luận quân sự của Tôn Võ, họ đã tổng kết chú giải Tôn Tử binh pháp tới gần 200 đầu sách. _ Chiến lược Tôn Võ vận dụng gồm đủ "Tốc" (chớp nhoáng), và "Cửu" (lâu dài), chiến thuật gồm "Kỳ" (lạ lùng, bất ngờ) và "Chính" (công khai), gồm "Hư" (giả) và "Thực" (thật), thủ đoạn chiến trang gồm "Cường" (mạnh) và "Nhược" (yếu), hành quân gồm "Vu" (đi vòng) và "Trực" (thẳng).... Không có điều gì ông không đề cặp tới, chính như Tô Tương nói: "Tôn Tử binh pháp lời ít mà nghĩa rất đủ, tất cả các binh thuyết trong thiên hạ đều có ở trong". _ Tôn Tử binh pháp lời ít mà nghĩa nhiều đầy sắc thái triết học tư biện và tính trừu tượng. Trứ tác binh học đời sau hầu hết đều kế thừa đặc điểm của Tôn Võ và cả tư duy của ông. Hầu hết các tướng lãnh sau này đều tuân thủ nguyên tắc chiến lược trong Tôn Tử binh pháp để đạt tới thắng lợi. _ Tôn Tử binh pháp được coi là tổ sư của binh thư, không những được người Trung Quốc coi trọng mà cả thế giới cũng tán dương và truyền bá rộng rãi. Thời Võ Tắc Thiên đời Đường, du học sinh Nhật Bản đã đem Tôn Tử binh pháp về nước để chú giải nghiên cứu. Năm 1772, nước Pháp cho dịch Tôn Tử thập tam thiên ra chữ Pháp, năm 1910 có bản dịch chữ Đức với tựa đề Võ
- kinh của Trung Quốc. Từ đó, mỗi ngày càng nhiều bản dịch Tôn Tử binh pháp lưu hành trên thế giới và có ảnh hưởng quan trọng. Sau khi thất bại trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Đức hoàn William 2 mới đọc Tôn Tử và than: "Tiếc thay 20 năm trước ta chưa đọc sách này". MẶC TỬ (Không rõ năm sinh - mất năm 376 trước Công nguyên) _ Thiên Hiển học trong sách Hàn Phi tử viết: "Hiển học ở đời có Nho và Mặc". Ở thời đại Xuân Thu, lưu phái học thuật duy nhất có thể đối kháng tương đương với Nho gia không phải Đạo gia của Lão Tử, cũng chẳng phải Pháp gia của Thân Bất Hại, Hàn Phi mà chính là Mặc gia do Mặc Địch khai sáng. _ Mặc Địch là người nước Lỗ, sinh năm nào không rõ. Đầu tiên ông theo học đạo Nho, nhưng sau này quay lưng lại với đạo Nho sáng lập môn phái mới là tự thành một nhà. Đời Mặc Địch có nhiều màu sắc truyền kỳ, ông thu nạp môn đồ rộng rãi, ông dẫn dắt họ "làm hưng chấn điều lợi cho thiên hạ" mà môn đồ của ông "đều dám nhày vào lửa, đạp lên đao không sợ hãi", như khi Mặc Địch cứu nước Tống liền có nhóm đệ tử là 300 người Cầm Ly Hoạt đến giúp Tống giữ thành hoặc bọn Mạnh Thắng 185 người vì giư Dương thành mà chết hết trong chiến đấu. Ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc, tên tuổi của Mặc Địch "nổi tiếng khắp phương Bắc, chấn động vùng nước Sở nước Việt". Ông sai phái đệ tử đi đến các nước tuyên truyền chủ trương chính trị của ông như Cao Thạc tử đến nước Vệ, Canh Trụ tử đến Sở, Ngụy Việt đến du thuyết nước Việt, bản thân ông nếm trải đủ mọi gian khổ bôn tẩu qua lại giữ các chư hầu. Khi ở Lỗ, ông thuyết giáo vua Lỗ: "Bậc thượng đẳng thì tôn trời thờ quỷ, bậc hạ đẳng thì yêu quí nhân dân". Khi ông dâng thư sách lên Sở Hụê Vương ở đất Sính, sách của ông được gọi là "lương thư" (sách hay). Khi ông du thuyết sang nước Sở lại khuyên Lỗ Dương Văn quân về đạo lý "phi công" (không nên gây chiến tranh). Đến khi về già, quay trở lại nước Tề, ông giảng cho Thái vương Điền Hoà về tội ác "chiếm nước khác làm tổn hại quân đội, sưu thuế cao làm nhân dân khốn khổ". Đương nhiên việc làm cho tên tuổi Mặc Địch lẫy lừng là vào lúc ông 30 tuổi "đi 10 ngày 10 đếm tới đất Sính" thựa hành kỹ thuật chế ra "thang mây" đánh thắng thành Công Thâu Ban (tức Lỗ Ban) buộc nước Sở khôgn còn dám tấn công lấn chiếm nước Tống nữa. _ Là một tư tưởng gia vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc, tự nhiên Mặc Địch cũng có chủ trương tư tưởng chính thể, đó thể hiện phân tán ở các thiên Kiêm ái (yêu tất cả mọi người), Thượng hiền (coi trọng người hiền), Phi công (phản đối chiến tranh), Phi nhạc (phản đối âm nhạc thái quá), Tiết dụng (tiết kiệm trong tiêu dùng), Tiết táng (tiết kiệm trong lễ tang), Thiện chí (bàn về chí của trời), Minh quỷ (làm rõ lễ thờ quỷ thần)... chỉ rõ tính cách của giai cấp tiểu sinh sản vì vậy mà Mặc Địch trở thành nhà đại biểu tư tưởng và phát ngôn viên cho giai cấp này. Do vì Mặc Địch sở trường về kỹ nghệ, lại vì ông chú trọng đưa ra nhnữg khái niệm khái quát trừu tượng trở thành thực tiễn nên ông còn là một khoa học gia xuất sắc. Thiên Mặc kinh trong sách Mặc Tử có ghi chép nhiều tri thức về khoa học tự nhiên có liên quan đến các mặt số học, lực học, quang học, nhnữg tri thức với tầm nhìn cao rộng về khoa học ấy khiến người đọc phải kinh ngạc như học giả nhận đinh: "Thành tựu khoa học của Mặc Địch "vượt qua hẳn trình độ của thế giới lúc ấy" hoặc có thể nói là trình độ tiên tiến nhất lúc ấy". _ Tư tưởng xã hội chính trị của Mặc Tử tuy chưa vạch trần những sự bóc lột giai cấp và thiếu quan điểm coi trọgn lao động, tư tưởng khoa học của Mặc Địch tuy cũng vẫn chỉ là một thứ khoa học viễn tưởng, nhưng ông vẫn là đại biểu cho những người sản xuất nhỏ, tư tưởng nhỏ chưa là giai cấp chủ thể trên vũ đài chính trị lúc ấy. Đang thời Xuân Thu - Chiến Quốc với phong trào trăm nhà đua tiếng, giai cấp địa chủ vừa hưng thịnh và bước lên vũ đài chính trị, tư tưởng học thuyết của Mặc Địch không tránh khỏi bị chìm khuất và dần dần hầu như mất hẳn. Sau thời Xuân Thu - Chiến Quốc, giai cấp sản xuất nhỏ lao động và nông dân tuy vẫn tồn tại song song nhưng không khí tự do và hoàn cảnh xã hội đã khác nhiều, đặc biệt là từ lúc triều đình độc tôn Nho học và từ lúc Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, giai cấp sản xuất nhỏ lao động trở nên lạc hậu, kiến thức thấp kém bị trói buộc vào quan niệm hẹp hòi, bị giai cấp thống trị chi phối khống chế lâu dài nên học phái và tư tưởng Mặc Tử không có điều kiện phát triển. Mặc học một thời hiển hách không còn cơ sở để phục hưng được nữa.
- _ Mặc học bị đứt đoạn khiến sự phát triển khoa học của Trung Quốc cổ đại cũng bị ảnh hưởng như Thái Nguyên Bồi nhận định: "Mặc học bị trầm diệt nên từ đó khoa học không phát triển được". Từ lúc ấy, Nho học luôn luôn chống đối Mặc học và bước lên vị trí chủ đạo. Thế nhưng, đại phàm một loại học thuyết nào đó có giá trị và nội dung chân thực, trước sau gì cũng tạo được ảnh hưởng tới đời sau dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Mặc Tử và học thuyết của ông nằm trong trường hợp này. _ Biểu hiện rõ nhất sự ảnh hưởng của tư tưởng Mặc Tử có lẽ là trong những cuộc nông dân khởi nghĩa qua nhiều triều đại, như cuộc khởi nghĩa của Trần Thắng, Ngô Quảng đã nêu khẩu hiệu "quan không quý mãi và dân không tiện mãi" rất gần với đặc trưng tư tưởng của Mặc Tử. _ Gần đây, cuộc vận động Thái Bình Thiên Quốc lấy tư tưởng rất gần với tư tưởng Mặc Tử để hô hào nông dân, dù tư tưởng của Hồng Tú Toàn không trực tiếp lấy tư tưởng của Mặc Tử, nhưng họ đề xuất ra một xã hội lý tưởng là "thiên hạ cộng hưởng, có ruộng cùng cày, có cơm cùng ăn, có áo cùng mặc, có tiền cùng tiêu, không đâu là không chia đều, không người nào không ấm no" và chủ trương yêu thương mọi người như mình. Quân Thái Bình cũng liều lĩnh gan dạ không khác gì 80 đồ đệ thân cận của Mặc Tử. Tinh thần của họ là tinh thần hiệp nghĩa sẵn sàng đem cái chết tế khốn phò nguy. _ Gần đây, Mặc học lại được phục hưng, nhiều học giả hô hào thực hiện cái học thuyết khoa học kỹ thuật của Mặc Tử như Lương Khải Siêu, Hoàng Tôn Hiến, Tiết Phúc Thành.... gọi họ Mặc là "đại gia bác ái chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới". THƯƠNG ƯỞNG (Không rõ năm sinh - mất năm 376 trước Công nguyên) _ Đại phạm là một người lập nên sự nghiệp vĩ đại thường gặp những hoàn cảnh khác lạ. Giả như Thương Ửơng không gặp Tần Hiếu công, rất có thể ông chẳng lập nên công tích gì chứ nói đến ảnh hưởng tới sự phát triển của văn hoá Trung Quốc. _ Thương Ửơng là công tử nước Vệ. Thưở còn trẻ tuổi, Thương Ửơng đã thích cái học "hình danh" từng giữ một chức vụ nhỏ cho Ngụy tướng Công Tôn Hoà. Công Tôn Hoà nhận ra thiên tài xuất chúng của Thương Ửơng bèn định tiến cử lên cho Ngụy Hụê Vương nhnưg chưa kịp đã bị ngã bệnh. Khi Ngụy Huệ vương đến phủ thăm bệnh xin ông ta đề cử người kế nhiệm, Công Tôn Hoà đáp: - Trong phủ có Công Tôn Ửơng (tức Thương Ưởng) tuy còn trẻ tuổi nhưng là bậc kì tài, xin đại vương đem quốc gia đại sự giao phó cho y và tin dùng y. Hụê Vương không nói gì. Công Tôn Hoà thấy vậy, nói tiếp: - Nếu như đại vương không trọng dụng Thương Ửơng, thì xin hãy giết chết y chứ để y sang nước khác sẽ trở thành đối thủ của nước Ngụy ta. Huệ vương đồng ý. Sau khi Huệ vương đi rồi, Công Tôn Hoà vội cho Thương Ưởng đến bảo: - Ta đề nghị đại vương cho ông làm người kế nhiệm ta. đại vương không đồng ý. Vì muốn tận hết lòng trung, ta đề nghị tiếp, nếu như đại vương khôgn thể trọng dụng ông thì nên giết chết ông, đại vương đồng ý. Ông mau trốn chạy đi, chớ để bị bắt. Thương Ửơng ung dung hỏi: - Nếu đại vương đã không nghe lời ngài trọng dụng tôi thì sao lại nghe lời ngài giết tôi ? Thương Ửơng không bỏ trốn. Đợi đến khi Công Tôn Hoà chết rồi, Ngụy vương nói với thủ hạ: - Công Tôn Hoà hồ đồ quá, đáng tội thay, y đề nghị ta trọgn dụng Thương Ửơng thật là hoang đường ! _ Sau đó, Thương Ửơng biết tin Tần Hiếu Công cho thông báo chiêu dụng nhân tài, ông liền đến nước Tần. Dưới sự tiến cử của đại thần Cảnh Giám, ông bái kiến Tần Hiếu công. Lần ấy, Thương Ửơng bàn về "đế đạo" rất trái ý Hiếu công, Hiếu công vừa nghe vừa ngủ gật rồi oán trách Cảnh Giám: - Khách nhân của ông chỉ là một tên cuồng vọng, làm sao dùng y được !
- _ Năm ngày sau, Thương Ửơng lại xin đi gặp Hiếu công, lần này ông giảng cho Hiếu công nghe về "vương đạo". Hiếu công vẫn chẳng hứng thú gì lại trách móc Cảnh Giám một lần nữa. Cảnh Giám giận dữ trách mắng Thương Ửơng đã phụ lòng tin của mình. Thương Ửơng cười đáp: "Lần sau, tôi đã biết phải nói gì cho Hiếu công vui". Không lâu, Thương Ửơng lại xin gặp Hiếu công lần thứ ba để giảng về học thuyết "bá đạo". Quả nhiên, Hiếu công vui vẻ không xiết. Nhưng Thương Ửơng không nói hết ý mình để thăm dò Hiếu công. Vài ngày sau, Thương Ửơng lại xin gặp Hiếu công, lần này Hiếu công mới thực sự hứng thú khi nghe ông giảng về "thuật làm cho nước mạnh". Vì yêu cầu của Hiếu công, Thương Ửơng thao thao bất tuyệt trong vài ngày đêm, họ trở thành bạn tri kỷ. Tài trị quốc và kế sách an định quốc gia của Thương Ưởng làm Hiếu công lay động, Hiếu công quyết tâm gạt hết mọi trở lực, trọng dụng Thương Ưởng. Dưới sự ủng hộ của Hiếu công, Thương Ửơng cải cách thay đổi thể chế (gọi là biến pháp), sử gia Tư Mã Thiên viết về cuộc biến pháp của ông: "Thương Ửơng biến pháp khiến cho dân Tần mừgn rỡ, ngoài đường không ai nhặt của rơi, trong núi không có trộm c ướp, nhà nhà no đủ, làng xóm an trị". Biến pháp của Thương Ửơng đưa nước Tần lên địa vị bá chủ chư hầu đến độ sau này Ngụy Huệ vương quá hối hận buột miệng than: "Thật đáng hận, trước đây ta không nghe lời kiến nghị của Công Tôn Hoà !". _ Cuộc biến pháp của Thương Ửơng không chỉ làm cho nước Tần chuyển từ yếu sang mạnh, mà còn có ảnh hưởng tới sự phát triển của văn minh Trung Quốc nữa. Thời kỳ Chiến Quốc là thời đại thể chế văn minh Trung Quốc đang muốn chuyển mình từ chế độ nô lệ, phân phong đất đai sang chế độ địa chủ, chia quận huyện. Tiểu nông đang trong quá trình chuyển biến, bằng chứng là các cuộc biến pháp liên tục xảy ra ở các nước chư hầu như Sở có cuộc biến pháp của Ngô Khởi, nước Hàn có cuộc biến pháp của Thân Bất Hại... nhưng không có cuộc biến pháp nào thành công lớn bằng cuộc biến pháp của Thương Ửơng, nó xác lập hình thức thể chế văn minh mới. _ Thương Ửơng biến pháp bắt đầu từ kinh tế tiểu nông. Ông cho ban bố "lệnh khẩn hoang" khuyến khích nông dân khai khẩn và lập ruộng vườn trên những vùng đất hoang. Để khích lệ sự phát triển nông nghiệp, ông chia ra ruộng tốt xấu theo từng vùng và theo đó mà thu thuế. Đồng thời, ông đả phá sự áp chế hoạt động buôn bán. Năm 530 trước Công nguyên, Thương Ửơng ban bố lệnh đổi mới triệt để, thay đổi kinh tế nô lệ, bãi bỏ chế độ nô lệ, kiến lập toàn diện chế độ địa chủ, tư hữu và quốc hữu hoá toàn bộ đất đai. Năm 348 trước Công nguyên, ông lại ban hành chính sách "sơ địa phú", ngoài thuế ruộng đất còn phải nạp thêm một loại thuế nhân khẩu. Chính sách này có lợi là làm thay đổi thói quen các thị tộc quần cư với nhau rất lạc hậu, phát triển kinh tế tiểu nông trong từng gia đình, đặt cơ sở cho chế độ kinh tế phong kiến. Từ đó, thuế ruộng và thuế nhân khẩu trở thành chế độ tô thuế mấy ngàn năm trong xã hội truyền thống Trung Quốc, mở rộng thu nhập cho ngân khố quốc gia. _ Cải cách kinh tế, bãi bỏ chế độ lãnh chúa với nông nô, thiết lập chế độ địa chủ đương nhiên dẫn đến cải cách thể chế chính trị. Vì vậy, phải thành lập quận huyện để quản lý thay cho các lãnh chúa. Huyện lệnh đứng đầu một huyện hưởng bổng lộc quốc gia, mà quốc vương có quyền miễn chức bất cứ lúc nào, chính như vậy mà một hệ thống quan liêu được thành lập, đây là mô hình sơ khai của tổ chức chính quyền phong kiến mấy ngàn năm trong lịch sử Trung Quốc. _ Thương Ửơng không chỉ là người đầu tiên dùng tổ chức chính quyền để khống chế xã hội, ông còn là người khống chế tư tưởng có ảnh hưởng quan trọng trong văn hoá. Để tạo thành một hệ thống tư tưởng thống nhất, Thương Ửơng cho thiêu huỷ những Thi, Thư không phù hợp với lợi ích vương triều Tần, đó gọi là hành động "đốt thi thư để làm rõ pháp lệnh", thực hành chủ nghĩa chuyên chế văn hoá và chủ nghĩa ngu dân. Chính sách văn hoá ấy được kẻ thống trị đời sau mô phỏng, những vụ "cấm thư" đời Minh hay "văn tự ngục" đời Thanh đều ảnh hưởng sâu sắc chuyên chế văn hoá do Thương Ửơng đề xướng. _ Biến pháp của Thương Ửơng thành công khiến Pháp gia bước lên địa vị chủ yếu trên vũ đài chính trị. Tử tưởng pháp gia của Thương Ửơng trở thành một bộ phận tư tưởng chủ yếu trong tư tưởng chính trị của Trung Quốc. Từ Tần trở về sau, tư tưởng của Thương Ửơng ảnh hưởng tới mọi chính sách của mọi triều đại phong kiến. Từ Lý Tư đời Tần Thủy Hoàng đến Diêu Thố,
- Tang Hoằng Dương đời Hán, Tào Tháo đời Tam Quốc.... ít nhiều họ đều học theo Thương Ưởng lấy pháp gia trị nước. _ Khi Thương Ửơng chết đi, chế độ, pháp lệnh của ông vẫn không lơi lỏng. Chính sách đổi mới của Thương Ửơng làm thế nước Tần mạnh lên, nói như Vương Sung đời Hán: chính Thương Ửơng mới là người mở đế nghiệp cho nhà Tần. Đây là sự kiện lớn trong văn hoá Trung Quốc tạo ảnh hưởng đến hàng ngàn năm sau. Đó là công hay tội của Thương Ửơng ? Lịch sử là một bài học mà Thương Ưởng là người sử dụng rao giảng bài học ấy. MẠNH TỬ (Sinh và mất khoảng từ năm 372 đến năm 289 trước Công nguyên) _ Là một "Á thánh" trong tâm trí người Trung Quốc, địa vị Mạnh Kha chỉ dưới một người là "chí thánh thiền sư" Khổng Khâu, ông là người kế thừa có ảnh hưởng lớn nhất sau Khổng Tử và là người có quyền uy nhất trong sự nghiệp giảng dạy lưu truyền Khổng học, người đời sau thường gọi chung học thuyết của hai người là đạo Khổng Mạnh. Mạnh Kha, cũng gọi là Mạnh Tử, người huyện Trâu, tỉnh Sơn Đông ngày nay, sống vào giữa thời Chiến Quốc sau khi Khổng Tử chết đã 100 năm, tư tưởng của ông rất gần với tư tưởng của Khổng Tử mà cuộc đời trôi nổi của ông cũng có nhiều điểm giống Khổng Tử. Mạnh Tử theo học Tử Tư (cháu Khổng Tử) kế thừa Khổng Tử. Bất luận quan điểm nào như làm quan hay ở ẩn về chính trị, vương đạo chính về tư tưởng, trung hiếu về đạo đức, sát thân thành nhân về nhân cách hay chính nhân tâm về học thuật, phản đối tà thuyết, Mạnh Tử đều noi theo Khổng Tử, ngưỡng mộ Khổng Tử, hơn thế, ông còn phát huy lớn rộng Khổng học. _ Thu nhận đồ đệ dạy học và chu du các nước, chiếm hết phần lớn thì giờ trong cuộc đời của Mạnh Tử. Công việc trước có chút ít thành công "thu được nhiều tài năng trong thiên hạ để dạy họ", ông bồi dưỡng một số lớn Nho gia học giả, công việc sau khiến Mạnh Tử phải bôn ba các nước Trâu, Lỗ, Tề, Tống, Đằng, Ngụy, tuy lao khổ mà chẳng được cán gì ngoài truyền bá vương đạo của Nho học. _ Tư tưởng của Mạnh Tử được lưu truyền nhờ bộ Mạnh Tử do các học trò của ông cùng biên soạn. Từ đời Hán, Mạnh Tử cũng được liệt vào các sách chư tử. Đời Đường, tể tướng Dương Quán xin đưa Mạnh Tử vào loại kinh điển, sau này sách ấy được Hàn Dũ tôn sùng, Mạnh Tử và tư tưởng của ông mới được những kẻ thống trị và sĩ đại phu chú ý thưởng thức. Đại Nho Nam Tống là Chu Hi khi sắp đặt Tứ thư đã đưa Mạnh Tử vào, từ đó Mạnh Tử trở thành thánh nhân thứ nhì (sau Khổng Tử). Tiếng tôn xưng "Đạo Khổng Mạnh" cũng bắt đầu có từ đây. _ Nếu như nói ảnh hưởng của Khổng Khâu phổ biến trong mọi lãnh vực với văn hoá cổ đại Trung Quốc thì ảnh hưởng về văn hoá của Mạnh Tử có tập trung hơn nhất là về các học thuyết tâm tính, tư tưởng lấy dân làm gốc và lý luận giáo dục. _ Học thuyết tâm tính của Mạnh Tử "Tính của người quân tử là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí có gốc ở Tâm" tuy kế thừa trực tiếp ở Khổng Tử nhnưg vẫn có phần khác Khổng Tử. Cái học về tâm tính của Khổng nhấn mạnh tới Đức tiên thiên chưa đủ, cần phải học Lễ, Thi chuyên cần cầu học. Còn Mạnh Tử cho rằng chỉ cần Nhân ở tự thân không cần cầu học gì ở ngoài nữa, chỉ cần hướng nội truy tìm tới cái "Xích tử chi tâm" (tâm của trẻ hài đồng). Hai tư tưởng học Lễ bên ngoài và quay về học trong Tâm bản thân sẽ đưa tới nhiều diễn biến trong Nho học các đời sau. _ Người đầu tiên công kích tâm tính học của Mạnh Tử là đại tư tưởng gia Tuân Tử. Tuân Tử cho rằng bản tính con người là Ác, hành vi người ta sở dĩ thích hợp với luân lý hoàn toàn là do sự học tập sau này (gọi là hậu thiên). Luận điểm của Tuân Tử cũng có phần đặc sắc nhất là tư tưởng "ngoại vương" của ông. Đến học thuyết tâm tính của Chu Hi lại nhấn mạnh tới "cách vật trí tri" (tìm tới cái lý tận cùng của sự vật) nhưng vẫn tìm tới Đức nội tâm, vì vậy có gần với Khổng học hơn. Lục Cửu Uyên khác hẳn, ông bất mãn với học thuyết Chu Hi mà trực tiếp kế thừa Mạnh Tử, đề xướng ra có tâm ấy là có lý ấy, vạn vật đều đầy đủ trong bản thân ta, chỉ cần làm sáng cái Tâm là đủ, không cần "cách vật". Sự tranh luận của hai họ Chu (Hi) và Lục
- (Cửu Uyên) trong một chừng mực nào đó là kế thừa sự tách ngành tư tưởng của Khổng và Mạnh. Ba trăm năm sau, Vương Dương Minh ra đời, tiếp tục kế thừa tư tưởng bản tâm lương tri của Mạnh Tử, ca ngợi Lục (Cửu Uyên) và ức chế Chu (Hi) hoàn thành hệ thống "Tâm học" kéo dài từ thời Mạnh Tử đến Lục Cửu Uyên rồi đến họ Vương. _ Học thuyết Tâm của ta là lý và trí lương tri tuy là bước đột phá quan trọng trên con đường tư duy, nhưng nó dẫn đến tình trạng lạ lùng "thánh nhân đầy đường" cuối đời Minh, bọn tâm tính học gia tầm thường chìm đắm vào huyền học bàn suông. Có lẽ đó là điều không ngờ của Mạnh phu tử và Lục phu tử. _ Tâm tính học của Mạnh Tử phần nào có màu sắc Phật học của Thiền tông. Phật giáo Ấn Độ được Trung Quốc hoá, buổi ban đầu truyền giáo Phật học đã mượn nhiều thuật ngữ triết học có sẵn ở bản địa, trong ấy có khái niệm "Tâm" là khái niệm quan trọng. Nhân tâm bao gồm hết thảy, nhân tâm quyết định tất cả sự vật tồn tại và phát triển. Tâm tính luận của Thiền tông rất gần với tư tưởng "người tận kỳ tâm ắt biết tính ấy. Biết tính ấy ắt biết Trời vậy. Giữ tâm ấy, nuôi tính ấy sở dĩ đủ thờ trời". _ Nho học đời Tống phát triển lại bị ảnh hưởng rất lớn của Phật học. Từ trong hiện tượng ấy, chúng ta có thể thấy chỉnh thể văn hoá Trung Quốc quan hệ giữa các bộ phận với nhau là hết sức phức tạp. Tư tưởng chính trị của Mạnh Tử tiến bộ ở chỗ "dân là quý, xã tắc thứ nhì, vua đáng khinh", "dân chính là gốc nước" những câu tương tự như thế từ ngàn đời đã trở thành kho tàng dang ngôn của nhân loại. Mạnh Tử còn giảng giải "hãy nuôi khí hạo nhiên trong ta" và ông đem cả đời ông làm thể nghiệm thực tiễn giữ vững chí khí hạo nhiên cương cường. Mạnh Tử tôn trọng "những người phú quý không dâm tặc, nghèo đói không thay đổi (khí tiết), uy vũ không thể khuất phục, như vậy gọi là đại trượng phu" và khí tiết đáng quý ở câu "Ôi trời chưa muốn thiên hạ bình trị đấy thôi. Nếu muốn thiên hạ bình trị thì ngày nay ngoài ta ra còn có ai ?". _ Mục tiêu giáo dục Mạnh Tử đưa ra là "ta muốn làm chính nhân tâm, bỏ tà thuyết, bãi hành vi xấu, trừ những lời dâm để mong kế thừa ba vị thánh xưa". Các giáo dục gia cổ đại Trung Quốc đều coi đó là mục tiêu chung để mong đạt tới. _ Ảnh hưởng của Mạnh Tử trong văn hoá Trung Quốc về nhiều phuơng diện. Một học giả nước Mỹ khẳng định: "Trên toàn thế giới chỉ có vài triết học gia là có ảnh hưởng lớn như Mạnh Tử". TRANG TỬ (Sinh năm 369 - Mất năm 295 trước Công nguyên) _ Trong tâm lý, hành vi, tính cách người Trung Quốc văn hoá, sự thật là tinh thần Khổng Mạnh làm chủ hay là khí chất Lão Trang làm chủ, e rằng hiện nay khó mà phân biệt rõ ràng được. Khổng Mạnh và Lão Trang, có thể nói là hai toà núi sừng sững cao như nhau trong văn hoá Trung Quốc. Khi kẻ sĩ ngồi trong triều đình có thể họ cho Khổng Mạnh là mẫu mực, là diêu pháp cho họ xử thế ở đời. _ Trang Chu sống trong thời Chiến Quốc luôn luôn biến động, ông là nhân vật có tư tưởng đặc biệt trước thời Tần, ông lại là triết học gia có kiến giải rộng lớn, biện luận tinh tế đứng hẳn một cõi riêng. Văn chương tài hoa của ông phóng túng với trí tuệ siêu quần, hàm chứa nhiều ý vị văn học cung cấp cho văn học sử Trung Quốc và đời sau đóa hoa màu sắc kì lạ. (Nam Hoa Kinh - Trang Tử) _ Trang Chu tư tưởng học phái của ông tập trung trong bộ Trang Tử ra đời từ giữa cuối thời Chiến Quốc đến khoảng thời Tần, Hán trong vòng hơn trăm năm tạo thành ma lực hấo dẫn lưu truyền tới ngày nay. Tinh thần tuyệt đối của Trang "trên thì ngao du cùng người tạo ra vạn vật, dưới thì làm bạn với sinh tử không đầu không cuối". Triết học nhân sinh của Trang Tử tìm tới là cảnh giới ngoài loài người "Bậc chí nhân không có thân mình, bậc thần nhân không có công trạng, bậc thánh nhân không có tên tuổi" (Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô
- danh). Thâm nhập vào cảnh giới và nhân cách "vô kỷ", "vô công", "vô danh" ấy là thoát ra khỏi sự trói buộc của ba loại quan niệm sống chết , lễ nghĩa, buồn vui. Nhân sinh triết học "sinh tử là một", "có thể và không thể là một" của Trang Tử hoàn toàn khác với luân lý triết học "Khắc kỷ phục lễ vi Nhân" của nhà Nho, hai quan điểm ấy đối lập bổ sung cho nhau khiến phạm vi văn hoá Trung Quốc từ rất sớm đã rộng rãi đủ màu sắc với nhiều tầng lớp phức tạp. Kẻ sĩ Trugn Quốc, như nói ở trên, thường chịu cả hai ảnh hưởng văn hoá ấy chi phối tới thái độ nhân sinh. _ Triết học nhân sinh của Trang Tử tăng cho con người một con đường kháng cự lại nghịch cảnh và trong những lúc buồn khổ. Thời kỳ Ngụy Tấn, quốc gia phân liệt, chiến loạn liên miên, xã hội đau khổ và tinh thần trống trãi đạt đến cực điểm. Tâm trạng mà Tào Tháo diễn đạt "Nhân sinh xử nhất thế, khứ nhược triêu lộ hi". (đời một kiếp con người, qua mau như sươgn tan) trở thành tâm trạng bi thảm chung cho nhiều người. Cùng lúc ấy, triết học nhân sinh của Trang Tửvới tu duy rộng rãi khoảng hoạt, ý cảnh mông lung trở thành hệ thống lý luận cao sâu khó lường khiến người ta lí giải, dung hoà được với văn hoá cổ truyền. Nam Bắc triều, rồi Tùy Đường, Tống rất nhiều kẻ sĩ lễ Phật, thíhc Phật trở thành một trào lưu, nhưng họ đều dùng những khái niệm như không hư, tịch tĩnh của Trang Tử để giảng giải các khái niệm không vô, niết bàn, viên dung của Phật, bắc một chiếc cầu nối giữa văn hoá Trung Quốc và Phật giáo ngoại lai. Nhiều tăng sĩ Phật giáo vẫn kính ngưỡng Lão Trang. _ Thể nghiệm và tư tưởng nhân sinh của Trang học là trung tâm văn hoá tinh thần. Đời sau vì thời cuộc biến đổi nên hình thành nhiều loại hình khác nhau. Đại khái như các loại môn phái thần tiên đạo thuật. Họ đọc và học theo những chữ như "Tâm trai", "Toạ vọng", trong thiên Dưỡng sinh chủ rồi vận dụng vào tu luyện thuật trường sinh cầu mong lên tới cõi tiên. Loại thần tiên đạo thuật này ít nhiều có quan hệ với khí công và y thuật Trugn Quốc, phần nào chúng thúc đẩy khoa học cổ đại Trung Quốc tới bước tiến mới. Hai là loại cũng theo tư tưởng Trang Tử phản đối Nho học, tiêu diêu ngoài đời như bọn Kê Khang, Nguyễn Tịch, chính loại này mới làm cho Trang học lưu lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong văn hoá sử Trung Quốc, trong số họ nhiều người chân thực kế thừa và thực hiện Trang học. Tuy họ có những chỗ khác với Trang nhưng về đại thể, chính họ xiển dương quan niệm sống của Trang như trong bài "đại nhân tiên sinh truyện" nổi tiếng, Nguyễn Tịch viết: "Ôi, Đại nhân là người đồng một thể với tạo vật, cùng sinh ra với trời đất, tiêu dao nơi phù thế, hoàn thành cùng đạo, biến hóa tụ tán không có hình thể nhất định". Loại "đại nhân" như vậy hết sức giống với loại "chân nhân" của Trang. Ba là loại dị đoan, loại người dị đoan này kế thừa nhữg quan niệm dị đoan khác thường trong tư tưởng của Trang, tập trung thể hiện ở những quan niệm "phi quân", "vô quân" (không cần có vua) rồi phát triển thêm, tư tưởng của loại này nhiều chỗ giống với thần linh, ca ngợi xã hội không có vua, phê bình trào lọng quan niệm của Nho gia và học phái của nhà Nho, tỏ thái độ không hợp tác với giai cấp đang thống trị, cổ xúy cái gọi là "vô dụng chi dụng" (dùng ở chỗ không dùng) và "vô hình chi hình" (hình của cái không hình), lấy đó trốn thoát khỏi áp chế của hiện thực xã hội. Chính ở ý nghĩa này mà các Nho gia chính thống đời sau coi sách của Trang như một loại cấm thư. Ở Trung Quốc cổ đại, bọn người như Bão Kính Ngôn, Đặng Mục, Vô Năng tử là thuộc loại người dị đona này. Bốn là loại người thuận theo thời thê, loại người này khôgn hấp thu mặt lìa bỏ cuộc đời, vượt qua cuộc đời của Trang mà chỉ áp dụng quan niệm "thuận theo thời thế" của Trang. Họ đem những luân thường của Nho gia sáp nhập và Đạo tự nhiên của Trang rồi khẳng định sự tồn tại của xã hội với luân thường đạo lý hiện có cùng những trật tự hợp lý của nó, họ cho rằng nên phục tùng cuộc đời, thuận theo hoàn cảnh, tùy thời mà an. Quách Tượng khi chú giải sách Trang tử đại thể là triển khai trong ý nghĩa này mà mục tiêu vẫn là "làm sáng đạo nội thánh ngoại vương". Năm là loại người lợi dụng Trang để để đi vào tôn giáo, giải thíhc tôn giáo. Loại người này đa số là các nhà tôn giáo, lợi dụng tư tưởng tư biện và quan niệm hình như thượng của Trang để luận thuật tông giáo của mình. Đạo giáo trứoc tiên hấp thu tư tưởng của "Lão Tử" rồi đem nó biến hóa thành tông giáo hoá, bắt đầu từ thời Nam Bắc triều, nhất là từ đời Đường trở về sau, họ lại hấp thu phần lớn tư tưởng của Trang. Thời Đường Huyền Tông xuống chiếu phong hiệu cho Trang Tử là "Nam Hoa chân nhân", đổi tên sách Trang Tử là Nam Hoa kinh, Đạo giáo đạt tới sự phát triển hoàn bị. Các nhà Phật giáo thời Nam Bắc triều và Tùy Đường hấp thu phần lớn tư tưởng của Trang, dùng phạm trù, khái niệm của Trang giải thích Phật học và gọi sách của Trang là ngoại thư, còn gọi kinh phật là nội điển, dùng ngoại thư giải thích nội điển. Bản thân Trang học phức tạp đa dạng vô cùng có lợi cho nhưng kẻ hậu học tự thái nạp cho yêu cầu riêng của mình nên mỗi loại học phái hấp thu Trang học theo một khía
- cạnh khác nhau. Tư tưởng của Trang cống hiến cho lịhc sử văn hoá không hoàn toàn là ánh sáng mà có cả phần tối tạo ảnh hưởng tiêu cực cho văn hoá Trung Quốc. Tư tưởng yếm thế trốn đời của ông dẫn dụ người ta trốn tránh hiện thực, tránh xa ý thức cạnh tranh. Đối với người có chí tiến thủ thì tư tưởng của Trang kéo người ta lùi lại. KHUẤT NGUYÊN (Sinh năm 339 - mất năm 285 trước Công nguyên) _ Hàng ngàn năm nay, Khuất Nguyên luôn luôn là một người yêu nước số một được hết sức tôn sùng. Ông có tấm lòng yêu nước thâm trầm, cả đời bôn tẩu gian nan vì muốn thực hiện lí tưởng chính trị của mình. Khi chứng kiến bọn phe đảng đưa nước Sở vào con đường tối tăm, ông phẩn nộ chống lại. Bị bọn tiểu nhân bức hại, ông quyết khôgn khuất phục, đấu tranh với bọn gian đảng tới chết không hối hận. Tác phẩm đại biểu của Khuất Nguyên là Ly tao. Một người ái quốc vĩ đại như ông chỉ vì lý tưởng của mình không thực hiện đựơc mà phải nhảy xuống sông tự trầm để mong hoàn thành đạo đức, tiết tháo, nhân cách cao thượng của mình. _ Lòng yêu nước sâu sắc và cái chết bi tráng của Khuất Nguyên có sức mạnh cảm hoá nhân dân Trung Quốc. Hàng ngàn năm nay, nhân dân Trung Quốc chống lại bạo lực, duy trì chính nghĩa, đấu tranh quyết liệt để giữ gìn tôn nghiêm cho tổ quốc là noi theo tinh thần bất hủ của Khuất Nguyên. _ Khuất Nguyên vốn tên Bình, tự là Nguyên, người nước Sở thời Chiến Quốc. Ông đảm nhiệm vị trí đại thần ở nước Sở tham dự nhiều đại sự quốc gia. Vì muốn nước Sở cường thịnh, Khuất Nguyên chủ trương cải cách đổi mới và đối ngoại thì liên kết với nước Tề để chống lại nước Tần, nhưng chủ trương chính sách của ông bị bọn quý tộc quan liêu phản đối, Sở vương cũng không tín nhiệm ông, buộc ông bãi quan và đuổi ông đi xa. Sau đó, trong lúc lưu lạc giang hồ, nghe tin kinh đô nước Sở bị quân Tần chiếm, ông hết sức đau khổ nhảy xuống sông Mịch La tự trầm. Khuất Nguyên là một thi nhân vĩ đại, thơ của ông ngôn ngữ ưu mỹ, tưởng tượng của ông phong phú và nồng nàn nhịêt tình yêu nước. _ Từ nhỏ Khuất Nguêyn đã học tập khắc khổ, đọc rất nhiều sách, tri thực cực uyên bác, ông có chí hướng cao xa, quyết tâm phục vụ cho nước nhà làm cho nước Sở cường thịnh. Nghĩ đến việc nước, Khuất Nguyên vừa vui vừa lo. Vui vì đất đai nước Sở rộng lớn, sản vật phong phú, nông nghịêp và thủ công nghiệp đều phát đạt, lo vì Sở Hoài vưong là một vị quân vương hồ đồ, bên cạnh vương lại có nhiều gian thần luôn luôn xu nịnh đưa ra những ý kiến sai lạc. _ Lớn lên, Khuất Nguyên đến Sính đô xin yết kiến Sở Hoài vương. Lần đầu yết kiến, Khuất Nguyên đã trần thuật chủ trương của mình: - Tâu đại vương, trong bảy nước ngày nay, phía Tây có nước Tần, phía Đông có nước Tề và nước Sở ta là mạnh nhất. Nhưng nước Tần giảo hoạt nhiều dã tâm chỉ lăm le muốn thôn tính sáu nước khác. Thần e rằng nước Sở ta nguy mất ! Sở Hoài vương cao ngạo: - Nước Sở ta đất rộng dân giàu, lính nhiều tướng mạnh, có gì đáng sợ ? Khuất Nguyên đáp: - Nước Tần sở trường khiêu khích ly gián định thôn tính từng nước một cho đến khi diệt hết sáu nước. Phía Tây và phía Bắc nước Sở ta đều bị Tần uy hiếp. Theo ý kiến của hạ thần, chúng ta nên liên hợp với Tề cùng nhau chống lại sự xâm chiếm của Tần. Có vậy may ra nước Sở ta mới tránhđược sự nguy hiểm. Thấy Sở Hoài vương có vẻ xiêu lòng, Khuất Nguêy nói tiếp: - MUốn đối phó với nước Tần, chúng ta không chỉ liên kết với nước Tề là đủ. Trong nội bộ nước ta cũng cần phải cải cách, hạn chế đặc quyềncủa quan liêu và quý tộc, trọng dụng người có tài có đức. Với những người tài phò tá đại vương, nước Sở mới có hy vọng cường thịnh. _ Ngay sau đó, Khuất Nguyên được phong chứ Tử đô tam sự việc nước. Nhưng rồi không lâu, vì lời dèm pha ganh ghét của các gian thần, ông bị bãi chức đuổi về vùng Hán Bắc (nay thuộc tỉnh
- Hồ Bắc). Ông ôm nỗi hàm oan khônh biết nói với ai đành mượn thi ca nói hộ. Thời gian này, ông làm rất nhiều thơ, có một bài ông viết: [i]Tâm úc úc chi ưu tư hề, độc vĩnh thán hồ tăng phận, mạn tao dạ chi phương trường", ý muốn nói: lòng ta đầy đủ ưu sầu chỉ một mình than thở bi thương, không hiểu sao đêm lại dài và tối tăm như thế. Trong thời gian bị lưu phóng, Khuất Nguyên viết tác phẩm Ly tao, tác phẩm vĩ đại nhất của ông. Đây là tác phảm trường thi trữ tình dài 373 câu. Trong thơ ông dũng cảm vạch rõ sự hắc ám của bọn thống trị, phẫn nộ khiển trách tội ác tàn hại tôi trung của bọn quan liêu quý tộc và biểu lộ tình cảm yêu nước mãnh liệt của mình. Tác phẩm thi ca bất hủ này có từ cú ưu mỹ, khí thế hoằng đại, tập trung thể hiện tư tưởng ái quốc của Khuất Nguyên. Những đoạn cuối của tác phẩm, ông biểu lộ ý tưởng nếu như ông không thay đổi đựoc số mệnh của nước Sở, ông sẽ nhảy xuống sông tự vẫn, dùng cái chết báo đáp tổ quốc. Khuất Nguyên bị lưu phóng ở Hán Bắc vài năm, nhân vì nước Sở bị nứoc Tần lừa đảo, Sở Hoài vương nhớ tới chủ trương của ông lại cho ông về Sính đô phong làm "Tam Lư đại phu". _ Sau đó, Sở Hoài vương bị Tần Chiếu vương lừa sang Tần và chết ở đó. Lên nối ngôi Sở Hoài vương là Khoảng Tương vương hồ đồ không kém cha, y nghe theo lời gian thần xúi xiểm bãi chức Tam Lư đại phu của Khuất Nguêyn và đuổi khỏi Sính đô. Lúc này, Khuất Nguyên đã gần 50 tuổi, hết sức tuyệt vọng, đầu ông bạc trắng đi về nơi bị lưu phóng. _ Lại mấy năm qua, Khuất Nguyên lại nghe tin bất hạnh: nứoc Tần sai tướng đại tướng Bạch Khởi tấn công nứơc Sở, Bạch Khởi dùng nước sông chôn sống thành trì nước Sở, mấy chục vạn dân quân nước Sở chết đuối trong nước. Năm sau, Tần lại đánh Sính thành của Sở, nhân dân chạy loạn đông như kiến. Khuất Nguyên chạy xuống miền Nam. Không tốn một mạng người quân Tần chiếm được kinh đô Sở. _ Khi tin kinh đô thất thủ truyền đến phương nam là lúc Khuất Nguyên đang lưu lạc ở vùng sông Tương và sông Mịch La thuộc Hồ Nam. Tai hoạ quốc phá gia vong khiến ông đứt từng khúc ruột. TRên đường lưu lạc, ông vừa khóc vừa làm thơ "Hoài Sính" (nhớ đất Sính) nổi tiếng, trong đó có hai câu: "Duy Sính lộ chi liêu viễn hề. Giang dữ hạ chi bất khả thiện" (đườgn về Sính xa xôi sao chứ. Như Trường Giang và sông Hạ nhìn không thấy cuối). _ Khuất Nguyên đã là ông lão 60 tuổi đau khổ lưu ly nới xứ lạ. Ông quyết tâm dùng cái chết của mình để cảnh tỉnh nhân dân. Không lâu sau, ông nhảy xuống sông Mịch La (một nhánh sông Tương). Nhân dân quanh vùng vội cho tìm xác ông và lập miếu thờ. Theo truyền thuyết ngày ôgn tự vẫn là mồng 5 tháng 5 âm lịch. Từ đó, ngày ấy trở thành ngày lễ Đoan Ngọ kỷ niệm tưởng nhớ đến ông. _ Khuất Nguyên là thi nhân vĩ đại sớm nhất của Trung Quốc cổ đại và cũng là người ái quốc vĩ đại. TUÂN KHANH (Sinh năm 315 - mất năm 217 trước Công nguyên) _ Cuối thế kỷ 19, nhà th sĩ duy tân Đàm Tự Đồng khi phản tỉnh về văn hóa truyền thống Trung Quốc đã đưa ra lời luận định quan trọng: "Hai ngàn năm nay, học thuật của chúng ta là Tuân học vậy". Người sáng lập ra Tuân học là Tuân Huống. _ Trong học thuật sử Trung Quốc, Tuân Tử là nhân vật trọng đại từ Tiên Tần tới đời Hán, ông trên thì kế thừa Khổng Mạnh, dưới thì tiếp nối Kinh Dịch, sách Trung Dung kết hợp cả bách gia chư tử nên có địa vị hết sức trọng yếu. _ Xét về mặt tư tưởng, Tuân tử chú ý tới chính sự, chuyên tâm vào "đại nhất thống". Ông cố công tước bỏ những khuyết điểm của bách gia, tiếp nhận sở trường của mọi nhà. Từ quan điểm thiên đạo tự nhiên của Lão Tử, ông cũng diễn thành tư tưởng "chế thiên mệnh nhi dụng chi"
- (khống chế mệnh trời mà dùng vào đời). Từ quan điểm nhận thức luận và tư tưởng lô-gic của Mặc Tử, ông biến thành lý luận kỹ thuật biện luận của mình. Từ Pháp gia ông hấp thu tư tưởng pháp trị, trộn lẫn vào lý luận Nho gia, đề xướng tư tưởng hợp dụng lễ và pháp, ông phê phán tính thiên luận của Nho gia. Xuất phát từ thuộc tính tự nhiên của con người, ông đề xuất tính ác luận bổ sung cho học thuyết của Mạnh tử. Từ chỗ tập hợp các sở trường nhiều học phái, Tuân tử giống như Nho mà không phải Nho, giống như Mặc mà không phải Mặc. Hệ thống tư tưởng của ông từ nhiều phương diện khác nhau phát sinh ảnh hưởng sâu sắc đến hậu thế. _ Tư tưởng của Tuân tử đặt cơ sở cho trật tự phong kiến và khai sáng nên sự phân chia đẳng cấp nghiêm mật. Hai học trò của ông -Hàn Phi và Lý Tư- trong thời Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước, là hai nhân vật quan trọng kiến lập chế độ quân chủ chuyên chế. Tư tưởng thực tiễn của Tuân tử đã đưa ông lên như một người khai sáng ra nền tảng chính trị bằng "hình chính" (chính thể cai trị bằng hình luật) và "pháp trị" (cai trị bằng pháp luật), từ đó tạo ảnh hưởng sâu đậm đến chính trị văn hoá hậu thế. _ Tuân tử đưa quan niệm tích cực lạc quan của Nho gia lên đến cảnh giới cực cao "dữ thiên địa tham" (cùng tham dự với trời đất), từ đó đưa đạo đức luận của Khổng Mạnh bước qua thời kỳ quá độ đến tư tưởng Kinh Dịch và Trung Dung, lại đến vũ trụ luận đời Hán, cung cấp một mắc xích không đứt đoạn trong tiến trình của đạo Nho. Thực tế Tuân tử đã chuẩn bị cho hệ thống tư tưởng "Thiên nhân cảm ứng" (trời với người cùng cảm ứng với nhau) ở đời Hán như một học giả khẳng định trong bộ Trung Quốc cổ đại tư tưởng sử luận rằng: "Không có Tuân tử là không có Hán nho, không có Hán nho thì khó tưởng tượng xã hội Trung Quốc sẽ ra sao". _ Tuân tử là một lý luận tư tưởng gia thực dụng. Mệnh đề quan trọng "chế thiên mệnh nhi dụng chi" của ông đưa ra xác lập ý tưởng con người có thể làm chúa tể trời đất ngang hàng với trời đất chứ không can dự gì ý chí của bất cứ vị thần nào. Nếu cho Mạnh tử phát huy phần "nội thánh" của Khổng học thì Tuân tử là người kế thừa phần "ngoại vương" của Khổng học mà những người kế thừa ông sau này có Trần Lượng, Diệp Thích đời Nam Tống, Cố Viêm Võ, Hoàng Tông Hi, Cung Tự Trân, Ngụy Nguyên đời Minh, Thanh. Xét về mặt khác, Tuân tử phản đối tất cả nhnữg quan niệm mê tín siêu kinh nghiệm có tác dụng chống đối rất lớn trong lịch sử triết học Trung Quốc, hình thành ảnh hưởng không thể xem thường. _ Tuân tử thu nhận môn đồ rất rộng và chuyên cần vào việc trứ tác, ông lập môn phái dạy học. Ông chính là bậc tông sư ngành Kinh học từ Hán trở về sau như Quách Mạt Nhược nhận định: "Người Hán lưu truyền Thi, Thư, Dịch, Lễ cho đến Xuân Thu đều có hệ thống truyền thụ như nhau, Vô luận trực tiếp hay gián tiếp, hầu như đều có quan hệ với Tuân tử". Ảnh hưởng về học thuật như thế hiển nhiên là sâu đậm. _ Trong đời Hán, Tuân tử được ca ngợi rất cao, quốc sách "đạo bá vương" của các kẻ thống trị đời Hán, xét về nguồn gốc đã không phải là tư tưởng Khổng Mạnh, cũng chẳng phải tư tưởng Lão Trang mà chính là tư tưởng dung nạp nhiều học thuyết của Tuân tử. Thuật "Văn võ kiêm dụng" của Lục Giả có thể nói là phiên bản của tư tưởng "hình thưởng tính tế" (hình phạt và khen thưởng cùng áp dụng) của Tuân tử, chủ trương "Quân giả bất thất kỳ quân giả" (bậc vua là người không làm mất đám đông) của Đổng Trọng Thư chính là xuất phát từ tưởng "Quân giả, thiện quần dã" (bậc vua là người giỏi quy tụ đám đông) của Tuân tử. Ảnh hưởng của Tuân tử sâu sắc tới tư tưởng chính trị, hoch thuật đời Hán. _ Từ thời Tam Quốc, Nam Bắc triều cho đến đời Tùy đời Đường, Tuân tử luôn luôn được tán dương. Trong văn chương đời Đường, Tuân tử luôn luôn xuất hiện, thậm chí có người còn cho ông là "Kẻ sĩ danh tướng ở đời, sư phụ của các bậc vương giả". Họ đề cao sách Tuân tử và nhiều người chú giải bình luận sách ấy. Chính đời Đường đã chia bản cũ sách Tuân tử ra làm 20 thiên trở thành bản Tuân tử lưu hành đến ngày nay. _ Từ khi có Lý học đời Tống, Minh, Tuân tử và Tuân học bắt đầu xuống dốc. Các Lý học gia đời Tống Minh cho rằng Chu Hi, Vương Dương Minh là kế thừa trực tiếp tư tưởng Khổng Mạnh và nhận ra rằng đây mới chính là dòng chủ lưu chính thống của tư tưởng triết học Trung Quốc, họ cực lực đả kích Tuân tử và Tuân học. Đến đời Thanh, Tống học suy vi, Tuân học lại
- được phục hưng tôn trọng. Các học giả đua nhau tìm hiểu Tuân học qua các sách Tuân tử tập giải của Vương Tiên Khiêm, Tuân tử bổ chú của Hách Ý,... hay như đại học giả Lương Khải Siêu quả quyết: "Từ Tần Hán về sau, chính trị, học thuật đều có nguồn gốc từ Tuân tử". TRÂU DIỄN (Sinh năm 305 - mất năm 240 trước Công nguyên) _ Trâu Diễn là người nước Tề thời Chiến Quốc. Ông chứng kiến nhiều vua chúa thời ấy kiêu sa dâm dật, không duy trì thi hành đạo đức, ông cẩn thận quan sát thay đổi biến hoá trong trời đất vạn vật làm thành một loại phụ hội giải thích, quan điểm của ông được viết trong hai bộ Kinh Thủy, Đại thánh có hơn mười vạn chữ. Trong sách, Trâu Diễn luận thuật về sự giao cảm giữa âm dương, vị trí thay đổi của ngũ hành, lẽ thay đổi của vận nước. TRâu Diễn bàn đến cả thuật trị nước của quân vương mà tông chỉ là yêu cầu quân vương phải thi hành nhân chính, tôn trọng tiết kiệm, ban ân nhiều cho dân. Lý luận chíhn trị của Trâu Diễn được các vương công đại phu tiếp nhận. Họ tỏ ra thích thú với học thuyết của Trâu Diễn, nhờ đó ông nổi tiếng ở nước Tề. Khi ông sang nước Lương, Ngụy Huệ vương ra tận ngoài thành thành đón ông với lễ chủ khách. Khi ông sang nước Triệu, Bình Nguyên quân dùng đại lễ đãi ông. Khi ông snag nước Yên, Chiêu vương tự tay quét bụi đón ông và làm lễ nhận là đệ tử, khác hẳn khi Khổng Tử gian nan du thuyết ởnước Trần hay Mạnh Tử du thuyết ở Tề, Ngụy. _ Sở dĩ học thuyết của Trâu Diễn được vua chúa các nước trọng dụng thị vì nó thích hợp với yêu cầu hình thế chính trị thời Chiến Quốc. Học thuyết của ông coi trời và người, đức hạnh và trị loạn, vận động đan kết làm một. Ông cho rằng các hành động ở nhân gina đều có tương thông với âm dương ngũ hành và tương ứng lẫn nhau. Từ đây dẫn đến những dấu hiệu điềm triệu giữa trời và người, vua chúa nào đạt được một đức trong ngũ hành nghĩa là nắm được chính quyền, giữa trời đất sẽ hiện ra điềm triệu; khi đức hạnh suy kiệt cũng có điềm triệu xuất hiện. Những thay đổi trong nhân gian, nhnữg biến động trong vương triều đều do vì tuần hoàn vận chuyển của ngũ hành tương sinh, ngũ đức giao hoán lẫn nhau. Trâu Diễn từ lý luận ngũ hành tương thắng sáng lập nên học thuyết ngũ đức chung chúng thủy, ông cho rằng ngũ đức giao hoán là nguyên nhân chung cực của các vương triều thay thế nhau trong lịch sử. TRâu Diễn bày ra thứ tự thuộc ngũ đức của các vương triều đã qua như sau: thời Hoàng đế thuộc đức Thổ, vì Mộc thắng Thổ nên thay thế Hoàng đế là vua Võ với "một khí thắng"; lại vì Kim thắng Mộc nên thay thế Võ là Chu Văn Vương với "hoả khí thắng"; rồi lại Thủy thắng Hỏa nên tương lai thay thế Chu Văn Vương nhất định phải là người thuộc Thủy. Thời Chiến Quốc là thời mạnh thắng yếu, nước nào cũng muốn chiếm ngôi thiên tử nên học thuyết của Trâu Diễn rất hợp với khẩu vị của giai cấp địa chủ mới hưng khởi lên đang thèm muốn kiến lập vương triều mới. _ Trâu Diễn dùng thuyết Âm Dương ngũ hành giải thích hiện tượng xã hội lịch sử và các biến thiên của xã hội lịch sử rõ ràng là không căn cứ, nhưng xét về mặt phát triển tư tưởng triết học, Âm Dương ngũ hành vẫn có tính sáng tạo nhất định. _ Âm Dương và Ngũ hành, thoạt đầu vốn không phải là quan niệm tương thông. Âm dương xuất hiện sớm nhất trong Kinh Dịch là hai mặt đối lập của một thể thống nhất, sản sinh ra trong lúc người ta quan sát thiên văn khí hậu. Thời Tây Chu, người ta bắt đầu dùng Âm dương giải thích sự thay đổi của bốn mùa thay đổi luân lưu Xuân, Hạ, Thu, Đông coi như một thứ quy luật của tự nhiên. Kinh Dịch đầu đời Chu khái quát tới độ cao triết học quan niệm về Âm dương, đặt ra hai phạm trù trừu tượng là Âm và Dương để đặt cơ sở cho những hiện tượng phức tạp trong thiên nhiên và con người, nó xác nhận sự vật phát triển biến hóa có nguyên nhân căn bản là do âm dương giao hoán mà bất cứ sự vật nào phát triển tới cùng cũng tới tử vong để sự vật mới thay thế. Dù cho quan niệm Âm dương này mang màu sắc thần bí, nhưng nó vẫn có đầy đủ ý nghĩa biện chứng pháp thô sơ. _ Thuật ngữ Ngũ hành xuất hiện sớm nhất trong Kinh Thư ở hai thiên "Cam thệ" và "Hồng phạm". Đầu đời Chu hoặc sớm hơn nữa, người ta đã coi năm loại vật chất là nguyên tố cơ bản,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn