YOMEDIA
ADSENSE
36 danh hương Thăng Long - Hà Nội (36 làng nổi tiếng Thăng Long - Hà Nội): Phần 1 - Vũ Ngọc Khánh
148
lượt xem 31
download
lượt xem 31
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
36 danh hương Thăng Long - Hà Nội (36 làng nổi tiếng Thăng Long - Hà Nội): Phần 1 giới thiệu về các làng nổi tiếng ở Hà Nội như làng Bát Tràng, Vùng Bưởi, làng Cố Đô, làng Chèm và Ba chạ anh em, làng chuông, làng Đa Sĩ, làng Đại Áng... Mời bạn đọc tham khảo nội dung phần 1 cuốn sách.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: 36 danh hương Thăng Long - Hà Nội (36 làng nổi tiếng Thăng Long - Hà Nội): Phần 1 - Vũ Ngọc Khánh
- 3Ó DANH HƯƠNG THẦNG LONG - HÀ NỘI (36 làng nổỉ tiếng Thàng Long - Hà NỘI) v ũ NGỌC KHÁNH NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi LỜI NÓI ĐẦU Những năm trước đây trong chương trình nghiên cứu văn hóa làng, tôi có ý định tim hiểu và giới thiệu đến mức tối đa những làng văn hóa cổ truyền ở nước ta, từ Nam chí Bắc. Tôi đã được nhiều cộng tác viên giúp đd đ ể xuất bản được hai tập sách ghi chép gồm 30 làng ở nhiều tỉnh. Trong chương trinh, chúng tôi có nghĩ đến các làng ở Hà Nội và củng đã có những phác thảo sơ bộ đ ể chờ triển khai. Vào dịp kỵ niệm Thăng Long một nghìn năm văn hiến, căn cứ vào thành ngữ truyền thống - Hà Nội 36 p h ố phường, chúng ta thử chọn lấy 36 danh hương Hà Nội xem sao. Đề tài như vậy quả là thú vị, nhưng củng rất khó khăn. Vì tính ra Hà Nội có rất nhiều làng danh tiếng từ xưa, chứ không phải chỉ có 36 làng. Con sô'này sẽ bị nhiều người dân Hà Nội và nhiều bạn đọc thắc mắc. Một khó khản nữa là các làng ngày xưa, đại đa sô' là những cái thôn nhỏ, nhưng mà rất danh tiếng, rất nhiều thành tích và tiềm năng. Các làng ấy ngày nay, chỉ giữ lấy cái tên củ (mà nhiều người củng không biết) chứ không còn đúng là làng củ nữa. Một thí dụ: ta nói Mỗ, La, Canh, Cót tứ danh hương, nhưng bây giờ cả bốn
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi làng ấy đều không còn như trước. Đến Dịch Vọng mà nói đó chính là làng Cót thì chắc nhiều người phải ngỡ ngàng. Bạn đọc có thông cảm cho như vậy thi mới dễ dàng trao đổi. Do vậy mà ở tập sách này, chúng tôi có điềm cho đủ 36 làng, nhưng vẫn biết là chưa hoàn toàn chính xác và thoả đáng. Hi vọng sẽ có dịp chúng ta sẽ xác định lại sau. Mong người đọc ở nơi này hay nơi khác hiểu cho rằng đây chúng ta chỉ điểm qua, chứ không phải ấn định cho Thăng Long chỉ có 36 làng ây. Các làng được điểm đến, có làng được nhắc rất kỹ> như một bản thảo nghiên cứu dài hơi, nhưng có làng chỉ được nói qua đ ể đáp ứng yêu cầu xuất bản trước mắt. Tôi xin hứa sẽ phải quan tâm hơn nữa sau này. Một sô' bài trong này, tôi đã đ ể nguyên như của các bạn cộng tác viên đã viết từ năm 2001 (Trong 2 tập sách in ở NXB Thanh Niên do tôi làm chủ biên và chịu trách nhiệm). Tôi xin được ghi lại tên các bạn đã có nhiều đóng góp như: Tạ Phong Châu, Phạm Hồng Hà, Thái Duy Hiệu, Phan Kiến Giang, Lê Văn Kỳ, Vũ Ngọc Khuê, Vũ TỐ Khương, Phùng Hương Lan, Vũ Văn Luân, Phạm Lan Oanh, Nghiêm Đa Văn . . V . . V Có th ể nói, dịp này các bạn lại cùng tôi góp phần nhỏ bé đ ể kỷ niệm Thăng Long ngàn năm văn hiến. V.N.K
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi LÀNG BÁT TRÀNG Bát Tràng là một làng quê nối tiếng về nghề gô"m, thuộc huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay đã thuộc ngoại thành Hà Nội. Sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi đã thấy chép đến tèn Bát Tràng. Dân làng thì tin rằng ngay từ thòi đại Lý-Trần, đã có sự sinh cđ lập nghiệp ở đây. Một sô dòng họ đã từ Thanh Hóa, rồi chủ yếu là dân hai làng Bồ Xuyên, Bạch Bát ỏ Ninh Bình tối đây lập phường sản xuất. Câu đối ở đình làng có nhắc đến cái tên Bồ Bát này: Bồ di thủ nghệ khai đinh vũ Lan nhiệt tâm lương bái thánh thần. (Từ làng Bồ mang nghề ra xây đình miếu Lòng thành dâng hương lên các thánh thần). Đầu tiên, phường được gọi tên là Bạch Thổ phường. Trải qua nhiều năm tháng, đến đòi nhà Nguyễn, Bát Tràng thành một xã trong tổng Đông Dư huyện Gia Lâm. Sau Cách mạng tháng Tám, nhập vối Giang Cao và Kim Lan,thành xã Quang
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi Minh. Đến năm 1964 thì đưỢc trở lại cái tèn Bát Tràng như cũ. Từ lâu, làng Bát Tràng đã được tổ chức có (qui mô nề nếp. Làng có đình, chùa, đền miếu, nhà văn chỉ khang trang chứng tỏ một nếp sốhg văn h óa. Đình Bát Tràng thò rất nhiều Thành hoàng. Cả ỉànig chia ra làm 5 nóc, thò 5 Thành hoàng khác nhau: - Nóc Ninh Tràng thò Hán Cao tổ và Lã Hậ u. - Nóc Bảo Ninh thò Cai Minh Chính tự Đại viương. - Nóc Đông Hội thò Phan Đại tướng. - Nóc Kỳ Thiệu thò Hộ Quốc thần. - Nóc Đoài thò thần Bạch Mã. ♦ Chưa có điều kiện tra cứu về các Thành hoàng này, nhưng có điều đáng chú ý là Thành hoàng ở làng này có cả các vị người nước ngoài, mà không tliấy có các vỊ như Cao Sơn, Quí Minh rất phổ biến ở nhiều làng quê. Các sắc phong thuộc những triều đại Lê, Tây Sđn, Nguyễn, v.v... làng vẫn còn giữ được. Có rất nhiều thớ ca, câu đốỉ ca ngợi vùng quê này. B.ài Bát Tràng phú có nhiều ý tứ tự hào mà đắc chí: - Xem dương cơ củng lịch sự thay So nhân vật củng phong lưu rát ■Nhà chập chen tiếng ngựa tiếng xe Cửa thấp thoáng hóng tàn bóng quạt 8
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nội - Văn võ nổi danh ngoài nước, quan sang rạng rd lẫy lừng Công với thương nức tiếng trong lành, Hàng đắt rộn mù xô xát - Lò chen chúc anh em bạn hữu, quanh năm tuôn vẻ khói đen sì Bát no nê con cái vỢ chồng, các thức rãi màu men trắng toát.ư.v... Làng Bát Tràng bảo vệ những phong tục nhằm giữ gìn lễ nghĩa. Thí dụ ngay trong đình trung, chia ra 4 góc, trải bốn chiếc chiêu cạp điều đối xứng nhau. Bên hữu, góc trong là chỗ các nhà khoa bảng, góc ngoài là chỗ các võ quan có tước cao. Bên tả thì góc trong dành cho các cụ thượng thọ, góc ngoài dành cho các vỊ trùm làng. Như vậy là có thứ tự cho những người hưởng lộc nưóc, lộc tròi và lộc của làng rất chu đáo. Việc ma chay cũng có nét hay. Các đám tang đều có biển cầm đi trưốc. Ngưòi mất là đàn ông thì biển đê hai chữ Trung tín; là đàn bà đề hai chữ Trinh thuận. Nếu người mất có phạm lỗi lầm thì biển quét vôi trắng, không đề chữ gì. Đám cưới có lệ nộp cheo. Con gái lấy chồng làng phải nộp 50 viên gạch Bát Tràng, lấy chồng ngoài làng thì nộp gấp đôi. Gạch thu được để xây đưòng, hoặc tu sửa đình miếu. Hội làng mở rất rầm rộ. Trò chơi phổ biến là trò đánh cờ người. Chợ Bát Tràng rất tấp nập. Nhà thớ Cao Huy Diệu năm 1791 đã có nhận xét:
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi Đi lại lối quen nơi phát đạt Bán buôn tấp nập khách giàu sang. (Bẩn dịch của Chu Thiền) Có thể nghĩ rằng Bát Tràng chủ yếu là một làng nghề thủ công, một làng nông nghiệp cách xa đô thị thì phải đậm chất nông thôn hờn. Nhưng không, Bát Tràng còn là một làng văn hóa, làng văn học, làng khoa cử hẳn hoi. Làng có nhiều ngưòi học hành, đỗ đạt. Thư tịch cổ và bia ký ghi chép được 367 ngưòi ở bậc tam trường trở lên, chia theo các hạ như sau. Họ Giáp; 2 ngưòi Ho Cao: • 2 ngưòi Họ Đỗ: 4 ngưòi Ho Bùi: • 6 ngưòi Ho Hà: • 14 người Họ Vũ; 21 ngưòi Họ Phùng: 23 người Họ Vướng: 45 ngưòi Ho Pham: • • 49 người Họ Lê: 60 người Họ Trần: 64 người Họ Nguyễn: 77 người Trong sô những ngưòi vào hàng ngũ khoa danh này, đã nổi lên những tên tuổi lẫy lừng. Có thể kể đến những vị có tên ở bia Văn Miếu: - Trạng nguyên Giáp Hải (1506 - 1586), đồ Trạng nguyên vào đòi nhà Mạc, năm 31 tuổi, ô n g có tài văn chương cao, có đức độ lón, có lòng thương 10
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi dân. Vua Mạc Hậu Hớp đã kính tặng ông đôi câu đối chỉ rõ ông đỗ Trạng nguyên, làm Tể tướng, như ngôi sao Bắc Đẩu giữa trồi Nam, đồng thòi là một bậc quốc lão mà cả nước tôn kính, ô n g còn có tài ngoại giao. Sử chép rằng nhà Minh toan đem quân đánh nưóc ta. Tướng địch là Mao Bá ô n gửi sang trước một bài thơ để dò ý tứ. Bài thớ vịnh cái bèo có ý xem lực lượng ta mỏng manh, dễ bị đánh tan. Giáp Hải đã hoạ lại thơ ấy, nêu cao bản lĩnh của quốc gia dân tộc mình. Và sau đó, chiến tranh đã không xảy ra. Triều đình ta rất khâm phục, mà bên nhà Minh cũng gọi ông là vị quan Tuyên phủ. Đòi tư của ông cũng có những nét đặc biệt, cho thấy ông là con ngưòi hiếu nghĩa, biết phục thiện, biết làm điều lành. Những giai thoại về ông được chép trong sách Công dư tiệp ký. Ngoài nhà khoa giáp này, Bát Tràng còn có nhiều Tiến sĩ: - Vương Thời Trung, đỗ năm 1589 - Trần Thiện Thuật, đỗ năm 1684 - Nguyễn Đăng Liên, đỗ năm 1706 - Lê Hoàng Viện, đỗ năm 1715 - Nguyễn Đăng cẩm , đỗ năm 1718 - Lê Hoàn Hạo, đỗ năm 1733 ■Lê Danh Hiển, đỗ năm 1785. 11
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi Đặc biệt, thế kỷ 19 có Vũ Văn Tuấn, đỗ năm 1843. Ông làm quan Tuần Vũ Hưng Hóa, có đi sứ Trung Quốc cùng vói phái đoàn của Phan Huy Vịnh (1851), khi về được vua Tự Đức tặng mấy chữ: cần lao khả lục (Công lao khó nhọc đáng ghi chép). Có nét đặc biệt là ông mồ côi cha, nhà rất nghèo, được người mẹ chăm lo cho ăn học nên người. Cho đến lúc làm quan, Vũ Văn Tuấn cũng sống thanh bạch, đến nỗi khi dựng vỢ gả chồng cho con, dù là một vị quan lớn, ông cũng không đủ tiền phải đi vay bạn. Sang đến nghiệp võ, Bát Tràng cũng có những nhân vật tiêu biểu, ô n g Vũ Ngang tham gia khởi nghĩa Lam Sđn từ thòi kỳ Lũng Nhai được xếp vào hạng công thần được tước hầu và ban quốc tính, nên cũng gọi là Lê Ngang, hoặc Lê Khả Lang (theo sách Đại việt sử ký toàn thư), sắc phong đòi sau (Cảnh Hưng 1783) tôn ông là Khai quốc công thần, Thái phó Đông quận công. Tiếp đó các ông Nguyễn Thành Trân, Nguyễn Tuấn, v.v... đều là các vỊ tướng có công dưối thòi Lê Trịnh. Vào thòi kỳ cận, hiện đại, Bát Tràng cũng có những tên tuổi trong nhiều sự kiện đóng góp vào lịch sử cách mạng, lịch sử văn hóa Việt Nam. Nhớ lại những hoạt động đầu tiên của Việt Nam Quang phục hội dưới lá cò của Phan Bội Châu, ta phải nhớ đến một chiến sĩ Bát Tràng, ô n g có tên là Nguyễn Thế Trung, rồi đổi thành Phạm Văn Tráng, có đi 12
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi dạy học chữ Hán ở Nam Định, gia nhập hội Quang Phục, được sang Trung Quốc (1912). Năm sau, ông thi hành lệnh của Hội, về Thái Bình, ném bom giết chết viên Tuần phủ Thái Bình là Nguyễn Duy Hàn ngày 12 - 4 - 1913, bị Pháp bắt ở Lạng Sơn, xử tử ở Hà Nội ngày 23 - 9 - 1913. Lên đoạn đầu đài, ông còn nói câu hài hước: “Hãy ném xác ta xuông sông Hồng, chứ đừng chôn, vì ta không muôn gặp Nguyễn Duy Hàn dưới âm phủ”. Hành động của Phạm Vàn Tráng làm chấn động dư luận đương thòi. Ông được xem là một liệt sĩ nêu gương khích lệ nhân dân và các Nho sĩ trong phong trào duy tân. Trần Quốc Duy trong sách'Việt Nam nghĩa liệt sử„đánh giá cử chỉ của ông là^ìỉát dạ quang tùy dư chưởng phóng^^(Anh sáng phá hóng đêm chính là từ tay ta ném ra). Cũng một hành động này, hơn mưòi ngày sau, Nguyễn Khắc Cần ném tạc đạn giữa phô" Tràng Tiền - Hà Nội. Pháp đã tuyên án tử hình 7 chiến sĩ nữa cùng với Phạm Văn Tráng. Phát huy tinh thần Phạm Văn Tráng, nhân dân Bát Tràng vẫn liên tục tham gia vào các cuộc vận động cách mạng. Những đêm trước Cách mạng Tháng Tám, Bát Tràng là địa điểm bí mật in báo Độc lập của Đảng Dân chủ Việt Nam (do Dương Đức Hiền lãnh đạo). Và một kỷ niệm đẹp nữa, bài hát Tiến quân ca do Văn Cao sáng tác đã lần đầu tiên được in ở Bát Tràng. Tấm đá in lòi thơ ấy ỏ 13
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi trên căn gác nhỏ nhà cụ Vưđng Văn Tích. Tiếp đó, nhân dân Bát Tràng hào hứng chiến đấu trong khởi nghĩa mùa thu 1945, rồi trong các cuộc kháng chiến chông Pháp và chống Mỹ cho đến công cuộc xây dựng đất nước bây giờ. ★ * -k Nói đến một làng nghề có tiếng tăm và nhiều kinh nghiệm như Bát Tràng, mà không nói đến phần kỹ thuật, phần chuyên môn thì có lẽ là không ổn. Không nói đến phạm vi kinh tế, những sản phẩm thủ công của dân ta đều có những giá trị văn hóa nhăt định, và nếu tiếp cận các quá trình sáng tạo, quá trình chế biến sản phẩm, thì rõ ràng là phải có trình độ khoa học hẳn hoi. Chúng ta làm quen khá muộn vối khoa học thực nghiệm, với toán học, hóa học nên ngày nay hầu như ở lĩnh vực nào, vấn đề cũng còn đang bỏ ngỏ. Do đấy mà cũng rất khó đi sâu vào nghề gồm Bát Tràng, khi đang có nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn. Xin phép chỉ điểm qua ỏ đây một vài ghi nhận. Trong việc chế tạo ra các sản phẩm gô"m, việc đầu tiên là phải tìm nguyên liệu, phải có đất để tạo nên vật phẩm. Đất là đất sét trắng, lấy ngay trên quê hương Bát Tràng. Khi nguyên liệu địa 14
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi phương bị cạn, ngưòi thợ Bát Tràng phải đi tìm đất ở nhiều nơi: Sơn Tây, Phúc Yên, Đông Triều, Đông Anh, v.v... Có đất rồi, phải có trình độ kỹ thuật cao để tạo ra các dáng của đồ gô"m, tạo ra các bàn xoay, dùng chân để xoay, dùng tay để vuô^t. Đầu tiên là làm nên cái cốt cho vật phẩm, sau đó thì hình thành ra những cái khuôn (khuôn gồ, khuôn thạch cao). Nặn ra vật phẩm bằng bàn tay khéo léo (ba, vuốt) theo các khuôn rồi, phải có men để hoàn chỉnh sản phẩm. Chê tạo men là một bí quyết của nghề gô"m. Có nhiều loại men, đều là do kết quả của trình độ chê biến và sáng tạo. Men ngọc, mon gio, men nâu, men lam, men rạn, v.v... Phải biết cách điều chế, gia giảm theo những qui luật, mới có thể có được mẫu hàng thích hợp. Tiếp đó là cho các vật phẩm vào lò nung. Ngưòi thợ gôm Bát Tràng đã biết nghĩ và sáng tạo ra nhiều kiểu lò: Lò ếch, lò dân, lò bầu, lò hộp, v.v... Từng loại lò như vậy thích hợp với từng kiểu vật phẩm. Các vật phẩm hình thành được xếp vào lò, ngưòi ta gọi là chồng lò (cũng là một khâu đòi hỏi kỹ thuật cao). Cuối cùng là việc đốt lò đ ể tạo nên thành phẩm . Đốt lò bằng rơm rạ, củi, nhưng có loại gỗ lại không đùng làm củi được như gỗ sung, gỗ đa, v.v... Thợ làm gô"m thường chia ra thành các phường để có được những thao tác chuyên môn chắc chắn. Có phường chông lò, phường đô"t lò, phường dồi bát, phường ve lửa, v.v...N hững việc 15
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi làm, những dụng cụ trong một lò gô"m cũng được gọi bằng những thành ngữ, những tiếng chuyên môn kỹ thuật riêng. Những nhà ngôn ngữ nếu tìm đến các hiện trường này, chắc chắn sẽ có nhiều tài liệu đóng góp cho bộ từ vị Việt Nam thêm dày dặn. Những thuật ngữ như be chạch, ve lòng, đòng đòng..., những thành ngữ như: lượn quả, xà vách, ít củi nhiều lửa, đứng cửa vuông cây, v.v... đến bao giò thì được đưa vào Từ điển tiếng Việt? ic * * Sản phẩm gô"m Bát Tràng từ lâu đã được nhân dân cả nước ghi nhận. Gạch Bát Tràng đã đi vào ca dao, mà điều thú vị là không phải chỉ để khẳng định công dụng của nó trong việc xây dựng sân, tường, nhà cửa mà để bộc lộ tình yêu vững bền và chung thủy: ước g i anh lấy được nàng Đ ể anh mua gạch Bát Tràng về xây Nếu văn học dân gian chưa xác định được xuất xứ, thời điểm câu ca dao này, thì sử sách chính thức đã cho biết uy tín của đồ gốm Bát Tràng đã được nâng cao từ nửa thiên niên kỷ trưốc. Nguyễn Trãi trong sách Dư địa chí (thế kỷ XV) cho biết: Trong số đồ cống nạp triều đình phương Bắc: “Làng 16
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi Bát Tràng phải cung ứng 70 bộ bát đ ĩa ”. Hàng gô"m men của Trung Quô'c nổi tiếng khắp thế giới từ lâu, sao còn phải nhận hàng tuế công gô"m men Bát Tràng? Nhưng đâu phải chỉ có ở Trung Quốc? Một số nước trong khu vực Đông Á vào khoảng thòi gian đó, cũng đã biết đến đồ gôm Bát Tràng. Trong tập kỷ yếu Đô thành Hiếu c ổ (sô' 4 năm 1919), tác giả Asiỉice cho biết là vào khoảng 1597 - 1863 nhiều nghệ nhân Nhật Bản đã học tập và làm theo gốm Giao Chỉ (Ke chi) trong đó có gô"m Bát Tràng. Còn ông Buch trong một bài viết trên tập san Viễn đông Bác cổ (năm 1936) cho biết là các thương nhân Hà Lan, vào năm 1661 đã mua cả gạch B át Tràng đưa về châu Âu. Một điều rất có giá trị cho việc nghiên cứu là khác với nhiều hàng gốm được sản xuất hàng loạt (cả thế giói chứ không riêng gì Việt Nam) thường không ghi các niên hiệu hay chữ ký trên các vật phẩm. Nhưng có một sô" hiện vật của nghệ nhân Bát Tràng đă có ghi tên tác giả (nghệ nhân). Những vật phẩm này còn được lưu giữ ở Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam. Có thể kể ra: - Cây đèn và lư hương ghi niên hiệu Diên Thành (đòi Mạc Mậu Hợp) chê ngày 24 tháng sáu năm thứ ba (tức là 1580) ghi là của ngưòi Bát Tràng Nguyễn Phong Lai và Hoàng Ngưu. 17
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi - Cây đèn chế tạo năm thứ 19 Hoằng Định, tức là đòi vua Lê Kính Tông (1619) có ghi tên ngưòi làm ra là Đỗ Phủ, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, v.v... Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chiến trong bài Tim lại Bát Tràng xưa (báo Tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp số 6 và sô' 1 năm 1987) còn cho biết có nhiều vật phẩm khác như bình rượu, đỉnh trầm, quả phật thủ, quả đào, thanh gưđm, tượng nghê, tượng hổ,v.v... cũng do các nghệ nhân Bát Tràng làm, có niên hiệu đòi các vua Lê Huyền Tông, Lê Hy Tông, Lê Hiển Tông (thế kỷ 17, 18) và các thòi kỳ Tây Sơn, Gia Long sau này. Rõ ràng là nghề gô'm Bát Tràng đã trải qua nhiều thế kỷ và có chỗ đứng vinh dự trong lịch sử ngành nghề thủ công, chủ yếu là nghề gốm Việt Nam. ấy là một đóng góp lốn của Bát Tràng vào văn hóa dân tộc. • Sang thòi kỳ hiện đại, gô"m Bát Tràng vẫn phát huy thế mạnh của mình. Xí nghiệp gô"m Bát Tràng ra đòi cùng vối nhiều tập đoàn, nhiều hỢp tác xã, có cả những đớn vị sản xuất gô"m của quân đội. Nhiều mẫu dáng, màu men cổ được phục hồi và tạo thêm mẫu mới có giá trị thẩm mỹ cao. Hàng xuất khẩu được đưa sang Pháp, Nhật, Thuỵ Điển và nhiều nơi khác. Một sổ nghệ nhân của Bát Tràng (người cao tuổi và cả thanh niên, thiếu niên) cô" gắng học tập, phát huy truyền thông và được đánh giá cao. Cụ 18
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi Đào Văn Can đưỢc vào Hội Ván nghệ dân gian và Hội Mỹ thuật Việt Nam là một ví dụ. Bát Tràng cũng đã có vinh dự tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh (và nhiều nhà lãnh đạo khác) vê thăm. Lòi dặn của Bác Hồ (ngày 20 - 2 - 1959): Làng Bát Tràng mới phải làm sao trờ thành một trong những làng kiểu mẫu ở nước Việt Nam mới, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa... vẫn luôn luôn được ngưòi Bát Tràng ghi nhớ và gắng công thực hiện. 19
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi VÙNG BƯỞI Bưởi là một cái tên dân dã để chỉ vào cả một vùng rộng của Hà Nội bên Hồ Tây. Có khi cũng gọi là Bưởi. Nhưng thật ra thì ở đây có nhiều thôn. Và những thôn ấy đều xứng đáng gọi là danh hương cả. Do vậy mà ở đây, tuy gọi là một làng, song thực ra là có nhiều làng. Đến vùng Bưởi, không phải chỉ có làng Bưởi mà có các làng như sau: 1.Làng Hồ Khẩu 2.Làng Đông Xã 3.Làng Yên Thái 4.Làng An Thọ 5.Làng Võng Thị 6.Làng Trích Sài Chúng tôi xin nhóm lại đây 6 làng và kết thúc bằng những trang nói về chợ Bưởi. NHŨIMG DANH HƯƠNG VỪNG BƯỞI Bưởi là tên gọi thân thuộc của một vùng đất rộng lớn nằm quanh chợ Bưởi, sát cạnh Hồ Tây, thuộc 20
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi phía đông bắc Thủ đô Hà Nội. Đây là một vùng làng có có kho tàng văn hóa truyền thông phong phú, đồ sộ còn in đậm dấu ấn của nhiều thê hệ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Kinh thành Thăng Long. Làng Bưởi xưa kia bao gồm các làng nhỏ (có khi gọi là thôn) như Hồ Khẩu, Đông Xã, Yên Thái, An Thọ, Võng Thị, Trích Sài cùng mấy làng lân cận trên đất Nghĩa Đô như làng Tân, làng Nghè, Bái Ân... Nay sáu làng đầu thì thuộc phưòng Bưởi, quận Tây Hồ, còn ba làng sau đă trả lại Nghĩa Đô thuộc về quận Cầu Giấỵ. Gọi vùng đất này là làng Bưởi vì các thôn làng trên đây đều nằm quanh chợ Bưởi, đều hội tụ ở chợ để giao lưu, sinh sông. Có tên chợ Bưởi vì chợ xưa họp trên một bãi bưởi xanh tốt, um tùm ngay chỗ ngã ba của hai con sông Tô Lịch và Thiên Phù hdp lưu tạo thành. Tương truyền, ở khu chợ này xưa kia có bến Hồng Tân (hoặc Gian Tân) là nơi các thuyền buôn đưa lâm sản và hoa quả từ miền ngược qua sông Hồng vào bến để phục vụ cho các phô" phường Thăng Long. Do vậy mà bưởi Đoan Hùng (Phú Thọ) mới có dịp tràn vào Kinh đô chồng chất, vương vãi để rồi sau đó mọc thành từng bãi tươi tốt và người ta lấy nó định danh cho cả vùng đất này là “Kẻ Bưởi”. Đây cũng là nơi mà các thôn làng đều có chung nghề thủ công truyền thông nổi tiếng như nghề làm giấy dó, nghề dệt lĩnh, nên sự gắn bó, giao lưu mật thiết giữa 21
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi các thôn làng là điều tất yếu. Không chỉ có quan hệ gắn bó với nhau trong nghề nghiệp, làm ăn mà họ còn có quan hệ với nhau trong sinh hoạt tín ngưỡng, phong tục do có những thôn làng thò chung thần thánh, luân phiên nhau rước kiệu, cùng tham gia tô chức hội hè, đình đám. Trưốc thòi Lý, Bưởi thuộc phủ Trung Đô, huyện Quảng Đức. Năm 1469 đổi là phủ Phụng Thiên. Năm 1805 lại thuộc phủ Hoài Đức, Hà Nội. Năm 1888, khi Đồng Kliánh cắt đất làm nhượng địa cho Pháp, thủ phủ Hà Nội là của xứ Bắc Kỳ thuộc Pháp thì phủ Hoài Đức lại trực thuộc tỉnh Hà Đông. Lúc đó huyện Quảng Đức gọi là huyện Vĩnh Thuận. Dưới thời thuộc Pháp, nhà cầm quyền Pháp lại cắt một phần đất huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận lập ra huyện Hoàn Long, Hà Nội. Năm 1905, huyện Hoàn Long lại nhập về Hà Đông. Năm 1923 vùng này thuộc khu đại lý đặc biệt của Hà Nội và đổi là huyện Vĩnh Thuận. Huyện Vĩnh Thuận lúc đó gồm 5 tổng, 54 phường thì các phường Hồ Khẩu, Yên Thái, Võng Thị, Trích Sài thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận, Hà Nội. Năm 1946, Bưởi thuộc quận Đại La, Hà Nội. Năm 1956 đổi là quận 5, sau đổi là quận Ba Đình, Hà Nội. Năm 1996 sát nhập vối Yên Phụ, Thuỵ Khuê, Quảng Bá, Nhật Tân, Xuân La, Phú Thượng thành một quận mới của Hà Nội là quận Tây Hồ. 22
- 36 danh hương Thăng Long - Hà Nôi Lịch sử hình thành của vùng đất này dưòng như gắn liền với lịch sử khai phá Hồ Tây và tạo lập đồng bằng Bắc Bộ. Tương truyền từ thuở xa xưa, phía tây bắc Hồ Tây là một vùng đầm lầy, xung quanh là đồi gò và rừng lim rậm rạp, nới ẩn náu của các loài rắn, thú dữ. Dân làng Bưởi lúc đó vừa hành nghề đánh cá vừa khai phá đất đai ven hồ để sinh sống. Họ luôn bị thủy quái và hùm beo đe dọa trong quá trình sinh cơ lập nghiệp, ớ các làng xung quanh Hồ Tây nay còn lưu lại nhiều truyền thuyết có liên quan đến hiện tượng này như “Mục Thận”, “Hồ Tinh” ... chẳng hạn. Năm 1010, khi Lý Công uẩn dòi đô ra Thăng Long, lấy thành Đại La do Cao Biển xây vào thòi nhà Hán, xây đắp lại Kinh thành Thăng Long thì các làng ven Hồ Tây đã trở thành một vùng đất có phong cảnh hấp dẫn kỳ lạ đối với các vua Lý. Nơi đây là một vùng địa hình nhiều đồi gò chạy dài từ bờ đông sông Tô Lịch, nôi liền vói khu gò đồi Nghĩa Đô thành một khối với nhiều ngọn đồi có tên tuổi như gò Long Tảng (trán rồng) - một quả gò nằm kề ngang một phía với sông Tô Lịch, một phía với ngòi Long Khê, đỉnh phẳng như mặt bàn cờ, dân làng đã dựng miếu thờ Vệ quốc Đại vương ở trên đó. Kế tiếp là gò Bánh Rán, gò Ba Mả. Các gò này là nơi đặt mồ mả xưa kia ngay bên bò hồ, nay đã bị sóng hồ xâm thực chỉ còn lại lác đác một vài ngôi mộ ở phía trong. Nằm trong địa bàn giao nhau giữa xóm nhà 23
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn