An sinh xã hội ở Việt Nam và vai trò của Phật giáo trong việc đảm bảo an sinh xã hội trong thời kỳ phát triển và hội nhập
lượt xem 1
download
Bài viết An sinh xã hội ở Việt Nam và vai trò của Phật giáo trong việc đảm bảo an sinh xã hội trong thời kỳ phát triển và hội nhập trình bày các nội dung: Tổng quan về an sinh xã hội; Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam; Vai trò của Phật giáo với công tác an sinh xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: An sinh xã hội ở Việt Nam và vai trò của Phật giáo trong việc đảm bảo an sinh xã hội trong thời kỳ phát triển và hội nhập
- AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG VIỆC ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP ThS. LÊ THỊ TÂM1* ThS. LÊ THỊ HỒNG HÀ2** Tóm tắt: An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội thực hiện đối với các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại sự cùng quẫn về kinh tế và xã hội dẫn đến sự chấm dứt hay giam sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động; những quy định về hỗ trợ đối với những gia đình có con nhỏ gặp khó khăn trong cuộc sống. Hiểu được giá trị to lớn của an sinh xã hội, ở Việt Nam với mục tiêu dân “giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh”, chính sách an sinh xã hội đã được Điều 34 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận và thực hiện. Cùng với sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước, những năm qua, Phật giáo Việt Nam đã có những đóng góp to lớn trong việc đảm bảo an sinh xã hội trong thời kỳ phát triển và hội nhập, thể hiện giá trị cao đẹp của đạo đức Phật giáo là từ bi, cứu khổ, cứu nạn đem lại hạnh phúc cho mọi người, cho chúng sinh mà quên đi những lợi ích của bản thân. Từ khóa: An sinh xã hội, biện pháp công cộng, từ bi, cứu khổ, cứu nạn. Đặt vấn đề Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời ngày 2/9/1945, trong hoàn cảnh đất nước vừa có 2 triệu người chết đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời các nhà báo: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Những giá trị vật chất luôn quyết định các giá trị tinh thần, C. Mác và Ph. Ăngghen cũng khẳng định: “... Hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất trong những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy (nhu cầu ăn, uống, ở, quần áo, v.v.), việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là * Giảng viên Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long. ** Giảng viên Trường Đại học Cửu Long, tỉnh Vĩnh Long.
- MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 999 một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện nay cũng như hàng nghìn năm về trước) người ta phải thực hiện hằng ngày, hằng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con người”1. Như vậy, giải quyết tốt vấn đề xóa đói, giảm ngèo, an sinh xã hội chính là nền tảng giữ vững ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước, đảm bảo công bằng, giúp xã hội phát triển. Sau hơn 30 năm đổi mới, mô hình an sinh xã hội của Việt Nam đã tỏ rõ tính ưu việt và sự phù hợp với bối cảnh, điều kiện cũng như định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Cùng với Đảng và Nhà nước, Phật giáo Việt Nam từ lâu đã trở thành một thành tố quan trọng trong đời sống văn hóa của con người Việt Nam. Phật giáo luôn đồng hành với dân tộc và có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội, góp phần tạo nên bản sắc, cốt cách văn hóa, đóng góp to lớn vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Với tinh thần “hòa quang đồng trần”, nhập thế, từ bi, cứu khổ, cứu nạn hòa cùng thế tục để dẫn dắt nhân tâm và giải quyết các vấn đề xã hội và con người đã là dòng lớn của Phật giáo Việt góp phần tạo nên diện mạo đặc sắc của Phật giáo Việt Nam thấm đẫm tính chất nhân văn và đồng hành cùng dân tộc. 1. Tổng quan về an sinh xã hội Từ thế kỷ thứ 19, nền sản xuất công nghiệp bắt đầu phát triển ở các quốc gia châu Âu, nguy cơ mất việc làm, giảm thu nhập do tai nạn lao động, ốm đau và tuổi già trở thành mối đe dọa với người lao động làm công ăn lương. Để đối phó với những đe doạ này, các nghiệp đoàn của người lao động đã hình thành các quỹ cứu trợ. Với mục tiêu bảo đảm ổn định xã hội và lợi ích của mình, nhà nước và các chủ doanh nghiệp tham gia vào việc đóng góp, hình thành và tổ chức hoạt động của các quỹ mang tính đoàn kết, tương trợ (chủ yếu thông qua bảo hiểm xã hội). Trong những năm 30 của thế kỷ 20, mô hình an sinh xã hội hình thành và phát triển mạnh mẽ ở châu Âu, châu Mỹ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, an sinh xã hội được tổ chức thực hiện tại các nước mới giành độc lập ở Mỹ Latinh, châu Phi và vùng Caribê. Khuôn khổ hệ thống các chính sách an sinh xã hội cũng dần được mở rộng, bên cạnh bảo hiểm xã hội còn có các chương trình khác như: cứu tế xã hội, tương trợ xã hội cho người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người góa bụa, người khuyết tật. Đức là quốc gia đầu tiên thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội. Vào năm 1881, Thủ tướng Đức Otto Von Bismarck (1815-1898) là người đã đề xướng thiết kế chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc trên cơ sở các tổ chức tự phát của người lao động hoạt động tương trợ lẫn nhau. Một cách tiếp cận khác về bảo hiểm xã hội được phát triển ở Anh vào năm 1942. William Beveridge, một nhà lãnh đạo Ủy ban cải cách an 1 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.40.
- 1000 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... sinh xã hội của Anh có nhiệm vụ cải cách hệ thống an sinh xã hội còn nhiều khiếm khuyết, thiếu hụt ở Anh. Bản báo cáo này không chỉ tham vọng có thể giảm nghèo mà còn áp dụng nhằm cải cách và tái cấu trúc hệ thống an sinh xã hội, với nguyên tắc cải cách hệ thống bao gồm: thống nhất, phổ cập và toàn diện. Ở Việt Nam, Điều 34 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Đây là một quyền mới mà các bản Hiến pháp trước đây không quy định. Để bảo đảm việc thực hiện quyền này, khoản 2 Điều 29 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội” và điều này cũng đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản pháp luật khác như: Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, v.v… Ở mỗi quốc gia khác nhau, có các cách hiểu khác nhau về an sinh xã hội. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng khái niệm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): An sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời bảo đảm các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con. 2. Thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam 2.1. Các đối tác tham gia hệ thống an sinh xã hội Nguồn: Matthias Meissner, Tổng quan về chính sách an sinh xã hội Cộng hòa Liên bang Đức.
- MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 1001 Có thể thấy, hệ thống các chính sách về an sinh xã hội của Việt Nam, thực tại gồm khá nhiều vấn đề. Có thể chia thành 3 nhóm sau đây: Nhóm các chế độ về bảo hiểm xã hội gồm: Bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện, quan niệm trên nguyên tắc có đóng thì có hưởng và cùng chia sẻ rủi ro. Đối tượng tham gia là những người lao động theo quy định, các mức đóng góp tạo nên một quỹ chung. Các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp phải các sự cố và đủ điều kiện để hưởng. Mọi chi phí cho các chế độ được chi trả bởi nguồn quỹ chung. Nhóm các chế độ về trợ cấp xã hội bao gồm: Các chế độ cứu trợ xã hội cho những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do gặp phải những rủi ro trong cuộc sống. Nguồn chi trả cho các chế độ trợ cấp xã hội được lấy từ ngân sách Nhà nước. Nhóm các chương trình xã hội khác bao gồm: Chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình y tế (phòng, chữa bệnh, y tế cộng đồng…) và gồm cả các loại quỹ tiết kiệm và các loại bảo hiểm khác. Ba nhóm trên hình thành một hệ thống an sinh xã hội của nước ta. Tuy vậy, mỗi nhóm các chế độ lại có những đặc điểm khác biệt và có phạm vi tác động riêng, như hệ thống bảo hiểm xã hội chẳng hạn đối tượng của nó chính là người lao động có quan hệ lao động và một vài loại lao động có tính chất đặc thù khác quan hệ bảo hiểm xã hội có nguồn gốc và được phát sinh từ quan hệ lao động. Do đó, những hệ thống bảo hiểm xã hội phát triển cao nhất cũng không thể bảo hiểm được cho toàn bộ dân số. Với sự xuất hiện và ngày càng phát triển của kinh tế thị trường khoảng cách về thu nhập, về mức sống ngày càng có sự phân hoá lớn. Sự đầu tư và các biện pháp thay đổi cơ cấu công nghệ để cạnh tranh và tồn tại đã làm gia tăng số người mất việc làm, sự nghèo khó xuất hiện cùng với giàu có ngày càng tăng thì nhu cầu trợ giúp xã hội không hề giảm mà càng lớn hơn trước rất nhiều. Do đó, việc tập trung đầu tư cho “tấm lưới” trợ giúp xã hội phải là một ưu tiên đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Cùng với bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội hệ thống các chương trình kinh tế - xã hội ngắn hạn và dài hạn cần được triển khai một cách đa dạng. Sự phong phú, đa dạng của các chương trình sẽ là một sự bổ sung quan trọng cho hai nhóm bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội phát huy tác dụng che chắn cho các đối tượng được thụ hưởng các chế độ. Trong thời gian khoảng mười năm trở lại đây, ở nước ta đã thấy rõ tác động của các chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ vay
- 1002 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... vốn… Có thể nói mô hình và các giải pháp về an sinh xã hội mà Việt Nam đang thực hiện là phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và rất thành công, thậm chí có những bước đột phá. Đặc biệt là trong những năm gần đây, Chính phủ đã đặt thành một mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và được cụ thể hoá bằng một loạt các chính sách cụ thể. Các đối tượng thụ hưởng sự trợ giúp đã được tiếp cận với các dịch vụ về y tế, giáo dục và các nguồn lực từ sự đầu tư từ nhà nước. Tuy nhiên, cũng cần phải tăng cường tính hiệu quả và tập trung trong quá trình tổ chức, thực hiện. 2.2. Mục tiêu phát triển an sinh xã hội giai đoạn 2012-2020 Thứ nhất, việc làm, đảm bảo thu nhập và giảm nghèo. Đảm bảo thu nhập: Nhà nước bảo đảm mọi người dân có việc làm có thu nhập, đặc biệt là người nghèo, thanh niên, lao động nông thôn và các nhóm lao động dễ bị tổn thương khác… Giai đoạn 2012-2020: bình quân mỗi năm tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động, trong đó từ Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề và Chương trình việc làm công khoảng 250-300 nghìn lao động (có 150-200 nghìn người lao động thuộc hộ nghèo); chuyển đổi việc làm cho 500-800 nghìn lao động nông nghiệp; mỗi năm đưa khoảng 80-100 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (có 30-40 nghìn lao động thuộc hộ nghèo). Đến năm 2020, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp giảm còn 30%, tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước duy trì dưới 3%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%.1 Giảm nghèo: Hỗ trợ người lao động thuộc hộ nghèo phát triển sản xuất, có việc làm ổn định, tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững.Thu nhập bình quân đầu người hộ nghèo năm 2020 dự kiến tăng 3,5 lần so với năm 2010. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 1,5-2%/năm, riêng các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo của từng giai đoạn.2 Thứ hai, trợ giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Trợ giúp xã hội thường xuyên: Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Năm 2015, có trên 2,6 triệu người được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên chiếm 2,7% dân số (trong đó, số người cao tuổi hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên là 1,3 triệu người, chiếm gần 50% số người cao 1 Nghị Quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 5, ngày 1/6/2012 2 Do chính sách giảm nghèo gồm cả nhóm chính sách thị trường lao động chủ động và trợ giúp xã hội nên nội dung giảm nghèo có thể để cả ở nhóm chính sách trợ giúp xã hội.
- MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 1003 tuổi). Phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 3 triệu người, được hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên chiếm 3% dân số (trong đó trên 30% là người cao tuổi). Trợ giúp xã hội đột xuất: Bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai, bão lụt, bị chết người, mất tài sản được hỗ trợ kịp thời để vượt qua khó khăn, khôi phục sản xuất, việc làm, bảo đảm thu nhập, ổn định cuộc sống. Thứ ba, bảo đảm mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt là người nghèo, dân tộc thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn. Bảo đảm giáo dục tối thiểu: Nâng cao chất lượng phổ cập tiểu học và trung học cơ sở, nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, dạy nghề và đào tạo đại học, cao đẳng. Giảm chênh lệch về giáo dục cho người nghèo, dân tộc thiểu số và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Đến năm 2020, có 99% trẻ em đi học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học, 95% ở bậc trung học cơ sở, 80% đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương; tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân tăng lên 350 - 400; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%, trong đó đào tạo nghề là 40%; tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 trở lên là 98%. Đến năm 2020, trên 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi còn 11‰, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi còn 16‰, tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi chỉ còn 10%, 99% phụ nữ mang thai được tiêm phòng uốn ván, 93% phụ nữ mang thai được khám thai từ 3 lần trở lên. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả Chương trình phòng, chống lao quốc gia, giảm mạnh số người bị lao và chết vì lao, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam ra khỏi danh sách 20 nước bệnh lao nặng nhất thế giới. Đến năm 2020, có khoảng 77 triệu người tham gia bảo hiểm y tế chiếm 80% dân số, trong đó tổng số người được được Nhà nước hỗ trợ là 48,6 triệu người chiếm 63% tổng số người tham gia (31,3 triệu người được hỗ trợ toàn bộ và 17,3 triệu người được hỗ trợ một phần). Bảo đảm nhà ở tối thiểu: Cải thiện điều kiện ở cho người dân, đặc biệt là người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị, từng bước giải quyết nhu cầu về nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp, học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, trung học và dạy nghề. Giai đoạn 2016 - 2020: Hỗ trợ cải thiện nhà ở cho khoảng 500 nghìn hộ nghèo ở nông thôn, vùng dân tộc, miền núi; xây dựng tối thiểu khoảng 12,5 triệu mét vuông nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp ở đô thị; phấn đấu đáp ứng nhu cầu của 80% số sinh viên, học sinh và khoảng 70% công nhân lao động tại các khu công nghiệp có nhu cầu được giải quyết nhà ở. Bảo đảm nước sạch: Cải thiện cơ bản tình hình sử dụng nước sạch của dân cư, đặc biệt là dân nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu
- 1004 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... nước sinh hoạt ở những vùng khó khăn, vùng núi cao. Đến năm 2020, 100% dân số nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó 70% sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn quốc gia,v.v… 3. Vai trò của Phật giáo với công tác an sinh xã hội Với tinh thần từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha từ ngày du nhập vào Việt Nam cho đến nay đã hơn hai ngàn năm, Phật giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong nền văn hóa dân tộc. Đồng thời, lịch sử cũng đã chứng minh mối quan hệ keo sơn, khăng khít giữa Phật giáo và dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước và tầm ảnh hưởng ngày càng lớn đến các lĩnh vực đời sống xã hội. Hình ảnh những vị sư mặc áo cà sa hiện diện ở hải đảo, biên giới xa xôi, các bệnh viện, vùng bão lũ, thiên tai hay xuống đường dọn vệ sinh, vận động nhân dân sống tốt đời đẹp đạo luôn là hình ảnh đẹp, có sức lan tỏa rộng rãi trong xã hội. Thực hiện phương châm “tốt đời, đẹp đạo”, với tấm lòng bi mẫn của người đệ tử Đức Phật, thể hiện tinh thần cứu khổ ban vui, nhằm đem đến niềm tin, lẽ sống, niềm hi vọng cho mọi người. Do vậy, hoạt động từ thiện - xã hội không chỉ là sự thể hiện tinh thần từ bi, cứu khổ cứu nạn của tín đồ Phật giáo mà còn là một biểu hiện quan trọng chức năng hỗ trợ xã hội của Phật giáo. Ở góc nhìn Tôn giáo học, chức năng hỗ trợ xã hội được hiểu: “Dù ít hay nhiều, con người thường phải đối mặt với khó khăn, hiểm nguy, thất bai, thiên tai, bệnh tật,… cái chết của những những người thân thuộc, yêu quí và cái chết của chính bản thân mình. Trong những lúc như thế, cuộc sống con người rất dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm tin tôn giáo giúp cho con người khó bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Một số tôn giáo còn cung cấp cho con người những biện pháp cầu nguyện, cúng bái thần linh trong niềm tin rằng rằng những việc làm như vậy sẽ giúp cải thiện được tình hình”1. Trong hơn hai ngàn năm có mặt tại Việt Nam với phương châm nhập thế: “Đạo pháp bất ly thế gian pháp”, phục vụ chúng sinh là cúng dàng chư Phật”, với tinh thần “hộ quốc, an dân” và phương châm hành đạo: “đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội”, thời nào Phật giáo Việt Nam cũng tỏ rõ là một tôn giáo yêu nước, gắn bó và đồng hành cùng dân tộc. Nhiều thế hệ tăng, ni, phật tử trở thành những tấm gương hy sinh anh dũng cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, tích cực tham gia xây dựng bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng hoà bình trong khu vực và thế giới. Nhìn lại chặng đường lịch sử đã qua, chúng ta có quyền tự hào về các thành tựu và những đóng góp to lớn cho dân tộc mà Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đạt được. 1 Trần Hồng Liên, Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2010, tr. 14.
- MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 1005 Trong Báo cáo tổng kết công tác phật sự 35 năm thành lập của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do TT. Thích Đức Thiện, Tổng Thư ký HĐTS trình bày tại Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam thì: Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn hỗ trợ bữa ăn cho bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện lớn trong cả nước, điển hình như: Bệnh viện Bà Rịa và Bệnh viện Lê Lợi (Tp.Vũng Tàu); Bệnh viện K (Hà Nội), Bệnh viện An Bình (Tp. Hồ Chí Minh), Bệnh viện Đa khoa tỉnh và Bệnh viện Y học cổ truyền Bình Phước, v.v… với tổng trị giá hàng trăm tỷ đồng. Đặc biệt, với mô hình “Nồi cháo tình thương” của Phật giáo nhiều tỉnh, thành phố đã thể hiện tình cảm sâu nặng của Giáo hội với đông đảo người dân, phật tử nghèo trong cả nước, điển hình như “Nồi cháo tình thương” tại Bệnh viện Da Liễu, Bệnh viện Đa Khoa (Đà Nẵng), Bệnh viện Nhi Đồng 1 (Tp. Hồ Chí Minh), Bệnh viện Nhi Thanh Hóa… hằng năm đã hỗ trợ cuộc sống hàng ngàn lượt bệnh nhân nghèo cùng người nhà đang điều trị tại đây. Bên cạnh hoạt động từ thiện nhân đạo trên lĩnh vực y tế, Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn chú trọng công tác nuôi dạy trẻ mồ côi và chăm sóc, nuôi dưỡng người già neo đơn trong cả nước. Hệ thống trường nuôi dạy trẻ mồ côi, các lớp học tình thương, các trung tâm nuôi dưỡng người già không nơi nương tựa, người có hoàn cảnh khó khăn… thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam đều đang hoạt động ổn định, hiệu quả đã nuôi dưỡng gần 3000 trẻ em mồ côi, cơ nhỡ và khuyết tật; chăm sóc hơn 1500 cụ già neo đơn1. Tính đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã mở gần 2000 lớp học tình thương nuôi dạy trẻ mồ côi, lang thang, không nơi nương tựa và trẻ khuyết tật; hàng trăm cơ sở nuôi dạy trẻ mẫu giáo bán trú miễn phí với trên 20.000 em theo học; hàng chục cơ sở dưỡng lão nuôi dưỡng, chăm sóc hàng ngàn cụ già neo đơn. Bên cạnh đó, đã có hàng trăm chùa ở nhiều địa phương đã trở thành các trường mầm non, trường nuôi dạy trẻ em lang thang, bất hạnh, góp phần giảm bớt gánh nặng cho xã hội, điển hình như: chùa Long Hoa (quận 7), chùa Diệu Giác (quận 2), chùa Kỳ Quang 2 (quận Gò Vấp) ở Tp. Hồ Chí Minh; chùa Quang Châu (Hòa Vang, Đà Nẵng); chùa Bảo Quang (Tp. Hải Phòng); chùa Quang Minh (Tp. Đà Nẵng)… Ngoài ra, theo thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hiện có trên 150 Tuệ Tĩnh đường, 655 phòng chẩn trị y học dân tộc, 1 phòng khám đa khoa đang hoạt động hiệu quả, khám và phát thuốc miễn phí cho hàng chục nghìn bệnh nhân. Giáo hội cũng luôn có mặt đúng lúc, kịp thời cứu trợ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt, tham 1 Đan Khánh, “Phật giáo Việt Nam với các hoạt động nhân đạo, từ thiện”, Báo Nhân dân điện tử số ra ngày 07/11/2016.
- 1006 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... gia xóa đói giảm nghèo, chăm sóc người có công với đất nước... Tổng kinh phí huy động cho công tác từ thiện, xã hội trong 35 năm qua của Giáo hội ước tính khoảng 7.000 tỷ đồng. Phật giáo đã có những thành tựu đáng kể về công tác từ thiện cũng như quảng bá hình ảnh Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Một học giả đã nhận định: “Nếu trước kia những người phật tử bằng đánh giặc cứu nước mà đi đến giác ngộ, thì ngày nay để đi đến giác ngộ họ cần phải tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới, phục hưng đất nước, vào sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Phải lấy nguyện vọng, ham muốn của toàn Đảng, toàn dân làm nguyện vọng, ham muốn của mình bằng những hành động thiết thực cụ thể”.1 Nâng một số hoạt động của Phật giáo thành công tác xã hội. Thành lập các trường nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ sở nuôi dưỡng người già, người khuyết tật, đơn vị tham vấn HIV ở nhiều địa phương trong cả nước. Những hoạt động này góp phần tăng cường sức khỏe cho cộng đồng, giảm thiểu lo âu, phiền muộn từ bệnh tật, tạo điều kiện cho xã hội phát triển, ổn định. Hoạt động từ thiện - xã hội này của Phật giáo Việt Nam cần đi vào chiều sâu nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội. Phải linh hoạt, sáng tạo với nhiều hình thức, hướng đến nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội như: người nhập cư, người nghèo, vùng bị ô nhiễm môi trường nặng nề, người già lang thang, cơ nhỡ, người khuyết tật, trẻ em vô gia cư, người dân trong các khu vực bị thiên tai, bệnh dịch tàn phá, người mắc bệnh hiểm nghèo… Những hoạt động đó không chỉ hỗ trợ vật chất mà còn bằng tinh thần để giúp họ thân yên ổn và tâm an lạc trước những điều bất hạnh chẳng may ập đến. Thông qua các hoạt động tham vấn, tâm tình, trao đổi, vận dụng khéo léo giáo lý đạo Phật của tăng ni, phật tử chắc chắn sẽ giúp họ xả bỏ bớt những lo lắng, đau buồn và thêm nguồn vui sống để vươn lên… Hướng về cơ sở, thông qua vai trò của các tăng, ni trụ trì ở các tu viện trong cả nước. Thực hiện nhiệm vụ này một cách thường xuyên bằng những kế hoạch phù hợp với nhu cầu cần hỗ trợ của người dân địa phương, đặc biệt ở các vùng sâu, xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tổ chức mang tính hệ thống, có cơ chế hoạt động và giám sát, hỗ trợ vật chất từ trên xuống dưới. Đó là hệ thống các trường tình thương, trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi và người neo đơn, phòng khám từ thiện trên toàn quốc. Những cơ sở xã hội này, thông qua việc tổ chức mang tính hệ thống và giúp đỡ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ duy trì được hoạt động lâu dài, hiệu quả và được hỗ trợ khi gặp khó khăn, được trao đổi và học tập kinh nghiệm, tham gia tập huấn kỹ năng… Huy động rộng rãi các nguồn lực xã hội để tạo điều kiện giúp đỡ nhiều mảnh đời cơ cực, bất 1 Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2010), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 1007 hạnh trong xã hội. Thông qua các hoạt động từ thiện - xã hội, không chỉ các tăng ni, phật tử mà các thành phần xã hội khác sẽ có cơ hội giúp ích cho đời. Qua đó giúp cho xã hội hướng thiện, hành thiện, tăng thêm lòng từ bi cũng là góp phần đẩy lùi cái ác, cái xấu. Tính hướng thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo. Là đạo đề cao con người, lấy con người là trung tâm. Tư tưởng bình đẳng, hòa bình của Phật giáo, lòng từ bi, bác ái, khuyên con người luôn nhớ đến “đạo hiếu”, lấy chữ hiếu làm đầu: “hạnh hiếu là hạnh Phật, tâm hiếu là tâm Phật”, v.v… là những giá trị tích cực, thiết thực góp phần bảo vệ gia đình - tế bào của xã hội, khích lệ mọi người quan tâm đến số phận của cộng đồng, sống lương thiện, coi trọng tính nhân bản, gắn bó với thiên nhiên. Lối sống Phật giáo nêu cao tinh thần “cư trần lạc đạo” góp phần xây dựng lối sống có trách nhiệm, không tham quyền cố vị, không bám lấy lợi ích vật chất, sống thanh cao, tự tại. Chính thông qua thái độ từ bi, không nề hà việc cưu mang, cứu vớt những số phận bất hạnh mà Phật giáo đã cảm hoá được con người, dẫn dắt họ làm điều thiện, bỏ qua lối sống vị kỷ để quan tâm đến con người và xã hội. Sự lan tỏa đạo đức và triết lý Phật giáo một phần đã cảm hóa con người, các tăng ni, phật tử thường xuyên học tập chánh pháp, tu luyện bản thân. Đó là điều quan trọng tạo điều kiện cho Phật giáo truyền bá sâu rộng và bám rễ lâu bền cùng dân tộc, góp phần định hình những giá trị đạo đức và lối sống cho con người Việt Nam hiện nay. Điều này cũng góp phần lý giải tại sao, Phật giáo có sức hút và độ tin tưởng mạnh mẽ của đông đảo người dân Việt Nam. 4. Kết luận Việt Nam là quốc gia đang phát triển và có nhiều thành tựu nổi bật trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tuy vậy, ngày càng có nhiều vấn đề xã hội bức xúc nổi lên và trở thành thách thức cho Việt Nam hướng đến sự phát triển bền vững. Để đảm bảo sự phát triển bền vững cho xã hội, Phật giáo ngày càng có vai trò quan trọng, góp phần cùng với nhà nước thực hiện tốt an sinh và đảm bảo công bằng xã hội. Với những đóng góp lớn, tích cực vào công tác an sinh xã hội và vai trò, trách nhiệm trong điều kiện mới của Việt Nam là cơ sở chắc chắn khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của Phật giáo trong đời sống xã hội. Đồng thời khẳng định sức sống của Phật giáo đối với sự phát triển của dân tộc qua suốt các thời kỳ lịch sử. Trong thời gian gần đây, hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam ngày càng thể hiện vai trò to lớn đối với sự phát triển và ổn định kinh tế - xã hội, đó là:
- 1008 MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... Thứ nhất, an sinh xã hội góp phần ổn định đời sống của người lao động. Hệ thống an sinh xã hội sẽ góp phần thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi người lao động bị ốm đau, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động bình thường. Thứ hai, an sinh xã hội góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Để phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, hệ thống an sinh xã hội kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh ổn định cuộc sống và sản xuất. Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng giúp ổn định nền kinh tế - xã hội. Thứ ba, hệ thống an sinh xã hội, trong đó có bảo hiểm xã hội làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước. Người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội, điều đó làm cho người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, trong lao động sản xuất. Người sử dụng lao động tham gia đóng góp quỹ bảo hiểm xã hội cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội cũng thấy rõ trách nhiệm của mình đối với người lao động. Nhà nước vừa tham gia đóng góp, vừa điều hành hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho mọi đối tượng thụ hưởng… Thứ tư, tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về tôn giáo đối với đội ngũ chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo nhằm phát huy hơn nữa vai trò của những thành phần này trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. T ÀI L I ỆU T H A M K H ẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. 2. Ban thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Báo cáo tổng kết công tác phật sự năm 2016.
- MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG PHẬT SỰ GÓP PHẦN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI... 1009 3. Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2008), Kinh Diệu pháp liên hoa, Thích Trí Tịnh dịch, Hà Nội, Nxb Tôn giáo. 4. Hồ Chí Minh (1995): Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh (1998), Nguyệt san Giác ngộ, số 23, tháng 2-1998. 6. Tổng cục thống kê (2013), Kết quả tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2012, Nxb Thống kê. 7. Viện Thông tin Khoa học xã hội và Trung tâm Khoa học về tín ngưỡng và tôn giáo (1997), Những đặc điểm cơ bản của một số tôn giáo lớn ở Việt Nam, Thông tin chuyên đề, Hà Nội. 8. Đan Khánh,“Phật giáo Việt Nam với các hoạt động nhân đạo, từ thiện” , Báo Nhân dân điện tử số ra ngày 07/11/2016. 9. Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Báo cáo tổng kết công tác phật sự 35 năm thành lập của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do TT. Thích Đức Thiện, Tổng Thư ký HĐTS trình bày tại Đại lễ kỷ niệm 35 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 10. http://mattran.org.vn/hoat-dong/phat-huy-nguon-luc-cua-phat-giao-trong- doi-song-xa-hoi-27584.html. 11. https://vbgh.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=ban-tu-thien-xa-hoi/ 27-vai-tro-cua-phat-giao-voi-cong-tac-an-sinh-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay-175. html.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
23 p | 594 | 157
-
Báo cáo An sinh xã hội ở Việt Nam lũy tiến đến mức nào?
93 p | 291 | 82
-
Hệ thống phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020: Phần 1
46 p | 242 | 66
-
Hệ thống phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020: Phần 2
104 p | 182 | 48
-
An sinh xã hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới
9 p | 128 | 17
-
An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
11 p | 110 | 14
-
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về an sinh xã hội: Phần 2
180 p | 82 | 12
-
An sinh xã hội ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới và định hướng đến 2030
9 p | 89 | 11
-
Giáo trình Thị trường lao động với an sinh xã hội ở Việt Nam: Phần 2
91 p | 11 | 7
-
Xây dựng sàn an sinh xã hội ở Việt Nam
10 p | 82 | 7
-
An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020 - PGS. TS Vũ Văn Phúc
194 p | 32 | 6
-
Thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam vì mục tiêu công bằng
9 p | 67 | 6
-
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn với công tác an sinh xã hội: Phần 2
180 p | 64 | 5
-
Quan điểm của Minh Mạng về an sinh xã hội và việc thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay
8 p | 11 | 4
-
Giáo trình Thị trường lao động với an sinh xã hội ở Việt Nam: Phần 1
131 p | 7 | 4
-
Phật giáo với hoạt động cứu trợ xã hội vùng cao, vùng dân tộc thiểu số góp phần đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay
10 p | 6 | 1
-
Một số vấn đề đặt ra đối với hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay
7 p | 5 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn