BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:1)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:2)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)(cid:3)--------

ĐỖ THỊ THU THUỶ ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM - NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TỈNH VĨNH PHÚC

CHUYÊN NGÀNH: Tài chính - Ngân hàng : 62.34.02.01 Mã số: 62.34.02.01 : 62.34.02.01 : 62.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐẶNG NGỌC ĐỨC

Hà Nội - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này là tôi tự thực hiện và không vi phạm

yêu cầu về sự trung thực trong học thuật.

Hà Nội, ngày tháng năm 2017

Xác nhận của Giáo viên hướng dẫn Tác giả luận án

PGS.TS. Đặng Ngọc Đức Đỗ Thị Thu Thủy

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do lựa chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 2

4. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3

5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 3

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ....................................................... 5

7. Kết cấu của luận án ........................................................................................... 6

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ........................ 7

1.1. Tổng quan các nghiên cứu nước ngoài .......................................................... 7

1.2. Tổng quan các nghiên cứu trong nước ........................................................ 13

1.3. Khoảng trống nghiên cứu ............................................................................. 16

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1......................................................................................... 18

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ............................. 19

2.1. Khái quát về công nghiệp hỗ trợ .................................................................. 19

2.1.1. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ .................................................................. 19

2.1.2. Sự hình thành và các giai đoạn phát triển của công nghiệp hỗ trợ ............ 25

2.1.3. Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ ............................................................. 26

2.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển công nghiệp hỗ trợ ............................. 31

2.2. Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài .............................................. 35

2.3. Ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài 40

2.3.1. Cơ sở lý thuyết về ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .......................................................................................... 40

2.3.2. Ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài . 43

2.4. Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài ............................................................................................ 50

2.4.1.Kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI của Thái Lan .. 50

2.4.2. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI của Malaysia . 55

2.4.3. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI của Trung Quốc . 58

2.4.4. Bài học kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI vào Việt Nam ........................................................................................................... 60

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2......................................................................................... 63

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM ........ 64

3.1. Cơ sở pháp lý về phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam .................... 64

3.2. Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam ............................. 67

3.2.1. Lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng ...................................................... 67

3.2.2. Lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may - da giày .............................. 73

3.2.3. Công nghiệp hỗ trợ cho các ngành công nghiệp công nghệ cao ................ 80

3.2.4. Đánh giá chung về thực trạng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam . 81

3.3. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ............. 86

3.3.1. Quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................................. 86

3.3.2. Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................... 88

3.4. Ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ....................................................................................................... 95

3.4.1. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến quy mô FDI ...................................... 95

3.4.2. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến chất lượng FDI ................................. 98

3.4.3. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến cơ cấu FDI ...................................... 104

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3....................................................................................... 108

CHƯƠNG 4: NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI TỈNH VĨNH PHÚC ........ 109

4.1. Hệ thống số liệu và phương pháp thu thập ................................................ 109

4.2. Phân tích kết quả dựa trên điều tra doanh nghiệp FDI ............................ 111

4.2.1. Đánh giá của các doanh nghiệp FDI sản xuất về nguồn nguyên liệu, linh

kiện, phụ tùng được cung cấp bởi nhà cung cấp nội địa và nhập khẩu ............. 111

4.2.2. Phân tích các yếu tố tác động đến mức độ hài lòng của doanh nghiệp FDI . 119

4.3. Phân tích kết quả dựa trên điều tra doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ... 123

4.3.1. Đánh giá thực trạng hai nhóm doanh nghiệp hỗ trợ FDI và DDI ............ 123

4.3.2. Đánh giá tác động của các yếu tố nội tại của DNHT đến khả năng trở thành

nhà cung cấp của DNFDI sản xuất .................................................................. 130

4.4. Kết luận chung về kết quả nghiên cứu ....................................................... 136

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4....................................................................................... 139

CHƯƠNG 5: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ GÓP PHẦN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM ............... 140

5.1. Bối cảnh trong nước và thế giới ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................................ 140

5.1.1. Bối cảnh trong nước .............................................................................. 140

5.1.2. Bối cảnh thế giới ................................................................................... 141

5.2. Quan điểm phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ........................................................................................... 142

5.3. Một số giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ góp phần thu hút FDI vào Việt Nam ............................................................................................................ 144

5.3.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ................... 144

5.3.2. Hỗ trợ về vốn cho phát triển công nghiệp hỗ trợ .................................... 146

5.3.3. Hỗ trợ phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ... 147

5.3.4. Phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ ....................... 150

5.3.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa ........ 152

5.3.6. Xây dựng mô hình phát triển công nghiệp hỗ trợ ................................... 154

5.3.6. Tập trung phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ mũi nhọn ....................... 157

5.3.7. Phát triển các doanh nghiệp trung tâm tạo động cơ thúc đẩy ngành công

nghiệp hỗ trợ ................................................................................................... 158

5.3.8. Phát triển hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa ......................................... 159

5.3.9. Thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp FDI ... 160

KẾT LUẬN CHƯƠNG 5....................................................................................... 164

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 165

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ............................................. 166

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 167

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt Diễn giải

CNCNC Công nghiệp công nghệ cao

CNHT Công nghiệp hỗ trợ

CSDL Cơ sở dữ liệu

DDI Đầu tư trực tiếp trong nước

DNFDI Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

DNHT Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

DNNVV Doanh nghiệp vừa và nhỏ

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FTA Hiệp định thương mại tự do

GTSXCN Gía trị sản xuất công nghiệp

JETRO Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản

JICA Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản

KHCN Khoa học công nghệ

MNC Tập đoàn đa quốc gia

ODA Viện trợ phát triển chính thức

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

SIDEC Trung tâm phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

SIDEC Trung tâm phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

UNCTAD Hội nghị liên hiệp quốc về thương mại và phát triển

WTO Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1: Năng lực cung ứng của lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng ..................... 72

Bảng 3.2: GTSXCN sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may ............................. 73

Bảng 3.3: Số lượng DNHT ngành dệt may ................................................................. 74

Bảng 3.4: Bức tranh công nghiệp hỗ trợ Việt Nam ..................................................... 81

Bảng 3.5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức ................................................ 88

Bảng 3.6: Danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư FDI lớn nhất vào Việt Nam ... 90

Bảng 3.7: So sánh cơ cấu FDI theo ngành qua các năm ............................................. 91

Bảng 3.8: FDI tại Việt Nam theo ngành ..................................................................... 92

Bảng 3.9: Cơ cấu FDI theo các vùng kinh tế trọng điểm ........................................... 93

Bảng 3.10: 10 địa phương đứng đầu về thu hút FDI qua các năm .............................. 94

Bảng 3.11: Kết quả đánh giá doanh nghiệp hỗ trợ ...................................................... 96

Bảng 3.12: Vốn đầu tư và dự án đầu tư của 10 Tỉnh có FDI thấp nhất ..................... 107

Bảng 4.1: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về chất lượng nguồn nguyên

liệu, linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi hai nguồn: (1) là nguồn cung cấp nội địa và (2) là nguồn cung cấp nhập khẩu ...................................... 112

Bảng 4.2: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về giá cả nguồn nguyên liệu,

linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi hai nguồn:(1) là nguồn cung cấp nội địa và (2) là nguồn cung cấp nhập khẩu .................................................. 113

Bảng 4.3: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về Thời gian giao hàng đối với

nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi hai nguồn: (1) là nguồn cung cấp nội địa và (2) là nguồn cung cấp nhập khẩu ................... 114

Bảng 4.4: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về Môi trường sản xuất đối với

nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi hai nguồn: (1) là nguồn cung cấp nội địa và (2) là nguồn cung cấp nhập khẩu ................... 115

Bảng 4.5: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về Tài chính của nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp nhập khẩu .......................................................... 116

Bảng 4.6: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về công nghệ sản xuất của nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp nhập khẩu ........................................... 117

Bảng 4.7 : Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về Năng lực, trách nhiệm và hợp tác lâu dài của (1) nhà cung cấp nội địa và (2) nhà cung cấp nhập khẩu .... 118

Bảng 4.8: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về nguồn lao động của (1) nhà cung cấp nội địa và (2) nhà cung cấp nhập khẩu ..................................... 119

Bảng 4.9: Bảng tổng hợp các biến và thang đo sau Phân tích Cronbach’s Alpha ...... 121

Bảng 4.10. Kết quả phân tích nhân tố khám phá ...................................................... 122

Bảng 4.11. Thống kê tần suất về Loại hình sản xuất của các DNHT giữa 2 nhóm (1) FDI và (2) là DDI ................................................................................... 124

Bảng 4.12. Thống kê tần suất về thiết bị sử dụng trong sản xuất của các DNHT giữa 2 nhóm (1) FDI và (2) là DDI .................................................................... 125

Bảng 4.13. Thống kê tần suất về loại công nghệ sử dụng giữa 2 nhóm ..................... 125

Bảng 4.14. Thống kê tần suất về các phương pháp quản lý sản xuất hiện đại mà các DNHT đang sử dụng ............................................................................... 126

Bảng 4.15: Thống kê tần suất về các kênh tiếp thị mà DNHT sử dụng để tiếp cận với khách hàng .............................................................................................. 127

Bảng 4.16. Thống kê tần suất về những khó khăn mà DNHT gặp phải hiện nay ...... 128

Bảng 4.17. Thống kê tần suất về những mong muốn hỗ trợ từ chính quyền địa phương đối với DNHT ......................................................................................... 129

Bảng 4.18. Thống kê tần suất về chất lượng nguồn lao động tại các DNHT ............. 130

Bảng 4.19. Mô tả các biến đưa vào mô hình ............................................................ 133

Bảng 4.20. Kết quả ước lượng mô hình Logit .......................................................... 134

Bảng 5.1: Sản xuất modun và sản xuất tích hợp ....................................................... 154

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1: Phạm vi các ngành CNHT theo MITI ......................................................... 20 Hình 2.2: CNHT theo quan điểm của Nhật Bản ......................................................... 22 Hình 2.3: Phạm vi của CNHT phụ thuộc vào các ngành công nghiệp hạ nguồn ......... 23 Hình 2.4: CNHT theo quy mô và sở hữu .................................................................... 23 Hình 2.5: Chuỗi giá trị sản xuất ................................................................................. 27 Hình 2.6: Các lớp cung ứng hỗ trợ ............................................................................ 28 Hình 2.7: Phạm vi ngành công nghiệp hỗ trợ ............................................................. 30 Hình 2.8: Mô hình Kim cương ................................................................................... 41 Hình 2.9: Cấu trúc chi phí cơ bản của trong chuỗi giá trị ........................................... 45 Hình 3.1: GTSXCN lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng .......................................... 68 Hình 3.2: Số doanh nghiệp trong lĩnh vực linh kiện phụ tùng năm 2015 .................... 69 Hình 3.3: Số lao động trong lĩnh vực linh kiện phụ tùng năm 2015 ............................ 69 Hình 3.4: Nguồn máy móc, công nghệ chủ yếu .......................................................... 69 Hình 3.5: Áp dụng các tiêu chuẩn, phương pháp quản lý hiện đại .............................. 71 Hình 3.6: Khách hàng chủ yếu của DNHT ................................................................. 72 Hình 3.7: Quy trình sản xuất ngành dệt may .............................................................. 73 Hình 3.8: Lao động trong lĩnh vực CNHT ngành dệt may .......................................... 74 Hình 3.9: Sản phẩm chủ yếu CNHT ngành dệt may ................................................... 76 Hình 3.10: Quy trình sản xuất của ngành da giày ....................................................... 77 Hình 3.11: GTSXCN ngành công nghiệp hỗ trợ lĩnh vực da giày ............................... 77 Hình 3.12: Số lượng doanh nghiệp, lao động ngành CNHT lĩnh vực da giày ............. 78 Hình 3.13: Các giai đoạn phát triển của công nghiệp hỗ trợ ....................................... 83 Hình 3.14: Diễn biến nguồn vốn FDI đăng ký qua các năm ....................................... 87 Hình 3.15: Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư (luỹ kế đến năm 2016) ......................... 89 Hình 3.16: Cơ cấu FDI vào Việt Nam theo quốc gia và vùng lãnh thổ ....................... 91 Hình 3.17: Diễn biến nguồn vốn FDI đăng ký qua các năm (2005-2016) ................... 97 Hình 3.18: FDI của Nhật Bản vào Việt Nam (2011-2015) ......................................... 98 Hình 3.19: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và CCTM của khu vực FDI .................. 99

Hình 3.20: Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (2010 – 2016) .............................................................................. 99 Hình 3.21: Tỷ trọng nhập khẩu của khu vực FDI trong tổng kim ngạch ................... 100 nhập khẩu của cả nước (2010 – 2016) ...................................................................... 100 Hình 3.22: Tỷ lệ nhập khẩu một số sản phẩm chính của khu vực FDI ...................... 100 Hình 3.23: Tỷ trọng vốn đầu tư và tỷ trọng dự án đầu tư của 10 Tỉnh có FDI lớn nhất .. 106

Hình 4.1: Sơ đồ mô hình nghiên cứu thang đo các nhân tố liên quan đến nhà cung cấp nội địa ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của doanh nghiệp FDI sản xuất . 120 Hình 5.1: Mô hình phát triển công nghiệp hỗ trợ...................................................... 155 Hình 5.2. Sơ đồ cụm ngành dệt Trung Quốc ............................................................ 156 Hình 5.3: Thông tin cần có trong cơ sở dữ liệu về CNHT ........................................ 161

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và đang tác động mạnh đến nền kinh tế của các nước trên thế giới trong nhiều năm qua và là một chủ đề nghiên cứu quan trọng ở tất cả các quốc gia đang phát triển và các quốc gia phát triển. FDI là một hình thức đầu tư quốc tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Đáng chú ý là FDI chảy vào các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cũng được ghi nhận tăng với tốc độ rất cao từ 15% năm 1990, lên 37% năm 2008 (UNCTAD, 2009) và sau đó gần 46% năm 2011 (UNCTAD, 2012). Trên thực tế, FDI đã phát huy vai trò rất quan trọng

đối với các quốc gia đang phát triển như: bổ sung nguồn vốn, công nghệ và kỹ thuật quản lý mới, phát triển kỹ năng cho đội ngũ người lao động, tạo công ăn việc làm, cải thiện các điều kiện làm việc, phát triển các ngành công nghiệp nội địa ở nước tiếp nhận đầu tư (Caves, 1974; Haddad and Harrison, 1993; Perez, 1997; and Markusen

and Venables, 1999), v.v... Đây chính là lý do giải thích việc các nước đang phát triển luôn cố gắng thu hút FDI. Vì vậy, vấn đề quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển là tìm ra động cơ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Liên hệ với Việt Nam, sau 30 năm thực hiện chính sách mở cửa thu hút FDI, cho đến nay dòng vốn FDI luôn được đánh giá là tạo ra những “điểm sáng” trong tăng trưởng kinh tế. Mặc dù cũng xuất hiện những tác động mặt trái nhất định, song về cơ bản FDI vào Việt Nam đã thực sự có những đóng góp quan trọng đối với sự tăng trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, v.v... Đặc biệt, trong những năm gần đây, FDI còn là điều kiện quan trọng góp phần phục hồi nhanh chóng nền kinh tế sau khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu 2007-2009. Dù còn nhiều ý kiến trái chiều về quan điểm thu hút FDI, song trên thực tế nhu cầu thu hút FDI vào Việt Nam còn rất lớn, do các nguồn cung tài chính khác như ODA giảm, các khoản vay thương mại tạo gánh nặng nợ lớn, v.v…

Để tăng cường thu hút FDI đã có rất nhiều chính sách khuyến khích đầu tư

được đưa ra. Một vài thập kỷ trước, các chính sách khuyến khích ở nước nhận đầu tư có hiệu quả lớn trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư. Nhưng hiện nay, cạnh tranh giữa các nền kinh tế đang phát triển trong thu hút FDI được phản ánh ngay trong các chính sách khuyến khích. Kết quả là hiệu lực của các chính sách khuyến khích đầu tư đang

giảm đi và sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ tại các nước tiếp nhận FDI trở nên ngày càng quan trọng hơn. Trong khi các nước đang phát triển xác định đầu tư

2

nước ngoài là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho phát triển kinh tế, thì sự phát triển công nghiệp hỗ trợ được coi là giải pháp quan trọng trong việc thu hút FDI (Dunnning, Narural, 2000).

Cho đến nay, các nghiên cứu trong và ngoài nước về ảnh hưởng của công nghiệp hỗ

trợ đến thu hút FDI vào Việt Nam còn chưa nhiều. Các nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ Việt Nam của Junichi Mori (2005), Ohno (2007), Hoàng Văn Châu (2010), Trương Thị Chí Bình (2010), Hà Thị Hương Lan (2014), Phạm Thu Phương (2013), v.v... mới chỉ đề

cập đến vai trò của công nghiệp hỗ trợ đối với việc thu hút FDI, chưa phân tích được những ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI như ảnh hưởng đến quy mô, chất lượng hay cơ cấu FDI. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài “Ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến

thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp tỉnh Vĩnh Phúc” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ.

Ngay từ khi mới tái lập tỉnh Vĩnh Phúc, thu hút FDI luôn được xác định là chìa khoá cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Với những lợi thế về vị trí địa lý, cùng

với chính sách thu hút đầu tư hiệu quả đã giúp Vĩnh Phúc trở thành một trong những tỉnh thành công trong thu hút FDI, đặc biệt là thu hút FDI quy mô lớn. Từ một tỉnh thuần nông, sau 20 năm tái lập, Vĩnh Phúc đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, trong đó đóng góp của khu vực FDI luôn được coi là

“điểm sáng” của tỉnh. Năm 2015, chỉ số năng lực cạnh cấp tỉnh (PCI) của Vĩnh Phúc xếp thứ 4/63 tỉnh thành của cả nước và xếp thứ 2 khu vực đồng bằng sông Hồng (sau Quảng Ninh). Đó là lý do, luận án lựa chọn tỉnh Vĩnh Phúc để tiến hành nghiên cứu

thực nghiệm về ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI.

Luận án được hoàn thành sẽ có ý nghĩa đóng góp cả về lý luận và thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi về phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI vào Việt Nam. Về mặt lý luận, luận án đánh giá tác động của phát triển công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI,

về mặt thực tiễn luận án đưa ra những giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ góp phần thu hút FDI vào Việt Nam.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận án nhằm luận giải các cơ sở lý thuyết về ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI; đánh giá thực trạng ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI vào Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng; đề xuất các giải pháp đối với việc phát triển công nghiệp hỗ trợ góp phần thu

hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể, luận án sẽ trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:

3

(cid:4) Câu hỏi nghiên cứu thứ nhất: Công nghiệp nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến thu hút

FDI như thế nào?

(cid:4) Câu hỏi nghiên cứu thứ hai: Mức độ phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ở

Việt Nam hiện nay như thế nào?

(cid:4) Câu hỏi nghiên cứu thứ ba: Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến thu hút FDI vào

(cid:4) Câu hỏi nghiên cứu thứ tư: Làm thế nào để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ

Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng như thế nào?

góp phần thu hút FDI vào Việt Nam?

3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án: các doanh nghiệp hỗ trợ Việt Nam (bao gồm cả các doanh nghiệp hỗ trợ FDI và doanh nghiệp hỗ trợ nội địa) và ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI vào Việt Nam, điển hình nghiên cứu tại

tỉnh Vĩnh Phúc.

4. Phạm vi nghiên cứu

Luận án nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI vào

Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng trong giai đoạn từ 2005 đến 2016.

Nhằm xem xét ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI, tác giả đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm các doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Tuy mẫu được thu thập trên địa bàn tỉnh Vĩnh

Phúc, nhưng mô hình nghiên cứu là dùng cho Việt Nam, nên trong nghiên cứu này, tác giả sẽ không đi sâu vào phân tích đặc thù các doanh nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc mà sẽ cố gắng xem xét các doanh nghiệp này dưới góc độ các đặc điểm chung của doanh nghiệp Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, luận án sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên

cứu, cụ thể như sau:

(i). Phương pháp thống kê: Luận án thu thập, xử lý và phân tích số liệu đánh giá các chỉ tiêu về mức độ phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ như giá trị sản xuất công nghiệp, số lượng doanh nghiệp, số lượng lao động, khách hàng của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, v.v… Bên cạnh đó là các chỉ tiêu phản ánh dòng vốn FDI

vào Việt Nam như quy mô hay cơ cấu FDI, và một số chỉ tiêu khác nhằm phục vụ cho quá trình phân tích đánh giá ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI. Số

4

liệu được sử dụng trong luận án là số liệu thứ cấp được thu thập từ Bộ Công Thương, Tổng Cục Thống Kê, Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, Tổng Cục Hải Quan.

(ii).Phương pháp so sánh: Trên cơ sở nguồn số liệu được thu thập và phân tích, tác giả sử dụng phương pháp so sánh sự biến động qua các năm, các giai đoạn nhằm

đánh giá cụ thể, sâu sắc hơn về nội dung nghiên cứu: so sánh giá trị sản xuất công nghiệp của ngành công nghiệp hỗ trợ, đánh giá mức độ phát triển của công nghiệp hỗ trợ. Hay so sánh quy mô vốn FDI qua các năm, tìm hiểu nguyên nhân của sự tăng giảm

liên quan đến vấn đề nghiên cứu, v.v…

(iii). Kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng nhằm phân tích ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI vào tỉnh Vĩnh Phúc. Phương pháp nghiên cứu định tính mang tính chất mô tả, nhằm xác định các ảnh

hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI. Phương pháp định lượng: luận án sử dụng dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra khảo sát bằng bảng hỏi đối với các doanh nghiệp hỗ trợ và FDI trên địa bàn tỉnh

Vĩnh Phúc. Để đánh giá chi tiết, các câu hỏi được xây dựng dựa trên tổng hợp của các nghiên cứu về phát triển CNHT và thu hút FDI. Việc thực hiện điều tra được tiến hành như sau:

- Thực hiện phỏng vấn sâu đối với cán bộ cấp quản lý khối DNHT và FDI như:

Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Công thương, Ban Quản lý dự án, Sở Khoa học Công nghệ. Bên cạnh phỏng vấn sâu đối với cán bộ quản lý, các câu hỏi dự kiến đối với DNFDI và CNHT đã được tham vấn trực tiếp bởi các cán bộ quản lý và các cán bộ thuộc một số

đơn vị thường xuyên tư vấn cho các DNFDI và CNHT như: Ban xúc tiến và hỗ trợ đầu tư (IPA), Ban quản lý các khu công nghiệp.

- Đối với các DNFDI và DNHT, các câu hỏi được thực hiện thông qua khảo sát điều tra. Qua tham vấn các chuyên gia và thông qua phỏng vấn sâu hai doanh nghiệp,

nghiên cứu sinh xác định nội dung trong bảng hỏi.

Ngoài dữ liệu sơ cấp, trong luận án, tác giả có sử dụng dữ liệu thứ cấp về DNHT được mua trực tiếp từ Tổng cục Thống kê; dữ liệu từ cuộc điều tra khảo sát

DNHT của Trung tâm phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ – Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp – Bộ Công Thương; dữ liệu từ đề án “Khuyến khích phát triển CNHT trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn đến năm 2025” của UBND tỉnh Vĩnh Phúc.

Phương pháp phân tích nhân tố khám phá, mô hình Logit, phần mềm SPSS và phần mềm Eviews để thực hiện các phân tích định lượng đánh giá ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI.

5

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Luận án có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể như sau:

Về lý luận

- Luận án đã tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về công nghiệp hỗ trợ nói chung và ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI nói riêng, từ đó tìm ra khoảng trống trong nghiên cứu về ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI;

- Luận án đã hệ thống hoá được cơ sở lý thuyết về công nghiệp hỗ trợ và những ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI (ảnh hưởng đến quy mô FDI, chất lượng FDI và cơ cấu FDI), bổ sung khung lý thuyết cho việc phân tích những ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI vào các nước đang phát

triển; làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI vào Việt Nam;

- Luận án đã xây dựng được mô hình nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng

của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI. Cụ thể, để đánh giá ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI, luận án xây dựng hai mô hình nghiên cứu: mô hình thứ nhất, sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) nhằm đánh giá các yếu tố tác động đến mức độ hài lòng của doanh nghiệp FDI. Mô hình thứ hai, sử dụng mô

hình Logit nhằm đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đến khả năng các doanh nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung cấp của các doanh nghiệp FDI.

Về thực tiễn

- Phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI là chủ trương được Chính Phủ và Nhà nước đặc biệt quan tâm, trong bối cảnh thực tế là ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam còn manh mún, kém phát triển, mang lại giá trị gia tăng thấp cho nền kinh tế; dòng vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm sút. Vì vậy luận án có ý nghĩa thực

tiễn rất lớn trong việc đánh giá được thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam và đánh giá những ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI, trong khi đó ở Việt Nam các nghiên cứu về mối quan hệ này còn rất hạn chế;

- Dựa trên kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số giải pháp phát triển

công nghiệp hỗ trợ góp phần thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới.

6

7. Kết cấu của luận án

Luận án được kết cấu thành 5 chương và nội dung cụ thể của các chương như sau:

Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu

Chương 2: Cơ sở lý thuyết về ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút

đầu tư trực tiếp nước ngoài

Chương 3: Thực trạng ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Chương 4: Nghiên cứu trường hợp tỉnh Vĩnh Phúc

Chương 5: Giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ góp phần thu hút đầu tư

trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.

7

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

Trong những năm gần đây, công nghiệp hỗ trợ và đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ đề thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, đặc biệt là các nước Đông Á như Nhật Bản, Thái Lan, Malaysia, v.v… Các nghiên cứu chủ yếu

tập trung vào những vấn đề cơ bản của công nghiệp hỗ trợ, vai trò của công nghiệp hỗ trợ, chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, hay đánh giá những khó khăn trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ, v.v… Nhìn chung, các nghiên cứu đều chỉ ra vai trò quan trọng của công nghiệp hỗ trợ đối với phát triển kinh tế nói chung, và đặc biệt là

thu hút FDI nói riêng. Tuy nhiên ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI lại không phải là trọng tâm của các nghiên cứu này.

1.1. Tổng quan các nghiên cứu nước ngoài

Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ, tuy nhiên các

nghiên cứu chủ yếu tập trung vào vấn đề lý luận chung về công nghiệp hỗ trợ.

Thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ” (CNHT) được xuất hiện lần đầu trong cuốn sách trắng về hợp tác kinh tế của Bộ công thương Nhật Bản (MITI, 1985) nay là Bộ

Kinh tế, Công nghiệp và Thương mại (METI), để chỉ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đóng góp cho sự phát triển về cơ sở hạ tầng công nghiệp ở các nước Châu Á, đây chính là các công ty sản xuất và cung cấp linh kiện, phụ tùng. Thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ” về sau được sử dụng rộng rãi, đặc biệt ở các nước Đông Á. Tuy nhiên,

khái niệm CNHT cho đến nay chưa có một cách hiểu thống nhất, với mỗi nghiên cứu thuật ngữ này lại có các định nghĩa khác nhau.

Vai trò của CNHT được nhắc đến trong nghiên cứu của Porter (1990), theo Porter thì 4 nhân tố trong mô hình Kim cương gồm (i) điều kiện nguồn lực; (ii) điều kiện cầu; (ii) chiến lược, cấu trúc và đối thủ của công ty; (iv) các ngành công nghiệp hỗ trợ & liên quan là những nhân tố ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh quốc gia. Porter đề cao vai trò của CNHT và các ngành công nghiệp liên quan, coi đó là động lực thúc đẩy phát triển và là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của quốc gia, của

ngành. Công nghiệp có liên quan là những ngành mà các công ty có thể phối hợp hoặc chia sẻ hoạt động trong chuỗi giá trị của ngành, có các sản phẩm bổ sung hay chuyển giao kỹ năng được quyền từ ngành này sang ngành khác (Porter, 2008).

Vai trò của CNHT còn được đề cập trong nhiều nghiên cứu sau này của JICA

(1995), Ratana (1999), Thomas Brandt (2012), K.Ohno (2005). Các nghiên cứu đều

8

khẳng định vai trò quan trọng của CNHT đối với quá trình công nghiệp hoá và phát triển kinh tế. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản - JICA (1995) đưa ra những kết luận về mối liên hệ, tính liên kết trong sản xuất sản phẩm, cũng như những yêu cầu và điều kiện thúc đẩy CNHT Nhật Bản phát triển, góp phần phát triển nền kinh tế. Ratana

(1999) phân tích mối quan hệ giữa DNNVV với CNHT tại hai nước Nhật Bản và Thái Lan, từ đó chỉ ra mối quan hệ giữa DNNVV với CNHT, đồng thời nhấn mạnh CNHT chủ yếu được thực hiện bởi các DNNVV. Vì vậy, muốn phát triển CNHT cần phải dựa

trên nền tảng phát triển các DNNVV. Cũng khẳng định vai trò quan trọng của CNHT đối với phát triển kinh tế, tuy nhiên tác giả Thomas Brandt (2012) đi sâu phân tích vai trò ngành cơ khí, nhấn mạnh rằng để phát triển ngành CNHT cơ khí đòi hỏi phải duy trì lợi thế cạnh tranh thông qua các kỹ năng, chuyên môn, kinh nghiệm bằng cách

giảm chi phí, giảm thời gian đưa sản phẩm ra thị trường, quản lý sản phẩm và giới thiệu các sản phẩm mới hiệu quả hơn, quản lý hoạt động toàn cầu, phục vụ nhu cầu của khách hàng và nhà cung cấp một cách nhanh chóng, thiết lập trung tâm dịch vụ giá

trị cao. Đặt trong khung phân tích chuỗi giá trị, với mục tiêu xây dựng một chiến lược quốc gia về phát triển công nghiệp, K.Ohno (2005) tổng quát hóa thành các nhóm ngành CNHT sẽ đóng vai trò đảm bảo quá trình công nghiệp hóa (CNH) được diễn ra một cách “lành mạnh và trôi chảy”.

Goh Ban Lee (1998) phân tích mối quan hệ chặt chẽ trong hợp tác, phân công lao động với các MNC trong quá trình phát triển kinh tế. Nghiên cứu đã đánh giá rất cao vai trò của chính sách phát triển nguồn nhân lực và các chính sách hỗ trợ liên kết

của chính phủ Malaysia giữa các MNC của Nhật Bản với các doanh nghiệp nội địa sản xuất linh kiện cho ngành điện tử. Cùng quan điểm với Goh Ban Lee, nhóm tác giả Noor Halim, Clarke Roger, Driffield Nigel (2002) cũng chỉ ra vai trò quan trọng của sự hỗ trợ từ phía Chính phủ đối với sự đổi mới và sáng tạo của các doanh nghiệp nội

địa trong phát triển cung ứng cho ngành công nghiêp điện tử Malaysia.

Tổ chức năng suất lao động châu Á (Asian productivtity Orgnisation, 2002) đã đúc kết kinh nghiệm phát triển CNHT, đây là tài liệu hữu ích cho các nước đang phát triển về chính sách phát triển CNHT qua các thời kỳ ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Các chính sách này tập trung vào một số điểm chính như: thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT, quy định về tỷ lệ nội địa hoá và các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hiệu quả từ phía Chính phủ dành cho liên kết các doanh nghiệp, như là điều kiện tiên quyết để phát triển CNHT.

Báo cáo của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC, 2004) phân tích quá

trình sản xuất của các chi nhánh thuộc các Tập đoàn Nhật Bản tại các nước Châu Á,

9

như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia đã sử dụng hệ thống các nhà thầu phụ sản xuất linh kiện, phụ tùng. Đây chính là các DNHT có vốn đầu tư từ Nhật Bản. Các DNHT này cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng, máy móc cho các nhà sản xuất và lắp ráp tại các nước Châu Á: Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Ohno và Fujimoto (2006)

và nhóm nghiên cứu đại học Tokyo đã đưa ra lý thuyết về cấu trúc kinh doanh để giải thích những khác biệt cơ bản giữa các ngành công nghiệp chế tạo của một số nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật, Trung Quốc.

Công trình nghiên cứu về sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ trong mối

quan hệ với thu hút FDI

Tác giả Ryuichiro, Inoue (1999) đánh giá sự phát triển của CNHT ở Thái Lan và Malaysia sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997, và chỉ ra sự cần thiết

phải điều chỉnh chiến lược nhằm phát triển các ngành CNHT sau khủng hoảng. Nhóm tác giả đưa ra các giải pháp điều chỉnh chính sách công nghiệp sau cuộc khủng hoảng như: tăng cường phát triển CNHT ngành ô tô, ngành điện tử, v.v… thúc đẩy mô hình

cụm liên kết công nghiệp, đặc biệt nhấn mạnh xây dựng hệ thống ngành CNHT hoàn chỉnh. Peter (2011) khẳng định sự phát triển toàn diện của ngành CNHT Thái Lan tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các nhà sản xuất, các nhà lắp ráp giảm thời gian, chi phí và tăng hiệu quả sản xuất thông qua việc tìm kiếm nguồn cung ứng đầu vào tại Thái

Lan. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng ngành CNHT phát triển đã thúc đẩy nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng ổn định và bền vững. Và đó cũng chính là một trong những yếu tố thể hiện năng lực cạnh tranh nhằm thu hút FDI của Thái Lan so với các nước khác.

Vì lý do đó, Thái Lan đã được đánh giá là một trong những quốc gia hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.

Là một trong những tác giả tiên phong trong việc nghiên cứu về CNHT tại Việt Nam, Ichikawa (2004) đã chỉ ra rằng ngành CNHT Việt Nam cuối cùng cũng đang phát triển và bắt đầu phát triển. Việc đánh giá này được dựa trên ba quan sát quan

trọng, cụ thể là, (i) sự gia tăng dòng vốn FDI; (ii) cải cách thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước; và (iii) sự xuất hiện của các doanh nghiệp tư nhân. Ichikawa cũng nhấn mạnh: để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài nhằm phát triển CNHT của Việt Nam cần cung cấp một môi trường kinh doanh mở và miễn phí, đặc biệt là bãi bỏ quy định và

khung chính sách ổn định là điều kiện quan trọng nhất, thêm vào các yêu cầu thông thường của chất lượng lao động cao hơn, cải thiện cơ sở hạ tầng và áp dụng chính sách thuế ưu đãi. Nghiên cứu của Mori J, Ohno K (2004) cho rằng chiến lược phát triển các ngành CNHT nội địa cần phải được xây dựng trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về nhu cầu mua sắm của các MNC vốn dĩ đang cạnh tranh rất khốc liệt trên thị trường quốc tế. Tỷ

10

lệ nội địa hóa quá cao không những làm giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước mà còn cản trở dòng dòng vốn FDI vào Việt Nam. Một tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc và phi lý thậm chí có thể khiến các nhà sản xuất nước ngoài rời khỏi các nước đang đầu tư.

Công trình nghiên cứu ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI

Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để thu hút FDI? Các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm lợi ích gì khi đầu tư vào một nước nào đó? Có rất nhiều lý thuyết giải thích về

các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI như: Lý thuyết quốc tế hóa (Coase, 1937), lý thuyết về lợi thế so sánh (Hymer, 1960), lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm (Vernon, 1966), lý thuyết chiết trung - OLI (Dunning 1973, 1993, 2001, 2006). Tuy nhiên, trong những nghiên cứu gần đây thì lý thuyết chiết trung được sử dụng phổ biến nhất. Lý

thuyết này được cho là đã kế thừa tất cả những ưu điểm của các lý thuyết khác về FDI, hội tụ được các nguyên lý đã đề cập trước đó để giải thích sự dịch chuyển FDI vào một quốc gia. Theo Dunning các công ty sẽ thực hiện FDI khi hội tụ đủ ba lợi thế: Lợi thế về sở hữu (O), lợi thế địa điểm (L) và lợi thế nội bộ hoá (I).

Dựa trên nền tảng lý thuyết đó, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI tại các nước trên thế giới nói chung và các nước đang phát triển nói riêng. Các nghiên cứu chủ yếu đề cập đến các nhân tố như: Quy mô thị trường (Beven & Estrin, 2000; Pravakar Sahoo, 2006; Pravin Jadhav 2012; Rủi ro quốc gia (Beven & Estrin,2000; Chi phí lao động (Pravakar Sahoo, 2006); độ mở thương mại (Pravin Jadhav, 2012;Ab Quyoom Khachoo & Mohd Imran Khan, 2012); sự ổn định chính trị (Mohamed Amal & cộng sự, 2010), hay cơ sở hạ tầng (Pravakar Sahoo, 2006),v.v…

Tuy nhiên, có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong các nhân tố góp phần vào thu hút FDI. Ngoài những nhân tố được kể trên, thì vai trò của CNHT trong thu hút FDI ngày càng được chú trọng. Nghiên cứu về sự thay đổi này có thể được tìm thấy trong khảo sát của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC, 2004). Kết quả

cho thấy ở Đông Nam Á, các MNC của Nhật Bản dường như có triển vọng đầu tư tốt hơn vào các quốc gia theo thứ tự lần lượt là: Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia. Có thể thấy rằng Trung Quốc và Thái Lan

vẫn duy trì vị trí đầu tiên và thứ hai kể từ năm 2000, và dường như Trung Quốc có được sự hấp dẫn trong thu hút đầu tư vì: 1) Quy mô của thị trường trong nước, 2) Lao động rẻ, và 3) Cung ứng linh kiện trong nước có hiệu quả, trong khi Thái Lan lại hấp dẫn FDI vì 1) Lao động rẻ, 2) Kích thước của thị trường trong nước, và 3) Các thị

trường cung ứng linh kiện lớn từ các nhà cung cấp linh kiện. Cả hai quốc gia đều có

11

các ngành CNHT cạnh tranh, đại diện bởi tỷ lệ địa nội địa hoá (local procurement ratio) cao của Trung Quốc tại 55,9% vào năm 2003 và Thái Lan là 47,9% ở vào năm 2004. Mặt khác, kết quả của cuộc khảo sát chỉ ra rằng chi phí lao động rẻ hơn vẫn có thể thu hút FDI. Ví dụ, Việt Nam đã nâng vị thế của mình từ thứ 8 năm 2000 lên thứ 3

trong năm 2003, chủ yếu là vì: 1) lao động rẻ, 2) kích thước của thị trường trong nước, và 3) khả năng của người lao động. Tuy nhiên, ngành CNHT trong nước kém cạnh tranh, đại diện bởi một tỷ lệ nội địa hoá là 22,6%.

Prema-Chandea Athukorala (2002) đã phân tích vai trò của sản phẩm chi tiết, công nghiệp chế tạo, đồng thời chỉ ra mối quan hệ của sản phẩm chi tiết, công nghiệp

chế tạo hỗ trợ cho quá trình sản xuất sản phẩm chính đối với việc thu hút dòng vốn FDI vào một quốc gia. Nghiên cứu cũng chỉ ra những cơ hội và thách thức trong việc thu hút FDI, và nhấn mạnh rằng để thu hút dòng vốn FDI một cách hiệu quả các quốc gia cần quan tâm phát triển ngành công nghiệp chế tạo, đây được coi là chìa khoá để thu hút thành công vốn FDI. Cũng giống như Prema – Chandea, Pham Truong Hoang (2005) cho rằng CNHT trong phát triển kinh tế được xác định như một nhân tố quan trọng trong việc thu hút FDI, cái được xem như là quyết định cho sự tăng trưởng và

phát triển của nền kinh tế. Khi bảo hộ thuế quan dần dần bị gỡ bỏ, cạnh tranh quốc tế trở thành một căn cứ chính để các công ty nước ngoài quyết định đầu tư. Các nhà sản xuất nước ngoài quan tâm nhiều đến sự phát triển của các ngành CNHT ở các nước nhận đầu tư. Một vài thập kỷ trước, các chính sách khuyến khích ở nước nhận đầu tư

có hiệu quả lớn trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư. Nhưng hiện nay, cạnh tranh giữa các nền kinh tế đang phát triển để thu hút FDI đã dẫn đến cuộc đua về các chính sách khuyến khích. Kết quả là các chính sách khuyến khích đầu tư đang yếu đi (Narula and Dunning (2000) và sự phát triển của CNHT trở nên quan trọng. Trong khi đầu tư nước ngoài là sức mạnh sống còn cho phát triển kinh tế ở những nước đang phát triển, thì CNHT trở thành chính sách quan trọng trong việc thu hút FDI.

Đồng quan điểm với Prema-Chandea Athukorala (2002) hay Pham Truong Hoang (2005) tác giả Do Manh Hong (2004) cũng đề cập đến vai trò của CNHT như

chìa khoá nhằm thu hút FDI. Các tác giả nhấn mạnh rằng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững, các nước đang phát triển cần tạo điều kiện thu hút FDI. Tuy nhiên, để có thể thu hút được FDI và sử dụng hiệu quả nguồn FDI thì CNHT phải đi trước một bước, tạo nên cơ sở hạ tầng để cung cấp sản phẩm đầu vào cần thiết cho

các ngành công nghiệp lắp ráp của nước ngoài đầu tư. CNHT có vai trò quan trọng trong việc thu hút dòng vốn FDI, bởi bản thân các MNC giờ đây cũng chỉ giữ lại trong quy trình sản xuất các khâu nghiên cứu, phát triển sản phẩm và lắp ráp thay vì tất cả

12

gói gọn trong một công ty hay một nhà máy.

Nghiên cứu của Mori. J (2005) chỉ ra rằng, các tác động của FDI đối với nước

tiếp nhận vốn đầu tư có thể là tích cực hoặc tiêu cực, tùy thuộc vào độ lớn của các yếu tố. Nói cách khác, các nước đang phát triển có thể cải thiện phúc lợi quốc gia bằng cách thu hút FDI, nếu ngành CNHT trong nước phát triển, đáp ứng tiêu chuẩn của các nhà lắp ráp. Vì vậy, điều quan trọng đối với nước đang phát triển là xây dựng ngành CNHT cạnh tranh giúp cho FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, Mori (2005) cũng nhấn mạnh, ngoài vai trò như một bộ khuyếch đại những tác động tích cực của dòng vốn FDI, các ngành CNHT trong nước đang gia tăng tầm quan trọng như là một

yếu tố để thúc đẩy việc thu hút FDI, ngoài những yếu tố quan trọng khác quyết định đến dòng vốn đầu tư như chi phí lao động, quy mô thị trường trong nước, và sự ổn định chính trị, v.v ... Ngày nay, khi các MNC chọn một quốc gia để đầu tư trực tiếp,

họ không chỉ xem xét lợi thế về chi phí lao động, mà còn quan tâm đến các chi phí đầu vào khác của quá trình sản xuất như chi phí linh kiện, phụ tùng, v.v…

Cùng quan điểm với Mori, nghiên cứu của Ohno (2007) cho thấy các doanh nghiệp FDI đã đóng vai trò chủ đạo và chiếm đa số trong CNHT giai đoạn đầu của quá trình CNH. Và dung lượng thị trường chính là tiền đề cho việc thu hút các nhà cung cấp FDI. Dung lượng thị trường lớn là nhân tố cần thiết để giảm chi phí sản xuất đồng

thời thu hút các nhà đầu tư FDI vì hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Và ngay cả khi vấn đề dung lượng thị trường được giải quyết thì theo kết quả điều tra vẫn còn bốn yếu tố nữa, bao gồm: (1) nguồn nhân lực công nghiệp chất lượng cao; (2)

chính sách thuế hợp lý; (3) môi trường chính sách ổn định; và (4) vượt qua được khoảng cách thông tin và nhận thức giữa các nhà lắp ráp đầu tư FDI và các nhà cung cấp linh phụ kiện trong nước.

Là một trong những tác giả có rất nhiều nghiên cứu về CNHT, Ohno (2008) đã chỉ ra rằng việc mở cửa nền kinh tế và thu hút FDI có thể giúp một quốc gia đạt được mức

thu nhập trung bình, nhưng để đạt được mức thu nhập cao hơn cần có những chính sách tốt hơn và khu vực kinh tế tư nhân năng động. Vì vậy, Việt Nam nên tạo ra giá trị nội địa thay vì chỉ cung cấp lực lượng lao động giá rẻ và đất đai. Trong một nghiên cứu khác, Ohno (2008) cũng khẳng định: Nguồn nhân lực công nghiệp là nhân tố xuyên suốt quan trọng nhất trong việc thúc đẩy CNHT với cả các DNFDI và nội địa. Đào tạo nguồn nhân lực được chia thành các cấp: (i) nhà quản lý cấp cao, (ii) nhà quản lý cấp trung và kỹ sư và (iii) công nhân. Tất cả những cấp này cần được tập trung trong khi có những lưu tâm riêng với các nhóm thứ nhất và thứ hai. Bên cạnh đó, những hỗ trợ về vốn và thiết bị đôi lúc cũng là việc làm cần thiết.

13

Để đánh giá sự hấp dẫn của Việt Nam như một điểm đến đầu tư nước ngoài, nhóm tác giả Thi Minh Hieu Vuong, Kenji Yokoyama (2011) đã tiến hành thông qua một cuộc khảo sát trên 1.500 doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả sử dụng kỹ thuật IPA (Importance Performance Analysis) để đánh giá mức độ hấp dẫn của Việt Nam. Dựa trên nghiên cứu định tính, 23 thuộc tính quan trọng tiềm năng đã được xác định và được chia thành 3 loại chính, bao gồm: (i) điều kiện kinh tế của Nhật Bản và hỗ trợ từ

chính phủ Nhật Bản đến đầu tư nước ngoài (với 3 thuộc tính), (ii) các chiến lược phát triển của các công ty tham gia (4 thuộc tính); và (iii) môi trường kinh tế vĩ mô và đầu tư của nước tiếp nhận (16 thuộc tính). Trong đó, sự phát triển CNHT tại nước nhận vốn đầu tư được xem xét là 1 thuộc tính ảnh hưởng quan trọng đến sự hấp dẫn FDI. Kết quả phân tích thuộc tính dựa trên phân tích toàn diện và cho thấy rằng Việt Nam được coi là thuận lợi hơn so Thái Lan và Trung Quốc trong chi phí sản xuất và đặc điểm về lao động. Kết quả cũng cho thấy rằng Việt Nam nên duy trì tốt sự ổn định

chính trị, chi phí thấp và lao động có tay nghề cao, cơ hội lợi nhuận, hỗ trợ chiến lược mở rộng của công ty và chi phí sản xuất thấp. Các điểm yếu Việt Nam cần cải thiện gồm 11 khoản mục trong số 16 thuộc tính của môi trường kinh tế vĩ mô và đầu tư, trong đó cần đặc biệt chú ý những vấn đề liên quan đến cơ sở hạ tầng, tính minh bạch

và nguyên vật liệu sản xuất.

1.2. Tổng quan các nghiên cứu trong nước

Công nghiệp hỗ trợ là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trong nước thời gian gần đây. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung đến việc xác định phạm vi, phân tích vai trò hay đánh giá thực trạng ngành CNHT. Nghiên cứu về ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI chưa phải là nội dung chính của các nghiên cứu.

Nhóm các nghiên cứu về CNHT và vai trò của CNHT

Là một trong những người tiên phong trong nghiên cứu về CNHT ở Việt Nam,

tác giả Trần Văn Thọ (2006) Nguyễn Thị Xuân Thúy (2007), đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về CNHT, tuy nhiên nhìn chung CNHT đều bao gồm toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính, cụ thể gồm những linh kiện, phụ tùng, v.v…và bao gồm cả những sản phẩm trung gian,

những nguyên liệu sơ chế. Các nghiên cứu đều khẳng định vai trò quan trọng của phát triển CNHT ở Việt Nam hiện nay, coi CNHT như bước đột phá phát triển ngành công nghiệp nội địa. CNHT trong nước phải phát triển mới có thể thu hút FDI, nhất là FDI trong các ngành sản xuất các loại máy móc, là những ngành đang phát triển mạnh tại

Đông Á và là những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế so sánh động. Tỷ lệ của chí phí về

14

CNHT cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng CNHT không phát triển sẽ làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Có mối quan quan hệ hỗ tương giữa FDI và sự phát triển của ngành CNHT nội địa. Cùng quan điểm, tác giả Lê Thành Ý (2007) cũng nhấn mạnh rằng nội địa hóa là chìa khoá thu

hút thành công FDI tại các quốc gia đang phát triển. Song, ở Việt Nam nhà đầu tư nước ngoài vấp phải nhiều khó khăn do tỷ lệ nội địa hoá thấp và ngành CNHT chưa phát triển. Vì vậy, để tăng cường thu hút FDI cần có chính sách phát triển CNHT,

nâng cao tỷ lệ nội địa hoá.

Tiếp cận CNHT dưới góc độ phân tích các lý thuyết liên quan, nghiên cứu của Hoàng Văn Việt (2012) cho thấy vai trò của CNHT là một nhân tố quyết định hiệu quả hoạt động, khả năng phát triển và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ngành, địa phương và quốc gia. Tuy nhiên, để hình thành và phát triển CNHT cần phải thực hiện được những việc sau: (i) nghiên cứu quy hoạch ngành công nghiệp tổng thể, từ đó xác định ngành công nghiệp mũi nhọn với lợi thế cạnh tranh cao; (ii) phát triển các doanh nghiệp trung tâm từ đó xây dựng các mối liên kết, mạng lưới thông tin và cơ sở dữ liệu; (iii) tạo môi trường pháp lý tốt với chính sách hỗ trợ hiệu quả; (iv) cần phải có kế hoạch hành động cụ thể.

Tiếp tục nhấn mạnh đến vai trò của CNHT, các nghiên cứu của Trương Thị Chí Bình (2010) hay Hà Thị Hương Lan (2014) và Nguyễn Văn Trinh (2012) đều khẳng

định rằng: CNHT trước hết là một nhân tố quan trọng góp phần thu hút FDI, từ đó góp phần phát triển kinh tế nói chung. Tuy nhiên, ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI lại không phải là trọng tâm của các nghiên cứu này. Mỗi tác giả tiếp cận CNHT từ các khía cạnh khác nhau, tác giả Trương Thị Chí Bình đi sâu nghiên cứu về CNHT ngành điện tử gia dụng, từ đó đưa ra quan điểm hợp lý về phát triển CNHT cho Việt Nam là dựa trên mạng lưới của “lý thuyết trò chơi” với vai trò tích cực của các MNC. Nghiên cứu phân tích quy trình sản xuất các sản phẩm điện tử gia dụng, xác định phạm vi của

CNHT ngành điện tử gia dụng, đưa ra nguyên nhân CNHT ngành điện tử gia dụng Việt nam chưa phát triển và khẳng định có thể phát triển CNHT ngành điện tử gia dụng khi Việt Nam tham gia vào các chuỗi cung ứng cho mạng lưới sản xuất của các MNC. Còn tác giả Hà Thị Hương Lan (2014) lại nghiên cứu CNHT dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, sử dụng một số lý thuyết và mô hình kinh tế học như liên kết kinh doanh (business linkages), chuỗi giá trị (value chain), cụm liên kết doanh nghiệp công nghiệp (industrial clusters) để phân tích và làm rõ vấn đề nghiên cứu. Trong khi đó Nguyễn Văn Trinh làm rõ vai trò của CNHT đối với phát triển kinh tế, chủ yếu là gắn với việc tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu của Việt

15

Nam, đồng thời đưa ra các giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm phát triển CNHT của Việt Nam đến năm 2020. Nhóm các nghiên cứu về phát triển CNHT, trong mối quan hệ với thu hút FDI

Đề cập đến sự cần thiết phát triển CNHT, nghiên cứu của Nguyễn Thị Xuân

Thuý (2007) và Nguyễn Ngọc Sơn (2012) đều khẳng định CNHT đóng vai trò quan trong việc thu hút FDI. Đồng thời nhấn mạnh rằng Việt Nam cần học hỏi những kinh nghiệm của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan hay Malaysia trong việc phát triển CNHT. Bài học kinh nghiệm được đưa ra chủ yếu tập trung vào một số vấn đề như: quy định về tỷ lệ nội địa hoá, thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào CNHT, thúc đẩy liên kết công nghiệp và tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu, phát triển cụm ngành công nghiệp, v.v…

Theo một cách tổng thể hơn về CNHT, nghiên cứu của Hoàng Văn Châu (2010), Lê Xuân Sang và cộng sự (2011), Nguyen Thi Xuân Thúy (2011), Võ Thanh Thu và Nguyễn Đông Phong (2014) đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về CNHT và chính sách phát triển CNHT ở Việt Nam. Nghiên cứu chính sách phát triển CNHT của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam. Phân tích thực trạng CNHT ở Việt Nam, hệ thống hóa và đánh giá các chính sách phát triển CNHT ở Việt nam hiện nay. Từ đó đề xuất giải pháp chính sách nhằm phát triển CNHT ở Việt nam. Các nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê nin.

Với quan điểm phát triển CNHT đáp ứng nhu cầu của các DNFDI, đề tài nghiên

cứu của Trung tâm phát triển doanh nghiệp CNHT – Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp – Bộ Công Thương (2015) đã phân tích những tiêu chuẩn cần phải thoả mãn để trở thành nhà cung cấp của các tập đoàn đa quốc gia. Theo đó ngoài việc đáp ứng các tiêu chuẩn cạnh tranh của sản phẩm nói chung về chất lượng (Q), giá

cả (C), giao hàng (D), thì DNHT cần đáp ứng các yếu tố khác về môi trường (E – Environment); tài chính (F – Finance); công nghệ (T – Technology); trách nhiệm xã hội (R – Responsibility); luật pháp (L – Laws).

Đánh giá từ phía doanh nghiệp CNHT, nghiên cứu của Vũ Chí Lộc (2010), Lưu Tiến Dũng và cộng sự (2014) đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển các ngành CNHT trong quá trình hội nhập quốc tế. Tác giả Vũ Chí Lộc đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của các công ty đa quốc gia đối với CNHT. Theo tác giả các MNC có vai trò quan trọng trong chuyên môn hoá sản xuất quốc tế. Còn tác giả Lưu Tiến Dũng khẳng định sự phát triển của CNHT sẽ thực sự đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo ra năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, ngành kinh tế và quốc gia. Nghiên cứu này sử dụng mô hình SEM nhằm phân tích các yếu tố tác động đến sự

16

phát triển CNHT, trường hợp ngành cơ khí ở Đồng Nai. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 6 yếu tố tác động trực tiếp gồm: (i) nguồn nhân lực công nghiệp chất lượng cao; (ii) năng lực cạnh tranh của ngành CNHT (iii) chính sách thuế và những ưu đãi cụ thể về thuế; (iv) sự ổn định của môi trường thể chế; (v) độ lớn cầu thị trường; (vi) sự bất cân xứng về thông tin cung – cầu; Ngoài ra, còn 3 yếu tố tác động gián tiếp gồm: (a) chất lượng cung ứng; (b) chi phí cung ứng; và, (c) năng lực cung ứng. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ xem xét nội lực của các DNHT, chứ chưa đánh giá ngành CNHT trên

quan điểm của các DNFDI.

Đánh giá từ phía các doanh nghiệp FDI, Trương Bá Thanh & Nguyễn Ngọc Anh (2014), Trần Quang Hậu (2015), dựa trên số liệu điều tra từ các doanh nghiệp

FDI đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI và kết quả đều chỉ ra lợi thế địa phương và môi trường quốc tế ảnh hưởng lớn đến dòng vốn FDI của tỉnh. Nghiên cứu của Trần Quang Hậu (2015) cho thấy trong các nhân tố tạo nên lợi thế địa phương tạo sự hấp dẫn thu hút FDI như: thể chế, nguồn nhân lực, tài nguyên, CNHT và công

nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường đóng vai trò quan trọng. Ngược lại, nhóm tác giả Trương Bá Thanh - Nguyễn Ngọc Anh (2014) chỉ ra rằng trong các yếu tố tạo nên lợi thế vùng hấp dẫn FDI, thể chế và lao động đóng vai trò quan trọng, trong khi vai trò của tài nguyên, CNHT và công nghệ, cơ sở hạ tầng và thị trường ít hơn.

Ở chiều ngược lại, Phạm Thu Hương (2013) hay Hoàng Mai Vân Anh (2014) Nguyễn Thị Phương Nhung (2014) đều chỉ ra vai trò của FDI trong việc phát triển CNHT, đồng thời phân tích những nhân tố tác động đến thu hút FDI cho phát triển

CNHT. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc thu hút FDI cho phát triển CNHT ở một số nước trên thế giới (Đài Loan, Thái Lan, Malaysia) và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tác giả Phạm Thu Hương nghiên cứu CNHT thông qua mô hình phân tích chuỗi giá trị, hệ thống chuỗi giá trị của Micheal Porter. Bên cạnh

đó, việc phân tích chuỗi giá trị toàn cầu gắn với sự hình thành các liên kết sản xuất đã được các tác giả Gereffi và Korzenniewicz (1994), Henderson (1998), Gereffi (1999), Morris và Kaplinsky (2001), Schmitz (2004) đề cập đến. Các nghiên cứu cũng đưa ra

định hướng và một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI cho sự phát triển CNHT của Việt nam.

1.3. Khoảng trống nghiên cứu

Tóm lại, qua tổng quan nghiên cứu các công trình khoa học trong và ngoài

nước về CNHT và ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI có thể thấy như sau:

- CNHT và vai trò của CNHT đối với ngành công nghiệp nói riêng và đối với phát triển kinh tế nói chung là một chủ đề thu hút sự quan tâm của rất nhiều các nhà

khoa học, có rất nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này.

17

- Về ảnh hưởng của CNHT đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI cũng được đề cập đến trong khá nhiều công trình nghiên cứu ngoài nước, tuy nhiên đây không phải trọng tâm của các nghiên cứu này. Các nghiên cứu đều khẳng định CNHT phát triển sẽ thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (Narula and Dunning,

2000; Prema-Chandea Athukorala, 2002; JBIC,2004; Junichi Mori, 2005; Ichikawa, 2004; Do Manh Hong, 2008,v.v…)

- Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng vai trò của các nhân tố khác trong việc thu

hút FDI như quy mô thị trường, chi phí lao động, sự ổn định chính trị, v.v... đang bị giảm dần, thay vào đó là sự gia tăng vai trò của CNHT (JCIB, 2004; Mori 2005, Phạm, 2007; Thuỷ, 2007; Thi Minh Hieu Vuong, Kenji Yokoyama, 2011).

Tuy nhiên, tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy

một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, kết quả chung mới chỉ đề cập, mà chưa phân tích được những ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI và các câu hỏi nghiên cứu như sau chưa được trả

lời: (1) Mức độ phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam hiện nay như thế nào? (2) Ngành công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến thu hút FDI vào Việt Nam như thế nào? (3) Làm thế nào để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ góp phần thu hút FDI vào Việt Nam?

Thứ hai, các phương pháp nghiên cứu sử dụng chủ yếu là phương pháp định tính, nên chỉ mang tính chất khai phá ra các nhân tố. Để làm rõ ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI, luận án sẽ sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định

lượng. Trong đó, nghiên cứu định tính luận án phân tích các kênh ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI vào Việt Nam. Nghiên cứu định lượng luận án sử dụng kết hợp mô hình phân tích nhân tố khám (EFA) và mô hình Logit nhằm đánh giá ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI: (1) Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng

của DNFDI, (2) Đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố nội tại đến khả năng DNHT trở thành nhà cung cấp của các DNFDI.

Thứ ba, các nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam còn rất hạn chế. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung đánh giá vai trò của CNHT, mức độ phát triển CNHT, chính sách phát triển CNHT hay thu hút FDI cho phát triển CNHT. Ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI không phải là trọng tâm của các nghiên cứu này. Vì vậy, các nghiên cứu này chưa có kết quả rõ ràng, chưa có tác động hỗ trợ cho sự phát triển của ngành

CNHT nhằm thu hút FDI ở Việt Nam hiện nay.

18

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 của luận án đã tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và trên thế giới về ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI cho thấy đây là một

chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Để thu hút FDI, các nước đang phát triển cần phải phát triển CNHT. Tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào định nghĩa, xác định phạm vi, vai trò của ngành công nghiệp hỗ trợ, đánh giá thực

trạng ngành công nghiệp hỗ trợ, hay phân tích giải pháp để phát triển ngành CNHT. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng công nghiệp hỗ trợ có vai trò quan trọng đối với phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế của các quốc gia nói chung và đối với thu hút FDI nói riêng.

Tổng quan các công trình nghiên cứu cho thấy rõ khoảng trống của các nghiên cứu về cả nội dung và phương pháp nghiên cứu đối với vấn đề ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút FDI của các nước, cũng như ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, các nội dung của luận án sẽ xây dựng khung lý thuyết để phân tích và đánh giá thực trạng sự phát triển CNHT tại Việt Nam, cũng như đánh giá ảnh hưởng của CNHT đến việc thu hút FDI và nghiên cứu các giải pháp cho vấn đề này.

19

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP

HỖ TRỢ ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Chương 1 của luận án đã tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài

nước về CNHT và ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI. Dựa trên cơ sở đó, chương 2 luận án sẽ hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về CNHT, sự phát triển CNHT và những ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI. Đồng thời, luận án cũng phân tích những kinh nghiệm trong phát triển CNHT nhằm thu hút FDI tại một số nước có ngành CNHT

phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, v.v … Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc phát triển CNHT và thu hút FDI vào Việt Nam.

2.1. Khái quát về công nghiệp hỗ trợ

2.1.1. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ

“Công nghiệp hỗ trợ” hay “công nghiệp phụ trợ” là những thuật ngữ khác nhau chỉ cùng một lĩnh vực sản xuất công nghiệp có tác dụng hỗ trợ, bổ sung tạo điều kiện cho sự phát triển của những ngành công nghiệp chính. Do trình độ phát triển khác

nhau ở các quốc gia trên thế giới, CNHT luôn cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển và ổn định sản xuất kinh doanh của các ngành công nghiệp chính trong nước hay các doanh nghiệp FDI. Mặc dù quan điểm của các quốc gia về CNHT cơ bản thống nhất, tuy nhiên vẫn còn có những khác biệt nhất định về cách tiếp cận.

Quan niệm về công nghiệp hỗ trợ theo quan điểm của một số nước

Thuật ngữ “Supporting Industry” có nghĩa là công nghiệp phụ trợ hay công nghiệp hỗ trợ được sử dụng khá rộng rãi ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia

Đông Á. Tuy nhiên, về mặt duy danh định nghĩa, thuật ngữ này vẫn chưa có sự thống nhất, mỗi quốc gia có cách định nghĩa khác nhau về CNHT tuỳ theo từng hoàn cảnh và mục đích sử dụng.

Khái niệm CNHT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản trong “Sách trắng về Hợp tác kinh tế năm 1985” của Bộ Công Thương Nhật Bản (MITI, nay là Bộ Kinh tế, Công nghiệp và Thương mại). Cụm từ CNHT được dịch trực tiếp từ thuật ngữ gốc trong tiếng Nhật là “Suso-no San-gyuo”, trong đó Suso-no nghĩa là “Chân núi” và Sangyuo là “Công nghiệp”. Nếu xem toàn bộ quy trình sản xuất một sản phẩm như một quả núi thì các ngành CNHT đóng vai trò là chân núi, còn ngành công nghiệp lắp ráp, sản xuất sản

phẩm hoàn chỉnh đóng vai trò là đỉnh núi (Lê Xuân Sang, 2011).

20

Ngành công nghiệp lắp ráp

Hàng hóa cuối cùng

Xuất khẩu, sử dụng trong nước

Ngành điện

Ngành điện tử

Giai đoạn đầu, CNHT chỉ các doanh nghiệp có đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp ở các nước châu Á, hay các công ty sản xuất linh kiện, phụ tùng. Năm 1987, MITI tiếp tục giới thiệu về thuật ngữ CNHT với định nghĩa chính thức là các ngành cung cấp những gì cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh phụ kiện và hàng hoá, cho các ngành công nghiệp lắp ráp (Trương Thị Chí Bình, 2010). Sự tăng giá của đồng Yên Nhật đã làm cho các doanh nghiệp Nhật Bản giảm xuất khẩu các sản phẩm cuối cùng và chuyển các cơ sở sản xuất sang các nước có chi phí nhân công thấp hơn. Tuy nhiên các nhà lắp ráp Nhật Bản ở nước ngoài vẫn phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các DNNVV Nhật Bản vì các sản phẩm của các doanh nghiệp tại nước sở tại không thể đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng. Thuật ngữ CNHT khi đó được dùng để chỉ sự thiếu hụt các ngành công nghiệp cung cấp linh kiện phụ tùng ở các nước sở tại. Sau đó, thuật ngữ này đã được phổ biến đến các nước châu Á khác cùng với các chương trình hỗ trợ của Nhật Bản như New Aid Plan năm 1987, chương trình phát triển CNHT châu Á năm 1993 (Nguyễn Thị Xuân Thuý, VDF 2007)

Ngành xe hơi

Bộ phận và thành phẩm

Chi tiết rèn

Nhựa đúc

Nguyên vật liệu

Sản phẩm đúc

Những ngành công nghiệp hỗ trợ

Bộ phận và thành phẩm, bán thành phẩm

Hình 2.1: Phạm vi các ngành CNHT theo MITI

Nguồn: Nguyễn Thị Xuân Thuý , 2007, VDF

Tương tự như quan điểm của MIIT Nhật Bản, Bộ Năng lượng Mỹ (2004) đưa ra khái niệm CNHT là “những ngành sử dụng nguyên vật liệu và các quy trình cần thiết để định hình và chế tạo ra sản phẩm trước khi chúng được lưu thông đến ngành công nghiệp sử dụng cuối cùng”. Khái niệm về CNHT của Bộ Năng lượng Mỹ tuy mang tính khái quát nhưng chỉ tập trung chủ yếu vào mục tiêu tiết kiệm năng lượng. Vì vậy, CNHT theo quan điểm của cơ quan này là những ngành tiêu tốn nhiều năng

21

lượng như than, luyện kim, thiết bị nhiệt, hàn, đúc. Chương trình phát triển ngành CNHT hiện nay ở Mỹ bao gồm 07 ngành: các thiết bị làm nóng công nghiệp: xử lý nhiệt, rèn; hàn, luyện kim và các vật liệu dạng hạt; sứ cao cấp; các sản phẩm các-bon. Như vậy, theo quan điểm của Bộ Công nghiệp Mỹ, khái niệm CNHT là khá hẹp và

được hiểu là một số ngành công nghiệp sử dụng năng lượng và cũng cấp những sản phẩm khá cụ thể cho các ngành công nghiệp khác.

Khác với Nhật Bản hay Mỹ, Thái Lan định nghĩa CNHT là “các doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện được sử dụng trong các công đoạn lắp ráp của các ngành công nghiệp ô tô, máy móc và điện tử” (Ratana, 1999). Theo cách cụ thể, Văn phòng phát triển CNHT Thái Lan (Bureau of Supporting Industries Development - BSID) định nghĩa CNHT “là các ngành công nghiệp cung cấp linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ kiểm tra cho các ngành công nghiệp cơ bản (nhấn mạnh các ngành cơ khí, máy móc, linh kiện cho ô tô, điện và điện tử là những ngành CNHT quan trọng”.

Theo cách cụ thể hơn, Hội đồng đầu tư Thái Lan (BOI 1995) chia các ngành công nghiệp ô tô và phụ tùng thành 3 cấp độ; cấp độ lắp ráp xe, cấp độ sản xuất phụ tùng và linh kiện và cấp độ các ngành CNHT. Họ tách việc sản xuất phụ tùng và linh kiện ô tô ra khỏi CNHT. BOI xác định rằng năm sản phẩm CNHT chủ chốt là khuôn mẫu sản phẩm, sản phẩm rèn, sản phẩm đúc, các sản phẩm nung, và các sản phẩm xử

lý nhiệt. Trong nghiên cứu này, CNHT là các ngành công nghiệp cung cấp sản phẩm, chẳng hạn như nguyên liệu thô, phụ tùng và linh kiện, chi tiết lắp ráp, và các dịch vụ khác, cho ngành công nghiệp chính hoặc các ngành công nghiệp cuối cùng (downstream industries), chẳng hạn như các ngành công nghiệp điện và điện tử (E &

E) các ngành công nghiệp linh kiện của E&E và ngành công nghiệp ô tô. Có thể thấy, quan điểm về CNHT của Thái Lan không chỉ dễ hiểu mà còn phản ánh đầy đủ bản chất, vai trò và phạm vi của CNHT.

Các nước Châu Âu không sử dụng cụm từ CNHT như là “supporting industries” mà thường gọi lĩnh vực này là “các ngành cung ứng” (Supplier Industries), chỉ việc cung cấp sản phẩm từ các doanh nghiệp bên ngoài. Các khái niệm liên quan đến nội dung này còn được phản ánh ở các thuật ngữ khác như: thầu phụ, thuê ngoài, nhà cung ứng.

Như vậy, tuy có tên gọi và phạm vi khác nhau song về bản chất cách hiểu về

CNHT của Châu Âu cơ bản giống như quan điểm của của Nhật, Mỹ và Thái Lan,v.v...

22

Quan niệm về công nghiệp hỗ trợ theo quan điểm của các nhà nghiên cứu

Junichi Mori (2005) cho rằng có hai cách định nghĩa về CNHT theo hai cách

tiếp cận khác nhau, đó là từ lý thuyết kinh tế và từ thực tiễn sản xuất kinh doanh.

Thứ nhất, từ lý thuyết kinh tế, “CNHT được định nghĩa như một nhóm các nhà sản xuất các sản phẩm đầu vào”. Các sản phẩm hoàn thành (Finished goods) được sản xuất thông qua các quá trình gồm nhiều lớp (multi-layer processes) bao gồm quá trình sản xuất, lắp ráp các sản phẩm đầu vào. CNHT là lĩnh vực sản xuất ra những sản phẩm

đầu vào, hay các hàng hoá trung gian và tư liệu sản xuất. Ví dụ, trong quá trình sản xuất hàng điện tử gia dụng, các bộ phận sản phẩm như chất dẻo và bộ phận kim loại được xem là hàng hoá trung gian, trong khi máy móc và công cụ để sản xuất những hàng hoá trung gian đó là tư liệu sản xuất.

Thứ hai, từ thực tiễn sản xuất kinh doanh, “CNHT sản xuất linh kiện, phụ tùng, cũng như máy móc và công cụ để sản xuất ra các linh kiện, phụ tùng đó”. Hệ thống sản xuất hiện đại gồm quá trình nhiều lớp như: Lắp ráp cuối cùng, chi tiết lắp ráp, sản

Lắp ráp

Lắp ráp phụ Bộ phận sản xuất

xuất linh kiện, dụng cụ, máy móc, nguyên liệu và nguyên liệu thô (Hình2.2)

Ngành công nghiệp hỗ trợ

Kỹ thuật

Máy móc

Nguyên liệu và vật liệu

Hình 2.2: CNHT theo quan điểm của Nhật Bản

Nguồn: J. Mori, 2005

Còn theo K.Ohno (2005, VDF& GRIPS), CNHT là thuật ngữ chỉ một nhóm các hoạt động công nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào đã qua chế biến và hàng hóa trung gian (không phải nguyên liệu thô cũng không phải sản phẩm hoàn thành) cho các ngành

công nghiệp hạ nguồn. Nói cách khác, CNHT nằm ở giữa dòng sản xuất theo chiều dọc từ “thượng nguồn” – yếu tố đầu vào hay các công nghiệp khai thác nguyên liệu thô đến “hạ nguồn” – những ngành sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Quan điểm của Ohno nhìn chung

có sự tương đồng và thống nhất với quan điểm của Mori về CNHT.

23

Phạm vi của CNHT phụ thuộc vào các ngành công nghiệp hạ nguồn (hình2.3). Thuật ngữ CNHT ban đầu được sử dụng bởi các doanh nghiệp và tổ chức của chức Nhật Bản để chỉ ra sự thiếu các ngành công nghiệp ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ASEAN4. Mối quan tâm chính của họ là không có ngành CNHT mạnh, các ngành công

nghiệp hạ nguồn không thể đạt được sự tăng trưởng và khả năng cạnh tranh.

Quần áo và giày dép

Xe máy

Chế biến thực phẩm

Điện tử I & II

Công nghiệp hỗ trợ

Chế biến nhựa và kim loại (Cắt, đúc, rèn, khuôn,…)

Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thương nghiệp

Vải, da, phụ tùng

Hình 2.3: Phạm vi của CNHT phụ thuộc vào các ngành công nghiệp hạ nguồn

Nguồn: K.Ohno, 2005 Theo K. Ohno (2005), định nghĩa CNHT không xác định quy mô doanh nghiệp

hay sở hữu, có thể bao gồm các công ty nước ngoài và liên doanh, các doanh nghiệp nhà nước địa phương, các doanh nghiệp tư nhân lớn, và DNNVV ở địa phương. Vì mục đích của CNHT là nâng cao năng lực cạnh tranh công nghiệp, thường bao gồm những công ty có thể đáp ứng các tiêu chuẩn cạnh tranh cao về chất lượng, chi phí và giao hàng (QCD).

Công ty nước ngoài và liên doanh

Những doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nhà xuất khẩu, lắp ráp và các công ty nước ngoài

SMEs khác

SI SOEs SI công ty tư

SI SMEs

nhân lớn

SI công ty nước ngoài và liên doanh

Ngành công nghiệp hỗ trợ

Hình 2.4: CNHT theo quy mô và sở hữu

Nguồn: K. Ohno, 2005

24

Một khái niệm khác khá phổ biến ở Việt Nam trong cuốn sách “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt nam” của tác giả Trần Văn Thọ (2006): “CNHT là khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho

việc sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng, sản

phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v… và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế”. Để phạm vi rõ ràng hơn, thì có thể giới hạn sản phẩm CNHT được sản xuất với quy mô nhỏ bởi các DNNVV.

Dựa vào bối cảnh Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Xuân Thuý (VDF, 2007) đề

xuất khái niệm: “CNHT là một nhóm các hoạt động công nghiệp cung cấp các đầu vào

trung gian (gồm linh kiện, phụ tùng và công cụ để sản xuất ra các linh kiện phụ tùng

này) cho các ngành công nghiệp lắp ráp và chế biến”. Khái niệm được đưa ra phù hợp

phù hợp với mục đích nghiên cứu và hoạch định chính sách cho Việt Nam, trong điều

kiện nguồn ngân sách có hạn, nền móng công nghiệp chưa phát triển, và dưới áp lực

hội nhập cạnh tranh quốc tế.

Quan niệm về công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam

Tại Việt Nam, trong giai đoạn đầu mở cửa những năm 1990, các doanh nghiệp nước ngoài cho rằng ngành CNHT không tồn tại hoặc còn rất sơ khai. Tuy nhiên, khảo sát của tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) năm 2004 cho thấy quan điểm này không hoàn toàn đúng, và ngành CNHT Việt Nam đã hình thành và phát triển (Ichikawa, 2005). Hiện nay, ngành CNHT đang nhận được sự quan tâm của nhà nước, các doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu vì sự phù hợp của CNHT cho mô hình phát triển công nghiệp Việt Nam và vai trò quan trọng của CNHT đối với thu hút FDI.

Theo Nghị định số 111/2015/NĐ-CP, ngày 3/11/2015 của Chính phủ về

phát triển CNHT, thì CNHT được hiểu “là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên

liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng để cung cấp cho sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh”.

Khái niệm của Việt Nam về CNHT về cơ bản khá tương đồng với các khái niệm của

Nhật Bản, Thái Lan và các quốc gia khác.

Nhìn chung, các khái niệm về CNHT trên đây đều nhấn mạnh tầm quan trọng

của các ngành công nghiệp sản xuất đầu vào cho sản phẩm hoàn chỉnh. Tuy vậy, mỗi

khái niệm lại xác định một phạm vi khác nhau cho ngành CNHT. Nếu không định

nghĩa một cách cụ thể thì không thể xác định được đó là ngành công nghiệp nào và hỗ

trợ cho đối tượng nào. Phạm vi của CNHT nêu trong các chính sách, chiến lược công

nghiệp rất khác nhau, tùy thuộc vào mục đích sử dụng của các nhà hoạch định chính

25

sách. Thuật ngữ này càng được định nghĩa cụ thể bao nhiêu thì việc hoạch định chính

sách càng trở nên dễ dàng hơn, và các chính sách đó cũng có tính khả thi cao hơn.

Thực tế, việc định nghĩa chuẩn xác CNHT chỉ có thể được thực hiện khi ngành

CNHT tham gia được vào chuỗi giá trị sản xuất. Do đặc thù của từng ngành đỏi hỏi

các sản phẩm CNHT ở mức độ và đặc điểm khác nhau. Và quan điểm về CNHT được

sử dụng trong nghiên cứu này là: “CNHT bao gồm toàn bộ các ngành công nghiệp sản

xuất nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng cung cấp đầu vào cho các ngành công nghiệp

sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh”.

2.1.2. Sự hình thành và các giai đoạn phát triển của công nghiệp hỗ trợ

Thực tế, ngành CNHT ở các quốc gia thường hình thành và phát triển theo các

giai đoạn khác nhau, với khả năng cạnh tranh của sản phẩm CNHT sản xuất trong

nước ngày càng tăng về chất lượng (Q), giá cả (C), thời gian giao hàng (D), v.v… Ở

các quốc gia đang phát triển, quá trình hình thành và phát triển của ngành CNHT

thường trải qua 5 giai đoạn khác nhau:

- Giai đoạn 1: Giai đoạn này ngành CNHT mới hình thành, còn sơ khai, số

lượng các DNHT trong nước còn rất ít, sản phẩm CNHT chưa có tính cạnh tranh. Việc

sản xuất của các DNFDI được thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng các nguyên liệu đầu

vào, linh kiện, phụ tùng nhập khẩu. Như vậy, thì có thể coi là sự ra đời của CNHT bắt

đầu từ việc cung cấp rất ít những sản phẩm đầu vào, linh kiện, phụ tùng.

- Giai đoạn 2: So với giai đoạn trước thì giai đoạn này số lượng các DNHT

trong nước đã bắt đầu tăng, vì vậy mà sản phẩm CNHT cũng tăng theo, tuy nhiên chất

lượng sản phẩm gần như không tăng. Thực hiện nội địa hóa thông qua sản xuất tại chỗ,

các nhà lắp ráp chuyển sang sử dụng linh kiện, phụ tùng, sản phẩm trung gian khác

được sản xuất trong nước. Thường những linh, phụ kiện này là những loại thông dụng,

dùng chung. Tỷ lệ nội địa hóa trong các sản phẩm công nghiệp trong nước có tăng lên

nhưng tính cạnh tranh trong sản xuất các sản phẩm này không cao, do vậy giai đoạn

này tỷ lệ nhập khẩu sản phẩm CNHT vẫn còn rất cao.

- Giai đoạn 3: Giai đoạn này số lượng các DNHT trong nước tăng mạnh, khối lượng

sản phẩm CNHT tăng, tính cạnh tranh của sản phẩm tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu của nhà

sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Xuất hiện các nhà cung ứng các sản phẩm hỗ trợ chủ chốt

như sản xuất động cơ, hộp số đối với ngành ôtô - xe máy, chíp IC điện tử, nguyên vật liệu

cao cấp, v.v... một cách độc lập không theo yêu cầu của các nhà lắp ráp. Giai đoạn này phát

triển mạnh mẽ việc gia công tại nước sở tại các chi tiết phụ tùng có độ phức tạp cao, khối

26

lượng hàng hóa nhập khẩu để lắp ráp giảm dần.

- Giai đoạn 4: Giai đoạn này, số lượng các nhà cung cấp sản phẩm CNHT tăng

lên đối với mỗi loại sản phẩm. Các DNHT nội địa đã phát triển nhanh chóng, đáp ứng

được tiêu chuẩn về giá cả, chất lượng và giao hàng. Vì vậy, sự cạnh tranh giữa các

DNHT nội địa và DNHT có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng gay gắt. Phần

lớn các nguyên liệu đầu vào, sản phẩm trung gian, linh kiện, phụ tùng đã được tiến hành

sản xuất trong nước. Do mức độ cạnh tranh lớn, nên xu thế chung lúc này là hạ giá

thành sản xuất trong khi vẫn duy trì phát triển nâng cao chất lượng sản phẩm.

- Giai đoạn 5: Giai đoạn này các DNHT trong nước đã đạt được mức độ phát

triển hoàn thiện về chất lượng sản phẩm, tiếp tục tập trung nghiên cứu phát triển để đẩy

mạnh xuất khẩu. Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình nội địa hóa; các nhà đầu tư

nước ngoài bắt đầu dịch chuyển các thành tựu nghiên cứu, phát triển tới nước sở tại;

năng lực nghiên cứu, phát triển nội địa cũng đã được củng cố và phát triển; bắt đầu giai

đoạn sản xuất hướng đến phục vụ xuất khẩu.

2.1.3. Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ

Là lĩnh vực hỗ trợ cho ngành công nghiệp lắp ráp, chế biến sản phảm cuối

cùng, CNHT có những đặc điểm liên quan chặt chẽ đến các ngành công nghiệp lắp ráp

chế biến, song cũng có những đặc điểm riêng có, cụ thể như sau:

Thứ nhất, ngành công nghiệp hỗ trợ nằm trong chuỗi giá trị

Cụm từ chuỗi giá trị đề cập tới đầy đủ tất cả các hoạt động cần thiết để tạo ra

một sản phẩm hay dịch vụ nào đó (Kaplinsky và Morris 2001). Chuỗi giá trị bao gồm

các hoạt động từ thiết kế, sản xuất, tiếp thị, phân phối, đến dịch vụ hậu mãi trên phạm

vi toàn cầu. Như vậy, một chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả các thành phần trong chuỗi

hoạt động và phối hợp với nhau tạo ra giá trị tối đa trong toàn chuỗi. CNHT sản xuất

ra linh kiện, bộ phận (C) chính là mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu, tạo

ra giá trị gia tăng lớn, chứ không phải doanh nghiệp lắp ráp tại một quốc gia cụ thể

(Hình 2.5). Ngành công nghiệp lắp ráp thuộc khâu hạ nguồn, không mang tính sản

xuất, chế tạo, thiếu yếu tố năng động, sáng tạo (Lê Xuân Sang, 2011). Các DNHT giữ

các vị trí khác nhau trong chuỗi giá trị sản xuất ra sản phẩm cuối cùng.

Giá trị gia tăng

27

A

B

C

D

F

E

B: Thiết kế

A: Nghiên cứu, triển khai

D: Lắp ráp

C: Sản xuất bộ phận, linh kiện E: Khai thác thị trường, tiếp thị

F: Chiến lược thương hiệu

Hình 2.5: Chuỗi giá trị sản xuất

Nguồn: Hà Thị Hương Lan, 2014

Thứ hai, ngành công nghiệp hỗ trợ gồm nhiều lớp cung ứng

Các DNHT nằm ở các lớp khác nhau trong chuỗi giá trị sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Một sản phẩm dù đơn giản như quần, áo hay đòi hỏi công nghệ cao như ô tô, máy tính đều trải qua quá trình sản xuất gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Cùng với đó là sự phân chia khá rõ ràng trong các thành phần tham gia CNHT và xuất hiện nhà cung

cấp lớp I, lớp II, lớp III, v.v... trên cùng là nhà lắp ráp sản phẩm cuối cùng (Hà Thị Hương Lan, 2014).

28

Sản xuất lắp ráp của TĐĐQG A

Cung ứng lớp 1 (Công ty lớn)

Cung ứng lớp 1 (Công ty lớn, TĐ ĐQG)

Cung ứng lớp 2 (DNNVV)

Cung ứng lớp 2 (Công ty lớn, TĐ ĐQG)

Cung ứng lớp 3 (DNNVV)

Cung ứng lớp 3 (DNNVV)

Cung ứng lớp 3 (Công ty lớn)

Cung ứng lớp 4 (DNNVV)

Cung ứng lớp 4 (DNNVV)

Hình 2.6: Các lớp cung ứng hỗ trợ

Nguồn: Abonyi G, 2007

Trong các lớp cung ứng có thể có tới 3 - 4 lớp doanh nghiệp cung ứng hỗ trợ

hoặc nhiều lớp hơn nữa phụ thuộc vào đặc thù riêng của từng ngành công nghiệp, thị trường tiêu thụ, chuỗi giá trị sản xuất, v.v… Vì vậy, muốn phát triển ngành CNHT nội địa cần tập trung phát triển các lớp cung ứng khác nhau trong chuỗi sản xuất.

Thứ ba, ngành công nghiệp hỗ trợ có sự đa dạng về công nghệ

Sự đa dạng về công nghệ sản xuất trong ngành CNHT xuất phát từ đòi hỏi sản xuất các loại linh kiện, phụ tùng, sản phẩm trung gian phong phú để có được sản phẩm cuối cùng. Với các sản phẩm có mức độ phức tạp cao như ô tô, hàng chục nghìn linh kiện của một chiếc xe đòi hỏi vô số công nghệ, liên quan tới hầu hết các lĩnh vực sản xuất, từ sản xuất cao su, nhựa cho tới gia công cơ khí, điện tử điều khiển chính xác. Giá trị gia tăng của việc sản xuất các linh kiện, các quy trình cũng khác nhau rất nhiều. Nhiều bộ phận tinh xảo có giá trị gia tăng lớn, đòi hỏi kỹ thuật sản xuất, công nghệ rất cao như những bộ phận điều khiển, điện tử, v.v… chỉ những nhà cung cấp lớn, có trình độ công nghệ, kỹ thuật cao mới có thể đáp ứng. Ngược lại, có những chi tiết đòi hỏi kỹ thuật sản xuất không quá khó có thể mua sắm từ những nhà cung cấp cấp thấp để lắp

29

ráp thành những cụm linh kiện.

Sự đa dạng về trình độ công nghệ thể hiện ở cấp độ tham gia hệ thống cung cấp linh phụ kiện. Có thể thấy, các nhà cung cấp cấp thấp thường sở hữu công nghệ sản xuất không cao như những nhà cung cấp cấp cao. Các sản phẩm các nhà cung cấp cấp thấp thường có giá trị gia tăng không cao như các nhà cung cấp cấp cao. Xu hướng này thường thấy ở các nước đang phát triển khi những nhà sản xuất nội địa tham gia vào CNHT bằng cách trở thành những nhà cung cấp cấp thấp, tận dụng lao động rẻ và sử dụng công nghệ thấp để tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, thực tế việc sử dụng công nghệ thấp sẽ giảm làm tính cạnh tranh của sản phẩm, khó tham gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu. Bởi các sản phẩm sản xuất ra với hàm lượng công nghệ thấp, sẽ khó đáp ứng

được yêu cầu của các nhà lắp ráp FDI. Vì vậy, để phát triển ngành CNHT, thì việc đầu tư đổi mới công nghệ là điều tất yếu.

Thứ tư, ngành công nghiệp hỗ trợ cần lượng vốn lớn và đòi hỏi nguồn lao

động chất lượng cao

Theo Junichi Mori (2005), CNHT cần lượng vốn lớn hơn quá trình lắp ráp cuối cùng, với chi phí cố định cao và doanh thu tăng theo quy mô. Trong khi quá trình lắp ráp cuối cùng cần sử dụng nhiều công nhân, thì sản phẩm CNHT được sản xuất chủ yếu bằng máy móc và ít công nhân hơn. Công nhân làm việc trong các ngành CNHT là chủ yếu vận hành máy, quản lý chất lượng, kỹ thuật viên và kỹ sư. Do đặc điểm này, ngành CNHT ở các nước đang phát triển có xu hướng ít cạnh tranh. Họ thường

thiếu vốn, thiếu lao động có tay nghề cao, thiếu trình độ công nghệ để tạo ra hiệu suất cao từ các thiết bị sản xuất. Ví dụ, nhiều máy ép nhựa có giá trung bình hơn 100.000 USD và yêu cầu nhà điều hành có tay nghề cao. Các DNNVV ở các nước đang phát triển thường không có đủ vốn để mua máy móc hoặc thuê cán bộ kỹ thuật để vận hành

Vì vậy, để phát triển CNHT cần có chính sách hỗ trợ về vốn, hỗ trợ công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu cho các ngành CNHT.

Thứ năm, ngành công nghiệp hỗ trợ có thị trường rộng lớn và bao gồm

phạm vi lớn của sản xuất công nghiệp

Ngành CNHT có thị trường tiêu thụ ngày càng rộng, sản phẩm CNHT không chỉ đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp lắp ráp trong nước, các DNFDI ở nước sở tại, mà còn xuất khẩu sang các nước. Vấn đề quan trọng là các sản phẩm CNHT cần

có tính cạnh tranh đáp ứng tiêu chuẩn của các doanh nghiệp lắp ráp về chất lượng, chi phí, giao hàng (QCD),v.v… có thể tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.

30

Theo Junichi Mori (2005), ngành CNHT bao gồm một phạm vi rộng các ngành công nghiệp. Trong thực tế, các ngành công nghiệp điện tử, xe máy, ô tô đều cần các sản phẩm CNHT như nhựa, kim loại ép, và dụng cụ. Ví dụ, cả hai sản phẩm điện tử tiêu dùng và xe máy sử dụng các bộ phận bằng nhựa được sản xuất thông qua một quá

trình sản xuất tương tự gọi là ép phun. Bộ phận ép kim loại được sử dụng cho các mặt hàng điện tử, xe máy, và xe ô tô. Do đó, ngành CNHT có thể là một nguồn lực cạnh tranh cho ngành công nghiệp sản xuất khác nhau.

AV

Xe ô tô

Thiết bị nội thất

Máy tính ngoại biên

Xe máy

Các ngành công nghiệp hỗ trợ phổ biến

Các bộ phận

Cao su

Nhựa

Kim loại

Bu lông/đai ốc

Lò xo

Điện

Quy trình

Nén ép

Đổ khuôn

Đồ rèn

Đúc khuôn

Gia công cơ khí

Phủ mạ Xử lý nhiệt

Hình 2.7: Phạm vi ngành công nghiệp hỗ trợ

Nguồn: J. Mori and K. Ohno, 2005

31

Thứ sáu, ngành công nghiệp hỗ trợ thu hút số lư̛̛̛ợng lớn doanh nghiệp tham

gia, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ

CNHT là ngành sản xuất linh phụ kiện, sản phẩm trung gian phục vụ nhiều

ngành công nghiệp lắp ráp, thu hút số lượng lớn doanh nghiệp với quy mô khác nhau

tham gia; trong đó chủ yếu là các DNNVV. Do tính chất đa cấp và phát triển theo hình

tháp, việc đòi hỏi số lượng doanh nghiệp ở cấp thấp rất lớn, đa phần doanh nghiệp ở

cấp này là DNNVV. Do vậy phát triển CNHT là cơ hội để phát triển các DNNVV tại

các nước đang phát triển, duy trì công ăn việc làm, tạo điều kiện tham gia chuỗi giá trị

sản phẩm toàn cầu.

Đặc thù của ngành sản xuất sản phẩm CNHT đòi hỏi lượng vốn lớn và công nghệ

hiện đại để đầu tư sản xuất, trong khi đó các DNNVV đa phần là các doanh nghiệp có

quy mô hạn chế, thiếu vốn, thiếu công nghệ, v.v… Do vậy, để phát triển CNHT với sự tham gia của nhiều DNNVV, nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích mạnh mẽ.

2.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển công nghiệp hỗ trợ

Vai trò quan trọng của CNHT cho thấy sự phát triển của CNHT không chỉ là

giải pháp quan trọng thu hút FDI mà còn là cơ hội để các nước đang phát triển có thể

thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế. Sự phát triển của CNHT

có thể được hiểu trên những giác độ khác nhau tùy theo các quan điểm và tiếp cận

khác nhau.

Trên giác độ các nhà đầu tư nước ngoài, phát triển của CNHT là sự đáp ứng đầy

đủ các điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh của các DNFDI (đầu vào

nguyên nhiên vật liệu, chất lượng sản phẩm, giá thành, thời gian giao hàng, nguồn

nhân lực, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội, v.v...). Theo quan điểm của các nhà nghiên

cứu, phát triển CNHT là sự gia tăng về số lượng các doanh nghiệp kèm theo sự cải

thiện về năng lực cung ứng của DNHT. Sự cải thiện về năng lực của DNHT chính là

sự cải thiện về chất lượng của ngành CNHT, được thể hiện ở năng lực sản xuất, năng

lực tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu. Ngoài ra, sự phát triển CNHT còn thể

hiện ở cơ cấu sản phẩm CNHT.

Trên cơ sở những quan điểm nêu trên, các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của

CNHT có thể chia thành 3 nhóm: (1) Nhóm các chỉ tiêu phát triển về quy mô; (2)

nhóm các chỉ tiêu phát triển về chất lượng; (3) Nhóm chỉ tiêu phát triển về cơ cấu; Cụ

thể như sau:

32

2.1.4.1. Nhóm chỉ tiêu phát triển về quy mô ngành công nghiệp hỗ trợ

a. Giá trị sản xuất công nghiệp

Khi đánh giá sự phát triển của ngành CNHT cần dựa vào chỉ tiêu giá trị sản

xuất công nghiệp (GTSXCN) cho ngành CNHT nói chung và từng lĩnh vực CNHT cụ

thể. Đây là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ giá trị sản phẩm của ngành và lĩnh vực CNHT

được sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định. Thống kê chỉ tiêu GTSXCN nhằm mục

đích tổng hợp, đánh giá kết quả sản xuất của lĩnh vực CNHT, là căn cứ để tính chỉ tiêu

giá trị tăng thêm và tốc độ tăng, giảm giá trị sản xuất của ngành và lĩnh vực CNHT. Từ

đó đánh giá được mức độ phát triển của ngành CNHT.

b. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ

Mức độ phát triển của ngành CNHT có thể được đánh giá bằng số lượng các

doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất trong lĩnh vực CNHT. Thực tế cho thấy, ngành

CNHT sẽ phát triển nếu có nhiều doanh nghiệp sản xuất tham gia. Tuy nhiên, chỉ tiêu

này chỉ được sử dụng khi xác định được phạm vi của CNHT và tiêu chí DNHT là các

doanh nghiệp có hoạt động sản xuất. Trên thực tế có nhiều doanh nghiệp hoạt động ở cả lĩnh vực thương mại và sản xuất.

Bên cạnh chỉ tiêu về số lượng DNHT tuyệt đối, cần xem xét thêm cả chỉ tiêu tương đối trong tương quan so sánh với số lượng doanh nghiệp công nghiệp chính. Một doanh nghiệp công nghiệp chính cần có nhiều DNHT tham gia cung ứng sản phẩm đầu vào. Như vậy, ngành CNHT phát triển khi tỷ lệ số DNHT/ tổng số doanh nghiệp chính là lớn (Hoàng Văn Châu, 2010).

c. Quy mô doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

Ngoài chỉ tiêu về GTSXCN, số lượng doanh nghiệp CNHT, cần xem xét thêm chỉ tiêu quy mô doanh nghiệp tham gia CNHT. Bởi hoạt động trong lĩnh vực CNHT, chủ yếu là các DNNVV, với quy mô hoạt động khác nhau. Quy mô doanh nghiệp

được đánh giá qua các tiêu chí gồm: (1) Số lượng lao động trung bình; (2) Số vốn trung bình; (3) Doanh thu trung bình của DNHT.

Tuy nhiên, khi đánh giá mức độ phát triển CNHT thông qua các tiêu chí này, cần chú ý rằng không phải lúc nào quy mô doanh nghiệp lớn thì mức độ phát triển doanh nghiệp cũng cao. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những ưu điểm riêng, và thích hợp với từng lĩnh vực sản xuất CNHT (Hoàng Văn Châu, 2010).

33

2.1.4.2. Nhóm chỉ tiêu phát triển về chất lượng

a. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

Để đánh giá về mức độ phát triển của ngành CNHT, thì trình độ công nghệ là một tiêu chí đặc biệt quan trọng. Theo tiêu chuẩn sản xuất hiện đại (Ohno, 2007),

ngành CNHT cạnh tranh cần đáp ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng, giá cả và thời gian giao hàng (QCD), v.v…Với trình độ công nghệ hiện đại, DNHT có thể sản xuất được những sản phẩm chất lượng tốt, giá thành cạnh tranh, đảm bảo tiến độ giao hàng,

đáp ứng yêu cầu của các ngành công nghiệp chính. Trình độ công nghệ hiện đại, cũng giúp các DNHT sẵn sàng đáp ứng nhanh chóng yêu cầu khi có sự thay đổi. Bên cạnh đó, trong điều kiện toàn cầu hóa, trình độ công nghệ hiện đại sẽ giúp cho DNHT có thể sản xuất sản phẩm xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

b. Tiêu chuẩn chất lượng

Khi lựa chọn nhà cung cấp, các DNFDI đặc biệt quan tâm đến khả năng đáp

ứng tiêu chuẩn quốc tế của sản phẩm. Ngành CNHT được đánh giá là phát triển khi

sản phẩm CNHT đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, việc áp dụng các tiêu

chuẩn, phương pháp quản lý chất lượng hiện đại là một yêu cầu tất yếu khi các doanh

nghiệp CNHT muốn trở thành nhà cung cấp linh kiện cho các DNFDI. Một số tiêu

chuẩn thường được áp dụng như: (1). Phương pháp quản lý (5S, LEAN, v.v…); (2)

Quản lý năng lượng (I80, 50001); (3) Trách nhiệm xã hội (SA 8000); (4) An toàn nghề

nghiệp (OHSAS, 8001); (5) Môi trường (ISO 14000, 14001); (6) Quản lý chất lượng

(ISO 9000/ ISO 9001); v.v…

c. Mối quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp

Trong mạng lưới cung ứng sản phẩm gồm nhiều lớp, DNHT cần có mối quan

hệ chặt chẽ, không chỉ với các doanh nghiệp lắp ráp (khách hàng) mà còn với các DNHT lớp dưới (nhà cung cấp lớp 2, 3, v.v…). Mối quan hệ này càng chặt chẽ thể hiện sự phát triển của ngành CNHT, tạo điều kiện cho các hiệu ứng lan tỏa theo chiều dọc (vertical spillover effect). Để đánh giá mối quan hệ này, có thể sử dụng các chỉ

tiêu sau (Hoàng Văn Châu, 2010):

(1). Hình thức hợp đồng: Hợp đồng được ký kết với khách hàng và nhà cung cấp thường là những hợp đồng dài hạn hay ngắn hạn? Hợp đồng dài hạn sẽ là cơ sở cho các doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất để đáp ứng yêu cầu mà không lo ngại nhiều về biến động của thị trường.

34

(2) Mức độ chủ động trong việc sử dụng các công cụ marketing: Việc chủ động sử dụng các công cụ Marketing giúp DNHT nắm bắt tốt hơn nhu cầu thị trường, tăng khả năng kết nối và tìm kiếm khách hàng.

d. Khả năng cung ứng của ngành công nghiệp hỗ trợ

Khả năng cung ứng của ngành CNHT vào là tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của ngành CNHT. Các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh có thể sử dụng các nguồn cung cấp đầu vào sau:

(i) Nguồn nội bộ doanh nghiệp (in-house): sử dụng linh kiện do doanh nghiệp tự sản xuất, chỉ tiêu này thể hiện năng lực sản xuất, mức độ chủ động của doanh

nghiệp. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ chỉ tiêu này quá cao cho thấy sự thiếu chuyên môn hoá trong sản xuất.

(ii) Nguồn nhập khẩu (import). Doanh nghiệp phải nhập khẩu linh kiện, phụ tùng từ nước ngoài. Tỷ lệ nhập khẩu quá cao thể hiện mức độ yếu kém trong lĩnh vực CNHT nội địa. Xu thế toàn cầu hoá, đòi hỏi sự chuyên môn hoá, mỗi quốc gia cần tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, để nhập khẩu những đầu vào mình không có lợi

thế và xuất khẩu những đầu vào mình có lợi thế. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ nhập khẩu linh phụ kiện quá lớn, phản ánh mức độ kém phát triển của ngành CNHT nội địa.

(iii) Nguồn nội địa (domestic): Doanh nghiệp sử dụng đầu vào được mua từ nhà cung cấp CNHT trong nước. Nguồn nội địa gồm những sản phẩm linh kiện, phụ tùng, sản phẩm đầu vào được cung cấp bởi các DNFDI và doanh nghiệp nội địa. Nếu tỷ lệ

sản phẩm CNHT được cung cấp phần lớn bởi các DNFDI thể hiện sự phụ thuộc lớn vào DNFDI. Khi nào tỷ lệ sản phẩm CNHT được cung ứng chủ yếu bởi các doanh nghiệp nội địa, khi đó ngành CNHT nội địa được coi là phát triển.

2.1.4.3. Nhóm chỉ tiêu phát triển về cơ cấu

a. Cơ cấu sản phẩm CNHT theo chuỗi giá trị

Đặc điểm của CNHT cho thấy, CNHT là một công đoạn trong chuỗi giá trị tạo

ra một sản phẩm hoàn chỉnh. Mỗi ngành công nghiệp trong chuỗi giá trị có thể chia

thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn gồm các công đoạn nghiên cứu - triển khai,

thiết kế, sản xuất các bộ phận linh kiện chính; trung nguồn gồm tiếp thị, xây dựng

mạng lưới lưu thông, khai thác và tiếp cận thị trường; hạ nguồn gồm công đoạn lắp

ráp, gia công (Hình 2.6). Ngành CNHT sản xuất ra bộ phận, linh kiện chính là mắt

xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra giá trị gia tăng lớn.

Ngành CNHT nội địa được đánh giá là phát triển khi đủ khả năng cung ứng bộ

35

phận, linh kiện chính cho ngành công nghiệp lắp ráp, tham gia vào chuỗi giá trị sản

xuất ở giai đoạn thượng nguồn, đóng góp giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế.

b. Cơ cấu CNHT theo ngành

Với cách tiếp cận sản phẩm CNHT theo ngành công nghiệp chính, thì ngành

CNHT có thể bao gồm:

- CNHT ngành dệt may

- CNHT ngành da giầy

- CNHT ngành điện tử

- CNHT ngành sản xuất lắp ráp ô tô

- CNHT ngành cơ khí chế tạo

- CNHT công nghiệp công nghệ cao

Ngành CNHT nội địa được đánh giá là phát triển, khi tỷ lệ cung ứng sản phẩm

hỗ trợ cho các ngành công nghiệp chính là lớn.

Để nghiên cứu ảnh hưởng của CNHT đến khả năng thu hút FDI, phần tiếp theo

của luận án sẽ khái quát cơ sở lý luận về FDI.

2.2. Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài

2.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài

Khái niệm của IMF (1993), “FDI là loại hình đầu tư quốc tế trong đó một chủ thể kinh tế thuộc một nền kinh tế thu được lợi ích lâu dài từ một chủ thể kinh tế thuộc một nền kinh tế khác”. Đầu tư trực tiếp bao hàm mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp, và một mức độ ảnh hưởng nhất định của nhà đầu tư đối với công tác quản trị hoạt động tại doanh nghiệp nhận khoản vốn đầu tư. Nhà đầu tư FDI cần nắm giữ tối thiểu 10% cổ phần hoặc quyền biểu quyết trong doanh nghiệp, nhằm đảm bảo tính bền vững của FDI.

Khái niệm của OECD (1996): “FDI là hình thức đầu tư được thực hiện nhằm thu lợi ích lâu dài của một chủ thể đầu tư ở một quốc gia (nhà đầu tư trực tiếp) vào

một chủ thể kinh tế ở một quốc gia khác (doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp)”. Lợi ích lâu dài bao gồm sự tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp tiếp nhận vốn, và một mức độ ảnh hưởng nhất định của mối quan hệ này lên việc quản trị hoạt động doanh nghiệp.

Khái niệm của OECD về cơ bản cũng giống như khái niệm của IMF đó là nhà

36

đầu tư trực tiếp cần nắm từ 10% cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết trở lên, thiết lập các mối quan hệ lâu dài và tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ ra cụ thể hơn các cách thức để nhà đầu tư tạo ảnh hưởng đối với hoạt động quản lý doanh nghiệp, đó là: Hoặc thành lập hoặc mở rộng một doanh

nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư (GI) 100%; hoặc Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có (M&A) 100% Hoặc Tham gia vào một doanh nghiệp mới (liên doanh) OR=10% Cấp tín dụng dài hạn (> 5 năm): hoạt động cấp tín

dụng của công ty mẹ dành cho công ty con với thời hạn lớn hơn 5 năm cũng được coi là hoạt động FDI.

Khái niệm của UNCTAD (2012): “FDI là việc đầu tư dài hạn gắn liến với lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một chủ thể đầu tư ở một quốc gia này (nhà đầu tư trực tiếp) vào một công ty ở một quốc gia khác”. Khác với IMF, UNCTAD không sử dụng

tỷ lệ vốn cổ phần tối thiểu để phân loại vốn FDI, họ xác định dựa trên mục tiêu của khoản đầu tư. Theo UNCTAD cần đánh giá cẩn thận các khoản đầu tư có kỳ hạn ngắn trong cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời phân loại các khoản vốn đầu tư trực tiếp trong giao dịch thương mại dựa vào thực tiễn của từng nước, tránh việc

mâu thuẫn khi so sánh vốn đầu tư trực tiếp của các quốc gia.

2.2.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Dựa vào khái niệm của đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể thấy đầu tư trực tiếp

nước ngoài có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, FDI là hình thức đầu tư dài hạn, trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, đối với các nước tiếp nhận FDI thì đây là nguồn vốn dài hạn, ổn định bổ sung cho phát triển kinh tế, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. FDI là hình thức đầu tư gắn liền với việc xây dựng nhà xưởng, chi nhánh sản xuất, đầu tư máy móc, thiết bị, v.v…; Khác với hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài

(FII) - nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư đến các nước khác nhưng không nắm quyền quản lý, điều hành thông qua các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, v.v… Do tính chất trực tiếp của hình thức đầu tư này nên vốn FDI ít chịu sự chi phối,

ràng buộc của chính phủ so với các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài khác, lĩnh vực mà vốn FDI thường hướng tới là những lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ hai, mục tiêu của FDI là tìm kiếm chi phí đầu vào giá rẻ, nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Ngoài lao động giá rẻ, ưu đãi thuế, v.v… thì nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, sự phát triển của ngành CNHT tại nước sở tại là một trong những yếu tố tạo nên tính

cạnh tranh trong thu hút FDI. Các DNFDI luôn ưu tiên lựa chọn những quốc gia có

37

ngành CNHT phát triển, cung cấp được các sản phẩm linh kiện, phụ tùng đáp ứng tiêu chuẩn cạnh tranh (QCD - chất lượng, giá cả và thời gian giao hàng). Việc mua sắm linh kiện, phụ tùng từ nhà cung cấp địa phương sẽ giúp các doanh nghiệp FDI giảm được chi phí đầu vào, nhằm tối đa hoá lợi nhuận.

Thứ ba, FDI thường đi kèm với chuyển giao công nghệ cho quốc gia tiếp nhận vốn. Khi tiến hành đầu tư, ngoài vốn bằng tiền và các tài sản hữu hình khác như máy móc, thiết bị, v.v… thì nhà đầu tư FDI còn mang cả công nghệ, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, kinh nghiệm hay kỹ năng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh đến nước tiếp nhận vốn đầu tư. Đây cũng là điều các nước tiếp nhận vốn mong muốn khi thúc

đẩy thu hút FDI, đặc biệt ở những quốc gia đang và kém phát triển. Thu hút FDI là điều kiện để nâng cao trình độ công nghệ, đào tạo nguồn lao động chất lượng cao và nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh. Theo Mori (2005), sự phát triển của

ngành CNHT nội địa là yếu tố khuyếch đại những tác động tích cực của chuyển giao công nghệ.

Thứ tư, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia (bên đầu tư và bên tiếp nhận vốn đầu tư) phụ thuộc vào tỷ lệ % vốn góp, cùng với đó thì lợi nhuận và rủi ro nếu có xảy ra cũng sẽ được san sẻ giữa các bên. Tuy nhiên, nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức bỏ vốn 100%, thì mình họ có quyền quản lý và điều hành DNFDI. Nếu đầu tư theo

hình thức liên doanh, liên kết thì chủ đầu tư nước ngoài có quyền tham gia theo tỷ lệ % vốn góp của họ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp nhà đầu tư nước ngoài vẫn có mức độ quyết định lớn hơn nhà đầu tư trong nước, mặc dù tỷ lệ vốn góp nhỏ hơn.

Thứ năm, FDI không tạo ràng buộc về chính trị, quân sự, không tạo ra gánh nặng nợ cho nước tiếp nhận vốn. Khác với các nguồn vốn nước ngoài khác như ODA, vốn vay thương mại hay vốn từ thị trường vốn quốc tế, v.v… FDI là hình thức đầu tư được thực hiện bằng vốn tư nhân, với mục đích chính là tìm kiếm lợi nhuận, nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của DNFDI tại

nước tiếp nhận vốn. Vì vậy, dòng vốn FDI ít bị phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai nước. Đặc biệt, FDI là khoản đầu tư, vì vậy không tạo ra gánh nặng nợ cho quốc gia tiếp nhận vốn. Tuy vậy, nếu quá phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài, quốc gia tiếp nhận vốn có khả năng phải đối mặt với rủi ro lớn, đặc biệt khi có sự rút vốn

của các nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ sáu, các doanh nghiệp FDI luôn có ý đồ chuyển giá. Có nhiều hình thức chuyển giá khác nhau như: tăng chi phí đầu vào; hạ giá bán sản phẩm; nâng khống giá trị tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong quá trình góp vốn liên doanh, liên kết; cơ chế giá cung cấp dịch vụ; hợp đồng độc quyền về nhập khẩu, phân phối hàng hóa;

38

v.v… Tuy nhiên, một trong những hình thức chuyển giá phổ biến nhất là tăng chi phí đầu vào nhằm tối thiểu nghĩa vụ nộp thuế. Hình thức này được thực hiện bằng các hợp đồng xuất nhập khẩu giữa công ty mẹ con ở các quốc gia khác nhau. Nếu áp dụng hình thức chuyển giá này, các doanh nghiệp FDI có xu hướng hạn chế mua linh kiện, phụ

tùng tại nước sở tại; mà chủ yếu nhập khẩu từ các công ty con ở các quốc gia khác để có thể tăng chi phí đầu vào. Điều đó, có khả năng sẽ hạn chế sự phát triển của ngành CNHT ở nước tiếp nhận vốn.

2.2.3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Tác động của FDI được ghi nhận bao gồm cả tác động đối với các nước xuất khẩu vốn (Home countries) và các nước nhập khẩu vốn (Host countries). Đồng thời, các tác động này cũng bao gồm cả tác động tích cực và tác động tiêu cực đối với các

nhóm nước tương ứng nêu trên. Tuy nhiên, trong phạm vi và theo mục đích nghiên cứu của luận án là thu hút FDI, sau đây luận án chỉ thảo luận tác động đến nước tiếp nhận vốn FDI. Một số tác động tích cực và tiêu cực của FDI đối với các nước tiếp

nhận vốn có thể được khái quát như sau:

a. Tác động tích cực

- Góp phần bổ sung vốn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo lý thuyết “vòng luẩn quẩn của sự chậm tiến và cú huých từ bên ngoài” của Paul Samuelson, có bốn nhân tố

ảnh hưởng tới tăng trưởng và phát triển kinh tế là: nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cấu thành tư bản và kỹ thuật công nghệ. Ở các nước đang phát triển cả bốn nhân tố đó hầu như đều khan hiếm, vì vậy các nước đang phát triển đều vướng phải cái “vòng luẩn quẩn” của sự đói nghèo. Để phá vỡ cái “vòng luẩn quẩn” cần thiết phải có một

“cú huých” từ bên ngoài. Trong cái “vòng luẩn quẩn” của sự nghèo đói đó, vấn đề cơ bản nhất là thiếu vốn. Vì thế, mở cửa thu hút FDI là “cú huých” giúp các nước đang phát triển phá vỡ được vòng luẩn quẩn để có thể “cất cánh”.

- Chuyển giao công nghệ: FDI là nguồn quan trọng để nâng cao trình độ công nghệ của nước tiếp nhận vốn. Cùng với bổ sung về vốn, các dự án FDI còn mang đến

công nghệ mới, máy móc, thiết bị hiện đại, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý. Thông qua quá trình chuyển giao công nghệ giúp phát triển trình độ công nghệ ở nước tiếp nhận vốn. Đây luôn là những mục tiêu quan trong thu hút FDI của các nước đang phát triển. Quá trình chuyển giao công nghệ có thể thực hiện dưới các hình thức chuyển

giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của một MNC và chuyển giao giữa các chi nhánh của các MNC. Bên cạnh việc chuyển giao các công nghệ sẵn có, FDI còn nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển của nước tiếp nhận vốn.

39

- Phát triển nguồn nhân lực và tạo công ăn việc làm: Cùng với quá trình chuyển giao công nghệ, các dự án FDI còn giúp nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý, v.v… cho lực lượng lao động ở nước tiếp nhập vốn để có thể vận hành được hệ thống máy móc, thiết bị hiện đại. Hơn thế nữa, mục tiêu của FDI là tối đa hoá lợi

nhuận, vì thế họ đặc biệt quan tâm đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các nước tiếp nhận vốn đầu tư. Số lao động trực tiếp làm việc trong các DNFDI ngày càng tăng nhanh ở các nước đang phát triển. Ngoài ra, các hoạt động cung ứng dịch vụ và gia

công cho các dự án FDI cũng tạo ra thêm nhiều cơ hội việc làm. Bên cạnh đó, FDI cũng có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân lực của nước tiếp nhận vốn thông qua các dự án đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đào tạo.

- Giúp mở rộng thị trường và thúc đẩy xuất khẩu: Các DNFDI đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu ở các nước đang phát triển, do khả năng cạnh tranh của sản phẩm và uy tín trong hệ thống sản xuất và thương mại quốc tế. Vì vậy, thu hút FDI hướng vào xuất khẩu luôn là mục tiêu của nhiều quốc gia. Đối với các DNFDI xuất khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho họ thông qua sử dụng các yếu tố đầu

vào rẻ, khai thác được hiệu quả theo quy mô sản xuất và thực hiện chuyên môn hoá sâu từng chi tiết sản phẩm ở những nơi có lợi thế nhất, sau đó lắp ráp thành phẩm.

- FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Nguồn vốn FDI góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước tiếp nhận vốn, bởi FDI làm xuất

hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh tế mới và góp phần nâng cao nhanh chóng trình độ kỹ thuật và công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, phát triển năng suất lao động của các ngành này. Mặt khác, dưới tác động của FDI, một số ngành nghề được kích thích phát triển, nhưng cũng có một số ngành nghề bị mai một và dần bị xoá bỏ.

b. Tác động tiêu cực

Bên cạnh những tác động tích cực được kể đến ở trên, dòng vốn FDI cũng bộc

lộ nhiều tác động tiêu cực đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư.

- FDI gây ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên. Đặc điểm của FDI cho thấy, đi kèm với dòng vốn FDI là việc chuyển giao công nghệ, tạo hiệu ứng lan toả. Tuy nhiên, ở những quốc gia đang phát triển, chất lượng chuyển giao công nghệ của các dự án FDI rất thấp. Họ thường mang công nghệ cũ, lạc hậu, thậm chí nhiều máy móc thiết

bị đã khấu hao hết, biến các nước tiếp nhận vốn trở thành “bãi rác công nghệ” của họ. Không những thế, công nghệ, máy móc, thiết bị còn gây ô nhiễm môi trường, phá huỷ hệ sinh thái, cạn kiệt nguồn tài nguyên ở nước tiếp nhận vốn.

- FDI có thể gây mất thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế. Các DNFDI khi đầu

40

tư sản xuất tại một quốc gia họ có thể lựa chọn các nhà cung cấp nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng ở trong nước hoặc nhập khẩu từ các quốc gia khác. Sản phẩm sau khi sản xuất cũng có thể được tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu. Nếu giá trị kim ngạch nhập khẩu của các DNFDI quá cao so với kim ngạch xuất khẩu sẽ khiến cán cân thanh toán quốc tế có xu hướng trở nên thâm hụt, gây bất ổn đến nền kinh tế.

- FDI có thể gây mất cân đối trong phát triển kinh tế giữa các vùng. Dòng vốn FDI thường chỉ tập trung ở một số vùng kinh tế phát triển, cơ sở hạ tầng hoàn thiện,

giao thông thuận tiện, v.v… Những vùng kinh tế chậm phát triển, vùng sâu, vùng xa, cơ sở hạ tầng kém phát triển hầu như rất khó để thu hút FDI. Vì vậy, dòng vốn FDI có thể tạo ra sự chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa các địa phương và vùng kinh tế.

- FDI có thể gây cản trở sự phát triển của doanh nghiệp nội địa. Nguồn vốn FDI luôn được xác định là đóng vai trò quan trọng đối với các quốc gia tiếp nhận. Vì vậy, để tăng cường thu hút FDI, Chính phủ các nước luôn có chính sách ưu đãi đặc biệt cho các DNFDI về thuế quan, về cơ sở hạ tầng, về thủ tục hành chính, v.v… Trong khi các doanh nghiệp nội địa không nhận được những ưu đãi này. Cùng với đó là ưu thế về

vốn, trình độ công nghệ, kỹ năng quản lý, các DNFDI dần trở thành đối thủ cạnh tranh, gây cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp nội địa. Và cuối cùng nhiều doanh nghiệp nội địa bị phá sản hoặc bị thâu tóm, sáp nhập.

- FDI là yếu tố gây rủi ro đối với những nền kinh tế bị phụ thuộc quá nhiều. Với những nền kinh tế phụ thuộc quá lớn vào vốn FDI cho phát triển kinh tế xã hội, sẽ có nguy cơ đối mặt với rủi ro rất lớn, đặc biệt khi có hiện tượng giảm vốn, rút vốn. Bên cạnh đó, một số dự án còn có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế, gây thất thu cho nước

tiếp nhận vốn.

Từ những phân tích trên, có thể thấy FDI có vai trò quan trọng đối với nước tiếp nhận vốn. Vì vậy, cần có những biện pháp đẩy mạnh thu hút FDI, tuy nhiên cần có sự chọn lọc để hạn chế những tác động tiêu cực của dòng vốn FDI.

2.3. Ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

2.3.1. Cơ sở lý thuyết về ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI được đề cập trong các lý thuyết sau:

Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh

Trong cuốn sách Lợi thế cạnh tranh quốc gia (1990), M.Porter đã xây dựng mô hình Kim cương gồm bốn nhân tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh

41

Cơ hội

Chiến lược vững chắc, cấu trúc và cạnh tranh

Điều kiện yếu tố

Điều kiện yêu cầu

Chính phủ

của một quốc gia hay một ngành, đó là: (i) điều kiện cầu; (ii) điều kiện yếu tố sản xuất; (ii) chiến lược, cấu trúc và đối thủ của công ty; (iv) các ngành CNHT và liên quan.

Những ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan

Hình 2.8: Mô hình Kim cương

Nguồn: Porter, 1990

Như vậy, các ngành CNHT và liên quan là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới lợi thế cạnh tranh quốc gia. Porter đề cao vai trò của các ngành CNHT, coi đó là

động lực thúc đẩy phát triển và là nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh của quốc gia. CNHT là những ngành mà các công ty có thể phối hợp hoặc chia sẻ hoạt động trong chuỗi giá trị của ngành, có các sản phẩm bổ sung hay chuyển giao kỹ năng độc quyền

từ ngành này sang ngành khác (Porter, 2008). Ngày nay, việc cạnh tranh giữa các nền kinh tế đang phát triển để thu hút FDI đã dẫn đến một cuộc chạy đua về ưu đãi đầu tư, trong đó các ngành CNHT tự nó đã trở thành sự khích lệ quan trọng cho sự thu hút đầu tư nước ngoài. Trong sự phát triển lâu dài của các nền kinh tế đang phát triển, xây dựng

CNHT là một bước quan trọng trong việc xây dựng các ngành công nghiệp chính.

Lý thuyết chiết trung hay mô hình OLI: Lý thuyết chiết trung của Dunning (1973) được cho là kế thừa tất cả những ưu điểm của các nghiên cứu trước về FDI,

theo Dunning, FDI được thực hiện hiệu quả khi cả ba điều kiện sau được thoả mãn:

(1) Lợi thế về sở hữu (Ownership advantages - O): gồm các lợi thế như công

nghệ độc quyền, tính kinh tế nhờ quy mô, kỹ năng quản lý, uy tín,v.v…

42

(2) Lợi thế về khu vực (Locational advantages - L): gồm các lợi thế ở địa điểm nhận đầu tư như tài nguyên, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, chính sách của Chính phủ, giá cả các yếu tố đầu vào (chi phí lao động, chi phí vận tải, chi phí linh kiện, phụ tùng…) ưu đãi thuế,v.v…

(3) Lợi thế về nội hoá (Internalisation advantages – I): gồm giảm chi phí ký kết, kiểm soát và thực hiện hợp đồng; tránh được sự thiếu thông tin dẫn đến chi phí cao cho các công ty; tránh được chi phí thực hiện các bản quyền phát minh, sáng chế,v.v…

Lý thuyết chiết trung cho rằng: đối với dòng vốn FDI, những nhân tố “đẩy” bắt nguồn từ lợi thế O và I, còn lợi thế L tạo ra nhân tố “kéo” đối với FDI. Những lợi thế này không cố định mà biến đổi theo thời gian, không gian và sự phát triển nên luồng vào FDI ở từng nước, từng khu vực, từng thời kỳ khác nhau. Sự khác nhau này còn bắt

nguồn từ việc các nước này đang ở bước nào của quá trình phát triển (Dunning, 1979).

Trong khi đó theo MTEI (1985) thì CNHT được nhắc đến để chỉ các DNNVV đóng góp cho sự phát triển về cơ sở hạ tầng công nghiệp. Kế thừa quan điểm trên, tác

giả Đỗ Mạnh Hồng (2008) cũng khẳng định CNHT đóng vai trò như cơ sở hạ tầng cho quá trình lắp ráp trong các ngành công nghiệp, CNHT cung cấp những phụ tùng cần thiết và các bộ phận cho những người thợ lắp ráp. Như vậy có thể thấy CNPT được coi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, là một trong những nhân tố thuộc lợi thế L tạo ra nhân

tố “kéo” đối với FDI.

Lý thuyết về các bước phát triển của đầu tư (Investment Development Path - IDP). Theo lý thuyết này, quá trình phát triển của các nước được chia ra thành 5 giai đoạn (Dunning, 1981):

Giai đoạn 1: lợi thế L của một nước kém hấp dẫn, dòng FDI vào hạn chế do sự kém hấp dẫn của thị trường trong nước: thu nhập thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu, CNHT kém phát triển, trình độ lao động thấp, v.v…

Giai đoạn 2: dòng FDI vào bắt đầu tăng lên do lợi thế L đã hấp dẫn các nhà đầu tư hơn: cơ sở hạ tầng đã được cải thiện, CNHT bắt đầu phát triển, trình độ lao động tăng lên, v.v … FDI giai đoạn này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất để thay thế nhập

khẩu, và những ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc sản xuất sản phẩm CNHT, nguyên vật liệu, sản phẩm sơ chế.

Giai đoạn 3: dòng FDI vào bắt đầu giảm và dòng FDI ra bắt đầu tăng. Ở giai đoạn này, trình độ kỹ thuật của nước sở tại đã tiến tới sản xuất sản phẩm được tiêu

chuẩn hoá. Mặt khác lợi thế về lao động giảm dần, nên phải chuyển đầu tư sang những nước có lợi thế tương đương đối về lao động nhằm tìm kiếm thị trường hoặc giành

43

những tài sản chiến lược để bảo vệ lợi thế O. Trong giai đoạn này, luồng vào của FDI tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu có hiệu quả, ví dụ như sản phẩm CNHT.

Giai đoạn 4: lợi thế O của các công ty trong nước tăng lên. Những công nghệ sử dụng nhiều lao động dần dần được thay thế bởi công nghệ sử dụng nhiều vốn. Mặt

khác chi phí vốn trở nên rẻ hơn chi phí lao động. Kết quả là, lợi thế L của đất nước sẽ chuyển sang các tài sản. FDI từ các nước đang phát triển ở bước 4 sẽ vào nước này để tìm kiếm những tài sản trên hoặc từ các nước kém phát triển hơn nhằm tìm kiếm thị

trường và đặt quan hệ thương mại. Trong bước này các công ty trong nước vẫn thích thực hiện FDI ra nước ngoài hơn là xuất khẩu sản phẩm, bởi vì họ có thể khai thác lợi thế I của mình.

Giai đoạn 5: luồng ra và luồng vào của FDI tiếp tục và khối lượng tương tự nhau. Luồng vào từ các nước có mức độ phát triển thấp hơn với mục đích tìm kiếm thị trường và kiến thức; hoặc từ các nước đang phát triển ở bước 4 và 5 để tìm kiếm sản xuất có hiệu quả. Do vậy luồng ra và luồng vào là tương tự.

Mô hình OLI giải thích hiện tượng FDI theo trạng thái tĩnh, trong khi lý thuyết IDP lại xem xét hiện tượng FDI trong trạng thái động với sự thay đổi các lợi thế này trong từng bước phát triển. Do vậy, lý thuyết này cùng với mô hình OLI là thích hợp nhất để giải thích quá trình thu hút FDI.

2.3.2. Ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Trên giác độ lý thuyết và thực tế, sự phát triển của CNHT có vai trò quan trọng trong việc thu hút FDI vào các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển.

Theo tác giả Đỗ Mạnh Hồng (2004), phát triển CNHT là chìa khoá thu hút FDI vào các nước đang phát triển. CNHT kém phát triển sẽ làm cho các DNFDI gồm doanh nghiệp lắp ráp và các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cuối cùng phải phụ thuộc vào linh kiện, phụ tùng nhập khẩu. Việc phụ thuộc vào sản phẩm nhập khẩu

sẽ khiến các DNFDI phải tăng chi phí đầu vào (bao gồm các chi phí lưu kho, bảo hiểm, chuyên chở, v.v….), đồng thời phải đối mặt với những rủi ro về tiến độ, thời gian giao hàng, chất lượng hàng, v.v… Các DNFDI cũng gặp khó khăn trong

việc quản lý chuỗi cung ứng nếu phải nhập khẩu phần lớn linh kiện, bộ phận và các sản phẩm CNHT khác (Phạm Thu Phương, 2003). CNHT kém phát triển cũng làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn, do tỷ lệ chi phí về linh phụ kiện cao hơn nhiều so với chi phí lao động. Do đó, sự phát triển của ngành CNHT, đáp ứng nhu

cầu của các doanh nghiệp lắp ráp là một trong những nhân tố tác động thúc đẩy dòng vốn FDI.

44

Thực tế, cả DNFDI và doanh nghiệp trong nước đều tham gia vào CNHT. Nếu nhìn một cách thực tế hơn thì việc nội địa hoá sản xuất linh phụ kiện cần phải bắt đầu từ việc thu hút các nhà cung cấp linh phụ kiện FDI, sau đó nâng cao dần năng lực của các nhà cung cấp linh phụ kiện trong nước. Thực tế, các DNFDI sẽ đóng vai trò chính

và chiếm tỷ trọng lớn các sản phẩm CNHT vào giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá (K.Ohno, 2007). Như vậy có thể thấy, mối quan hệ gữa CNHT và FDI là mối quan hệ hai chiều. Không phải CNHT phát triển rồi mới thu hút FDI, mà

nhiều quốc gia, nhiều trường hợp FDI đi trước để đầu tư phát triển CNHT.

Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, chỉ tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI. Cụ thể, ngành CNHT có thể ảnh hưởng đến thu hút FDI theo các nội dung sau:

2.3.2.1. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến quy mô FDI

Theo Junichi Mori (2005), các ngành CNHT trong nước đang gia tăng tầm quan trọng như là một yếu tố để thúc đẩy việc thu hút FDI, bên cạnh những yếu tố quan

trọng khác quyết định đến dòng vốn FDI như chi phí lao động, quy mô thị trường trong nước, và sự ổn định chính trị, v.v… Từ những năm 1990, với sự phát triển của chuỗi giá trị toàn cầu, các MNC đã lựa chọn địa điểm đầu tư có lợi thế về chi phí nhân công, đầu vào sản xuất (linh kiện, phụ tùng) những yếu tố giúp họ có thể cạnh tranh

được về giá và chất lượng, thời gian giao hàng. Nếu nước tiếp nhận FDI có ngành CNHT kém phát triển thì sẽ làm cho các doanh nghiệp FDI sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh phải phụ thuộc nhiều vào các linh kiện, phụ tùng nhập khẩu. Vì vậy, nền

kinh tế với các ngành CNHT cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu cho các MNC là một trong các nhân tố tác động đến thu hút dòng vốn FDI cả về quy mô và số lượng dự án.

Theo tiêu chuẩn sản xuất của Nhật Bản thì tính cạnh tranh của ngành CNHT thể hiện ở chất lượng, chi phí và giao hàng (QCD). Khi chất lượng đã được đảm bảo thì

hai yếu tố quan trọng cần được cải thiện là chi phí và giao hàng. Như vậy, để giảm chi phí, đẩy nhanh tiến độ giao hàng thì việc phát triển CNHT là cần thiết (Ohno, 2007):

(1) Chất lượng (Quality): Để thu hút được các DNFDI, vấn đề rất quan trọng là đảm bảo chất lượng sản phẩm CNHT. Sản phẩm đầu ra của các DNHT là sản phẩm đầu vào của các doanh nghiệp lắp ráp FDI, vì vậy muốn tạo ra những sản phẩm chất lượng tốt, thì sản phẩm đầu vào cũng phải đạt chất lượng tốt. Chất lượng của sản phẩm phải tuân thủ tiêu chuẩn nghiêm khắc của khách hàng và các tiêu chuẩn quốc tế. Mặt khác tỷ lệ sai hỏng phải trong mức cho phép của khách hàng (thường tính trên triệu sản phẩm - ppm); chất lượng sản phẩm cần phải được kiểm soát nghiêm ngặt ở tất cả

45

các khâu ngay cả khi sản lượng tăng đột biến. Các yếu tố về chất lượng được đánh giá trên các yếu tố chủ yếu là: (1) Công nghệ và chu trình sản xuất; (2) Thiết bị và phương pháp kiểm tra chất lượng; (3) Hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng; (4) Các biện pháp khắc phục – phòng ngừa.

(2) Nhân tố chi phí (Cost): Dòng vốn FDI khổng lồ bắt đầu chảy vào các quốc gia Đông Nam Á từ thập niên 70 và thập niên 80, chủ yếu là do sự hấp dẫn bởi chi phí

nhân công thấp. Tuy nhiên, các yếu tố góp phần vào dòng chảy của FDI đã thay đổi kể từ những năm 1990, cùng với những quan niệm phổ biến về Quản lý chuỗi cung ứng (J.Mori, 2005). Trong ngắn hạn, vai trò của lao động thô giá rẻ đang giảm tầm quan

trọng: ngay cả những lao động thường xuyên cũng cần phải được kết hợp với các công nghệ mới và những kỹ năng tiên tiến (UNCTAD, 2001). Ngày nay, khi các MNC chọn một quốc gia để đầu tư trực tiếp, họ không chỉ xem xét lợi thế về chi phí lao động, mà còn quan tâm đến các chi phí đầu vào sản xuất khác như các linh kiện, phụ tùng.

Theo K.Ohno (2005), các MNC thường tìm kiếm các địa điểm mới cung cấp các chi phí sản xuất kinh doanh thấp. Họ sẵn sàng chuyển nhà máy của họ trên khắp nước để giành chiến thắng cạnh tranh toàn cầu. Đối với nhiều nhà sản xuất, thành phần chiếm chi phí lớn nhất là các linh kiện phụ tùng và các sản phẩm trung gian khác. Chi phí quan trọng khác bao gồm điện, đất đai, nước, viễn thông, giao thông,

nhà ở, v.v… chi phí hành chính cũng có thể rất tốn kém. Một điều ngạc nhiên là, mức lương không phải là rất quan trọng đối với nhiều nhà sản xuất. Tỷ lệ % chi phí lương thường rất nhỏ và việc tăng lương có thể được bù đắp bằng cách cải thiện năng suất.

Theo J.Mori (2005) chi phí lao động thường chỉ chiếm 10% hoặc ít hơn tổng chi phí, trong khi chi phí của bộ phận sản xuất chiếm khoảng 70%. Hầu hết các MNC

Chi phí Logistics 2%

Chi phí lắp ráp 18%

Chi phí lao động 10%

Chi phí linh kiện 70%

lắp ráp đã nhận ra rằng việc giảm chi phí của các linh kiện có hiệu quả hơn việc giảm chi phí lao động trong việc sản xuất hàng điện tử với giá cạnh tranh hơn.

Hình 2.9: Cấu trúc chi phí cơ bản của trong chuỗi giá trị

Nguồn: Mori, 2005

46

Ngay cả khi những sản phẩm này được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài (nhập khẩu linh phụ kiện) thì những phí tổn chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng chi phí đầu vào cho doanh nghiệp rất nhiều. Đó là chưa kể đến những rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu (Trần Văn Thọ, 2005). Đối với các MNC thì sẽ gặp khó khăn hơn trong việc quản lý dây chuyền cung ứng (supply chain management). Sự phát triển của CNHT trong nước sẽ tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp lắp ráp sản phẩm cuối cùng, hạ giá thành sản phẩm, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh.

Do đó, để phát triển công nghiệp, mỗi quốc gia không những cần xác định các ngành

công nghiệp chủ đạo, mũi nhọn mà song song với nó là phát triển các ngành CNHT.

Để đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh về chi phí, các DNHT cần tính toán kỹ lưỡng về các yếu tố cấu thành giá, đưa ra giá cạnh tranh và có khả năng giảm giá khi khấu hao máy móc, thiết bị giảm. Các yếu tố về giá cả thường được đánh giá dựa trên: (1) Tính cạnh tranh về giá; (2) Cấu trúc giá; (3) Minh bạch về giá; (4) Sự linh hoạt.

(3) Giao hàng (Delivery): Theo K. Ohno (2005) việc phản ứng nhanh chóng

với những thay đổi của thị trường và yêu cầu của khách hàng là chìa khóa để thành

công. Điều này không chỉ bao gồm sản xuất thời gian ngắn, mà còn bao gồm thời

gian cho thiết kế, vận chuyển, thông quan và giao hàng cho khách hàng. Trong chiến

lược kinh doanh toàn cầu, thì việc chậm trễ là điều cần tránh. Vì vậy, để đảm được

tiến độ sản xuất, giao hàng các DNFDI cần nguồn cung đầu vào đảm bảo thời gian,

tiêu chuẩn.

Ngành CNHT phát triển sẽ tạo được nguồn cung đầu vào ổn định, chất lượng, từ đó đảm bảo được khả năng giao hàng cho các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp chính. Các doanh nghiệp lắp ráp hay các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cuối cùng, bao gồm cả doanh nghiệp nội địa và DNFDI dù bán sản phẩm tại thị trường nội địa hay xuất khẩu, đều có nhu cầu rất lớn về mua sắm các sản phẩm phụ trợ như phụ tùng nhựa, khuôn kim loại, linh kiện, phụ tùng từ các nhà cung cấp trong nước. Nếu CNHT kém phát triển, các công ty này sẽ phải phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu linh phụ kiện, điều này có thể ảnh hưởng đến tiến độ của hợp đồng. Hơn nữa, khi ngành CNHT phát triển sẽ kích thích các nhà sản xuất đầu tư nhiều hơn vào máy móc, dây chuyền thiết bị để đảm bảo tính đồng bộ và kịp thời trong sản xuất.

Theo K. Ohno (2007) các nhà lắp ráp Nhật Bản đặt ra yêu cầu cao về việc giao

hàng đúng giờ, tần suất giao hàng cao nhằm giảm thiểu chi phí lưu kho và thời gian

sản xuất. Thông thường việc giao hàng sẽ phải tiến hành hàng ngày hoặc thậm chí là

hàng giờ. Không giống như các công ty Việt Nam thường lưu kho một lượng hàng lớn

47

để dự phòng, các công ty Nhật Bản luôn coi hàng tồn kho là một dạng chi phí cần phải

cắt giảm càng nhiều càng tốt. Để đạt được mức lưu kho bằng không, ngay từ những

năm 1950, công ty Toyota đã xây dựng hệ thống giao hàng đúng hẹn (Just in time)

hiện được áp dụng rộng rãi ở các công ty Nhật Bản khác. Giao hàng nhanh và đều đặn

sẽ không thể đạt được nếu cứ vài tháng các công ty mới nhập khẩu linh phụ kiện một

lần và mất vài ngày để vận chuyển linh phụ kiện từ cảng nhập về đến nhà máy. Chính

vì lý do này nên các nhà lắp ráp cuối cùng luôn muốn các nhà cung cấp ở gần nhà máy

của họ.

Ngày nay, theo tiêu chuẩn quản lý sản xuất hiện đại, giống như các nhà sản xuất Nhật Bản, các nhà sản xuất nói chung đều coi chi phí lưu kho là dạng chi phí cần cắt giảm càng nhiều càng tốt nhằm giảm chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất (hệ thống Just In Time – JIT), vì vậy sự chính xác của thời gian giao hàng được đặc biệt Thời gian giao hàng được kiểm tra, đánh giá trên các yếu tố: (1) Khả năng chú trọng. quản lý chuỗi cung ứng; (2) Bộ phận packing – logistic; (3) Quản lý kế hoạch sản xuất

và giao hàng.

2.3.2.2. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến chất lượng FDI

Có nhiều cách tiếp cận về chất lượng FDI đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, trong

phạm vi luận án, tác giả sẽ tiếp cận về chất lượng FDI dựa trên những tác động tích cực mà FDI mang lại cho nền kinh tế. Cụ thể, chất lượng FDI được thể hiện thông qua: (i) khả năng đóng góp FDI vào thặng dư cán cân thương mại, (ii) mức độ lan toả công nghệ đối với doanh nghiệp trong nước và (iii) mức độ tác động tới sự phát triển doanh

nghiệp nội địa thông qua liên kết giữa DNFDI và doanh nghiệp nội địa.

a. Ảnh hưởng đến khả năng đóng góp của khu vực FDI vào thặng dư cán cân thương mại

Phân tích theo chuỗi giá trị trong ngành công nghiệp, mỗi ngành công nghiệp

gồm ba công đoạn chính: (1) Thượng nguồn gồm nghiên cứu - triển khai, thiết kế, sản

xuất các bộ phận linh kiện chính; (2) Trung nguồn gồm tiếp thị, xây dựng mạng lưới

lưu thông, khai thác và tiếp cận thị trường; (3) Hạ nguồn gồm công đoạn lắp ráp, gia

công (Hình 2.6). Theo phương thức quản lý sản xuất hiện đại, hiện nay rất ít doanh

nghiệp bao trọn toàn bộ quá trình sản xuất, mà thường chuyên môn hoá theo công

đoạn. Các doanh nghiệp lớn có ưu thế về vốn, trình độ khoa học công nghệ, nguồn lao

động chất lượng cao thường có xu hướng dịch chuyển lên phía thượng nguồn (Hà Thị

Hương Lan, 2013). Các doanh nghiệp kém hơn sẽ tham gia vào phần hạ nguồn của

chuỗi giá trị với những “liên kết phía sau”.

48

Trong chuỗi giá trị sản xuất, sự phát triển của ngành CNHT sản xuất bộ phận,

linh kiện sẽ đáp ứng nhu cầu cho nhiều lĩnh vực công nghiệp khác nhau; giúp các

doanh nghiệp không phải thực hiện mọi khâu trong quá trình sản xuất.

Một DNFDI đang đầu tư sản xuất, lắp ráp tại một quốc gia có những sự lựa chọn cho việc mua sắm các sản phẩm trung gian, linh kiện, phụ tùng phục vụ quá trình sản xuất sản phẩm như sau: (i) sản xuất nội bộ trong khuôn khổ các công ty đó; (ii) đặt mua từ nhà cung cấp địa phương (có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc doanh nghiệp nước ngoài đặt tại thị trường nội địa); (iii) nhập khẩu từ các quốc gia khác. Nếu ngành CNHT nội địa phát triển, đảm bảo tiêu chuẩn cạnh tranh, thì các DNFDI lắp ráp

hay sản xuất sản phẩm cuối cùng không phải lo nhập khẩu hoặc sản xuất các sản phẩm

linh kiện, bộ phận trung gian mà họ có thể mua ngay trong nước. Việc lựa chọn yếu tố

đầu vào trong nước, giúp giảm tỷ lệ nhập khẩu các yếu tố đầu vào từ nước ngoài. Vì

vậy, CNHT phát triển là yếu tố giúp giảm kim ngạch nhập khẩu, cải thiện cán cân

thanh toán của quốc gia.

Ngược lại, ngành CNHT nội địa kém phát triển, sản phẩm thiếu cạnh tranh,

không đáp ứng được tiêu chuẩn, sẽ khiến các DNFDI phải nhập khẩu linh kiện, phụ

tùng từ các quốc gia khác để phục vụ quá trình sản xuất, lắp ráp của mình. Nếu tỷ lệ

nhập khẩu sản phẩm trung gian, linh kiện, phụ tùng của các DNFDI quá lớn, sẽ làm

tăng tỷ lệ nhập khẩu.

b. Ảnh hưởng đến hiệu ứng lan toả công nghệ của dòng vốn FDI

Theo Junichi Mori (2005), CNHT có vai trò như một bộ khuyếch đại những

hiệu ứng tích cực của dòng vốn FDI, đặc biệt là hiệu ứng lan toả về công nghệ. FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển trình độ công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và phát triển trình độ công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài.

Việc chuyển giao công nghệ của các MNC cho các doanh nghiệp nội địa thường được thực hiện bằng 4 hình thức: (1) Chuyển giao theo chiều ngang (horizontal inter-firm transfer): chuyển giao giữa từ các MNC sang các công ty con tại nước ngoài (các DNFDI) hoặc chuyển giao giữa các DNFDI và doanh nghiệp nội địa trong cùng ngành (ở đây là những doanh nghiệp hoạt động trong ngành CNHT). Để hoạt động có hiệu quả tại nước ngoài, các MNC thường tích cực chuyển giao công nghệ và năng lực

49

kinh doanh cho các công ty con bằng cách đào tạo lao động nội địa để có thể sử dụng được máy móc, thiết bị hiện đại, đào tạo cả đội ngũ quản lý và dần thay thế bằng người nước ngoài để giảm chi phí sản xuất; (2) Chuyển giao theo chiều dọc (vertical inter- firm transfer). Đây là hình thái liên kết phổ biến nhất của các DNFDI, trong đó công ty trong nước tạo quan hệ ổn định để cung cấp các sản phẩm CNHT (điển hình là các sản phẩm CNHT như phụ tùng, linh kiện, xe máy, v.v... ) cho DNFDI, qua đó được các DNFDI này chuyển giao công nghệ và tri thức quản lý; (3) Di chuyển các lao động có tay nghề cao (4) Quốc tế hoá hoạt động nghiên cứu và phát triển (OECD, 2002).

Mức độ chuyển giao công nghệ trong mối quan hệ với sự phát triển CNHT được thể hiện thông qua: (1) số hợp đồng chuyển giao công nghệ; (2) Mức độ hiện đại

và cập nhật của các công nghệ được chuyển giao; (3) chỉ tiêu năng suất các yếu tố tổng hợp TFP của khu vực FDI; (4) tỷ lệ nội địa hoá.

Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của các MNC sang nước đang phát triển ở hình thức 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nuớc ngoài, dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketting.

Thực tế, các DNFDI rất hạn chế chuyển giao những công nghệ mới có tính cạnh tranh cao cho các chi nhánh ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt trước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ của các công ty nước chủ nhà. Mặt khác, đa phần các nước tiếp nhận vốn có trình độ công nghệ thấp, trình độ lao động hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng công nghệ của các MNC.

c. Ảnh hưởng đến mức độ liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa

Đối với các quốc gia đang phát triển, thì mục đích quan trọng của việc thu hút FDI là phải tạo được sự lan tỏa rộng rãi đến nền kinh tế trong nước và tạo được mối

liên kết chặt chẽ giữa DNFDI và các doanh nghiệp nội địa, để đưa doanh nghiệp nội địa trở thành một mắt xích trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Mức độ liên kết giữa DNFDI với các doanh nghiệp nội địa được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu như: (1) hình thức liên kết trong hoạt động FDI, (2) mức độ phát

triển chuỗi và hình thành CNHT của nước nhận đầu tư;(3) hệ thống liên kết trong hệ thống CEO giữa doanh nghiệp nội địa và DNFDI; (4) Mức độ đào tạo và nâng cao trình độ lao động trong khu vực FDI.

50

2.3.2.3. Ảnh hưởng đến cơ cấu dòng vốn FDI

Mức độ phát triển của ngành CNHT nội địa có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu

của dòng vốn FDI.

Thứ nhất, về cơ cấu FDI theo vùng lãnh thổ, dòng vốn FDI có xu hướng chảy

vào những vùng, lãnh thổ có hệ thống ngành CNHT phát triển, hình thành mạng lưới các DNHT vệ tinh, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu về sản phẩm CNHT một cách nhanh chóng, kịp thời cho các DNFDI.

Thứ hai, về cơ cấu FDI theo ngành. Ở những quốc gia có ngành CNHT nội địa phát triển, sẵn sàng cung ứng linh phụ kiện đầu vào, FDI có xu hướng chảy vào các ngành lắp ráp, ngành có hàm lượng công nghệ cao. Ngược lại, ở một số quốc gia ngành CNHT còn sơ khai, chưa phát triển, vốn FDI có xu hướng chảy vào các ngành

CNHT, hình thành hệ thống ngành CNHT phát triển sau đó mới tiếp tục thu hút FDI vào lắp ráp.

2.4. Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Với xuất phát điểm không có gì nổi bật, tuy nhiên chỉ sau vài thập kỷ tập trung phát triển kinh tế, Thái Lan đã trở thành quốc gia thuộc nhóm dẫn đầu về phát triển kinh tế trong các nước ASEAN. Tiếp đến, là Malaysia từ một nước nông nghiệp khi

mới độc lập với sản phẩm cao su và thiếc đóng góp 50% GDP, Malaysia đã trở thành một nước có nền kinh tế mở, đa dạng và phát triển. Kết quả này có được là do Chính phủ Thái Lan và Malaysia đã tận dụng tối đa cơ hội để thu hút FDI với các chính sách

hiệu quả và linh hoạt theo từng thời kỳ, trong đó đặc biệt phải kể đến là chính sách phát triển ngành CNHT nội địa.

Mở rộng đến khối ASEAN +3, có thể thấy Trung Quốc là quốc gia rất thành công trong thu hút FDI, được đánh giá là một trong những quốc gia thu hút FDI lớn

nhất thế giới. Thành công của việc thu hút FDI vào Trung Quốc đến từ sự phát triển của ngành CNHT trong nước, đặc biệt là CNHT ngành ô tô, điện tử và dệt may, v,v…

2.4.1.Kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI của Thái Lan

Xác định được vai trò quan trọng của CNHT, các nước ASEAN đã bắt đầu thực hiện rất nhiều các chính sách và chương trình nhằm phát triển ngành CNHT từ đầu những năm 1990 (I.RyuiChiro, 1999). Thái Lan được coi là một trong những nước ASEAN thành công nhất trong việc phát triển CNHT góp phần thu hút FDI. Chiến

lược phát triển CNHT ở Thái Lan được bắt đầu từ khá lâu. Trong quá trình này, Thái

51

Lan đặc biệt coi trọng các DNFDI, đặc biệt nguồn vốn từ Nhật Bản. Tăng cường thu hút FDI, kết hợp với các chính sách yêu cầu xuất xứ địa phương trong sản phẩm đã trở thành kênh chính kết nối các DNHT địa phương vào các mạng sản xuất toàn cầu và tạo sức ép cho các doanh nghiệp địa phương phát triển, đáp ứng được các yêu cầu của

các MNC.

Quá trình phát triển CNHT ở Thái Lan có thể chia làm 4 giai đoạn: (1). Từ Năm 1960-1970 là giai đoạn khuyến khích và bảo hộ thị trường trong nước; (2). Từ Năm

1971-1986 là giai đoạn hợp lý hoá công nghiệp thông qua yêu cầu xuất xứ địa phương; (3). Từ năm 1987-1999 là giai đoạn khuyến khích xuất khẩu và tự do hoá; (4) Từ Năm 2000 trở đi là giai đoạn kết thúc yêu cầu xuất xứ địa phương. Các chương trình cụ thể nhằm phát triển CNHT của Thái Lan bao gồm:

Thúc đẩy đầu tư để phát triển CNHT

Những năm 1970, chính sách đầu tư của chính phủ Thái Lan chỉ ưu tiên cho các nhà xuất khẩu và hầu hết các nhà sản xuất định hướng xuất khẩu nước ngoài được cho

phép vào Thái Lan thông qua các đơn vị thuộc sở hữu 100%. Tuy vậy, sự tham gia của họ vẫn kích thích sự phát triển của các nhà sản xuất địa phương của Thái.

Những năm 1980, các nhà sản xuất phụ tùng Nhật Bản vào Thái Lan (đặc biệt là công nghiệp thiết bị điện và điện tử) bằng cách thiết lập các liên doanh, trong đó họ giữ phần lớn cổ phần. Tuy nhiên, ở thời điểm đó chính phủ tập trung ưu tiên và bảo vệ các nhà sản xuất nội địa hơn là sản xuất nước ngoài.

Việc khuyến khích phát triển các ngành CNHT bắt đầu từ nửa sau của năm

1980, khi dòng vốn FDI bắt đầu bùng nổ. Chính Phủ bắt đầu đẩy mạnh đầu tư vào các ngành CNHT. Chính phủ đã thể hiện ngày càng rõ ràng lập trường mới của mình để cải thiện liên kết giữa các nhà xuất khẩu hàng đầu và các ngành CNHT liên quan.

Từ năm 1987, Chính Phủ chuyển trọng tâm vào tăng cường các ngành công nghiệp nhỏ, phát triển lĩnh vực xuất khẩu và phát triển của các ngành công nghiệp kỹ

thuật và các ngành công nghiệp nông nghiệp liên quan. Chính sách để phát triển CNHT đã được tập trung vào các ngành công nghiệp kỹ thuật. Mục đích là để ngăn sự gia tăng nhập khẩu tư liệu sản xuất bằng cách phát triển các ngành công nghiệp máy móc thiết bị.

Sự phát triển của các ngành CNHT được đẩy mạnh đáng kể vào năm 1992, chính sách ưu tiên của Chính phủ đã được đặt vào việc cải thiện chất lượng cuộc sống

con người, bảo vệ môi trường và phát triển của các doanh nghiệp khu vực nhỏ hơn và thúc đẩy xuất khẩu như là một phần của phát triển CNHT đã được công nhận.

52

Phát triển liên kết công nghiệp - xây dựng cơ sở dữ liệu : Năm 1992, BOI được tổ chức lại để phục vụ tốt hơn các mục đích phát triển các ngành CNHT, và thiết lập một bộ phận mới, được gọi là BUILD (Cơ quan phục vụ Kế hoạch Phát triển Liên kết công nghiệp). BUILD được thiết kế để thu thập và xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về nhà cung cấp các phụ tùng và chế biến nguyên liệu, và cung cấp cho các nhà lắp ráp. BUILD đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một mối liên kết giữa ngành CNHT và các nhà sản xuất lắp ráp.

BUIlD đã thiết lập hồ sơ cơ sở dữ liệu bao gồm danh sách các nhà sản xuất khuôn mẫu & gá lắp của chín quốc gia ASEAN, và danh sách các nhà sản xuất của

Thái Lan. Danh sách này bao gồm tổng số 124 nhà sản xuất, trong đó có 70 là 100% sở hữu Thái, và 54 còn lại một phần hoặc toàn bộ vốn nước ngoài. Các công ty nước ngoài phần lớn thuộc sở hữu Nhật, ngoài ra là Đài Loan, Singapore, Thụy Điển và Mỹ.

Danh sách này được xây dựng được phân loại (1) theo quốc gia chủ sở hữu, (2) theo quốc gia và theo sản phẩm (3) theo loại khách hàng (4)Tỷ lệ sở hữu bởi người Nhật.

Mục tiêu chính của BOI chủ yếu là khuyến khích đầu tư của nước ngoài vào ngành công nghiệp trong nước, vì vậy những chính sách của BOI có xu hướng ưu tiên cho các MNC lớn có nhiều khả năng trở thành đối tác liên doanh của họ.

Chỉ định các ngành CNHT ưu tiên (Designating priority supporting industries): Đầu những năm 1990, BOI đã bắt đầu đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ tùng ôtô. BOI chỉ rõ 14 phân đoạn cụ thể trong việc thúc đẩy sự phát triển

của các ngành CNHT như: phụ tùng ô tô; lắp ráp xe ô tô; xử lý bề mặt; xử lý nhiệt; và sản xuất ô tô điện, đúc và khuôn mẫu; gia công đồ gá và kẹp cố định; đúc khuôn; đột dập, v.v… Mục tiêu chính của BOI là làm cho các ngành công nghiệp nội địa cạnh tranh hơn trên thị trường xuất khẩu, kích thích việc làm, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao sức mạnh công nghệ của nhà sản xuất và giảm nhập khẩu các phụ tùng.

Những ưu đãi BOI đưa ra để thúc đẩy đầu tư trong các lĩnh vực hỗ trợ bao gồm: miễn thuế nhập khẩu thiết bị sản xuất và miễn thuế doanh nghiệp đồng đều trong tám năm đầu tiên. Những hạn chế về tỷ lệ sở hữu nước ngoài đã được gỡ bỏ và các nhà sản

xuất nước ngoài được phép cung ứng thị trường nội địa. Khi so sánh với các khu vực khác có thời gian được miễn thuế doanh nghiệp phổ biến nhất là năm năm, tùy thuộc vào khu địa lý, những ngành hỗ trợ được chỉ định thì thời gian ưu đãi đều là 8 năm. Việc phê chuẩn thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, mặc dù trong một thời gian

hạn chế, không phân biệt tỷ lệ xuất khẩu của họ, không có hạn chế đối với bán hàng trong nước, thực hiện các ưu đãi dành cho các lĩnh vực hỗ trợ khả quan vẫn được chào đón. Điều này chỉ rõ sự ghi nhận sâu sắc của BOI về tầm quan trọng của việc phát

53

triển các lĩnh vực hỗ trợ. Cho phép các nhà sản xuất nước ngoài bán cho thị trường trong nước là cần thiết để thúc đẩy mối liên kết giữa các nhà cung cấp địa phương và các nhà sản xuất nước ngoài có định hướng xuất khẩu.

Nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu

Từ năm 1997, sau cuộc khủng hoảng tiền tệ, Chính phủ đặt trọng tâm lớn vào việc bãi bỏ các quy định và cho phép tự do hoá nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành xuất khẩu. Trong nông nghiệp, bổ sung các giá trị cao hơn cho sản phẩm

xuất khẩu và phát triển của kinh doanh nông nghiệp được ưu tiên. Trong sản xuất, tổ chức lại các ngành công nghiệp xuất khẩu như ô tô, điện máy móc, thiết bị điện tử và các thiết bị tổng hợp để tăng khả năng cạnh tranh được nhấn mạnh.

Theo đó, BOI nới lỏng các hạn chế về quyền sở hữu nước ngoài và đưa ra một loạt các biện pháp chính sách cho việc thúc đẩy đầu tư nước ngoài để tăng vốn đầu tư

của công ty hoặc mở rộng kinh doanh tài chính. Vào tháng 11/1997, BOI đã ban hành thông báo về việc thêm năm ngành công nghiệp mới vào danh sách các chương trình ưu tiên hỗ trợ, vì vậy danh sách được nâng lên tổng cộng có 19 lĩnh vực hỗ trợ. Đồng thời, những ưu đãi đặc biệt để thúc đẩy đầu tư trong các lĩnh vực hỗ trợ được chỉ định

đã được cải thiện và tăng cường.

Thành lập các cơ quan có vai trò cụ thể trong phát triển CNHT

- Bộ Công nghiệp : Bên cạnh BOI, thì Bộ Công nghiệp cũng là cơ quan rất chủ động và tích cực trong việc cải thiện sức mạnh tổng thể của các công ty nhỏ của Thái

Lan. Bộ công nghiệp và BOI đã phối hợp cùng phát triển và thiết lập mối liên kết các công ty nhỏ hơn với lợi ích của công ty nước ngoài, đặc biệt là các nhà xuất khẩu lớn.

Bộ Công nghiệp nhìn chung là có trách nhiệm bảo hộ cho sự phát triển của ngành công nghiệp trong nước. Trong chính sách quản lý để thúc đẩy sự phát triển của các ngành CNHT, ODA Nhật Bản đã đóng một vai trò quan trọng. Biện pháp mà Bộ

Công nghiệp đưa ra để phát triển ngành CNHT đó chính là phát triển doanh nghiệp nhỏ. Thái Lan bắt đầu đẩy mạnh thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ năm 1964, khi Cơ quan Tài Chính công nghiệp nhỏ - Small Industries Financing Office (SIFO, mà hiện

nay là SIFCT khi được sáp nhập vào IFCT) được thành lập bởi Bộ Công nghiệp để mở rộng tài trợ cho các ngành công nghiệp nhỏ. Sau đó, Viện Dịch vụ công nghiệp (ISI) được thành lập vào năm 1966, và Trung tâm Xúc tiến Bắc công nghiệp được thành lập vào năm 1973, để đẩy mạnh sự phát triển của các ngành công nghiệp nhỏ ở các địa

phương. Ngoài ra, Trung tâm quản lý phát triển và năng suất Thái Lan (TMDPC), cung cấp hướng dẫn về quản lý, và Viện Tiêu chuẩn công nghiệp Thái Lan (TISI), công bố việc áp dụng các tiêu chuẩn công nghiệp, cũng được thành lập.

54

- Thiết lập MIDI: Bộ Công nghiệp đã bắt đầu thúc đẩy các ngành CNHT trong năm 1989, khi ODA của Nhật Bản đã được sử dụng để thành lập Viện phát triển máy móc công nghiệp và gia công kim loại (MIDI). Ngay khi được hình thành, MIDI đóng một vai trò then chốt trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp nhỏ nâng cao kỹ năng

sản xuất và quản lý của họ. Năm 1993, MIDI được tái cấu trúc vào BSID, để thúc đẩy sự phát triển của các ngành CNHT địa phương nhằm tăng tính cạnh tranh quốc tế.

Bãi bỏ những quy định mang tính chất rào cản

Đầu những năm 90, Bộ Công nghiệp đã bãi bỏ quy định ở Thái Lan để gia tăng hiệu quả kinh tế, giảm thiểu chi phí, và cạnh tranh toàn cầu, và mục tiêu cuối cùng là phát triển doanh nghiệp nhỏ. Cụ thể là việc giảm hoặc bãi bỏ một số loại thuế, đặc biệt thuế linh kiện, phụ tùng ô tô. Vào tháng 2/1993, trước khi thành lập AFTA, Thái Lan

cắt giảm thuế đối với 1.474 mặt hàng nhập khẩu từ các phần còn lại của khu vực ASEAN.

Khi xuất khẩu của Thái Lan giảm mạnh trong năm 1996, tiếp theo đó là cuộc khủng hoảng tiền tệ, Bộ Công nghiệp đã buộc phải đưa ra một chính sách mới. Bộ Công nghiệp đã lập kế hoạch tổng thể để điều chỉnh cơ cấu công nghiệp, nhằm tăng

khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp bằng cách: cải thiện năng suất, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao các tiêu chuẩn lao động của giáo dục, tăng chi phí-hiệu quả, và các công ty nhỏ hơn.

Xây dựng chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ

Phát triển các cụm công nghiệp hỗ trợ: Bên cạnh các chính sách trực tiếp phát triển CNHT, Thái Lan còn có các chính sách bổ trợ quan trọng, như chính sách phát triển các cụm công nghiệp, nhất là ở vùng nông thôn với chủ trương mỗi làng một sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm truyền thống. Chính sách này được thực hiện bằng các cơ chế chính sách khuyến khích, tạo dựng mạng lưới và các chiến lược marketing.

Một mặt, chính phủ Thái Lan khuyến khích các doanh nhân và thúc đẩy tinh thần kinh doanh, mặt khác, hỗ trợ bằng các hoạt động tư vấn và thảo luận giữa cộng đồng địa phương và chuyên gia về việc sử dụng lao động, cung ứng nguyên vật liệu, quá trình

thiết kế và marketing. Trong số các sản phẩm của làng sản xuất, cần tìm ra một sản phẩm mạnh nhất, gọi là “sản phẩm làng vô địch”, sau đó lấy giấy chứng nhận của chính quyền địa phương về sản phẩm. Trên cơ sở đó, có những xem xét và nghiên cứu để phản ứng với nhu cầu của thị trường và tiêu chuẩn chất lượng một cách phù hợp.

Về cơ bản, các sản phẩm này được hướng đến các thị trường ở thành phố và thị trường nước ngoài. Trong chiến lược marketing, sản phẩm được đưa lên giới thiệu qua

nhiều kênh khác nhau như ở các hãng hàng không, các báo lớn, nhất là các báo tiếng

55

Anh, giới thiệu sản phẩm ở các siêu thị lớn. Ngoài ra, Thái Lan còn tổ chức các cuộc triển lãm, hội chợ sản phẩm hoặc mở các cửa hàng “sản phẩm làng vô địch” trên khắp đất nước. Mặc dù xuất xứ ban đầu của chính sách mỗi làng một sản phẩm gắn liền với sản phẩm truyền thống, song hiện nay với các chiến lược và công cụ marketing hiện

đại, nhiều làng đã phát triển các cụm CNHT dựa trên lợi thế vốn có của mình, kết hợp với khả năng gia nhập vào các mạng cung ứng sản xuất nội địa và toàn cầu.

2.4.2. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI của Malaysia

Dù xếp sau Thái Lan ở khu vực ASEAN về phát triển CNHT nhưng Malaysia cũng có định hướng phát triển CNHT từ rất sớm. Chính Phủ Malaysia đã xác định, một trong những vấn đề chính trong các ngành công nghiệp của Malaysia là sự yếu kém của các ngành CNHT và thiếu những liên kết công nghiệp. Các ngành CNHT là

các DNNVV nói chung, do đó sự yếu kém của DNNVV có nghĩa là sự yếu kém của CNHT ở Malaysia.

Hiện nay, với chính sách phát triển CNHT, Malaysia là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI, trở thành cơ sở sản xuất của nhiều công ty đa quốc gia đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ và các nước Châu Âu, đặc biệt trong ngành điện tử.

Malaysia đứng thứ 3 trong số các nước xuất khẩu hàng điện tử trên toàn thế gới và cũng là nước xuất khẩu đồ bán dẫn và dụng cụ nghe nhìn hàng đầu trên thế giới. Ngành công nghiệp điện tử Malaysia phát triển theo định hướng xuất khẩu.

Theo đó, Chính phủ Malaysia đã thực hiện nhiều chương trình, chính sách

khuyến khích phát triển ngành CNHT nhằm thu hút FDI như sau

Ban hành chính sách ưu đãi thuế

Để phát triển CNHT, thúc đẩy FDI, thì khuyến khích thuế là cách làm tiên phong và trợ cấp thuế đầu tư (ITA) được đưa ra bởi Bộ Phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA) theo từng lĩnh vực phụ và sản phẩm.

1. Sản xuất máy móc và linh kiện 2. Sản xuất thiết bị vận chuyển, linh kiện và phụ tùng 3. Các ngành CNHT và các sản phẩm 4. Sản xuất thiết bị điện và điện tử, cá bộ phận và linh kiện 5. Sản xuất sản phẩm nhựa

Với chính sách khuyến khích thuế đưa ra, các DNFDI được hoãn thuế 5 năm và đóng thuế thu nhập doanh nghiệp là 30%. Đối với những dự án được phê chuẩn vào

Bang Sabah và Sarawark và các khu vực ngoài khơi bờ biển phía đông của bán đảo Malaysia, được hoãn thuế 5 năm và đóng thuế thu nhập doanh nghiệp là 15%.

56

Liên quan đến việc thúc đẩy FDI vào lĩnh vực khuôn và đúc, những bộ phận cần độ chính xác và công nghệ cao,v.v… Thủ tướng Choice Sdn. Bhd đã xây dựng từ năm 1995 đồng ý cho liên doanh đối với các DNNVV ở Malaysia.

Đẩy mạnh các chương trình phát triển cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

Chương trình phát triển DNNVV được thực hiện bởi Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế (MITI). MITI đóng vai trò là cơ quan dẫn đầu cho các chương trình hỗ trợ các DNNVV trong lĩnh vực sản xuất, cụ thể như sau:

• Chương trình phát triển nhà cung cấp (Vender Development Program) VDP. Đây là chương trình nhằm phát triển các DNNVV Malaysia trở thành nhà cung cấp linh kiện máy móc, thiết bị và các dịch vụ công nghiệp theo yêu cầu của các doanh nghiệp lớn và các MNC. Chương trình cũng cung cấp thông tin tích hợp và mối liên hệ

giữa các DNNVV và các doanh nghiệp lớn, các MNC và các tổ chức tài chính. Tính đến cuối tháng 10 năm 1994, đã có tổng cộng hơn 40 MNC và viện tài chính tham gia vào chương trình phát triển nhà cung cấp. Thành quả này đã trở thành tiền đề quan

trọng phát triển CNHT Maylaysia trong giai đoạn này.

• Kế hoạch trao đổi hợp đồng thầu phụ (Subcontract Exchange Scheme): Trao đổi hợp đồng thầu phụ là cơ sở dữ liệu vi tính hoá thông tin về các DNNVV (như các

nhà cung cấp) và các doanh nghiệp lớn/MNC/(cũng như người mua) trong các lĩnh vực được ưu tiên, chẳng hạn như máy móc tự động, đện và điện tử, gỗ, cao su cơ bản, nhựa và kỹ thuật ánh sáng.

Mục tiêu của việc trao đổi là cung cấp thông tin về cơ hội làm hợp đồng thầu

phụ và xác định sự phù hợp của các DNNVV đối với việc hoàn thành yêu cầu của các doanh nghiệp lớn và các MNC. Thông qua những liên kết thầu phụ, các doanh nghiệp lớn, các MNC sẽ tạo ra thị trường công nghiệp cho các DNNVV trong công nghiệp sản xuất và CNHT.

• Triển lãm DNNVV và hội chợ công: nhằm hỗ trợ các nhà sản xuất vừa và nhỏ mở rộng thị trường của họ và tham gia vào thị trường mới. Theo chương trình này các hoạt động bao gồm khuyến mãi đặc biệt, sản phẩm phù hợp, hội thảo, và sự tham gia hội chợ và triển lãm thương mại ở địa phương, quốc gia, và mức độ quốc tế. Cấp quốc gia triển lãm cho các DNNVV được tổ chức hàng năm.

• Nghiên cứu sản phẩm và phân khúc thị trường: Mục tiêu của kế hoạch này là cho phép các nhà sản xuất DNNVV và các nhà doanh nghiệp có được thông tin liên quan đến các sản phẩm tiềm năng và cách thức sản xuất có thể được áp dụng cho

những dự án kinh doanh của họ. Với sự trợ giúp của các Viện nghiên cứu cấp cao, các cơ quan hợp tác kinh tế nước ngoài và các công ty tư vấn cá nhân thực hiện một số sản

57

phẩm và nghiên cứu phân khúc thị trường không liên tục trong 2-3 năm.

Thành lập hiệp hội phát triển các ngành công nghiệp vừa và nhỏ (SMIDEC)

SMIDEC được thành lập vào năm 1996, là cơ quan thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc cung cấp các dịch vụ tư vấn, tài khóa và

hỗ trợ tài chính, cơ sở hạ tầng cơ sở, tiếp cận thị trường và các chương trình hỗ trợ khác. SMIDEC cố gắng để tạo ra các DNNVV có khả năng phục hồi nhanh và hiệu quả để có thể cạnh tranh trong thị trường được tự do hoá. SMIDEC sẽ thúc đẩy các

DNNVV trở thành một phần không thể thiếu của chương trình công nghiệp hoá quốc gia và trở thành những nhà sản xuất toàn cầu. SMIDEC có 6 chương trình nhằm phát triển các DNNVV ở Malaysia:

(1) Chương trình liên kết công nghiệp (ILP): là chương trình phát triển cụm công nghiệp cơ sở theo kế hoạch công nghiệp chính - Industrial Master Plan (IMP2,

1996-2005). Thông qua ILP, các DNNVV địa phương sẽ được thúc đẩy hơn nữa và được nuôi dưỡng trở thành những nhà sản xuất đáng tin cậy và những nhà cung cấp các bộ phận và dịch vụ then chốt cho các công ty lớn của các MNC bao gồm những hoạt động sản xuất cốt lõi trong một cụm công nghiệp đặc thù cũng như qua những

cụm công nghiệp khác. Bằng cách đó, ILP góp phần nâng cao gia trị gia tăng và tăng cường thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ sở.

(2) Chương trình phát triển công nghệ - Technology Development Program (TDP)

Để phát triển một khu vực các DNNVV năng động và cạnh tranh, điều quan

trọng là phải nâng cao năng lực và khả năng công nghệ của các DNNVV và cam kết đổi mới R&D, cũng như áp dụng các hoạt động quản lý tốt nhất có thể. SMIDEC sẽ xác định và hỗ trợ kỹ thuật, viện nghiên cứu, cũng như tư vấn điều khiển cho các DNNVV và cam kết R&D cho các lĩnh vực được lựa chọn.

(3) Chương trình thôn tính công nghệ (Technology Acquisition Program):

Chương trình này nhằm mục tiêu phát triển khả năng R&D in – house, địa phương và hỗ trợ các DNNVV có được công nghệ thông qua việc liên doanh với các công ty lớn. Việc có được công nghệ hiện đại nhất sẽ giúp phát triển các DNNVV theo định hướng

công nghệ với việc phát triển sản phẩm, khả năng thiết kế và tạo nguyên mẫu. SMIDEC sẽ cung cấp tiền khởi đầu hoặc hỗ trợ tài chính trực tiếp để nhận được công nghệ cho các DNNVV.

(4) Chương trình nâng cao các kĩ năng (Upgrading of Skills Program): Chương trình phát triển, nâng cao kĩ năng sẽ nâng cao năng suất và hiệu quả cho các DNNVV, và trong dài hạn có thể đóng vai trò là những nhà cung cấp trung gian đáng

tin cậy và hiệu quả. Mục đích của chương trình là mở rộng hiểu biết, nâng cao công

58

nghệ và kỹ năng quản lý giữa các DNNVV trong một khu vực quan trọng như là điện, kỹ thuật thông tin, thiết kế công nghiệp, năng lượng, tiếp thị và bao bì, v.v…

SMIDEC, cộng tác với các Viện thương mại và kỹ thuật, tổ chức liên đoàn công nghiệp và các công ty lớn, sẽ tổ chức hội thảo, thực hành kinh doanh, Seminar, chương trình đào tạo và chương trình liên kết trong các xí nghiệp sản xuất phù hợp.

(5) Chương trình phát triển xuất khẩu: được đưa ra để pháp triển và nuôi dưỡng các DNNVV theo định hướng xuất khẩu để trở thành những nhà sản xuất tầm cỡ thế

giới. Chương trình này sẽ được tiến hành với sự cộng tác của Hiệp hội phát triển thương mại bên ngoài Malaysia (MATRADE)

2.4.3. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI của Trung Quốc

Thông tin về chương trình phát triển CNHT chỉ được thấy nhiều ở các nước mới và đang phát triển. Các nước phát triển như Mỹ, Đức và Nhật đã trải qua giai đoạn này những năm đầu thế kỷ thứ 19. Từ năm 2000 trở lại đây, có thể thấy Trung Quốc là một trong những quốc gia có sự phát triển mạnh mẽ nhất về CNHT. Trung Quốc hiện đang nổi lên như một đại công xưởng của thế giới và điều này đã làm cho Trung

Quốc trở thành tâm điểm thu hút FDI. Đặc biệt là thu hút FDI vào các lĩnh vực dệt may, ô tô và điện tử. Qua đánh giá 3 lĩnh vực dệt may, ô tô và điện tử cho thấy chính phủ Trung Quốc đã đưa ra các giải pháp để phát triển ngành CNHT như sau:

Chính Phủ xây dựng chính sách cụ thể nhằm hỗ trợ phát triển CNHT. Giai đoạn cuối những năm 1990, Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính sách nhằm phát triển CNHT như: đa dạng hoá, tự do hoá đầu tư, thực hiện chính sách thuế quan ưu đãi đối với các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cho thành lập các Tổ chức có nhiệm vụ làm cầu nối giữa khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước,

tăng cường phát triển tiềm năng khoa học - công nghệ quốc gia, thực hiện đổi mới cơ chế tài chính, hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân hợp tác và tiếp nhận chuyển giao công nghệ sản xuất tiên tiến từ đối tác nước ngoài, xúc tiến hợp tác nghiên cứu khoa học, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao (Ha Thi Huong Lan, 2014),v.v... Các doanh

nghiệp có thể yêu cầu để được Chính Phủ hỗ trợ về mặt chính sách, cải thiện môi trường hoạt động kinh doanh nhằm hướng đến mục tiêu thu hút dòng vốn FDI.

Đổi mới sáng tạo trong mọi hoạt động từ quản lý cấp nhà nước tạo đà phát triển cho các doanh nghiệp. Việc đổi mới sáng tạo thể hiện ở các hoạt động cải cách hành chính để hỗ trợ thuận tiện nhất cho doanh nghiệp trong các thủ tục hành chính. Đồng thời, tập trung hỗ trợ đầu tư cho vay vốn từ 30 - 40% với lãi suất thấp cho các ngành CNHT trọng điểm như điện tử, dệt may, v.v... Bên cạnh đó Chính phủ cũng có chính

59

sách hỗ trợ miễn giảm thuế cho các ngành CNHT trọng điểm. Thu hút các nhà quản lý, hoạch định chính sách tài năng ở những tập đoàn, công ty nước ngoài.

Tối ưu hóa cơ cấu hệ thống và nâng cấp các công nghệ thiết bị mới cho ngành công nghiệp: Để phát triển CNHT, Chính Phủ cũng thực hiện tối ưu hóa bộ máy hành chính nhà nước trong việc định hướng, giám sát và hỗ trợ cho các hoạt động của DNHT. Đồng thời, tái cơ cấu và tối ưu hóa hệ thống quản lý của các tập đoàn nhà nước trong các ngành CNHT. Chú trọng việc đầu tư nâng cấp các công nghệ, thiết bị hiện đại và tối ưu hóa qui trình sản xuất theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế và giảm thiểu ảnh hướng đến môi trường. Đồng thời, tiến hành các hoạt động thu thập các công nghệ hiện đại trên thế giới qua các kênh chính thức và không chính thức nhằm đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa.

Phát triển mạnh hoạt động R&D cho ngành CNHT: Một trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển CNHT của Trung Quốc là định hướng phát triển hoạt động R&D cho các CNHT trọng điểm. Lập các quĩ hỗ trợ phát triển R&D dành riêng cho các ngành CNHT trọng điểm. Đồng thời chú trọng việc đầu tư phát triển R&D trong các trường đại học. Tăng cường liên kết giữa trường đại học và các DNNVV làm CNHT. Thực hiện chủ trương khuyến khích và tạo điều kiện tối đa cho các ý tưởng sáng tạo, đột phá trong R&D

Thúc đẩy nhân lực cho DNNVV gắn với cấp địa phương, như giải pháp tự do hoá thị trường lao động, tự do hoá việc di cư lao động. Thực hiện tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao trên thế giới hay từ nguồn lực Hoa Kiều. Trung Quốc đã ban

hành cương yếu quy hoạch nhân tài, với chủ trương phát triển nhân tài tầm trung và dài hạn (Ha Thi Huong Lan, 2013). Hiện nay, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Cương Yếu quy hoạch nhân tài, với mục tiêu phát triển nhân tài trung và dài hạn cho

đất nước. Ngoài ra, Chính Phủ Trung Quốc cũng thực hiện 16 dự án khoa học kỹ thuật, mục tiêu đến năm 2020 tổng số cán bộ khoa học kỹ thuật sáng tạo cấp cao đạt 40.000 người (Hoang Van Chau, 2010). Bên cạnh đó, Chính phủ cũng chú trọng vào

việc tăng cường đào tạo nhân tài cho nghiên cứu phát triển, kỹ thuật khan hiếm và nhân tài quản lý; xây dựng cơ sở tập huấn sáng tạo đổi mới công trình; đưa ra chính sách ưu đãi, đặc biệt là đối với nhân tài hạt nhân dẫn đầu ngành sản xuất, nhân tài kỹ thuật công trình.

Thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp: Ở Trung Quốc, sự phát triển vượt bậc của ngành CNHT chính là nhờ mối liên kết hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp nội

địa. Các doanh nghiệp lắp ráp trong nước có được nguồn cung các linh kiện, phụ tùng tại chỗ trong nước với chất lượng đảm bảo, giá thành rẻ từ phía các nhà cung ứng nội

60

địa, nhất là các DNNVV. Hiện tại, Trung Quốc có tới 4.172 hãng cung cấp đồ linh kiện ô tô. Ngoài sự liên kết các nhà cung cấp nội địa, Trung Quốc còn tăng cường liên kết hợp tác với các công ty lắp ráp nước ngoài, các MNC, v.v... (Hoàng Văn Châu, 2010)

Thành lập cụm CNHT: Các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã sớm nhận thấy mô hình công nghiệp tối ưu là một hãng lắp ráp được đặt gần những DNHT để có một hệ thống cung ứng kịp thời, đẩy mạnh hiệu quả cung cấp. Chính vì vậy, chính quyền địa phương đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để rút ngắn khoảng cách địa lý giữa các doanh nghiệp lắp ráp và DNHT, khuyến khích DNHT đặt nhà máy gần doanh nghiệp lắp ráp để thiết lập cụm sản xuất điện tử, ô tô,v.v...(Nhâm Phong Tuấn, 2014)

Thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, ngay từ đầu cần phải có chính sách rõ ràng trong việc thu hút FDI vào phát triển CNHT nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, kết hợp ưu đãi với các chính sách xúc tiến đầu tư. Sau khi mở cửa nền kinh tế và thực hiện các chính sách nhằm vào nông thôn thì bước tiếp theo mà Trung Quốc thực hiện là thu hút vốn đầu tư

từ nước ngoài và thúc đẩy xuất khẩu. Việc làm đầu tiên là thành lập thử nghiệm bốn đặc khu kinh tế, với mục đích thu hút vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện để xuất khẩu ra nước ngoài, đặc biệt là các nước phương Tây. Để thu hút FDI, Trung Quốc đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi trong các

đặc khu kinh tế về cơ sở hạ tầng, ưu đãi về thuế, thủ tục hải quan, v.v…

Mua lại các DNHT của nước ngoài: Bên cạnh việc khuyến khích thu hút của các nhà sản xuất trong nước và nước ngoài tham gia sản xuất CNHT, Trung Quốc còn đẩy mạnh việc mua lại các cơ sở sản xuất linh kiện, phụ kiện ở nước ngoài sau đó chuyển về trong nước. Điển hình như vụ mua lại của hãng Wanxin – một nhà sản xuất thiết bị phụ trợ của Trung Quốc, để xuất khẩu và cung cấp cho GM và Ford – đối với Automotive Component Holding, một tổ hợp 17 nhà máy và 6 xí nghiệp mà Ford nắm quyền kiểm soát từ những năm 2000. Một ví dụ thực tế khác như hãng Weichai mua

lại của Delphi, thuộc GM, dây chuyền sản xuất phanh, hệ thống treo, chi tiết cabin và tay lái,v.v… Lifan mua công nghệ BMW và Chrysler nhằm nâng cao chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Nhâm Phong Tuấn, 2014).

2.4.4. Bài học kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút FDI vào Việt Nam

Thứ nhất, xây dựng cơ chế chính sách phát triển CNHT phù hợp và cụ thể

Thời gian đầu phát triển CNHT, vai trò định hướng của Chính phủ rất quan trọng, trước hết là các chính sách. Ở hầu hết các quốc gia Chính phủ đều có những chính sách cụ thể nhằm phát triển ngành CNHT trong nước như: chính sách thu hút

61

FDI vào CNHT, chính sách hỗ trợ vốn, chính sách phát triển DNNVV,v.v…

Như vậy, những chính sách của Chính phủ trong từng giai đoạn rất quan trọng,

có tính quyết định đến sự phát triển CNHT. Chính vì thế, chính sách cần tận dụng được cơ hội và lợi thế quốc gia, biến nó thành sức mạnh để CNH – HĐH nhanh, trong đó cần xác định rõ các ưu tiên chiến lược, đồng thời thi hành chính sách hỗ trợ, ưu tiên cho các doanh nghiệp trong các ngành chiến lược.

Bên cạnh đó, để chính sách được triển khai hiệu quả, cần thành lập các cơ quan

có vai trò cụ thể trong phát triển CNHT.

Thứ hai, tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp

Tại các nước phát triển CNHT mạnh trong khu vực cho thấy, khi có mối liên kết chặt chẽ và thông suốt giữa các doanh nghiệp tham gia vào CNHT và công nghiệp

lắp ráp, chế tạo thì CNHT mới có thể phát triển nhanh chóng và bền vững được.

Tăng cường sự liên kết giữa các nhà cung cấp nội địa với doanh nghiệp lắp ráp nước ngoài, đặc biệt các MNC gia tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tham gia vào hệ thống sản xuất của các Tập đoàn này một cách nhanh chóng và hiệu quả. Ngoài ra, việc liên kết chặt chẽ giữa các nhà cung cấp linh kiện trong nước với

các doanh nghiệp lắp ráp nước ngoài giúp các nhà cung cấp linh kiện trong nước có đầu ra cho sản phẩm một cách khá chắc chắn. Kinh nghiệm các nước đã chỉ ra vai trò quan trọng của Chính phủ. Chính phủ cần thành lập các tổ chức chuyên về phát triển CNHT, tạo thành cầu nối giữa Chính phủ với doanh nghiệp, kết nối các doanh nghiệp

với nhau.

Thứ ba, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là nhân tố quan trong nhất cho sự phát triển lâu dài của các ngành CNHT. Theo quan điểm của hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thì để phát triển lâu dài các ngành CNHT, nguồn nhân lực còn quan trọng hơn nhiều so với máy móc hiện đại. Các chuyên gia và nhà

doanh nghiệp cũng cho rằng, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, yếu tố cơ bản tạo sức thu hút các MNC, mở rộng thị trường xuất khẩu chính là chất lượng nguồn nhân lực quốc gia. Lý do chính giải thích tại sao nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn nước này chứ không phải nước khác chính là nguồn nhân lực.

Thứ tư, xác định ngành CNHT ưu tiên, cấu trúc ngành phù hợp với chiến lược

phát triển công nghiệp quốc gia

Thái Lan, Malaysia hay Trung Quốc đã rất thành công khi tập trung ưu tiên phát triển một số ngành CNHT và tìm cho mình những linh kiện cơ bản để tập trung

62

chuyên môn hóa. Một quốc gia không thể sản xuất mọi sản phẩm, sự chuyên môn hoá vào một số sản phẩm có lợi thế sẽ tạo ra hiệu quả và chất lượng cao hơn.

Việt Nam cần xác định rõ các ngành, các sản phẩn CNHT ưu tiên để có thể tập trung nguồn lực cũng như định hướng để hấp dẫn doanh nghiệp đầu tư. Việc tạo ra những lợi thế động để thâm nhập được vào hệ thống mạng lưới phân công lao động đang vận động một cách năng động trong khu vực chỉ có thể thực hiện thông qua một đội ngũ doanh nghiệp có năng lực thực sự. Việc xây dựng đội ngũ doanh nghiệp có sức cạnh tranh như vậy là vấn đề phụ thuộc một cách quyết định vào đường lối chính sách, chiến lược CNH của nhà nước.

Thứ năm, thu hút đầu tư để phát triển CNHT

Kinh nghiệm của các nước cho thấy, ngay từ đầu cần phải có chính sách rõ ràng trong việc thu hút đầu tư vào phát triển CNHT, tạo môi trường đầu tư thông thoáng,

kết hợp ưu đãi với các chính sách xúc tiến đầu tư. Chính phủ cần thực hiện các chính sách ưu đãi, nhằm khuyến khích, thu hút đầu tư, hướng đầu tư trong nước và nước ngoài vào phát triển CNHT. Cần chọn lựa nhà đầu tư FDI, nên chọn các nhà đầu tư có bí quyết công nghệ, có năng lực chế tạo và có thị trường đầu ra ổn định.

Thứ sáu, xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT. Để phát triển CNHT, thì xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT là không thể thiếu. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT

giúp các công ty đa quốc gia rút ngắn quá trình lựa chọn nhà cung cấp. Quá trình này gồm giai đoạn tìm kiếm sơ bộ, khảo sát cơ sở sản xuất, và kiểm tra mẫu. Bộ cơ sở dữ liệu về CNHT hiệu quả có thể giúp giảm thời gian tìm kiếm sơ bộ bởi nó sẽ cung cấp

những thông tin cơ bản. Ngoài ra, cơ sở dữ liệu cũng có thể giảm thời gian khảo sát cơ sở sản xuất và kiểm tra mẫu vì nó giúp các nhà lắp ráp có vốn đầu tư nước ngoài loại bỏ các nhà cung cấp ít tiềm năng và chỉ tập trung vào nhà cung cấp tiềm năng.

Thứ bảy, phát triển DNNVV. Có thế thấy ở hầu hết các quốc gia, bên cạnh các doanh nghiệp lớn giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt, thì phát triển DNNVV được coi là giải

pháp trọng tâm để phát triển ngành CNHT. Việc phát triển DNNVV cần có những giải pháp cụ thể: cơ chế, chính sách hỗ trợ để khuyến khích phát triển, đưa ra định hướng phát triển rõ ràng, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, hỗ trợ về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, phát triển thị trường đầu ra cho các DNNVV, v.v… Thực tiễn kinh

nghiệm các nước cho thấy, DNNVV cần những định hướng và những quy định tạo khuôn khổ hoạt động. Chính phủ cần xây dựng thành các chương trình cụ thể.

63

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 của luận án đã tập trung giải quyết ba nội dung chính: Thứ nhất, khái quát những vẫn đề cơ bản về công nghiệp hỗ trợ, sự phát triển công nghiệp hỗ trợ. Thứ hai, phân tích những ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến dòng vốn FDI gồm: (1) ảnh hưởng đến quy mô thu hút FDI, (2) ảnh hưởng đến khả năng đóng góp vào kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực FDI, (3) ảnh hưởng đến hiệu ứng lan toả của khu vực FDI, (4). Ảnh hưởng đến cơ cấu FDI, (5). Ảnh hưởng đến khả năng liên kết giữa DNFDI và doanh nghiệp nội địa. Thứ ba, luận án nghiên cứu kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm thu hút FDI tại một số quốc gia có ngành CNHT phát triển như Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia,v.v… Từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm phát triển CNHT đối với Việt Nam như: quy định tỷ lệ nội địa hoá, thu hút đầu tư cho phát triển CNHT, thúc đẩy liên kết doanh nghiệp, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu,v.v…

Hai nội dung về CNHT và tác động của CNHT đến thu hút FDI chính là khung lý thuyết cho các nội dung phân tích thực trạng về phát triển CNHT và tác động đến thu hút FDI vào Việt Nam ở Chương 3. Trong khi các bài học kinh nghiệm sẽ là cơ sở để so sánh với thực trạng ở Việt Nam và làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đề xuất các khuyến nghị và hàm ý chính sách ở Chương 4.

64

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM

Trong chương 3, dựa trên nguồn số liệu thu thập từ Tổng cục thống kê, Viện

nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp – Bộ Công Thương, Trung tâm phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (SIDEC), Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, luận án đánh giá mức độ phát triển ngành CNHT Việt nam, thực trạng dòng vốn FDI vào Việt Nam và phân tích những ảnh hưởng của công nghiệp hỗ

trợ đến thu hút vốn đầu tư trự tiếp nước ngoài vào Việt Nam.

3.1. Cơ sở pháp lý về phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam

Đối với Việt Nam, CNHT là ngành sản xuất công nghiệp nền tảng, chính yếu

và là xương sống của nền công nghiệp quốc gia, quyết định khả năng cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm cuối cùng. Trong những năm gần đây, xác định được vai trò quan trọng của việc phát triển CNHT, đặc biệt là phát triển CNHT nhằm thu hút FDI, Chính phủ đã ban hành hàng loạt văn bản nhằm đẩy mạnh việc phát triển

CNHT. Cụ thể như sau:

(cid:5) Quyết định số 37/2007/QĐ-BCN, ban hành ngày 31/07/2007, phê duyệt quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 với quan điểm chính là: (1) phát triển CNHT là khâu đột phá để phát triển các ngành công nghiệp chủ lực; (2) phải gắn với phân công hợp tác quốc tế và phát triển DNNVV; (3) trên cơ sở chọn lọc, dựa trên tiềm năng, lợi thế so sánh; (4) theo hướng phát huy tối đa năng lực đầu tư của các thành phần kinh tế, (5) theo hướng tập trung theo từng nhóm ngành công nghiệp.

(cid:5) Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg, ban hành ngày 24/2/2011 về chính sách phát triển một số ngành CNHT. Văn bản này chính thức đưa ra các khái niệm về CNHT, sản phẩm CNHT, dự án sản xuất sản phẩm CNHT. Đây được coi là lời tuyên bố chính thức đầu tiên của Chính phủ dành sự ủng hộ cho ngành CNHT tạo khung pháp lý cơ bản cho sự hình thành và phát triển của lĩnh vực này. Quyết định này quy định các chính sách khuyến khích, ưu đãi phát triển CNHT đối với các ngành cơ khí chế tạo, điện tử- tin học, sản xuất lắp ráp dệt may, da giầy và CNHT cho phát triển công nghiệp công nghệ cao (CNCNC). Văn bản liên quan:

- Thông tư 96/2011/TT- BTC hướng dẫn chính sách tài chính khuyến khích phát triển CNHT. Theo đó, Thông tư hướng dẫn chính sách tài chính khuyến khích phát triển CNHT đối với các ngành cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt - may, da - giầy và CNHT cho phát triển công nghệ cao theo quy định tại Quyết định trên.

65

- Quyết định số 1483/QĐ-TTg về danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển. Theo đó danh mục các sản phẩm ưu tiên thuộc ngành CNHT: Dệt – may; da - giầy, điện tử - tin học; sản xuất – lắp ráp ô tô; cơ khí chế tạo; sản phẩm hỗ trợ công nghiệp cho công nghệ cao.

- Quyết định Số: 842/QĐ-TTg, Ngày 1/6/2011 Chính phủ về việc phê duyệt “kế hoạch phát triển một số ngành CNCNC đến năm 2020” quy định mục tiêu, nội dung của kế hoạch và các giải pháp phát triển một số ngành CNCNC và các chính sách khuyến khích, ưu đãi phát triển sản xuất các sản phẩm CNCNC phù hợp với danh mục công nghệ cao ưu tiên đầu tư phát triển và danh mục sản phẩm công nghệ cao khuyến khích phát triển cũng tạo điều kiện cho phát triển CNHT cho các ngành công nghệ cao.

- Công văn số 9734/BCT-CNNg ngày 20/10/2011 của Bộ Công Thương hướng dẫn trình tự, thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt dự án sản xuất sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển: hướng dẫn về trình tự lập dự án và đề xuất ưu đãi cho dự án sản xuất sản phẩm CNHT theo điều 4, Quyết định 12/2011/QĐ-TTg.

(cid:5) Nghị định 75/2011/NĐ-CP, ngày 30/08/2011 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, theo đó dự án đầu tư hạ tầng khu CNHT, dự án thuộc danh mục các ngành CNHT theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ được vay vốn tín dụng đầu tư với lãi suất ưu đãi của Chính phủ. Mức vốn cho vay đối với mỗi dự án tối đa bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án. Lãi suất cho vay đầu tư không thấp hơn lãi suất bình quân các nguồn vốn cộng với phí hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Thời hạn cho vay được xác định theo khả năng thu hồi vốn của dự án và khả năng trả nợ của chủ đầu tư nhưng không quá 12 năm. Sau đó Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số 35/2012/TT-BTC, ngày 02/03/2012 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 75/2011/NĐ-CP.

(cid:5) Quyết định số 1556/QĐ-TTg, ban hành ngày 17/10/2012 phê duyệt Đề án “Trợ giúp phát triển DNNVV trong lĩnh vực CNHT”. Theo đó, phát triển DNNVV trong lĩnh vực CNHT trên cơ sở thu hút tối đa các nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài; tham gia vào mạng lưới sản xuất của các MNC; phát huy tối đa nguồn nhân lực và các nguồn lực trong nước; tăng khả năng

cạnh tranh của doanh nghiệp trước sức ép hội nhập.

(cid:5) Luật 71/2014/QH13 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế. Theo đó DNHT được hưởng ưu đãi về thuế suất thu nhập doanh nghiệp khi thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát

66

triển (do Chính phủ quy định) và đáp ứng một trong các tiêu chí cụ thể. Tiếp theo là các văn bản hướng dẫn:

- Nghị định số 12/2015/NĐ-CP, ngày 12/02/2015 của Chính phủ về hướng dẫn Luật sửa đổi bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế;

- Thông tư số 96/2015/TT-BTC, ngày 22/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế và sửa đổi bổ sung một số điều của các nghị định về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014, Thông tư tư số 151/2014/TT-BTC ngày số 119/2014/TT-BTC ngày 25/8/2014, Thông

10/10/2014 của Bộ Tài chính.

- Thông tư số 21/2016/TT-BTC, ngày 05/2/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về hướng dẫn về khai thuế giá trị gia tăng và ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 của Chính phủ về phát triển CNHT.

(cid:5) Luật số 67/2014/QH13 về Luật đầu tư̛̛̛: theo đó dự án đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT là dự án được đặc biệt ưu đãi đầu tư, được hưởng mức ưu đãi cao khi đầu tư, sản xuất tại Việt Nam.

- Nghị định số 118/2015/NĐ-CP, ngày 12/11/2015 của Chính phủ về Quy định

chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật đầu tư

(cid:5) Quyết định số 9028/QĐ-BCT, ngày 8/10/2014, của Bộ Công thương đã phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Mục tiêu chung của Quy hoạch nhằm đảm bảo đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Sản phẩm CNHT đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất (đến năm 2030, tỷ lệ này là 70%) tiêu dùng nội địa, xuất khẩu 25% giá trị sản

xuất công nghiệp.

Thực hiện mục tiêu chung, từ nay đến năm 2020, Việt Nam tập trung phát triển CNHT thuộc 3 lĩnh vực chủ yếu và theo các định hướng sau: (1) Lĩnh vực linh kiện

phụ tùng kim loại, nhựa - cao su, điện - điện tử; (2) Lĩnh vực CNHT ngành dệt may - da giày; (3) Lĩnh vực CNHT cho công nghiệp công nghệ cao.

(cid:5) Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT được Chính phủ ban hành ngày 03/11/2015với hàng loạt chính sách hỗ trợ, ưu đãi với CNHT. Trong đó, một nội

67

dung khá mới là việc hình thành chương trình quốc gia về phát triển CNHT đi kèm với các chính sách hỗ trợ trong thời gian tới, thành lập các trung tâm phát triển CNHT ở các địa phương, v.v… Các chính sách hỗ trợ, ưu đãi này phủ rộng từ khâu nghiên cứu, phát triển cho tới khâu ứng dụng, chuyển giao công nghệ và sản xuất sản phẩm.

Tiếp theo là các văn bản hướng dẫn:

- Thông tư 55/2015/TT-BCT, ngày 30/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Công thương Quy định trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối với dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển;

- Thông tư 01/2016/TT-NHNN, ngày 4/2/2016 của Thống đốc Ngân hàng nhà

nước Việt Nam về hướng dẫn chính sách cho vay phát triển CNHT;

3.2. Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam

Theo Nghị định số 111/2015/NĐ-CP, ngày 3/11/2015 của Chính phủ về phát triển CNHT, thì CNHT được hiểu “là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng để cung cấp cho sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh”. Nghị định cũng đưa ra danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển, tập trung phục

vụ các ngành công nghiệp: dệt may; da giày; điện tử; sản xuất lắp ráp ô tô; cơ khí chế tạo và CNCNC.

Theo Quyết định số 9028/QĐ-BCT, ngày 8/10/2014, của Bộ trưởng Bộ Công

Thương về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, hiện nay CNHT Việt Nam tập trung tại các lĩnh vực chủ yếu là: (1) Lĩnh vực linh kiện, phụ tùng: bao gồm sản xuất linh kiện kim loại, linh kiện nhựa – cao su và linh kiện điện – điện tử; (2) Lĩnh vực CNHT ngành dệt may - da giày: sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may – da giày; (3) Lĩnh vực CNHT phục vụ các ngành CNCNC. Vì vậy, tác giả sẽ phân tích thực trạng CNHT Việt Nam theo cơ cấu ngành, và ở mỗi ngành tác sẽ tập trung phân tích các chỉ tiêu sau: (1) Quy mô (giá trị

sản xuất công nghiệp, số lượng lao động và số lượng doanh nghiệp hỗ trợ), (2) Chất lượng (trình độ công nghệ, tiêu chuẩn chất lượng, mối quan hệ khách hàng, khả năng cung ứng)

3.2.1. Lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng

a. Quy mô

(i).Giá trị sản xuất công nghiệp

GTSXCN lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng liên tục tăng đều qua các năm từ

năm 2011 dến 2015 (hình 3.2). Năm 2015, GTSXCN đạt 316.000 tỷ đồng tăng 24,22% so

68

với năm 2014, tăng 87,94% so với năm 2011. Trong đó sản xuất linh kiện kim loại có GTSXCN cao nhất, đạt 150.000 tỷ đồng, GTSXCN linh kiện điện - điện tử đạt 117.000 tỷ đồng, thấp nhất là sản xuất linh kiện nhựa – cao su đạt 49.000 tỷ đồng. Sự gia tăng GTSXCN lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng là do sự cố gắng nỗ lực từ phía các DNHT,

cùng với hiệu quả của những chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển CNHT từ phía Chính Phủ.

Đơn vị: Nghìn tỷ đồng, giá hiện hành

Hình 3.1: GTSXCN lĩnh vực sản xuất linh kiện phụ tùng

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu Tổng cục Thống kê

(ii). Số lượng doanh nghiệp

Cùng với sự gia tăng về GTSXCN, là sự phát triển về quy mô của các doanh nghiệp trong ngành CNHT lĩnh vực linh kiện – phụ tùng. Theo số liệu từ Tổng cục thống kê, đến năm 2015 Việt Nam có khoảng 1.675 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực sản xuất linh kiện, phụ tùng. Giai đoạn từ năm 2011 đến 2015, số doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng tăng 10% (Bộ Công Thương, 2016). Trong tổng cộng 1.675 doanh nghiệp, thì lĩnh vực sản xuất linh kiện kim loại chiếm tỷ trọng

lớn nhất với khoảng 750 doanh nghiệp, tuy nhiên tốc độ phát triển không cao. Sản xuất linh kiện điện - điện tử có khoảng 540 doanh nghiệp, tốc độ phát triển rất nhanh, trung bình tăng 13,8 %/năm. Lĩnh vực sản xuất linh kiện nhựa - cao su có 380 doanh nghiệp, tăng 11,5 %/năm. (iii). Số lượng lao động

Tính đến hết năm 2015, lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng thu hút được khoảng 224.100 lao động, tăng trưởng bình quân về số lượng lao động cả giai đoạn đạt

khoảng 6,7%/năm, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực sản xuất linh kiện kim loại và linh kiện điện - điện tử, lĩnh vực linh kiện nhựa – cao su chiếm tỷ trọng nhỏ lao động (9,6%). Các doanh nghiệp tham gia sản xuất CNHT lĩnh vực linh kiện phụ tùng đa số là các

69

DNNVV có quy mô dưới 300 lao động.

Hình 3.2: Số doanh nghiệp trong lĩnh vực linh kiện phụ tùng năm 2015 Hình 3.3: Số lao động trong lĩnh vực linh kiện phụ tùng năm 2015

Nguồn: Viện NCCLCSCN – Bộ Công Thương Sự gia tăng về số doanh nghiệp và số lao động của các DNHT trong lĩnh vực

linh kiện – phụ tùng cho thấy, ngành CNHT lĩnh vực này đã từng bước phát triển, thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp ngày càng tăng, là tiền đề quan trọng cho sư phát triển ngành CNHT trong thời gian tới.

b. Chất lượng (i). Trình độ công nghệ

Cùng với việc mở rộng quy mô, các DNHT lĩnh vực linh kiện phụ tùng cũng có sự đầu tư, phát triển về công nghệ. Các doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng của Việt Nam chủ yếu sử dụng công nghệ, máy móc của Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan

và một số máy móc chế tạo hoặc được nâng cấp trong nước (Khảo sát của SIDEC, 2014). Cụ thể như sau:

Hình 3.4: Nguồn máy móc, công nghệ chủ yếu

Nguồn: Viện NCCLCSCN – Bộ Công Thương

70

- Lĩnh vực sản xuất linh kiện kim loại: Theo khảo sát được tiến hành bởi SIDEC (2015) công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp sản xuất linh kiện kim loại đa phần ở trình độ thấp, lạc hậu hoặc thiếu đồng bộ, chỉ có một số doanh nghiệp, chủ yếu là DNFDI là được đầu tư công nghệ và trang bị máy móc thiết bị hiện đại. Các công

nghệ được sử dụng trong quá trình sản xuất linh kiện kim loại như đúc, mạ, xử lý bề mặt, nhiệt luyện còn hạn chế, yếu kém. Đa phần các doanh nghiệp sản xuất linh kiện kim loại sử dụng công nghệ máy móc từ Nhật Bản, tuy nhiên chủ yếu là các máy móc

công nghệ cũ, đã qua sử dụng. Mặc dù là công nghệ cũ, nhưng các máy móc này có chất lượng và độ chính xác cao, do vậy vẫn đảm bảo sản xuất được các sản phẩm đạt tiêu chuẩn. Bên cạnh các máy móc, thiết bị từ Nhật Bản, các doanh nghiệp còn sử dụng các máy móc, thiết bị từ Trung Quốc, Đài Loan có giá thành rẻ hơn, nhưng chất

lượng lại kém hơn, độ chính xác thấp hơn.

- Lĩnh vực sản xuất linh kiện điện – điện tử: Các doanh nghiệp sản xuất linh kiện điện – điện tử chủ yếu sử dụng công nghệ, máy móc thiết bị có nguồn gốc từ Trung Quốc,

Hàn Quốc và Nhật Bản. Các doanh nghiệp nội địa có trình độ công nghệ, máy móc thiết bị ở mức trung bình, rất ít doanh nghiệp có đủ năng lực tham gia cung ứng sản phẩm CNHT cho các MNC (SIDEC, 2015). 4P, Thanh Long hay Hanel PT là một trong số ít những doanh nghiệp tiêu biểu trong lĩnh vực sản xuất linh kiện – điện tử, có đủ năng lực

cung ứng sản phẩm cho các MNC. Các DNFDI được đầu từ công nghệ, máy móc, có trình độ cao, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu hoặc cung cấp cho các MNC có nhà máy lắp ráp tại Việt Nam.

- Lĩnh vực sản xuất linh kiện nhựa – cao su: Các doanh nghiệp sản xuất linh kiện nhựa – cao su chủ yếu sử dụng công nghệ, máy móc từ Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Trong quá trình sản xuất linh kiện nhựa – cao su, thì công nghệ ép phun được sử dụng phổ biến nhất, song chủ yếu các doanh nghiệp sử dụng máy ép dưới 500

tấn. Một số ít doanh nghiệp sử dụng máy móc, thiết bị hiện đại, sản phẩm của họ thường xuất khẩu hoặc cung cấp cho các MNC có nhà máy tại Việt Nam. Khuôn phun, ép nhựa được cung ứng khá tốt trong nội địa, tuy nhiên những sản phẩm yêu cầu

khuôn phức tạp, kỹ thuật cao để sản xuất linh kiện cho các ngành như điện tử, ô tô, v.v… đều phải nhập từ nước ngoài (SIDEC, 2015).

Có thể thấy, trình công nghệ mà các DNHT đang sử dụng đều ở mức thấp. Đa phần được nhập khẩu từ Nhật Bản, Trung Quốc hay Đài Loan, trong đó nhiều thiết bị

đã qua sử dụng. Số lượng doanh nghiệp sử dụng máy móc, công nghệ hiện đại nhập khẩu từ EU hay Mỹ rất thấp. Trong khi Mỹ hay EU là những nước nắm giữ công nghệ nguồn, có trình độ công nghệ phát triển nhất thế giới, vì vậy thời gian tới để phát

71

triển, nâng cao trình công nghệ, ngành CNHT cần đầu tư thêm các máy móc, thiết bị công nghệ từ các nước có trình độ công nghệ tiên tiến nhất. (ii). Tiêu chuẩn chất lượng

Trong quá trình sản xuất linh kiện các DNHT luôn đảm bảo sản phẩm được sản

xuất đáp ứng được các tiêu chuẩn, công cụ quản lý tiên tiến. Theo khảo sát được tiến hành bởi SIDEC (2015), hơn 64% doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000/ ISO 9001, hơn 44% doanh nghiệp áp dụng các phương pháp quản lý 5S,

LEAN,v.v... Việc áp dụng các tiêu chuẩn, phương pháp quản lý chất lượng hiện đại là một yêu cầu tất yếu khi các doanh nghiệp muốn trở thành đối tác cung cấp linh kiện cho các DNFDI. Khi triển khai xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn, phương pháp quản lý hiện đại, DNHT đã nhận được sự hỗ trợ tích cực từ phía các khách hàng là các

DNFDI, các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại có thể thấy số lượng các DNHT đạt tiêu chuẩn quản lý môi trường (ISO14000), các tiêu chuẩn quản lý ở mức cao như hệ thống an toàn và quản lý sức khoẻ nghề nghiệp

(OHSAS 18001), tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội (SA 8000) còn rất hạn chế.

Hình 3.5: Áp dụng các tiêu chuẩn, phương pháp quản lý hiện đại

Nguồn: Viện NCCLCSCN – Bộ Công Thương

(iii). Mối quan hệ với khách hàng

Khách hàng chủ yếu của các DNHT sản xuất linh kiện, phụ tùng là chủ yếu DNFDI, tập trung ở cả doanh nghiệp lắp ráp và doanh nghiệp sản xuất linh kiện. Ngoài ra là xuất khẩu, với thị trường chính là các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan và Hongkong, các nước ASEAN và EU. Có thể thấy các

DNFDI có vai trò quan trọng, thúc đẩy sự phát triển của ngành CNHT Việt Nam. Trong một số lĩnh vực, đặc biệt là sản xuất linh kiện xe máy, đã có sự chuyển giao công nghệ và phương pháp sản xuất từ DNFDI sang doanh nghiệp nội địa. Các DNFDI, các MNC đang đầu tư tại Việt Nam cũng hỗ trợ nhà cung ứng xuất khẩu sản phẩm sang các quốc gia trong mạng lưới sản xuất toàn cầu của mình.

72

Hình 3.6: Khách hàng chủ yếu của DNHT

Nguồn: Viện NCCLCSCN – Bộ Công Thương

(iiii). Khả năng cung ứng

Ngành CNHT lĩnh vực sản xuất linh kiện cung cấp sản phẩm phục vụ phục vụ

các ngành công nghiệp hạ nguồn trong nước như ô tô, xe máy, máy nông nghiệp, công nghiệp điện – điện tử, v.v… Theo Bộ Công Thương (2015), ngành xe máy có tỷ lệ cung ứng trong nước rất cao (85 đến 95%), còn lại tỷ lệ cung ứng linh kiện, phụ tùng cho các ngành công nghiệp khác hạn chế, đặc biệt là những ngành CNCNC (5% đến

10%), ngành điện tử tin học, viễn thông (15% đến 30%), ngành ô tô (15 đến 40%),v.v… Ngoài cung ứng trong nước, các DNHT Việt Nam cũng xuất khẩu các sản phẩm linh kiện, phụ tùng sang các nước khác.

Bảng 3.1: Năng lực cung ứng của lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng

Khả năng cung ứng trong nước (%)

Lĩnh vực hạ nguồn

Linh kiện cơ khí Linh kiện điện - điện tử Linh kiện nhựa - cao su

Xe máy 85 - 95% 85-90% 85 - 95%

Ô tô 15 - 40% 15% 20%

Sản xuất thiết bị đồng bộ 30 - 45% 40% -

Sản xuất máy nông nghiệp, máy động lực 50 - 60% - -

Điện tử gia dụng 50% 30 - 35% 40%

Điện tử tin học, viễn thong 30% 15% 15%

CN công nghệ cao 10% 5% 5%

Nguồn: Viện NCCLCSCN – Bộ Công Thương.

73

3.2.2. Lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may - da giày

3.2.2.1. Công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may

Quy trình sản xuất của ngành dệt may gồm các bước như sau:

Hình 3.7: Quy trình sản xuất ngành dệt may

Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

a. Quy mô (i).Giá trị sản xuất công nghiệp

Năm 2015, GTSXCN sản phẩm CNHT ngành dệt may ước đạt trên 182 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), tốc độ tăng trưởng từ 2012 tới nay khoảng 11%/năm. Chiếm tỷ trọng cao nhất là lĩnh vực sản xuất sợi (chiếm 73,8% GTSXCN toàn ngành), lĩnh

vực sản xuất vải dệt thôi (chiếm 15,2% GTSXCN). Lĩnh vực hoàn thiện sản phẩm dệt, sản xuất phụ liệu ngành may tăng trưởng khá tốt nhưng GTSXCN không cao.

Bảng 3.2: GTSXCN sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may

Đơn vị: tỷ đồng, giá hiện hành

Năm 2012 2013 2014 2015

27826.37

Sản xuất sợi 84123.4 96682 120367.5 134811.6

7986.98

Sản xuất vải dệt thôi 22525.8 22402 25296.7

9913.09

Hoàn thiện sản phẩm dệt 5212.1 5931.2 6945.2

4885.216

6.611,5 6994.4 9011.9 Sản xuất vải dệt kim, vải đan móc và vải không dệt khác

Sản xuất phụ liệu ngành may 2341,4 3128.3 4361.8

120814.3 135137.8 165983.1 182581.41 Tổng cộng

Nguồn: Bộ Công Thương & Tổng Cục Thống kê

74

(ii). Số lượng doanh nghiệp

Tính đến hết tháng 12/2015 số lượng DNHT ngành dệt may là 1.357 doanh

nghiệp, chiếm 15,9% tổng số doanh nghiệp ngành dệt may. Các doanh nghiệp sản xuất sợi chiếm số lượng lớn nhất (417 doanh nghiệp, chiếm 42,1% tổng số DNHT ngành dệt may). Số lượng doanh nghiệp hoàn thiện sản phẩm dệt có xu hướng giảm sút, năm 2015 chỉ còn 290 doanh nghiệp

Bảng 3.3: Số lượng DNHT ngành dệt may

417

2012 2013 2014 2015 Năm

Sản xuất sợi, chỉ may 340 355 397

275

Sản xuất vải dệt thôi 290 290 296 300

210 242 257 Sản xuất vải dệt kim, vải đan móc và vải không dệt khác

Hoàn thiện sản phẩm dệt 330 324 292 290

Sản xuất phụ liệu ngành may 39 52 71 75

Nguồn: Viện NCCLCSCN – Bộ Công Thương

(iii). Số lượng lao động

CNHT ngành dệt may thu hút số lượng lao động lớn, năm 2014 đạt 150,2 nghìn lao động, tập trung ở các lĩnh vực sản xuất sợi (trên 87,6 nghìn lao động, chiếm 58,3% tổng số lao động toàn ngành) và sản xuất vải dệt thôi (chiếm 21%). Từ 2012 tới nay,

lĩnh vực sản xuất sợi phát triển rất mạnh, tăng trưởng mạnh về GTSXCN, số lượng doanh nghiệp và thu hút số lượng lớn lao động.

Hình 3.8: Lao động trong lĩnh vực CNHT ngành dệt may

Nguồn: Viện NCCLCSCN – Bộ Công Thương

75

b. Chất lượng

(i). Trình độ công nghệ

Nhận thức được vai trò quan trọng của công nghệ trong sản xuất, nhiều DNHT

ngành dệt may đã đầu tư, mở rộng sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ hiện đại,

sử dụng dây chuyền thiết bị có trình độ tự động hóa cao, tính đồng bộ cao, ít lao động,

ít diện tích nhà xưởng, tiêu tốn ít nguyên liệu nhiên liệu giảm lượng chất thải đầu ra,

v.v… Tuy nhiên, nhìn chung trình độ công nghệ của các DNHT dệt may Việt Nam

vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Máy móc, thiết bị trong lĩnh vực CNHT ngành dệt may hầu hết đều được nhập khẩu từ Ý, Thụy Sỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, v.v… Các doanh nghiệp nội địa chủ yếu chỉ sửa chữa, bảo dưỡng thiết bị, lắp đặt hệ thống làm mát, thông gió, điều hòa không

(ii). Tiêu chuẩn chất lượng

khí, nhà xưởng, sản xuất lắp đặt máy kiểm tra vải, máy cắt vòng, máy cắt keo, máy dập nút, bàn cắt, bàn kiểm tra, xe vận chuyển, ghế ngồi may, v.v...và sản xuất một số chi tiết thay thế đơn giản.

Nhằm tạo ra những sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, các

DNHT dệt may đã mạnh dạn thay đổi mô hình quản lý sản xuất, quản lý kỹ thuật, quản

lý thiết bị bảo dưỡng máy móc, ứng dụng tin học trong điều hành và thống kê dữ liệu

sản xuất một cách chính xác, khoa học, được cập nhật kịp thời nhanh chóng. Việc áp

dụng mô hình quản lý được thực hiện theo từng công đoạn sản xuất, gắn trách nhiệm

của người quản lý, giúp phản ứng nhanh kịp thời, phát huy được tối đa năng lực sáng

tạo và tính chủ động trong điều hành quản lý sản xuất. Một số phương pháp quản lý

sản xuất hiện đại như Lean, 5S, v.v… đã được áp dụng giúp hợp lý hóa, tiết kiệm diện

tích mặt bằng, nguyên liệu, nhân công, tối ưu hóa các thao tác vận hành, tạo ra môi

trường làm việc thông thoáng khoa học.

(iii). Khả năng cung ứng

Sản phẩm chủ yếu của CNHT ngành dệt may là sợi, vải các loại. Sản lượng sợi tăng trưởng nhanh, năm 2015 đạt 1.713 nghìn tấn. Sản phẩm chủ yếu là sợi cho dệt thoi, sợi cho dệt kim và sợi cho chỉ may. Sản lượng vải tăng chậm, năm 2014 đạt 1.389 triệu m2, đáp ứng được gần 22% nhu cầu thị trường nội địa (hơn 6 tỉ m2 vải/năm).

76

Hình 3.9: Sản phẩm chủ yếu CNHT ngành dệt may

Nguồn: Viện NCCLCSCN – Bộ Công Thương Mặc dù có sự tăng trưởng qua các năm, tuy nhiên CNHT ngành dệt may vẫn

chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong nước, cụ thể:

Ngành sợi: Sợi bông và bông pha đã có thể đáp ứng khá tốt nhu cầu sản xuất trong nước, sợi PE cũng phần nào đáp ứng được nhu cầu, sợi filament chủ yếu nhập

khẩu từ nước ngoài. Gần đây, lĩnh vực sản xuất sợi đã có sự phát triển, trong khi đó lĩnh vực dệt và nhuộm hoàn thiện lại kém phát triển, do vậy doanh nghiệp phải xuất khẩu đi lượng sợi lớn.

Ngành dệt: Sản phẩm dệt thoi hiện nay mới chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Dệt kim là nhóm sản phẩm xuất khẩu nhiều nhất về khối lượng và giá trị. Đối với dệt kim trơn, tỷ lệ cung cấp cho may xuất khẩu đạt 65 – 70%. Nhuộm và hoàn tất: Công đoạn nhuộm và hoàn tất trong nước kém phát triển, các doanh nghiệp phải xuất vải mộc chưa nhuộm và hoàn tất, sau đó nhập về thành phẩm hoàn chỉnh để sử dụng.

Sản xuất phụ liệu dệt may (kim, chỉ, mếch, cúc, khóa, băng chun, nhãn, v.v…): Hiện tại, sản phẩm chỉ may đã đáp ứng khá tốt nhu cầu sản xuất trong nước, nhiều

doanh nghiệp đã mua 100% chỉ may trong nước. Sản xuất phụ liệu dệt may hiện chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu. Các loại khuy, cúc, mex và khóa kéo phải nhập khẩu với số lượng lớn và chủ yếu là từ Trung Quốc.

3.2.2.2. Công nghiệp hỗ trợ ngành da giày

Ngành da giày Việt Nam chủ yếu là gia công xuất khẩu, việc sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu của ngành phụ thuộc nhiều vào đối tác nước ngoài. Nguyên phụ liệu cho sản xuất giầy dép, đồ da xuất khẩu chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài

Loan, Hàn Quốc theo sự chỉ định của đối tác. Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam

77

(Lefaso), tỷ lệ nội địa hóa ngành da giày hiện nay chỉ đạt khoảng 40-45%, các nguyên liệu quan trọng như da thuộc, da nhân tạo, vải mũ giày hầu hết phải nhập khẩu.

Phân tích theo quy trình sản xuất của ngành da giày, sản phẩm CNHT trong sản xuất giầy dép, túi cặp bao gồm các lĩnh vực: Da thuộc, giả da tổng hợp và vải; Đế

-Da thuộc, giả da tổng hợp, vải các loại

-Đế, gót, mũi giày

-Hóa chất

-Keo dán, phụ liệu các loại

giày, gót, mũi giày dép; Phụ liệu các loại; Keo dán, dung môi, hoá chất các loại; Phom giày; Dụng cụ cơ khí, phụ tùng, thiết bị máy móc.

Hình 3.10: Quy trình sản xuất của ngành da giày Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, 2013

a. Quy mô (i). Giá trị sản xuất công nghiệp

Theo Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm

2030, CNHT trong sản xuất giày dép, túi cặp bao gồm các lĩnh vực: Da thuộc, da tổng hợp và vải; Đế, gót, mũi giày dép; Phụ liệu các loại; Phom giày; Keo dán, dung môi, hoá chất các loại; Dụng cụ cơ khí, phụ tùng, thiết bị máy móc. GTSXCN ngành CNHT

lĩnh vực da giầy liên tục tăng đều qua các năm. Năm 2015, GTSXCN sản phẩm CNHT ngành da giày ước đạt 50 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), chiếm tỷ trọng 22.5% GTSXCN toàn ngành da giày.

Đơn vị: tỷ đồng, giá hiện hành

Hình 3.11: GTSXCN ngành công nghiệp hỗ trợ lĩnh vực da giày

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê

78

(ii) Số lượng doanh nghiệp và lao động

Ước tính đến hết năm 2015, số lượng DNHT ngành da giày là 230 doanh nghiệp, tốc độ tăng trưởng chậm. Bên cạnh đó, các DNHT ngành may mặc (như sản xuất nhãn mác, khóa kéo, khuy, băng chun, v.v…), sản xuất hóa chất và cơ khí cũng

tham gia sản xuất, cung cấp một số sản phẩm CNHT cho ngành da giày. Lao động trong lĩnh vực CNHT ngành da giày năm 2015 ước đạt 20.910 người.

Hình 3.12: Số lượng doanh nghiệp, lao động ngành CNHT lĩnh vực da giày

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê

b. Chất lượng

(i).Trình độ công nghệ

Về máy móc, thiết bị phục vụ ngành da giày, doanh nghiệp cơ khí trong nước cũng chỉ chế tạo được một số thiết bị đơn giản như máy chặt thuỷ lực, băng tải, hệ thống sấy, nồi hấp giày, v.v... Chất lượng sản phẩm không cao, mức độ chuẩn hoá và

khả năng lắp vẫn thấp, thiếu đồng bộ, giá thành cao nên thị trường tiêu thụ hạn chế. Hầu hết máy móc thiết bị sản xuất sử dụng trong ngành da giày đều phải nhập khẩu từ Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, v.v…

Nhìn chung, sự phát triển CNHT cho ngành dệt may – da giày Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, cả về chất lượng và chủng loại sản phẩm, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Công nghệ, máy móc sử dụng trong khâu dệt, nhuộm, hoàn thành sản phẩm đều thiếu đồng bộ, lạc hậu, vì vậy năng suất và chất lượng

sản phẩm chưa đáp ứng nhu cầu cho sản phẩm may xuất khẩu.

(ii). Tiêu chuẩn chất lượng

Chất lượng da trong nước về cơ bản không đạt tiêu chuẩn chất lượng, việc đầu tư vào lĩnh vực thuộc da còn hạn chế. Các sản phẩm da tổng hợp, da nhân tạo chưa đáp

79

ứng được nhu cầu trong nước, chất lượng sản phẩm thấp, khó tham gia chuỗi cung ứng.

Hiện nay CNHT cho ngành da giày đang thu hút đầu tư lớn từ doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm tận dụng các lợi thế từ các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã và đang đàm phán, ký kết. Các dự án này sẽ cung cấp trực tiếp cho các công

ty da giày trong nước nhằm đảm bảo các yêu cầu về hàm lượng xuất xứ và tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm.

(iii). Khả năng cung ứng

Nguyên vật liệu sản xuất chiếm tỷ trọng lớn, từ 68 – 75% trong tổng giá trị của sản phẩm. Tuy nhiên, theo Lefaso (2015) tỷ lệ nội địa hóa của ngành mới chỉ đạt 40 - 45% (chủ yếu là đế giầy và chỉ khâu), trong khi nguyên liệu quan trọng nhất là nguyên liệu làm mũ giày, da thuộc và da nhân tạo phần lớn vẫn phải nhập khẩu. Việt Nam chỉ

Da: Nhu cầu trong nước về da các loại là rất cao tuy nhiên sản xuất da trong nước chỉ đáp ứng được một phần nhỏ, đặc biệt là nhu cầu về da thuộc. Theo Lefaso (2015), sản xuất da thuộc trong nước có chất lượng trung bình thấp, chỉ đáp ứng được 24,4% nhu cầu về da thuộc. Da tổng hợp, da nhân tạo có tỷ lệ nội địa hoá khoảng 30%, hiện nay nước ta vẫn phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu mũ giày từ Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc

cung ứng được vải cho sản xuất loại giầy vải cấp thấp, các chủng loại vải cao cấp đều phải nhập khẩu. Cụ thể như sau:

Vải làm giày dép các loại: Các nguyên liệu đầu vào (xơ, sợi), công nghệ, máy móc sản xuất và của ngành dệt, nhuộm trong nước còn lạc hậu, chưa dệt được các loại vải chất lượng cao, chủng loại không đa dạng, vì vậy mới chỉ cung ứng được cho các doanh nghiệp sản xuất loại giày vải cấp thấp. Mặt khác ngành dệt vải Việt Nam cũng

chưa chú trọng đến nguyên liệu cho lĩnh vực sản xuất giày dép. Các chủng loại vải cao cấp như loại có in, đính các chi tiết trang trí đều phải nhập khẩu. Theo Lefaso, sản xuất vải dệt (sản xuất mũ giày, túi cặp, ba lô) đáp ứng 17,5%, vải không dệt (làm lót, đệm

mũ giày, túi) hiện trong nước đáp ứng được 12,5% nhu cầu của doanh nghiệp.

Đế, gót, phom giày các loại: Hiện tại, sản xuất đế giày các loại đáp ứng được 58,7% nhu cầu sản xuất nội địa. Phom giày các loại đã được cung cấp trong nước, tỷ lệ nội địa hoá khá cao, khoảng 70%. Các loại phom sản xuất trong nước chủ yếu là phom

nhựa, ngoài ra còn có phom nhôm, phom gỗ. Một số doanh nghiệp sản xuất giày dép đã đầu tư sản xuất phom.

Phụ liệu: Phụ liệu dùng cho sản xuất giày dép, cặp túi bao gồm khoá kéo, độn

80

sắt, pho sắt, ống thép cho gót giày, chỉ may, khuy khoá, móc, dây giày, ruy băng, nhãn mác, băng tăng cường, v.v… Hiện nay các doanh nghiệp trong nước đã sản xuất được một số mặt hàng như nhãn, ren, dây giày. Một số loại phụ liệu như móc, khóa, v.v... cũng đã được sản xuất trong nước nhưng độ tinh xảo, cũng như yếu tố an

toàn cho người sử dụng vẫn kém so với hàng nhập khẩu. Tỷ lệ nội địa hoá của nguyên phụ liệu khoảng 50%.

3.2.3. Công nghiệp hỗ trợ cho các ngành công nghiệp công nghệ cao

Cùng với xu hướng chung của thế giới, các ngành CNCNC đã bắt đầu được quan tâm đầu tư ở Việt Nam. Một số lĩnh vực đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã thu hút nhiều nhà đầu tư như Intel, Nidec, Foxconn, v.v…. Bên cạnh đó, các chính sách ưu đãi cho phát triển CNC cũng bắt đầu được áp dụng đến các doanh nghiệp, đặc

biệt là DNFDI. Đây được kỳ vọng sẽ là nhân tố tiếp tục khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực này. Một số lĩnh vực CNHT cho các ngành CNCNC đã có dấu hiệu hình thành và phát triển, bao gồm:

- Linh kiện phụ tùng cung ứng cho ngành công nghiệp công nghệ thông tin và cho công nghiệp sản xuất thiết bị tự động hóa, cụ thể là khuôn gá có độ chính xác cao; các linh kiện cơ khí cồng kềnh hay các chi tiết cần thay thế thường xuyên;

- Lĩnh vực vật liệu với một số sản phẩm cho công nghiệp công nghệ sinh học,

nhất là các chế phẩm có nguồn gốc tự nhiên sẵn có tại Việt Nam;

- Lĩnh vực thiết bị hỗ trợ, phần mềm, dịch vụ công nghiệp phục vụ cho công nghiệp công nghệ thông tin và sản xuất thiết bị tự động hóa, chủ yếu là phần mềm và dịch vụ hỗ trợ;

Phát triển CNCNC từ lâu đã là hướng ưu tiên trong phát triển kinh tế của Chính Phủ. Nhà nước luôn dành những ưu đãi cao nhất cho các ngành thuộc lĩnh vực CNC, tuy nhiên vẫn chỉ có rất ít doanh nghiệp tiếp cận được với các ưu đãi này, hầu hết chỉ có các DNFDI có quy mô doanh nghiệp lớn. Đây cũng là nguyên nhân làm cho CNHT

lĩnh vực công nghệ cao chưa phát triển. Năng lực của CNHT cho các ngành CNCNC ở Việt Nam mới ở dạng tiềm năng, hầu như chưa có doanh nghiệp nào chuyên sản xuất cho các ngành này, do đó đa số phải nhập khẩu. Năng lực công nghệ của các nhà sản xuất CNHT Việt Nam còn yếu, nguyên vật liệu chủ yếu nhập khẩu, nguồn nhân lực chưa đủ mạnh là các hạn chế rất lớn để phát triển lĩnh vực này.

Tính đến nay, tỷ lệ nội địa hóa với nhóm ngành công nghệ cao có mức thấp nhất so với ngành khác, Intel là một ví dụ. Hiện nay, Intel đã trở thành một trong

những nhà đầu tư chiếm tỷ trọng giá trị xuất khẩu lớn nhất tại Khu công nghệ cao

81

TP.HCM. Tuy nhiên, đến năm 2013, tỷ lệ nội địa hóa của Tập đoàn này chỉ mới đạt trên 10%, tương đương khoảng 11 triệu USD. Mặc dù Tập đoàn muốn tăng cường tỷ lệ nội địa hóa cao hơn nữa nhưng khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Thực trạng này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đáp ứng

được nhu cầu về CNHT công nghệ cao, dẫn tới tình trạng cung ít hơn cầu.

3.2.4. Đánh giá chung về thực trạng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Ngành CNHT của Việt Nam đã được hình thành và từng bước phát triển,

trong đó tập trung vào 3 lĩnh vực chính là: (1) Lĩnh vực linh kiện, phụ tùng; (2) Lĩnh

3.2.4.1. Kết quả đạt được

vực CNHT ngành dệt may - da giày; (3) Lĩnh vực CNHT phục vụ các ngành CNCNC.

Đây cũng chính là các lĩnh vực được định hướng ưu tiên phát triển trong giai đoạn tới.

Nhìn chung lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng; lĩnh vực CNHT ngành dệt may phát

triển khá nhanh trong khi các lĩnh vực CNHT phục vụ CNCNC khá hạn chế (bảng 3.4).

Bảng 3.4: Bức tranh công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Ngành Lĩnh vực Dệt may và Da giày CN công nghệ cao

Cơ khí chế tạo; ô tô, điện tử, máy nông nghiệp, máy CN LK kim loại **** CNHT Linh

kiện phụ tùng LK nhựa – cao su ***

LK điện – điện tử *

Nguyên vật liệu (vải, da) * CNHT lĩnh

vực Dệt may Phụ liệu (cúc, chỉ, để ***

và da giầy giày…)

Vật liệu * CNHT lĩnh

vực công nghệ Linh kiện phụ tùng *

cao Thiết bị hỗ trợ chuyên *

dụng, phần mềm, dịch vụ

(*) : Thể hiện mức độ phát triển của ngành CNHT

Nguồn: Trương Thị Chí Bình, 2016

82

Giá trị sản xuất công nghiệp ngành CNHT liên tục tăng qua các năm. Tăng

mạnh nhất là lĩnh vực sản xuất linh kiện, phụ tùng; tiếp đến là lĩnh vực dệt may – da

giầy; lĩnh vực công nghệ cao tăng trưởng chậm. Điều này cho thấy ngành CNHT đã có

những bước phát triển đáng kể và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát

triển công nghiệp của cả nước theo hướng hiện đại và bền vững.

Số lượng doanh nghiệp và số lượng lao động trong lĩnh vực CNHT có sự tăng

trưởng nhất định. Điều này cho thấy, các ngành CNHT đã từng bước phát triển, thu

hút sự tham gia của các doanh nghiệp và lao động ngày càng tăng, đây sẽ là tiền đề rất

tốt cho sự phát triển CNHT Việt Nam trong thời gian tới.

Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT đã

được cải thiện. Một số DNHT rất quan tâm và mạnh dạn đầu tư phát triển về công

nghệ. Máy móc thiết bị trong lĩnh vực CNHT chủ yếu nhập khẩu từ Nhật Bản, Trung

Quốc, Đài Loan, v,v...

Về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, được sự hỗ trợ tích cực từ phía các DNFDI,

nhiều DNHT đã áp dụng các tiêu chuẩn, phương pháp quản lý chất lượng hiện đại như

ISO 9000/ISO 9001, 5S, LEAN,v.v... Nhờ vậy, mà chất lượng sản phẩm CNHT đã

phần nào được cải thiện.

Ngành CNHT trong nước đã từng bước đáp ứng nhu cầu cho các ngành công

nghiệp hạ nguồn trong nước như ô tô, xe máy, điện tử, dệt may, da giầy,v.v... Một số

ngành có tỷ lệ cung ứng trong nước rất cao như ngành xem máy (85 – 95%),v.v...

Ngoài ra một số lĩnh vực cũng xuất khẩu sản phẩm sang các quốc gia khác.

Đã bắt đầu hình thành chuỗi liên kết sản xuất giữa các DNHT nội địa và các

DNFDI. Các doanh nghiệp nội địa đang dần trở thành vệ tinh cho các doanh nghiệp

sản xuất/lắp ráp. Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp nội địa từng bước tiếp cận

công nghệ tiên tiến, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu của các MNC.

3.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Ngành CNHT ở Việt Nam đã hình thành và từng bước phát triển, tuy nhiên mới chỉ ở giai đoạn phát triển sơ khai, còn manh mún, chưa đáp ứng được nhu cầu của các

DNFDI, v.v… Đối chiếu 5 giai đoạn phát triển của ngành CNHT thì mức độ phát triển

83

của CNHT của Việt Nam nằm ở giữa giai đoạn thứ nhất, thứ hai. So với khu vực Đông

Nam Á, Việt Nam có thể phát triển hơn một số quốc gia như Myanmar, Lào,

Campuchia. Song, so với một số quốc gia phát triển khác trong khu vực thì Việt Nam

có bước phát triển “tụt hậu” sau khoảng 40 năm.

Hình 3.13: Các giai đoạn phát triển của công nghiệp hỗ trợ

Nguồn: Tổng hợp của Phan Thế Công, Hồ Thị Mai Sương, 2011. (cid:5) Số lượng DNHT nội địa còn ít, chủ yếu là DNNVV, quy mô nhỏ, chỉ có khả năng cung cấp một số sản phẩm đơn giản như bao bì, các linh kiện không quan trọng.

Trong tổng số hơn 500.000 doanh nghiệp cả nước thì chỉ có 1.383 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT (chiếm 0,3%). Trong khi đó, các DNFDI chiếm tới trên 80% số doanh nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng tại Việt Nam, tập trung vào lĩnh vực điện - điện tử và linh kiện kim loại.

Nguyên nhân của tình trạng trên là do ngành CNHT đòi hỏi lượng vốn lớn.

Tuy nhiên, đa phần các DNHT nội địa đều thiếu vốn, lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận các khoản vốn vay nói chung và vốn vay ưu đãi của Chính Phủ. Mặc dù trong thời gian qua, để giúp ngành CNHT phát triển, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế ưu đãi cho DNHT, như: Miễn 4 năm đầu thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm 50%

trong 9 năm tiếp theo; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định, nguyên liệu vật tư, linh kiện để thực hiện dự án đầu tư, v.v… Đặc biệt, khi Nghị định 111/2015/NĐ đã cho phép nhà đầu tư hưởng ưu đãi 50% kinh phí sản xuất thử trong hoạt động nghiên cứu và phát triển. Nhiều ưu đãi được đưa ra. Tuy

nhiên, các doanh nghiệp chưa tiếp cận được do nhiều bất cập, không đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định, v.v… Vì vậy, để phát triển ngành CNHT trong thời gian tới

84

Chính phủ cần rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện các chính sách phát triển CNHT, đặc biệt là chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.

(cid:5) Thiếu nguồn lao động có trình độ cao, chủ yếu là lao động giản đơn, tay nghề kém, thiếu kỹ năng, thiếu trình độ chuyên môn. Một số lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao, hiện đại như công nghiệp điện, điện tử, v.v…Tuy nhiên, trình độ lao động hạn chế, nên ảnh hưởng đến năng suất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Theo Kế hoạch phát triển tổng thể các ngành CNHT của Bộ Công Thương, trong thời gian tới, cả nước có khoảng 30 ngành kinh tế kỹ thuật cần đến CNHT. Tuy nhiên, nhân lực phục vụ CNHT hiện chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các ngành công nghiệp trên do một số nguyên nhân sau:

• Hiệu suất đầu tư thấp, chưa hình thành được liên kết giữa doanh nghiệp và nhà trường. Mặc dù có lực lượng lao động dồi dào, cần cù, nhưng hiện nay nguồn lao động có chất lượng cao tại Việt Nam vẫn còn quá ít. Đặc biệt là lao động có tay nghề trong lĩnh vực CNHT còn rất yếu so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, v.v…

• Thiếu khả năng ứng dụng và tính sáng tạo, thiếu sự tích luỹ về trình độ công nghệ do sự chậm trễ trong chuyển giao công nghệ, yêu cầu về hiệu suất cao và thiếu sự tin cậy và nhận thức về chất lượng, chi phí, thời hạn giao hàng, dịch vụ và tốc độ.

• Nghề nghiệp trong các lĩnh vực chế tạo thường ít được xã hội coi trọng, với

tâm lý khó tìm việc và công việc nặng nhọc, sử dụng nhiều sức lao động.

(cid:5) Trình độ công nghệ thấp, chỉ đạt ở mức trung bình trong khu vực với các sản phẩm làm ra chủ yếu đạt mức độ công nghệ trung bình và thấp, khó đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật cao của các DNFDI.

Nguyên nhân của vấn đề này trước hết là do các doanh nghiệp còn khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư cho phát triển công nghệ. Bên cạnh đó, nhiều DNHT

có quan tâm đến vấn đề công nghệ, nhưng chưa dám đầu tư chuyên sâu, chưa mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ. Qua kết quả điều tra tại 200 DNHT, chỉ có 51 doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới công nghệ (chiếm 25%) (Bộ KH_CN, 2016). Mức độ đầu

tư đổi mới công nghệ mới chỉ dừng ở mức mua sắm thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực,v.v… Tình trạng chung là các doanh nghiệp vẫn đang hoạt động khép kín, ít đầu tư đổi mới công nghệ, thậm chí còn đầu tư chồng chéo. Một số doanh nghiệp đầu tư mới, hiện đại thì lại gặp những khó khăn lớn về thị trường, ảnh hưởng đến khả năng hoàn

vốn. Từ năm 2015, Chính phủ đã ban hành NĐ số 111 về phát triển CNHT, trong đó đưa ra các chính sách ưu tiên hỗ trợ về nghiên cứu và phát triển ứng dụng chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, thị trường và ưu đãi thuế để khuyến khích các

85

doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT phát triển, nhưng doanh nghiệp hiện chưa tiếp cận được. Nguyên nhân một phần là do chính sách chưa cụ thể và khó áp dụng hiệu quả trong thực tiễn.

(cid:5) Khả năng cung ứng sản phẩm của ngành CNHT cho nhu cầu sản xuất nội địa còn thấp. Các doanh nghiệp nội địa chỉ mới cung ứng được khoảng 10% nhu cầu nội địa về sản phẩm CNHT (Bộ Công Thương, 2016). Rất nhiều lĩnh vực công nghiệp đặt ra mục tiêu, kế hoạch nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cùng với đó là các chính sách ưu đãi được triển khai mạnh mẽ nhưng hầu như chưa có lĩnh vực nào đạt kết quả như mong muốn. Trừ công nghiệp xe máy và một số ngành điện tử gia dụng có tỷ lệ

sử dụng linh kiện trong nước cao, còn các lĩnh vực khác tỷ lệ nội địa hoá thấp. Thực trạng này là do có quá ít doanh nghiệp Việt Nam làm CNHT, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu đóng gói, bao bì. Hiện tại, phần lớn các nhà cung cấp linh kiện phụ tùng cho

các công ty nước ngoài chủ yếu là các DNFDI.

(cid:5) Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp: Theo tiêu chuẩn quản lý sản xuất hiện đại, tính cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào 3 yếu tố: chất lượng, giá cả và thời gian giao hàng (QCD). Theo phân tích thực trạng có thể thấy cả 3 yếu tố này ngành CNHT Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của các DNFDI, cụ thể:

• Chất lượng (Q) năng lực kỹ thuật công nghệ, năng lực tổ chức quản lý sản xuất của các DNHT Việt Nam còn rất thấp, việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý hiện đại mang tính hình thức. Doanh nghiệp khó kiểm soát chất lượng, tỷ lệ sản phẩm hỏng cao, năng lực đáp ứng các đơn hàng lớn bất thường rất yếu, khi sản xuất ít, chất lượng

khá ổn định nhưng nếu tăng số lượng đơn hàng thì gặp nhiều rắc rối. Chất lượng giữa các lô hàng cũng không đồng đều do các doanh nghiệp nội địa thiếu các thiết bị kiểm tra và chưa thực sự coi trọng các hệ thống, quy trình quản lý chất lượng hiện đại.

• Giá thành (C): Giá thành của các sản phẩm CNHT nhìn chung vẫn chưa thực sự hấp dẫn được các nhà lắp ráp. Các nguyên liệu đầu vào phần lớn vẫn phải nhập

khẩu ảnh hưởng rất lớn chi phí sản xuất. Thêm vào đó thiết bị thay thế, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nguyên liệu lớn, tỷ lệ sản phẩm lỗi, hỏng cao cũng đẩy giá thành sản phẩm lên cao hơn.

• Thời gian giao hàng (D): Nhằm giảm chi phí và tăng hiêu quả sản xuất sự chính xác của thời gian giao hàng được đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên có vẻ như việc

giao hàng đúng thời gian là vấn đề lớn của các doanh nghiệp nội địa. Đối với một số doanh nghiệp việc đảm bảo chất lượng đã có các bản vẽ, sản phẩm sản xuất ra có thể bị hỏng hóc, sai lệch nhưng đa phần được kiểm tra rất kỹ trước khi xuất xưởng, tuy nhiên, thời gian giao hàng hay bị vi phạm do nhiều nguyên nhân: không làm chủ

86

nguồn nguyên liệu, máy móc hỏng hóc, các điều kiện khách quan: thiếu điện, tắc đường, nhân sự, v.v…

(cid:5) Thiếu sự liên kết chặt giữa DNHT nội địa và DNFDI, vì vậy mức độ tham

gia chuỗi giá trị toàn cầu chưa cao. Việc thiếu liên kết chặt chẽ xuất phát từ một số

nguyên nhân như:

• Các DNHT nội địa nhìn chung chưa đáp ứng được các yêu cầu về chất

lượng, giá cả và thời gian giao hàng cho các DNFDI.

• Các DNFDI chưa tin tưởng vào các nhà cung cấp nội địa nên thường ít có kế

hoạch từ nhà sản xuất linh kiện phụ tùng nội địa, mà thường mua từ doanh nghiệp hỗ

trợ FDI hoặc từ nhập khẩu.

• Các doanh nghiệp FDI, thông thường đã có riêng hệ thống vệ tinh quen thuộc

từ lâu trên thế giới, hơn nữa cùng với quá trình hội nhập, các quy định thuế quan ngày

càng được nới lỏng, các doanh nghiệp FDI có xu thế sử dụng các nhà cung cấp của hệ

thống này hơn là phối hợp cùng phát triển với các doanh nghiệp nội địa.

• Thiếu cơ sở dữ liệu đầy đủ về CNHT. Điều này dẫn đến giữa DNHT nội địa

và DNFDI không gặp nhau, nên không thể hợp tác sản xuất cùng phát triển.

• Vai trò của các Hiệp hội ngành nghề trong việc tạo điều kiện phối hợp, liên

kết doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Hiệp hội chưa trở thành đầu mối quan trọng trong

hỗ trợ các DNHT nội địa và DNFDI phối hợp, liên kết sản xuất để cùng phát triển.

Tình hình phát triển CNHT tại Việt Nam trên đây đã có những tác động tích

cực và hạn chế đến việc thu hút FDI vào nước ta trong giai đoạn 2000-2016. Phần nội

dung tiếp theo của luận án sẽ đi sâu phân tích tính hình thu hút FDI vào Việt Nam.

3.3. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

3.3.1. Quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Sau 30 năm mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn FDI đã đóng góp vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/12/2016, Việt Nam đã thu hút được 22,509 dự án FDI, với tổng vốn đăng ký 293.246, 552 triệu USD (Cục Đầu tư nước ngoài, 2016).

Quá trình thu hút FDI và lượng vốn FDI vào Việt Nam trong các giai đoạn khác

nhau có thể được nghiên cứu cụ thể như sau:

Giai đoạn 1988 - 1997: Nguồn vốn FDI vào còn khiêm tốn, trong 10 năm, vốn đăng ký đạt 35,6 tỷ USD, vốn thực hiện chỉ đạt 13,37 tỷ USD. Trong giai đoạn này,

87

nền kinh tế nước ta mới bắt đầu cải cách mở cửa, đặt nền móng cho thu hút FDI, hệ thống khung khổ pháp lý còn chưa hoàn thiện, các lĩnh vực cũng như ưu đãi thu hút FDI còn hạn chế.

Giai đoạn 1998 - 2004: Tổng vốn đăng ký chỉ đạt 23,88 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 17,84 tỷ USD. Trong giai đoạn này, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Châu Á, nguồn vốn FDI của Việt Nam chủ yếu đến từ các nước châu Á, cùng với những ảnh hưởng phụ của việc sửa đổi Luật ĐTNN năm 1996, trong đó yêu đầu nâng tỷ lệ nội địa hóa, điều chỉnh định hướng thu hút FDI hướng về xuất khẩu thay vì thay thế nhập khẩu, thay đổi trong một số chính sách ưu đãi thuế, v.v… đã khiến dòng vốn FDI

chững lại và tăng trưởng chậm.

Giai đoạn 2005 - 2008: Dòng vốn FDI tăng trưởng cao, ổn định. Nền kinh tế có những bước tiến trong cải thiện môi trường đầu tư và “hấp thu” những tác động tích cực của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản, đặc biệt là tác động của việc hội nhập sâu hơn vào

kinh tế thế giới với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên vứ 150 của WTO năm 2007.

Giai đoạn từ 2009 đến nay: Sau khi đạt đỉnh điểm vào năm 2008, dòng vốn FDI có xu hướng giảm sút. Trong giai đoạn này, dòng FDI chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, khủng hoảng nợ công tại một số quốc gia và khu vực, bản thân nền kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ nhiều yếu kém. Các nhân tố trước đây là lợi thế

trong thu hút FDI như tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ, v.v… đã giảm dần và không rõ nét trong sự phát triển của cơ cấu FDI theo hướng đề cao chất lượng lao động, môi trường đầu tư, sự phát triển của ngành CNHT, trình độ công nghệ. Tất cả các tác động cộng hưởng nêu trên đã khiến cho dòng vốn FDI có sự giảm sút.

Hình 3.14: Diễn biến nguồn vốn FDI đăng ký qua các năm

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Cục Đầu tư nước ngoài

88

3.3.2. Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Cơ cấu FDI có thể được nghiên cứu theo các tiêu thức: Hình thức đầu tư, đối

tác đầu tư, theo ngành và lĩnh vực chủ yếu, theo địa phương và vùng kinh tế. Cụ thể

như sau:

a. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư

Hình thức đầu tư FDI ngày càng đa dạng do có sự điều chỉnh về chính sách

đầu tư. Năm 2000, chính sách đầu tư được điều chỉnh nhằm khuyến khích và tạo sự

bình đẳng về chính sách giữa các loại hình đầu tư. Tiếp đó, Luật ĐTNN năm 2005

cũng mở rộng nhiều hình thức đầu tư, đặc biệt là cho phép nhà đầu tư góp vốn mua

cổ phần, mua lại hoặc sáp nhập doanh nghiệp, tham gia quản lý theo quy định của

Luật doanh nghiệp.

Bảng 3.5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức

Tống vốn đầu tư đăng ký Số dự án (Triệu USD) Hình thức đầu tư

Luỹ kế Luỹ kế đến 2010 2015 2010 2015 đến 2016 2016

100% vốn nước ngoài 1011 1742 18,624 13,256.90 17,003.74 209,329.290

Liên doanh 209 255 3,635 4,263.80 2,957.87 68,024.508

Hợp đồng BOT, BT, BTO 14 2,174.80 2,772.36 10,700.197 6 3

Hợp đồng hợp tác KD 236 108.9 23.32 5,192.556 3 13

Cổ phần 81.70 - 8

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài

Tính đến thời điểm hiện tại, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam

dưới 6 hình thức, gồm: 100% vốn nước ngoài, liên doanh, Hợp đồng BOT, BT, BTO;

Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), Công ty cổ phần và Công ty mẹ con.

Trong đó, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài luôn chiếm ưu thế cả về số

lượng dự án lẫn tổng vốn đầu tư đăng ký, vượt trội hơn hẳn các hình thức đầu tư còn lại.

89

Tính lũy kế đến ngày 20/12/2016, số dự án đầu tư dưới hình thức 100% vốn

nước ngoài là 18,624 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 209,329.290 triệu USD (chiếm

71% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước). Hình thức liên doanh đứng thứ hai với

3.635 dự án và 68.024,508 triệu USD đăng ký (chiếm 23% tổng vốn đầu tư đăng ký).

Hình 3.15: Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư (luỹ kế đến năm 2016)

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài

Với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, quyền điều hành hoàn toàn thuộc

về chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý toàn bộ và chịu trách nhiệm hoàn toàn về

kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của dự án FDI, vì vậy tạo tâm lý thoải mái, tự

chủ, không chịu sự rằng buộc cho nhà đầu tư. Cục Đầu tư nước ngoài nhận định đây là

ưu điểm lớn khiến hình thức này luôn chiếm ưu thế trong cơ cấu vốn FDI của cả nước

so với các hình thức đầu tư khác.

90

b.Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư

Bảng 3.6: Danh sách 10 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư FDI lớn nhất vào Việt Nam

Năm 2005 Năm 2010 Năm 2015 Năm 2016 STT Quốc gia Tỷ lệ (%) Quốc gia Tỷ lệ (%) Quốc gia Tỷ lệ (%) Quốc gia Tỷ lệ (%)

1 Luxembourg 16.4 Singapore 23.1 Hàn Quốc 29.6 Hàn Quốc 28.9

2 Samoa 15.9 Hàn Quốc 12.8 Malaysia 10.9 Nhật Bản 10.6

3 Hàn quốc 15.0 Hà Lan 12.2 Nhật Bản 8.1 Singapore 9.9

4 Hồng Kong 9.8 Nhật Bản 12.1 Đài Loan 6.1 Trung Quốc 7.7

5 Nhật Bản 9.6 Hoa Kỳ 9.7 Samoa 6.1 Đài Loan 7.6

6 Đài Loan 8.6 Đài Loan 7.3 Vương quốc Anh 5.6 Hồng Kông 6.7

7 Hoa Kỳ 5.5 British Virgin Islands 4.1 Singapore 5.4 Malaysia 3.8

8 British Virgin Islands 4.4 Trung Quốc 3.4 British Virgin Islands 5.4 British Virgin Islands 3.5

9 Malaysia 3.7 Cayman Islands 2.9 Hồng Kông 5.3 Thái Lan 2.9

10 Singapore 3.5 Malaysia 2.5 Trung Quốc 3.3 Cayman Islands 2.7

92.3 90.0 85.8 84.3 Tổng 10 quốc gia Tổng 10 quốc gia Tổng 10 quốc gia Tổng 10 quốc gia

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài

91

Tính đến tháng 12/2016, đã có 116 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam, các đối tác đầu tư chủ yếu đến từ quốc gia thuộc khu vực Châu Á, các quốc gia có quan hệ ngoại giao lâu dài với Việt Nam. Trong đó Hàn Quốc dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký là 50.706,44 triệu USD, chiếm 17,3% tổng vốn đầu tư đăng ký. Nhật

Bản đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký là 42.058, 303 tỷ USD, chiếm 14,3% tổng vốn đầu tư đăng ký.

(Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/12/2016)

Hình 3.16: Cơ cấu FDI vào Việt Nam theo quốc gia và vùng lãnh thổ

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài

c. Cơ cấu FDI theo ngành và lĩnh vực chủ yếu

Tính đến tháng 12/2016, vốn FDI đã chảy vào 19 ngành, thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, nông - lâm - ngư nghiệp, dịch vụ. Có thể thấy, cơ cấu FDI theo

ngành nhìn chung ít thay đổi cả về số dự án và vốn đăng ký. Từ năm 2005 đến 2016, công nghiệp và xây dựng vẫn là ngành thu hút FDI với tỷ trọng lớn nhất, khoảng từ 60% trở lên và có xu hướng tăng qua các năm.

Giai đoạn đầu mở cửa thu hút FDI, dòng vốn FDI có xu hướng chảy vào ngành

công nghiệp khai thác và thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, từ năm 2005, dòng vốn FDI chảy mạnh vào công nghiệp chế biến, chế tạo và định hướng xuất khẩu.

Bảng 3.7: So sánh cơ cấu FDI theo ngành qua các năm

Ngành

2005

Số Dự án (%) 2010

2015

2016

2005

Vốn đăng ký (%) 2010

2015

2016

74.09

67.39

67.40

70.43

67.37

58.31

67.65

74.88

Công nghiệp và xây dựng

2.08

4.38

21.72

0.69

0.50

1.70

1.30

0.41

23.83

28.23

10.88

28.88

32.13

40.00

31.06

24.71

Nông-Lâm- Ngư nghiệp Dịch Vụ

Nguồn: Tổng cục thống kê và Cục đầu tư nước ngoài

92

Lũy kế tính đến ngày 20/12/2016, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đứng đầu về số vốn đầu tư cũng như số dự án, đạt 172,399.578 triệu USD với 11.703 dự án chiếm 58,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đầu tư vào khu vực bất động sản đứng thứ 2, mặc dù số dự án không nhiều nhưng quy mô của các dự án lớn, với tổng số vốn đầu

tư lên tới 52,029.264 triệu USD, chiếm 17.7% tổng vốn đầu tư.

Ngành nông, lâm, ngư nghiệp được khuyến khích nhưng lĩnh vực này lại thu hút rất ít dự án. Tính đến hết năm 2016, chỉ có 518 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đạt 3,551.898 triệu USD, chiếm 1.2% tổng vốn FDI tại Việt Nam. Quy mô vốn của các dự án đều nhỏ, chủ yếu được sử dụng vào hoạt động chăn nuôi, sản xuất thức ăn gia cầm, chế biến sản phẩm gia cầm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

Bảng 3.8: FDI tại Việt Nam theo ngành

(Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/12/2016)

STT Chuyên ngành Tỷ lệ Số dự án

1 Công nghiệp chế biến, chế tạo 2 Hoạt động kinh doanh bất động sản 11,703 576 Tổng vốn đầu tư đăng ký (Triệu USD) 172,399.578 52,029.264 58.8 17.7

Sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa

3 4 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 5 Xây dựng 108 540 1,376 12,727.209 11,330.463 10,611.878 4.3 3.9 3.6

Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy Thông tin và truyền thong

6 7 8 Vận tải kho bãi 9 Nông nghiêp, lâm nghiệp và thủy sản 10 Khai khoáng 11 Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 2,222 1,475 604 518 103 138 5,293.009 4,718.312 4,285.869 3,551.989 3,524.789 3,094.193 1.8 1.6 1.5 1.2 1.2 1.1

Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 12 13 Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 2,183 122 2,661.064 1,543.601 0.9 0.5

Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm

88 56 152 309 232 1,968.903 1,450.896 786.636 767.441 494.017 0.7 0.5 0.3 0.3 0.2

14 15 Cấp nước và xử lý chất thải 16 Hoạt động dịch vụ khác 17 Giáo dục và đào tạo 18 Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ Hoạt đông làm thuê các công việc trong các hộ gia đình 19

4 22,509 7.440 293,246.552 Tổng 0.0 100.0

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài

93

d. Cơ cấu FDI theo địa phương và vùng kinh tế

Tính đến 20/12/2016, các DNFDI đã đầu tư vào 63/64 tỉnh/ Thành phố. Dòng vốn FDI có xu hướng chảy vào các khu đô thị lớn, vùng có cơ sở hạ tầng – kinh tế phát triển, tiêu biểu là vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ.

Bảng 3.9: Cơ cấu FDI theo các vùng kinh tế trọng điểm

(Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/12/2016)

Tỷ lệ (%) Số dự án Tỷ lệ (%)

Tổng vốn đăng ký (Triệu USD) 73,952.88 Vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ 25.22 6,609 29.36

Vùng kinh tế trong điểm trung bộ 14,128.40 4.82 796 3.54

Vùng kinh tế trọng điểm nam bộ 138,393.63 47.19 12,880 57.22

Vùng kinh tế trọng điểm vùng

ĐBSCL 5,207.45 1.78 160 0.71

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài

Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ là khu vực thu hút FDI lớn nhất cả nước với 12.880 dự án, tổng vốn đăng ký lên tới 138.393,63 triệu USD, chiếm 47,19%. Tiếp theo là vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, với 6.609 dự án, vốn đăng ký lên tới 73.952,88 triệu USD, chiếm 25,22%. Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ có 796 dự án

số vốn đăng ký là 14,128.40 triệu USD, chiếm 4.82%. Vùng kinh tế trọng điểm vùng DBSCL là địa bàn thu hút FDI thấp nhất có 160 dự án, với tổng số vốn đầu tư 5,207.45 triệu USD, chiếm 1.78% tổng vốn FDI đăng ký của cả nước.

94

Bảng 3.10: 10 địa phương đứng đầu về thu hút FDI qua các năm

Năm 2005

Năm 2010

Năm 2015

Năm 2016

STT

Địa phương

Địa phương

Địa phương

Địa phương

Tỷ trọng vốn ĐT

Tỷ trọng vốn ĐT (%)

Tỷ trọng vốn ĐT (%)

Tỷ trọng vốn ĐT (%)

Hà Nội

26.92

Quảng Nam

21.01

Bắc Ninh

16.04

TP. Hồ Chí Minh

28.87

1

Bà Rịa vũng tàu

15.36

Bà Rịa-Vũng Tàu

12.86

TP. Hồ Chí Minh

14.61

Hải Phòng

10.63

2

Đồng Nai

13.48

Quảng Ninh

11.13

Bình Dương

12.98

Hà Nội

9.93

3

TP Hồ CHí Minh

11.58

TP Hồ Chí Minh

10.65

Trà Vinh

11.10

Bình Dương

7.69

4

Bình Dương

10.21

Nghệ An

6.72

Đồng Nai

8.56

Đồng Nai

7.63

5

Hải Phòng

4.44

Cà Mau

3.89

Hà Nội

4.78

Bắc Giang

6.73

6

Đà Nẵng

2.53

Bình Dương

3.67

Hải Phòng

3.56

Bắc Ninh

3.75

7

Vĩnh Phúc

2.11

Long An

3.16

Bà Rịa - Vũng Tàu

3.22

Long An

3.52

8

Long an

1.82

Hà Nội

2.80

Long An

2.54

Hà Nam

2.90

9

10

Phú Yên

1.78

Đồng Nai

2.74

Tây Ninh

2.32

Tây Ninh

2.65

90.23

78.63

79.71

84.30

Tổng 10 Tỉnh

Tổng 10 Tỉnh

Tổng 10 Tỉnh

Tổng 10 Tỉnh

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài

95

3.4. Ảnh hưởng của công nghiệp hỗ trợ đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

3.4.1. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến quy mô FDI

Khả năng cung ứng cho các ngành công nghiệp là một trong các vấn đề được

các công ty nước ngoài cân nhắc rất nhiều trước khi quyết định đầu tư vào một quốc gia. Quốc gia có ngành CNHT phát triển, đáp ứng yều cầu cho các nhà lắp ráp nhân tố tác động mạnh đến thu hút FDI. Căn cứ vào điều kiện này, Việt Nam vẫn chưa thực sự

hấp dẫn nhà đầu tư, do ngành CNHT nội địa còn kém phát triển, chưa đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài.

Theo khảo sát về khả năng cung ứng của DNHT Việt Nam được tiến hành bởi nhóm nghiên cứu của SIDEC, phối hợp với Vụ công nghiệp nặng – Bộ Công Thương, chuyên gia của Tập đoàn Samsung Việt Nam - SVN (2015) cho thấy: Nhìn chung các DNHT Việt Nam chưa đủ khả năng cung ứng cho các DNFDI. Khảo sát được tiến hành với 14 nhà cung ứng Việt Nam, đây là các công ty có năng lực khá tốt, hiện đang cung cấp cho các MNC, các DNFDI hoạt động trong lĩnh vực sản xuất xe máy, ô tô và

các lĩnh vực công nghiệp khác. Lĩnh vực sản xuất bao gồm: 03 doanh nghiệp sản xuất linh kiện cơ khí ; 04 doanh nghiệp sản xuất linh kiện nhựa kỹ thuật, 02 doanh nghiệp sản xuất linh kiện điện – điện tử ; 02 doanh nghiệp sản xuất khuôn, gá và 03 doanh nghiệp sản xuất dây chuyền, dụng cụ phục vụ sản xuất.

Để đánh giá khả năng cung ứng của các DNHT Việt Nam, nghiên cứu lựa chọn 3 yếu tố là chất lượng (Q), chi phí (C) và thời gian giao hàng (D), ngoài ra nghiêm cứu cũng đề xuất thêm các yếu tố phù hợp với lĩnh vực điện tử là môi trường (E – Environment); tài chính (F – Finance); công nghệ (T – Technology); trách nhiệm xã hội (R –

Responsibility); luật pháp (L – Laws) được chia theo các hạng mục kiểm tra khác nhau và được cho điểm theo 3 nhóm:

(1) Loại A (từ 70 điểm trở lên): Các doanh nghiệp có năng lực tốt, có quy trình sản xuất khá phù hợp với hệ thống cua Samsung, có thể tiến hành giao dịch ngay nếu công ty sản xuất được sản phẩm phù hợp.

(2) Loại B (từ 50 đến 70 điểm): Các doanh nghiệp có năng lực khá tốt, có tiềm

năng, cần đổi mới quy trình sản xuất, công nghệ để đáp ứng yêu cầu của Samsung.

(3) Loại C (dưới 50 điểm): Năng lực còn thấp, cần nỗ lực đổi mới nhiều mới có

thể cung cấp cho hệ thống của Samsung.

Kết quả khảo sát có 3 doanh nghiệp được đánh giá loại tốt (Loại A, chiếm

96

21,5%); 3 doanh nghiệp loại trung bình (loại B, chiếm 21,5%) và 8 doanh nghiệp loại kém (57%). Như vậy, có thể thấy các DNHT Việt Nam nhìn chung chưa đủ năng lực cung ứng ngay cho doanh nghiệp nước ngoài, tuy nhiên cũng có một số ít doanh nghiệp đã đạt được các tiêu chuẩn cần thiết, có thể nâng cao năng lực trong thời gian ngắn để tham gia chuỗi cung ứng. Các vấn đề cần cải thiện là công nghệ, phòng sạch, kiểm soát nhiệt độ, bụi, v.v… Cụ thể như sau :

Bảng 3.11: Kết quả đánh giá doanh nghiệp hỗ trợ

Ghi chú

Sản phẩm chính

Công ty 1

Dập, hàn kim loại

Điểm (%) 72

Xếp loại A Năng lực tốt. Cần đầu tư phòng sạch, kiểm soát chặt chẽ bụi bẩn để phù hợp với sản phẩm

Dây cáp điện

79

2

A Năng lực tốt. Cần đầu tư thêm về công

nghệ và phòng sạch

Dập, hàn, kim loại

74

3

A Năng lực tốt. Cần đầu tư phòng sạch, kiểm soát chặt chẽ bụi bẩn để phù hợp với sản phẩm

4

Dập, hàn kim loại

61

B Năng lực trung bình, cần cải thiện kho hàng. Có thể cung cấp nếu công ty nỗ lực đổi mới mạnh

Khuôn nhựa, ép nhựa

5

B Năng lực trung bình, có thể cung cấp

56

dịch vụ sửa chữa khuôn mẫu cho SVN

53

6

Xốp chèn, linh kiện ép nhựa

7 8

C C

48 32

Khuôn mẫu, đồ gá Dây chuyền sản xuất công nghiệp Khuôn nhựa, ép nhựa 9 Linh kiện điện tử 10 11 Khuôn mẫu, đồ gá 12 Bàn thao tác, dây

C C C C

45 30 19 22

B Năng lực trung bình, cần cải thiện về nhiệt độ, bụi bẩn và quy trình quản lý sản xuất Năng lực thấp, cần nâng cao năng lực trong thời gian dài mới cung cấp được sản phẩm.

chuyền Ép nhựa

C C

42 41

13 14 Dây chuyền sản xuất công nghiệp

(*) Tên các doanh nghiệp đánh giá được bảo mật thông tin

Nguồn: Viện NCCLCSCN - Bộ Công Thương (Khảo sát của SVN)

97

Theo các hạng mục đánh giá, thì DNHT Việt Nam được đánh giá tương đối cao ở các mục: (1) Quản lý sản xuất: bố trí sản xuất, bảng biểu ghi thao tác, sắp xếp, phân loại hàng; (2) Xây dựng và theo dõi qua các biểu mẫu đánh giá; (3) Bố trí kho bãi; (4) Thực hiện các quy định về lao động. Đánh giá thấp ở các hạng mục: (1) Kiểm soát và đảm bảo nhiệt độ, độ ẩm trong nhà xưởng; (2) Xây dựng quy trình sản xuất; (3) Đo kiểm và hiệu chỉnh thiết bị kiểm tra; (4) Tiến độ và thời gian giao hàng. Như vậy có thể thấy, năng lực cung ứng của các DNHT Việt nam còn hạn chế, nhìn chung chưa đáp ứng được tiêu chuẩn cạnh tranh (Q,C,D).

Bên cạnh đó, đánh giá chung về ngành CNHT theo số liệu thống kê của Vụ công nghiệp nặng (Bộ Công Thương), thì năng lực đáp ứng của ngành CNHT cho các ngành sản xuất trong nước hiện rất thấp. Trừ lĩnh vực linh kiện phụ tùng cho ngành cơ khí chế tạo và xe máy (CNHT đáp ứng được khoảng 85-90%), còn thì hầu hết đều rất thấp: 10-15% với ngành ô tô, 30-35% với ngành điện tử gia dụng, 15% với các ngành điện tử khác, 50% với ngành da giày, 45% với ngành dệt may, v.v…

Có thể thấy, sự kém phát triển của ngành CNHT nội địa, là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến thu hút FDI cả về quy mô dòng vốn và quy mô/dự án. Nhiều năm trước đây Việt Nam luôn được đánh giá là một quốc gia có tiềm năng và hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam đang gặp phải nhiều thách thức từ các quốc gia có ngành CNHT phát triển hơn như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, v.v… Từ năm 2005, dòng vốn FDI thay đổi theo 2 giai đoạn chính:

Giai đoạn 2005 - 2008: Dòng vốn FDI tăng trưởng cao, đặc biệt là năm 2008. Giai đoạn từ 2009 đến nay: Dòng vốn FDI có xu hướng giảm sút, không ổn định. Sau khi đạt đỉnh vào năm 2008, quy mô dự án FDI vào Việt Nam liên tục giảm từ năm 2009 đến năm 2016.

Đơn vị: tỷ USD

Hình 3.17: Diễn biến nguồn vốn FDI đăng ký qua các năm (2005-2016)

Nguồn: Tổng cục thống kê và Cục đầu tư nước ngoài

98

Trong thời gian qua các nhà đầu tư đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đài Loan đều cho rằng CNHT ở Việt Nam kém phát triển là nút thắt đối với việc triển khai các dự án đầu tư của họ (Nguyễn Ngọc Sơn, 2012). Số lượng doanh nghiệp và vốn đầu tư của Nhật Bản trong 5 năm gần đây cho thấy lượng doanh nghiệp tăng nhưng lượng

vốn đầu tư có xu hướng giảm. Nguyên nhân chính bởi CNHT của Việt Nam còn kém, chuỗi cung ứng vẫn chưa hoàn thiện và khi các doanh nghiệp lớn vào mà không đủ nguồn cung cấp nguyên phụ liệu sẽ không muốn tiếp tục đầu tư tiếp. Theo một nghiên

cứu của JETRO (2014), qua khảo sát 158 doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư tại Việt Nam, có 74,5% số doanh nghiệp phản ánh đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nhà cung cấp, cung ứng linh kiện.

Hình 3.18: FDI của Nhật Bản vào Việt Nam (2011-2015)

Nguồn: http://enternews.vn/dau-tu-cua-nhat-ban-vao-viet-nam-sau-tpp-uu- tien-hang-dau-trong-asean.html

Bên cạnh yếu tố cạnh tranh của sản phẩm, ngành CNHT phát triển giúp hình thành thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất, tạo dung lượng thị trường cần thiết, thúc đẩy sản xuất quy mô lớn, tạo động lực thu hút đầu tư từ các DNFDI, các

MNC sản xuất CNHT tại Việt Nam .

CNHT phát triển mạnh cũng sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế quốc tế, đa dạng hoá sản phẩm thương mại, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và liên kết chặt chẽ hơn với các DNFDI và các MNC.

3.4.2. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến chất lượng FDI

Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến chất lượng của dòng vốn FDI được nghiên cứu thông qua các nội dung: (1) Đóng góp của FDI vào thặng dư cán cân thương mại;

99

(2) Hiệu ứng lan toả công nghệ của khu vực FDI; (3) Mức độ liên kết giữa DNFDI và DNHT. Cụ thể như sau:

3.4.2.1. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến khả năng đóng góp của khu vực FDI vào thặng dư cán cân thương mại

Hình 3.19: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và CCTM của khu vực FDI

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Có thể thấy, DNFDI tại Việt Nam hiện đóng góp một tỷ lệ quan trọng về kim ngạch xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Từ năm 2009 đến nay, tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI so với kim ngạch xuất khẩu cả nước liên tục tăng

lên. Tính đến cuối tháng 12/2016 kim ngạch xuất khẩu của DNFDI đạt 123,93 tỷ USD, tăng 12% tương ứng tăng hơn 13,35 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2015 và chiếm đến 70,2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước.

Hình 3.20: Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (2010 – 2016)

Nguồn: Tổng cục Hải Quan

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của khối FDI chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim

ngạch xuất khẩu của cả nước, xong tỷ lệ đóng góp không nhiều. Do ngành CNHT nội

100

địa chưa phát triển nên Việt Nam chủ yếu xuất khẩu hộ cho nước ngoài do DNFDI phần lớn gia công ở Việt Nam hoặc nhập khẩu nguyên phụ liệu về để sản xuất rồi xuất khẩu, đồng thời hưởng nhiều ưu đãi.

Tỷ trọng nhập khẩu của khối doanh nghiệp có vốn FDI liên tục tăng đều qua

các năm. Tính đến cuối tháng 12/2016 kim ngạch nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn FDI đạt 102, 82 tỷ USD, tăng 5,7 % so với cùng kỳ năm 2015, tương ứng tăng hơn 5,59 tỷ USD chiếm 59,05% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước.

Hình 3.21: Tỷ trọng nhập khẩu của khu vực FDI trong tổng kim ngạch

nhập khẩu của cả nước (2010 – 2016)

Nguồn: Tổng cục Hải Quan

Do CNHT của Việt Nam còn kém phát triển nên tại các ngành sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao, các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết linh phụ kiện. Biểu đồ tỷ lệ nhập khẩu một số sản phẩm chính của khu vực FDI cho thấy: đa phần các sản phẩm có tỷ lệ nhập khẩu cao đều là sản phẩm CNHT như: Linh kiện, phụ tùng,v.v…

Hình 3.22: Tỷ lệ nhập khẩu một số sản phẩm chính của khu vực FDI

Nguồn: Tổng cục Hải quan

101

CNHT kém phát triển khiến Việt Nam chỉ làm thuê, làm công cho DNFDI. Theo chuyên gia kinh tế Bùi Trinh (2016), trong 10 năm qua giá trị xuất khẩu của khu vực FDI tại Việt Nam tăng 20 điểm %, nhưng giá trị đóng góp vào nền kinh tế chỉ tăng 3 đến 4 điểm %.

3.4.2.2. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến hiệu ứng lan toả công nghệ của khu vực FDI

Sau nhiều năm thu hút FDI, có thể thấy mức độ chuyển giao công nghệ của DNFDI cho doanh nghiệp nội địa, cũng như hiệu ứng lan tỏa công nghệ mà các doanh nghiệp FDI mang lại chưa cao. Theo khảo sát đánh giá hiệu ứng lan toả công nghệ của khu vực FDI của nhóm chuyên gia dự án Sáng kiến Năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) tiến hành thì có 65% DNFDI hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nằm ở cuối chuỗi giá trị sản phẩm, số còn lại hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và các lĩnh vực

khác. Thự tế, các DNFDI cần một khối lượng lớn các hàng hóa, dịch vụ trung gian phục vụ cho quá trình sản xuất của họ. Tuy nhiên, các DNFDI hoạt động tại Việt Nam hiện đang phải nhập khẩu tới 57,5% hàng hóa, dịch vụ trung gian từ nước ngoài, chỉ có khoảng 40% được mua trong nước. Nguyên nhân một phần xuất phát từ sự kém phát

triển của ngành CNHT trong nước và những chính sách điều phối của các nhà quản lý. Mức độ chuyển giao và lan toả công nghệ thể hiện qua các nội dung sau

(1). Số lượng hợp đồng chuyển giao công nghệ còn ít. Các hợp đồng chuyển

giao công nghệ hầu như đều được chuyển giao dưới hình thức công ty mẹ sang công

ty con. Theo điều tra về năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp tại

Việt Nam từ năm 2010 - 2014 (CIEM, 2015), nếu xét cả doanh nghiệp cùng ngành và

khác ngành thì có 80% chuyển giao công nghệ diễn ra giữa các doanh nghiệp nội địa,

còn các DNFDI chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp nội địa chỉ chiếm xấp xỉ

20%, đây là một tỷ lệ rất nhỏ.

Theo Bộ KHCN (2014) từ năm 1990 đến nay tổng số hợp đồng được phê duyệt

chuyển giao công nghệ mới chỉ là 296 hợp đồng; số hợp đồng đăng ký tại Bộ KHCN

là 529 hợp đồng; Hợp đồng đăng ký tại địa phương cấp là 235 hợp đồng. Trong đó,

82% hợp đồng chuyển giao công nghệ về quy trình công nghệ, 80% hợp đồng về bí

quyết công nghệ, nhưng công nghệ nhập chủ yếu lại kèm theo máy móc, thiết bị, hầu

như không có hợp đồng chuyển giao công nghệ độc lập. Trình độ công nghệ nhập

cũng chỉ ở mức trung bình và dưới trung bình so với các nước trong khu vực. Còn với

số lượng công nghệ kèm theo quyền sở hữu trí tuệ rất thấp (dưới 21%).

(2). Chỉ tiêu năng suất các yếu tố tổng hợp TFP âm cho thấy tăng trưởng của

khu vực FDI không phải do chuyển giao công nghệ: Theo kết quả nghiên cứu của

102

tác giả Bùi Trinh (2010) TFP của khu vực FDI là -17,6%, cho thấy tăng trưởng của

khu vực FDI không phải do công nghệ, mà chủ yếu do các yếu tố khác như chi phí

nhân công rẻ. Về bản chất, khu vực FDI không đưa công nghệ mới hoặc chỉ đưa công

nghệ cũ vào Việt Nam để sản xuất, chỉ tận dụng các ưu đãi của nước ta để thu lợi

nhuận. Thực tế cho thấy để có thể chuyển giao công nghệ thành công, thì điều kiện

quan trọng là trình độ và khả năng tiếp cận của người lao động. Song ở Việt Nam,

ngành CNHT kém phát triển, trình độ công nhân còn hạn chế, chủ yếu là lao động giản

đơn, vì vậy khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại hầu như rất thấp.

(3) Tỷ lệ nội địa hoá thấp là yếu tố gây cản trở chuyển giao công nghệ:

Ngành CNHT kém phát triển vì vậy tỷ lệ nội địa hoá ở Việt Nam còn thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng chuyển giao công nghệ của các DNFDI. Theo khảo sát của (JETRO, 2016), sức cung ứng của Việt Nam cho

các doanh nghiệp Nhật Bản về nguyên liệu và linh kiện trong lĩnh vực CNHT chỉ đạt

mức 32,1%. Con số này thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia khác ở châu Á: Trung

Quốc – 64,7%, Thái Lan – 55,5%, Indonesia – 40,5%, Malaysia – 36%.

(4). Mức độ hiện đại và cập nhật của các công nghệ được chuyển giao thấp:

Đa phần công nghệ được sử dụng ở Việt Nam đều là công nghệ lạc hậu, 80% doanh

nghiệp có vốn FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 5% - 6% sử dụng công

nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu (Đỗ Minh Hạnh, tạp chí cộng sản). Theo đánh

giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện theo

chiều ngang - giữa doanh nghiệp với DN, ít có những biến đổi về trình độ và năng lực

công nghệ. Một số DNFDI tuy sử dụng công nghệ cao nhưng lại không thực hiện ở

Việt Nam, nên doanh nghiệp Việt Nam vẫn chỉ tạo ra những sản phẩm gia công, có giá

trị gia tăng thấp và khó tham gia được vào mạng sản xuất toàn cầu.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, sự có mặt của các doanh nghiệp công nghệ cao như

Intel, Samsung, Canon không có nghĩa là công nghệ cao sẽ tự động chuyển giao cho

Việt Nam. Những MNC thường đến các nước đang phát triển để thực hiện công đoạn

lắp ráp thâm dụng lao động, là phân khúc tạo ra giá trị thấp nhất của chuỗi cung ứng

toàn cầu, vì các công đoạn này quá tốn kém khi thực hiện ở các nước đang phát triển.

Chuyển giao công nghệ sẽ không xảy ra, trừ khi nước chủ nhà được đánh giá là

có khả năng hấp thụ và là vị trí tốt nhất cho mục đích này, sẽ mang lại lợi ích cho các

MNC. Bởi vậy, để các doanh nghiệp trong nước có thể liên kết với các DNFDI, tham

gia một cách gián tiếp vào chuỗi cung ứng toàn cầu của họ và hướng tới nhận chuyển

103

giao công nghệ phải là quá trình đôi bên cùng có lợi.

3.4.2.3. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến mức độ liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa

Những ích lợi từ DNFDI phụ thuộc rất nhiều vào mối liên kết giữa DNFDI và doanh nghiệp nội địa. Các rào cản đối với doanh nghiệp tư nhân trong nước đã hạn chế sự phát triển của các ngành CNHT - những ngành vốn hưởng lợi nhiều từ mối liên kết này. Thực tế là, liên kết giữa khu vực FDI với các doanh nghiệp nội địa còn rất ít, chưa hình thành được các ngành CNHT, liên kết sản xuất theo chuỗi cung ứng hàng hoá.

Hiện nay mức độ liên kết giữa DNFDI và doanh nghiệp nội địa rất yếu, vì vậy

không hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp nội địa phát triển. Các DNFDI như

Samsung, Canon, Honda, v.v… đều cần rất nhiều linh kiện sản xuất ở trong nước,

nhưng khó khăn nhất là sản phẩm CNHT của Việt Nam chưa đạt tiêu chuẩn cạnh tranh

về chất lượng, giá cả và thời gian giao hàng vì vậy khó khăn để trở thành nhà cung cấp

của các DNFDI.

“Trường hợp của Canon, tỷ lệ nội địa hóa của Canon là hơn 60%. Tuy nhiên,

số lượng nhà cung cấp là doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng số

các nhà cung cấp. Mặt khác, chủ yếu doanh nghiệp Việt Nam tham gia ở những khâu

sản xuất đơn giản, còn việc sản xuất những linh kiện phụ tùng kỹ thuật cao thì chủ yếu

là do DNFDI trong nước cung cấp.

Tương tự Canon, công ty Sam Sung vào Việt Nam từ năm 2008, với vốn hơn 11

tỷ USD, cam kết tỷ lệ nội địa hóa sau 3 – 4 năm. Hiện nay, công ty có hơn 90 doanh

nghiệp vệ tinh cung cấp linh kiện, nhưng chỉ có khoảng 10% doanh nghiệp trong

nước, chủ yếu là sản phẩm in ấn, bao bì.

Không chỉ mặt hàng điện tử, hiện nay tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp

sản xuất, lắp ráp ô tô cũng rất thấp. Honda Việt Nam là doanh nghiệp có tỷ lệ nội địa

hóa cao nhất song cũng chỉ chiếm gần 10%, Toyota 7%, Suzuki 3%, Ford 2%,v.v...

Theo nhiều chuyên gia, nguyên nhân là do chưa phát triển được ngành CNHT.

Năng lực doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường nên

chưa tham gia được chuỗi cung ứng của các DNFDI, vì vậy việc chuyển giao công

nghệ hầu như rất ít”

(Nguồn: Baotintuc.vn)

104

Kết quả khảo sát của UNIDO (2011) cho thấy DNFDI tham gia khảo sát chỉ sử

dụng ở mức độ thấp các sản phẩm trung gian cho đầu vào được chế biến chế tạo trong

nước. Tỷ lệ sản phẩm đầu vào được mua từ các nhà chế biến chế tạo trong nước ở tất

cả loại hình DNFDI là tương đối thấp (khoảng 26,6%). Các DNFDI nhập khẩu phần

lớn thành phần đầu vào khác (58,4%) hoặc thông qua công ty mẹ (20,4%) hay nhập

trực tiếp (38%).

Hơn nữa, với một số ngành mà doanh nghiệp từng kỳ vọng như sản xuất ô tô,

cho đến nay cũng chưa phát triển được CNHT, do dung lượng thị trường trong nước

quá nhỏ. Hay lĩnh vực điện tử, cho đến nay các DNFDI cũng chỉ chọn Việt Nam là địa

điểm lắp ráp công đoạn cuối để xuất khẩu ra thế giới, mà thiếu sự liên kết hay chuyển

giao công nghệ.

Mối liên kết dọc tương đối yếu này giữa DNFDI và doanh nghiệp trong nước

cũng được kiểm chứng qua cuộc khảo sát chỉ số PCI của VCCI năm 2012. Theo cuộc

điều tra này, các DNFDI tham gia tích cực vào chuỗi cung ứng toàn cầu và chủ yếu sử

dụng hàng hóa và dịch vụ trung gian của doanh nghiệp nước ngoài (38% từ các chi

nhánh của doanh nghiệp ở nước ngoài, 18% từ doanh nghiệp khác ở nước ngoài),

trong khi đó chỉ sử dụng có 34% từ các doanh nghiệp tư nhân trong nước.

Hiện tại Việt Nam mới chỉ có vài trăm doanh nghiệp cung cấp sản phẩm

CNHT, trong khi chỉ riêng lĩnh vực ô tô, Thái Lan đã có khoảng 2.000 doanh nghiệp.

Do đó, khuyến khích hình thành các DNNVV trong lĩnh vực sản xuất linh kiện, thiết

bị, phát triển CNHT là một trong những điều kiện thiết yếu để thiết lập và tăng cường

mối liên kết với DNFDI. Trên thực tế, không phải Việt Nam không nhìn ra vấn đề này, mà

sự hỗ trợ của Nhà nước cho lĩnh vực này còn quá ít, trong khi tự thân các doanh nghiệp

không đủ lực.

3.4.3. Công nghiệp hỗ trợ ảnh hưởng đến cơ cấu FDI

3.4.3.1. Ảnh hưởng đến cơ cấu FDI theo ngành

Quan sát bảng 3.8, có thể thấy, cơ cấu FDI vào Việt Nam hiện đang tập trung

nhiều vào khu vực chế biến chế tạo. Nguyên nhân là do, các doanh nghiệp nước ngoài

muốn tận dụng lợi thế nguồn lao động trẻ, giá rẻ của Việt Nam. Lũy kế tính đến hết

năm 2016, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đứng đầu về số vốn đầu tư cũng như

số dự án, chiếm 58,8% tổng vốn đầu tư đăng ký, đầu tư vào khu vực bất động sản

đứng thứ 2, chiếm 17,7% tổng vốn đầu tư. Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp được

khuyến khích nhưng lĩnh vực này lại thu hút rất ít dự án, chiếm 1.2% tổng vốn FDI.

105

Điều này cho thấy, nếu Việt Nam có một kết cấu hạ tầng tốt và ngành CNHT phát

triển đáp ứng được nhu cầu của các DNFDI, thì trong những năm tới, việc thu hút FDI

sẽ thuận lợi hơn.

Nhiều nhà đầu tư nhìn nhận, việc thu hút FDI vào ngành công nghiệp thuộc

lĩnh vực chế biến, chế tạo là cơ hội tuyệt vời để Việt Nam học hỏi kinh nghiệm của

quốc tế, giúp doanh nghiệp Việt Nam hiểu sâu về yêu cầu đối với chất lượng quốc tế,

nắm bắt được kỹ thuật tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, do ngành

CNHT của Việt Nam chưa phát triển, nên thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp chế

biến, chế tạo quá nhiều sẽ biến Việt Nam trở thành công xưởng lắp ráp của thế giới.

Bởi đây là lĩnh vực thu hút nhiều lao động, xuất khẩu nhiều nhưng nhập khẩu cũng

lớn, nên giá trị gia tăng không cao và không tạo sức lan tỏa đến những lĩnh vực, khu

vực kinh tế khác.

Hơn thế nữa, trong công nghiệp chế biến chế tạo, dòng vốn FDI có xu hướng

chảy vào lĩnh vực công nghiệp có ngành CNHT phát triển, khả năng cung ứng sản

phẩm hỗ trợ cho sản xuất trong nước cao. CNHT linh kiện phụ tùng phục vụ ngành

xe máy đáp ứng được 85-95% nhu cầu sản xuất trong nước, thì FDI vào lĩnh vực xe

máy đạt 24,4 tỷ USD vào năm 2016. CNHT linh kiện phụ tùng phục vụ ngành điện

tử gia dụng đáp ứng được 50% nhu cầu sản xuất trong nước, thì FDI vào lĩnh vực

này đạt hơn 10 tỷ USD vào năm 2016. Trong khi đó CNHT vải cho ngành Dệt may

chỉ đáp ứng được 22% nhu cầu sản xuất trong nước, thì FDI vào ngành này trong cả

giai đoạn 2012 – 2016 mới chỉ đạt 5 tỷ USD, v.v…

3.4.3.2. Ảnh hưởng đến cơ cấu FDI theo địa phương

Hình 3.24 cho thấy thành phố Hồ Chí Minh là địa phương dẫn đầu cả nước về

tỷ trọng vốn đầu tư và tỷ trọng dự án FDI. Đây được đánh giá là một trung tâm lớn về

kinh tế, là đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu của Vùng kinh tế trọng

điểm phía Nam. Tính đến cuối năm 2016, Thành phố Hồ Chí Minh có tất cả 17 khu

công nghiệp và khu chế xuất. Bên cạnh đó, thành phố Hồ Chí Minh luôn là một trong

những địa phương đi tiên phong về phát triển CNHT, đồng thời có mạng lưới CNHT

vệ tinh ở các tỉnh lân cận rất phát triển như Đồng Nai, Bình Dương, Long An, v.v…

106

Hình 3.23: Tỷ trọng vốn đầu tư và tỷ trọng dự án đầu tư của 10 Tỉnh có FDI

lớn nhất

(Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/12/2016)

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài

Tiếp đến là Hà nội, với 38 khu công nghiệp, và mạng lưới CNHT vệ tinh từ các

tỉnh lân cận như: Bắc Ninh, Bình Dương, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, v.v… đã khiến Hà Nội trở thành địa phương có tỷ trọng dự án FDI đứng thứ hai cả nước. Trong khi đó, các địa phương như Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Hải Dương mặc dù đứng trong nhóm 10 địa phương thu hút FDI lớn nhất cả nước. Song, so với thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội

thì số dự án và quy mô FDI thu hút được vẫn ở mức thấp hơn rất nhiều. Điều này là do mạng lưới ngành CNHT và CNHT vệ tinh ở các địa phương này vẫn còn hạn chế.

Ngược lại, ở những địa phương vùng sâu, vùng xa, có cơ sở hạ tầng kém phát

triển, đặc biệt là thiếu các khu công nghiệp, thiếu ngành CNHT và CNHT vệ tinh, thì FDI vào các địa phương này ở mức rất thấp. Theo số liệu của cục đầu tư nước ngoài (2016) địa phương thấp nhất cả nước về thu hút FDI là Lai Châu với tổng vốn FDI thu hút là 4 tỷ USD (3 dự án); tiếp đến Hà Giang với gần 10 tỷ USD (7 dự án); Gia lai với

hơn 12 tỷ USD (5 dự án); v.v…

107

Bảng 3.12: Vốn đầu tư và dự án đầu tư của 10 Tỉnh có FDI thấp nhất

(Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/12/2016)

STT Địa phương

Số dự án

Tổng vốn ĐT (triệu USD)

19

123.231

1 Đồng Tháp

22

89.578

2 Quảng Trị

5

76.164

3 Kon Tum

16

74.777

4 Bạc Liêu

11

74.137

5 Đăk Nông

25

57.025

6 Cao Bằng

3

13.005

7 Bắc Kạn

5

12.171

8 Gia Lai

7

9.989

9 Hà Giang

3

4.000

10 Lai Châu

(Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài)

Như vậy, thực trạng Việt Nam cho thấy dòng vốn FDI có xu hướng chảy vào các khu đô thị lớn, vùng có cơ sở hạ tầng – kinh tế phát triển, những vùng có hệ thống ngành CNHT vệ tinh phát triển nhất.

108

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Chương 3 của luận án tập trung vào 2 nội dung chính sau: Thứ nhất, đánh giá mức độ phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Có thể thấy, ngành CNHT Việt Nam đã hình thành và từng bước phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn sơ khai, manh mún, ở giữa giai đoạn một và hai của quá trình phát triển, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp, khó tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu. Số lượng doanh nghiệp nội địa tham gia CNHT còn rất hạn chế, chủ yếu là các DNNVV, với quy mô sản xuất nhỏ, thiếu vốn, trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ lao động thấp,v.v… Thứ hai, luận án phân tích những ảnh hưởng của ngành CNHT đến dòng vốn FDI vào Việt Nam theo các nội dung đã đề cập ở chương trước gồm: ảnh hưởng đến quy mô dòng vốn FDI, ảnh hưởng đến khả năng đóng góp vào kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực FDI, ảnh hưởng đến hiệu ứng lan toả của khu vực FDI, ảnh hưởng đến cơ cấu dòng vốn FDI và ảnh hướng đến khả năng liên kết giữa DNFDI và doanh nghiệp nội địa.

Để đánh giá sâu hơn về những tác động của CNHT đến thu hút FDI vào Việt Nam, mô hình nghiên cứu thực nghiệp được áp dụng với điển hình nghiên cứu tại tỉnh Vĩnh Phúc, được trình bày trong Chương 4.

109

CHƯƠNG 4

NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI TỈNH VĨNH PHÚC

Kể từ khi tái lập tỉnh vào năm 1997, với điều kiện tự nhiên thuận lợi và chính sách thu hút đầu tư hiệu quả, Vĩnh Phúc luôn là điểm đến của những dự án FDI có quy mô lớn như HonDa Việt Nam, Piaggio Việt Nam, Prime Group thuộc Tập đoàn Siam

Cement Group (Thái Lan), Hirota Precision Việt Nam (Nhật Bản), Toyota, Honda (Nhật Bản), Patron Vina, Jahwa, Sindoh (Hàn Quốc), Piaggio (Italia),v.v… Tuy nhiên, thực tế cho thấy các doanh nghiệp FDI tuy có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhưng lại phụ thuộc rất lớn vào nguồn hàng nhập khẩu nên giá trị gia tăng tại chỗ thấp.

Nguyên nhân, cũng giống như thực trạng chung của cả nước, ngành CNHT của tỉnh còn kém phát triển, tỷ lệ nội địa hoá thấp (trừ ngành lắp ráp xe máy thì tỷ lệ nội địa hoá đạt trung bình hơn 10%). Điều đó sẽ ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của sản

phẩm do phải nhập khẩu chi tiết, linh kiện, nguyên liệu với chi phí cao. Vì vậy, nếu không phát triển ngành CNHT trong tương lai việc thu hút các dự án FDI vào Vĩnh Phúc sẽ gặp khó khăn. Đó là lý do luận án lựa chọn tỉnh Vĩnh Phúc để nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI.

4.1. Hệ thống số liệu và phương pháp thu thập

Nhằm xem xét ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI, nghiên cứu đã được thực hiện thông qua điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Để đánh giá chi tiết, các câu hỏi được xây dựng dựa trên tổng hợp của các nghiên cứu về phát triển CNHT và thu hút FDI. Việc thực hiện điều tra được tiến hành như sau:

- Thực hiện phỏng vấn sâu đối với cán bộ cấp quản lý khối DNHT và FDI như:

Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Công thương, Ban Quản lý dự án, Sở Khoa học Công nghệ. Bên cạnh phỏng vấn sâu đối với cán bộ quản lý, các câu hỏi dự kiến đối với DNFDI và CNHT đã được tham vấn trực tiếp bởi các cán bộ quản lý và các cán bộ thuộc một số

đơn vị thường xuyên tư vấn cho các DNFDI và CNHT như: Ban xúc tiến và hỗ trợ đầu tư (IPA), Ban quản lý các khu công nghiệp.

- Đối với các DNFDI và DNHT, các câu hỏi được thực hiện thông qua điều tra phát phiếu. Qua tham vấn các chuyên gia và thông qua phỏng vấn sâu hai doanh

nghiệp, nghiên cứu sinh xác định các câu hỏi (phần phụ lục).

Một điểm khác biệt trong nghiên cứu này so với các nghiên cứu trước đây về CNHT là trong nghiên cứu này, để phân tích ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI,

110

tác giả sẽ tiến hành điều tra khảo sát và phân tích từ cả hai phía: DNHT và DNFDI sản xuất, thay vì chỉ xem xét nội lực của các DNHT như trong nghiên cứu của Trương Thị Chí Bình (2010), Hà Thị Hương Lan (2014), Lưu Tiến Dũng và Cộng sự (2014), v.v…; hay chỉ đánh giá từ phía DNFDI như nghiên cứu của Trương Bá Thanh -

Nguyễn Ngọc Anh (2014), Trần Quang Hậu (2015), v.v…

Nguồn dữ liệu được sử dụng trong phần nghiên cứu định lượng bao gồm:

Dữ liệu sơ cấp: Dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua các phương thức: Tiến hành khảo sát trực tiếp tại doanh nghiệp (dựa trên các bảng hỏi được phát ra kết hợp phỏng vấn sâu các lãnh đạo DN), trao đổi tài liệu qua email để bổ sung thêm các thông tin và báo cáo của doanh nghiệp mà không có trong nội dung bảng hỏi, và điện thoại trực tiếp theo phương pháp thuận tiện đến cán bộ quản lý thuộc các Sở quản lý cấp ban

ngành, các doanh nghiệp khi có bất kì vấn đề phát sinh hay khúc mắc trong quá trình nghiên cứu.

Đối với nhóm doanh nghiệp FDI sản xuất: Tác giả đã phát ra 200 phiếu khảo sát

và thu về 162 phiếu khảo sát, trong đó có 155 phiếu hợp lệ và 7 phiếu không hợp lệ.

Đối với nhóm DNHT hiện đang cung cấp sản phẩm cho các DNFDI: Tác giả đã phát ra 130 phiếu khảo sát và thu về 125 phiếu khảo sát hợp lệ. Trong đó có 100 DNHT là các DNFDI và 25 DNHT là doanh nghiệp DDI

Đối với nhóm DNHT nội địa chỉ cung cấp sản phẩm cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước: Tác giả đã phát ra 60 phiếu, thu về 54 phiếu trong đó có 50 phiếu hợp lệ và 4 phiếu không hợp lệ.

Dữ liệu thứ cấp: Ngoài dữ liệu được điều tra khảo sát, trong nghiên cứu của mình tác giả có sử dụng dữ liệu về DNHT được mua trực tiếp từ Tổng cục Thống kê; dữ liệu từ cuộc điều tra khảo sát DNHT của Trung tâm phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ – Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp – Bộ Công

Thương; dữ liệu từ đề án “Khuyến khích phát triển CNHT trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn đến năm 2025” của UBND tỉnh Vĩnh Phúc.

Nội dung phân tích được chia thành 2 phần:

Phần thứ nhất là phân tích đối với nhóm DNFDI, với mục tiêu thu được đánh giá của các DNFDI về khả năng của các DNHT tại Việt Nam trong việc đáp ứng các yêu cầu chung của họ cũng đưa ra so sánh khả năng đó của nhà cung cấp trong nước và nhà cung cấp nhập khẩu, sau khi tổng hợp từ các thông tin từ các bảng hỏi thu về,

phân tích thống kê tần suất được thực hiện để đưa ra cái nhìn tổng quan nhất. Ngoài ra,

111

với bộ thang đo gồm 28 câu hỏi (28 biến quan sát) được đo lường bằng thang đo Likert 5 điểm với 1 - rất không hài lòng; 2 – không hài lòng; 3 – bình thường; 4 – hài lòng và 5 – rất hài lòng được trích từ bảng hỏi dành cho DNFDI sản xuất, tác giả tiến hành phân tích nhân tố khám phá (EFA) để thu gọn 25 biến quan sát này thành các nhân tố

đại diện đồng thời xem xét nhân tố nào được các DNFDI đánh giá là quan trọng nhất.

Phần thứ hai với nhóm DNHT, với mục tiêu đánh giá nội lực cũng như thực trạng hiện nay của các DNHT Việt Nam, tác giả cũng tiến hành phân tích thống kê tần

suất các chỉ tiêu trong bảng hỏi để xem xét thực trạng cũng như tiềm năng của nhóm doanh nghiệp này. Sau đó, tác giả sẽ sử dụng mô hình Logit để đánh giá tác động của các yếu tố nội tại của DNHT đến khả năng thu hút FDI thông qua đánh giá xác suất trở thành nhà cung cấp cho DNFDI của các doanh nghiệp hỗ trợ DDI.

Phần mềm SPSS và phần mềm Eviews được sử dụng để thực hiện các phân tích

định lượng.

4.2. Phân tích kết quả dựa trên điều tra doanh nghiệp FDI

4.2.1. Đánh giá của các doanh nghiệp FDI sản xuất về nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi nhà cung cấp nội địa và nhập khẩu

Hiện tại các DNFDI trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc vẫn sử dụng nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng từ hai nguồn chính: Một là, từ nhà cung cấp nội địa (ở đây được hiểu là sản xuất tại Việt Nam, gồm có sản phẩm sản xuất bởi cả DNFDI và DDI ở Việt Nam), hai là, từ nhà cung cấp nhập khẩu (là các nguồn nguyên liệu có nguồn gốc từ các quốc gia khác ngoài Việt Nam, bao gồm cả hình thức mua hàng từ doanh nghiệp trong nước nhập khẩu bán lại). Để có cái nhìn khách quan nhất về đánh giá của các DNFDI sản xuất về nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi 2 nhà cung cấp nói trên, nghiên cứu tập trung tiến hành phỏng vấn các DNFDI dựa trên các nhóm tiêu chí mà các DNFDI luôn yêu cầu các nhà cung cấp phải đáp ứng. Cụ thể bao gồm: Chất lượng (Q), Giá cả (C), Thời gian giao hàng (D), Môi trường (E), Tài chính (F), Công nghệ (T), Trách nhiệm và quan hệ hợp tác lâu dài (R), Nguồn lao động (L) (Theo tiêu chuẩn đánh giá các doanh nghiệp hỗ trợ của SIDEC, Bộ Công Thương, 2015).

Trong mỗi yếu tố nêu trên, các DNFDI lại đánh giá theo các yếu tố chi tiết bên trong. Cụ thể, kết quả tổng hợp đánh giá mức độ hài lòng của DNFDI về các yếu tố nêu trên giữa hai nhóm nhà cung cấp được thể hiện trong các bảng dưới đây.

112

a. Đánh giá của các DNFDI sản xuất về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp cung cấp

Bảng 4.1: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về chất lượng nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi hai nguồn: (1) là nguồn cung cấp nội địa và (2) là nguồn cung cấp nhập khẩu

Đơn vị:%

Mức độ đánh giá Công nghệ và chu trình sản xuất (Q1) Thiết bị và phương pháp kiểm tra chất lượng (Q2) Hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng (Q3) Các biện pháp khắc phục, phòng ngừa (Q4)

(1) (2) (1) (2) (1) (2) (1) (2)

Rất không hài 0 0 0 0 0 0 0 0

lòng

0 0 0 0 0 0 30 0

Không hài lòng

Bình thường 10 0 15 0 15 0 70 0

Hài lòng 70 60 70 80 80 0 0 0

20 20 15 20 0 0 100 100

Rất hài Lòng

0 0 0 0 Không trả lời 0 20 0 5

Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Từ bảng 4.1 thống kê tần suất trên ta thấy rõ ràng về công nghệ và chu trình sản

xuất nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng cũng như thiết bị và phương pháp kiểm tra chất lượng hay hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng được cung cấp bởi nhóm nội địa và nhóm xuất khẩu là không khác nhau đáng kể theo đánh giá của các DNFDI sản xuất. Trong khi đó các biện pháp khắc phục, phòng ngừa của nhóm nhà cung cấp

nội dường như không đáp ứng được yêu cầu của các DNFDI sản xuất. Đó là vấn đề mà các DNHT nội địa cần thay đổi trong tương lai.

113

b. Đánh giá của doanh nghiệp FDI về giá cả nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng

Theo phân tích ở chương 2, dựa theo tiêu chuẩn quản lý hiện đại các yếu tố về giá cả thường được đánh giá dựa trên: Tính cạnh tranh về giá, cấu trúc giá, sự minh bạch về giá cả và sự linh hoạt.

Bảng 4.2: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về giá cả nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi hai nguồn:(1) là nguồn cung cấp nội địa và (2) là nguồn cung cấp nhập khẩu

Đơn vị: %

Tính cạnh tranh về giá (C1) Cấu trúc giá (C2) Sự minh bạch về giá (C3) Sự linh hoạt về giá (C4) Mức độ đánh giá

(1) (2) (1) (1) (2) (1) (2)

(2) 0 0 0 0 0 0 0 0

0 0 0 10 15 0 25 0

20 70 10 0

Rất không hài lòng Không hài lòng Bình thường Hài lòng Rất hài lòng Không trả lời Tổng 0 80 20 0 100 100 0 60 40 0 100 30 60 0 0 100 35 50 0 0 100 0 0 100 0 100 70 5 0 0 100 0 0 100 0 100

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Bảng 4.2 cho thấy về vấn đề giá cả, rõ ràng các nhà cung cấp nhập khẩu vẫn đang chiếm ưu thế và nhận được sự hài lòng rất lớn từ phía các DNFDI sản xuất so với nhà cung cấp nội địa, đặc biệt là trong sự minh bạch và linh hoạt về giá. Đây cũng là vấn đề mà các DNHT Việt Nam trong tương lai nên thay đổi để có thể cạnh tranh tốt

hơn với các nhà cung cấp nhập khẩu.

c. Đánh giá về thời gian giao hàng

Yếu tố được xem xét tiếp theo là thời gian giao hàng, yếu tố này được các DNFDI đánh giá dựa trên 3 yếu tố nhỏ sau: Khả năng quản lý chuỗi cung ứng, bộ phận packing-logistic, quản lý kế hoạch sản xuất và giao hàng.

114

Bảng 4.3: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về Thời gian giao hàng đối với nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi hai nguồn: (1) là nguồn cung cấp nội địa và (2) là nguồn cung cấp nhập khẩu

Đơn vị: %

Khả năng quản lý

Bộ phận packing- logistic Quản lý kế hoạch sản xuất và giao hàng chuỗi cung ứng Mức độ đánh giá (D2) (D3) (D1)

(1) (2) (1) (2) (1) (2)

Rất không hài lòng 0 0 0 0 0 0

Không hài long 30 0 25 0 25 0

Bình thường 50 0 47 0 55 0

Hài lòng 20 60 25 80 20 0

Rất hài lòng 0 40 0 20 0 100

Không trả lời 0 0 3 0 0 0

Tổng 100 100 100 100 100 100

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Từ bảng 4.3 ta thấy, rõ ràng mặc dù có lợi thế về địa lý, nhưng các yếu tố liên quan đến thời gian giao hàng của các nhà cung cấp nội địa lại bị các DNFDI đánh giá thấp hơn rất nhiều so với các nhà cung cấp nhập khẩu. Qua trao đổi với một số DNFDI

trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc thì các doanh nghiệp này cho rằng các nhà cung cấp nội địa thường không đảm bảo được tiến độ và thời gian giao hàng là do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan vì thời gian từ nghiên cứu sản phẩm, xây dựng quy trình sản

xuất, sản xuất và giao hàng thường là rất ngắn. Cộng với năng lực và công nghệ của các nhà cung cấp nội địa cũng chưa đủ mạnh để đảm bảo đúng tiến độ giao hàng theo quy chuẩn quốc tế.

115

d. Đánh giá của doanh nghiệp FDI về môi trường sản xuất

Bảng 4.4: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về Môi trường sản xuất đối

với nguồn nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng được cung cấp bởi hai nguồn: (1) là

nguồn cung cấp nội địa và (2) là nguồn cung cấp nhập khẩu

Đơn vị: %

Môi trường và an toàn Chứng chỉ ISO và OHSAS

(E1) (E2) Mức độ đánh giá

(1) (2) (1) (2)

Rất không hài lòng 20 0 35 0

Không hài lòng 30 0 15 0

Bình thường 50 0 50 0

Hài lòng 0 70 0 50

Rất hài lòng 0 30 0 50

Không trả lời 0 0 0 0

Tổng 100 100 100 100

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Xét về yếu tố môi trường trong sản xuất, thì các DNFDI đánh giá các nhà cung

cấp nội địa rất thấp so với các nhà cung cấp nhập khẩu. Theo kết quả phỏng vấn sâu

đối với một số DNFDI thì các doanh nghiệp này cho rằng các nhà cung cấp nội địa hầu

như không đảm bảo yêu cầu tiêu chuẩn quốc tế về an toàn trong sản xuất. Họ cho rằng

các chứng chỉ ISO được cấp cho các doanh nghiệp Việt Nam là chưa đúng.

116

e. Đánh giá của doanh nghiệp FDI về tài chính của nhà cung cấp

Bảng 4.5: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về Tài chính của nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp nhập khẩu

Đơn vị: %

Khả năng tín dụng Tỷ suất nợ Khả năng thanh toán

(F1) (F2) (F3) Mức độ đánh giá

(1) (2) (1) (2) (1) (2)

Rất không hài lòng 0 0 0 0 0 0

Không hài lòng 0 0 0 0 0 0

Bình thường 50 0 50 50 50 50

Hài lòng 20 50 50 50 50 50

Rất hài lòng 30 50 0 0 0 0

Không trả lời 0 0 0 0 0 0

Tổng 100 100 100 100 100 100

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Về vấn đề tài chính, các DNFDI cho rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa

hai nhóm nhà cung cấp này. Điều này có thể được lý giải dễ dàng thông qua các chính sách ưu đãi về tín dụng của Chính phủ Việt Nam cũng như chính quyền địa phương đối với các DNHT trên địa bàn.

117

f. Đánh giá về công nghệ sản xuất

Bảng 4.6: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về công nghệ sản xuất của nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp nhập khẩu

Đơn vị: %

Năng lực thiết kế, đổi mới Đăng kí bản quyền Cơ sở vật chất cho nghiên cứu và phát triển (R&D) Mức độ đánh giá (T1) (T2) (T3)

(1) (2) (1) (2) (1) (2)

Rất không hài lòng 0 0 0 0 30 0

Không hài lòng 20 0 0 0 20 0

Bình thường 50 0 50 50 50 0

Hài lòng 30 0 50 50 0 50

Rất hài lòng 0 100 0 0 0 50

Không trả lời 0 0 0 0 0 0

Tổng 100 100 100 100 100 100

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Qua kết quả tổng kết có thể thấy rằng, dưới góc nhìn của các DNFDI thì các doanh nghiệp nội địa tại Việt Nam chưa được đầu tư về mặt công nghệ để phù hợp với

tiềm lực sản xuất. Đặc biệt là các DNHT Việt Nam còn nhiều hạn chế về đổi mới công nghệ trong lĩnh vực sản xuất các linh kiện cho các sản phẩm điện tử, đặc biệt là điện thoại di động, máy tính bảng là các sản phẩm có vòng đời sản phẩm ngắn, luôn phải

thay đổi để phù hợp với thị hiếu tiêu dùng. Theo đó, các chủng loại linh phụ kiện cũng phải thay đổi liên tục để phù hợp với các sản phẩm mới của nhà lắp ráp. Điều này yêu cầu nhà cung cấp phải luôn phải thay đổi linh hoạt, có trình độ cao về công nghệ và quản lý sản xuất. Đây là vấn đề mà các nhà cung cấp trong nước nên lưu ý để cải tiến

trong thời gian tới.

118

g. Đánh giá về năng lực, trách nhiệm, hợp tác lâu dài

Bảng 4.7 : Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về Năng lực, trách nhiệm và hợp tác lâu dài của (1) nhà cung cấp nội địa và (2) nhà cung cấp nhập khẩu

Đơn vị: %

Phản ứng nhanh Quản lý dữ liệu cung ứng Quan hệ hợp tác lâu dài Trình độ ban lãnh đạo Đưa ra quyết định theo đúng quy trình Mức độ đánh giá (R2) (R4) (R1) (R5) (R3)

(1) (2) (1) (2) (1) (2) (1) (2) (1) (2)

Rất không hài lòng 0 0 0 0 0 0 0 0 15 0

Không hài lòng 0 0 0 0 0 0 50 0 45 0

Bình thường 40 10 49 0 75 0 50 0 50 0

0 0 0 0 0 Hài lòng 50 50 32 40 20

0 0 0 Rất hài lòng 10 40 19 60 0 100 100

0 0 0 0 Không trả lời 0 0 0 0 5 0

Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Đáng chú ý trong phần này là qua kết quả ở trên kết hợp với phỏng vấn sâu các

DNFDI, tác giả nhận thấy có sự thiếu tin tưởng để đi đến hợp tác lâu dài giữa các DNFDI sản xuất với các DNHT nội địa tại Việt Nam. Ngoài ra các DNFDI còn cho rằng ở Việt Nam thiếu cơ sở dữ liệu giới thiệu về năng lực doanh nghiệp nên rất khó để tìm đối tác phù hợp cho mình tại Việt Nam.

119

h. Đánh giá về nguồn lao động

Bảng 4.8: Thống kê tần suất đánh giá của các DNFDI về nguồn lao động của (1) nhà cung cấp nội địa và (2) nhà cung cấp nhập khẩu

Đơn vị: %

Mức độ đánh giá Chất lượng lao động (L1) Chấp hành kỷ luật lao động (L2) Sự chăm chỉ và cầu tiến (L3)

(1) (2) (1) (2) (1) (2)

Rất không hài lòng 0 0 0 0 0 0

Không hài lòng 0 0 0 0 0 0

Bình thường 25 0 40 0 0 0

Hài lòng 36 30 60 0 20 30

Rất hài lòng 39 70 0 100 80 70

Không trả lời 0 0 0 0 0 0

Tổng 100 100 100 100 100 100

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Đánh giá về nguồn lao động của hai nhà cung cấp nội địa và nhập khẩu, thì theo các DNFDI không có sự khác biệt nhiều lắm giữa hai nhóm này. Thậm chí, theo kết quả phỏng vấn sâu, các DNFDI còn đánh giá cao nguồn nhân công của Việt Nam hơn

với các lợi thế như nhân công giá rẻ, thái độ làm việc chăm chỉ, cầu tiến cao.

4.2.2. Phân tích các yếu tố tác động đến mức độ hài lòng của doanh nghiệp FDI

Trong phần này, dựa trên bộ thang đo gồm 28 câu hỏi (28 biến quan sát) được đo lường bằng thang đo Likert 5 điểm với 1 - rất không hài lòng; 2 – không hài lòng; 3

– bình thường; 4 – hài lòng và 5 – rất hài lòng; điều tra từ mẫu gồm 155 doanh nghiệp FDI sản xuất trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, nghiên cứu được thực hiện thông qua phân tích nhân tố khám phá (EFA) để xem xét tác động ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến nhà cung cấp nội địa đến mức độ hài lòng của DNFDI. Nếu như trong phần 1 ở

trên tác giả đi vào xem xét đánh giá và so sánh giữa 2 nhóm nhà cung cấp dưới góc nhìn của các DNFDI thì trong phần này, tác giả chỉ tiến hành phân tích nhân tố dựa trên kết quả đánh giá của DNFDI với các nhà cung cấp nội địa (trong đó có các DNHT

trong nước và doanh nghiệp hỗ trợ FDI tại Việt Nam).

120

Mục tiêu chính của phần này là sử dụng phương pháp EFA để đánh giá các yếu tố liên quan đến nhà cung cấp nội địa bao gồm: Chất lượng (Q), Chi phí (C), Thời gian giao hàng (D), Môi trường (E), Tài chính (F), Công Nghệ (T), Năng lực, trách nhiệm và hợp tác lâu dài (R) và Nguồn lao động (L) tác động đến mức độ hài lòng của

D

E

C

T

F

Q

R

MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA DNFDI

L

DNFDI sản xuất. Từ đó xem xét những yếu tố nào thực sự ảnh hưởng và có ảnh hưởng mạnh nhất đến thu hút FDI hiện nay.

Hình 4.1: Sơ đồ mô hình nghiên cứu thang đo các nhân tố liên quan đến nhà cung cấp nội địa ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của doanh nghiệp FDI sản xuất

Nguồn: SIDEC, Bộ Công Thương, 2015

Trước tiên, chất lượng bộ thang đo sẽ được kiểm định thông qua kiểm định hệ số Cronbach’s Alpha. Tác giả tiến hành kiểm định Cronbach’s Alpha lần lượt cho từng yếu tố trong 8 yếu tố đã được đề cập ở trên. Theo Nunally, 1978; Peterson, 1994; Slater, 1995, thang đo sẽ được đánh giá là chấp nhận được và là một thang đo hiệu quả

khi và chỉ khi nó thỏa mãn đồng thời 2 điều kiện sau:

- Hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể lớn hơn 0.6

- Hệ số tương quan qua biến tổng (Corrected Item – Total correlation) lớn

hơn 0.3

Bảng 4.9 dưới đây tổng hợp toàn bộ kết quả từ kiểm định Cronbach’s Alpha. Trong quá trình phân tích, tác giả sẽ loại đi những biến quan sát mà có hệ số tương quan qua biến tổng (Corrected Item – Total correlation) < 0.3 và thực hiện lại kiểm

định Cronbach’s Alpha, nên kết quả đưa ra trong bảng 4.9 là giá trị Cronbach’s Alpha cuối cùng.

121

Bảng 4.9: Bảng tổng hợp các biến và thang đo sau Phân tích Cronbach’s Alpha

Biến quan sát thỏa mãn Biến quan sát bị loại Số TT Thành phần Cronbach’s Alpha Tên biến Tên biến

Số biến 1 1 Chất lượng 0.845 Số biến 3 (Q)

4 0 0.834 (Q3)Hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng 2 Giá cả, chi phí (C)

3 3 0.669 0

Thời gian giao hàng (D)

(Q1) Công nghệ và chu trình sản xuất (Q2) Thiết bị và phương pháp sản xuất (Q4) Các biện pháp khắc phục phòng ngừa (C1) Tính cạnh tranh về giá (C2) Cấu trúc giá (C3)Minh bạch về giá (C4) Sự linh hoạt (D1) Khả năng quản lý chuỗi cung ứng (D2) Bộ phận packing- logistic (D3) Quản lý kế hoạch sản xuất và giao hang 4 Môi 0.432 (Loại)

0.368 (Loại) 5 trường (E) Tài chính (F) 3 6 Công nghệ 0.752 0 (T)

4 0.812 1 7

(R1) Trình độ ban lãnh đạo Trách nhiệm và hợp tác lâu dài (R)

0 0.872 3 8 Nguồn lao động (L)

(T1) Năng lực thiết kế đổi mới (T2) Đăng ký bản quyền (T3) Cơ sở vật chất cho nghiên cứu và phát triển (R2) Phản ứng nhanh (R3) Đưa ra quyết định theo đúng quy trình (R4) Quản lý dữ liệu cung ứng (R5) Quan hệ hợp tác lâu dài (L1) Chất lượng nguồn lao động (L2) Chấp hành kỷ luật lao động (L3) Sự chăm chỉ và cầu tiến

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

122

Qua kết quả bảng trên ta thấy, ngoại trừ thang đo Môi trường và thang đo Tài chính, thì tất cả các thang đo khác đều có hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể lớn hơn 0.6, điều này cho biết các thang đo mà tác giả đưa vào phân tích là có ý nghĩa. Đối với thang đo Môi trường, do hệ số Cronbach’s Alpha là 0.432 < 0.6 nên hệ số

này không có ý nghĩa, và biến này sẽ được loại ra khi xem xét các yếu tố tác động đến mức độ hài lòng của DNFDI khi đánh giá các nhà cung cấp trong nước tại Việt Nam. Vấn đề này có thể được giải thích giống như các ý kiến mà DNFDI đưa ra

trong cuộc phỏng vấn sâu, đó là các DNHT trong nước chưa tuân thủ yêu cầu về môi trường, trong khi các chứng chỉ ISO tại Việt Nam không đảm bảo độ tin cậy khi xét duyệt yếu tố Môi trường sản xuất. Dẫn đến việc chứng chỉ ISO mà các doanh nghiệp đạt được không phản ánh đúng mong muốn của DNFDI về đảm bảo môi trường sản

xuất tại các DNHT hiện nay.

Tương tự, thang đo tài chính cũng có hệ số Cronbach’s Alpha là 0.368 < 0.6 nên cũng không có ý nghĩa và biến tài chính cũng sẽ được loại ra khỏi nghiên cứu vì

không đủ độ tin cậy. Đây là thực trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, các báo cáo tài chính vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về tính minh bạch và rõ ràng.

Sau khi thực hiện kiểm định Cronbach’s Alpha cho 8 biến độc lập trong mô hình nghiên cứu, hai thang đo là Môi trường và Tài chính không đủ độ tin cậy nên bị

loại khỏi nghiên cứu. Vì thế mô hình nghiên cứu được điều chỉnh có 6 thang đo và 20 biến quan sát.

Phần tiếp theo, phân tích nhân tố khám phá (EFA) cho 6 thang đo và 20 biến

quan sát ở trên theo các bước sau để xem xét xem mức độ hài lòng của các DNFDI được giải thích từ các thang đó và biến quan sát đó như thế nào. Bảng 4.10 dưới đây sẽ tổng hợp kết quả phân tích nhân tố khám phá

Bảng 4.10. Kết quả phân tích nhân tố khám phá

Thành phần chính

Biến quan sát Giá cả Trách nhiệm và hợp tác lâu dài Công nghệ Chất lượng

Lao động 0.920 0.832 0.754 0.915 0.870 0.713 0.934 0.912 Thời gian giao hàng L3 L1 L2 Q4 Q1 Q2 C3 C4

123

Thành phần chính

Biến quan sát Giá cả Trách nhiệm và hợp tác lâu dài Công nghệ Lao động Chất lượng

Thời gian giao hàng 0.913 0.786 0.67 0.875 0.671 0.550 0.713 0.657 0.903 0.846 0.732 0.619

0.787 0.000

2.847 1.625 1.246 1.134 1.073 74.23

C1 C2 R5 R2 R4 R3 T1 T3 T2 D1 D3 D2 KMO P-value (Barlett’s test) Eigenvalue 7.872 Phương sai giải thích (%)

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Từ bảng kết quả trên ta có thể thấy là cả 6 thang đo đều có ý nghĩa giải thích

cho sự hài lòng của các DNFDI khi đánh giá các DNHT tại Việt Nam. Cụ thể, 6 thang đo này giải thích được 74,23% thái độ của các DNFDI khi đánh giá các nhà cung cấp nội địa, trong đó thành phần chính tác động lớn nhất đến sự hài lòng là lao động. Trong thành phần chính này thì biến quan sát được cho là tác động mạnh nhất là L3

(Sự chăm chỉ và cầu tiến), sau đó mới đến chất lượng nguồn lao động (L1) và thái độ chấp hành kỷ luật của người lao động (L2). Sau thành phần chính lao động thì chất lượng là thành phần chính có mức độ quan trọng thứ hai trong việc ra quyết định lựa chọn nhà cung cấp của DNFDI. Tiếp đó lần lượt là các thành phần giá cả, trách nhiệm

và hợp tác lâu dài, công nghệ và thời gian giao hàng.

4.3. Phân tích kết quả dựa trên điều tra doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

4.3.1. Đánh giá thực trạng hai nhóm doanh nghiệp hỗ trợ FDI và DDI

Trong phần trước, thực trạng và tiềm năng của các DNHT tại Việt Nam dưới góc nhìn của các đối tác của họ là các DNFDI sản xuất được tập trung phân tích và đánh giá, các vấn đề về giá trị nội tại của DNHT dựa trên kết quả điều tra khảo sát và phỏng vấn

124

sâu đối với chính nhóm đối tượng này. Trong phần này, ngoài việc tổng hợp và phân tích kết quả từ thống kê tần suất dựa trên bảng hỏi, mục tiêu chính đi vào đánh giá khả năng DNHT Việt Nam trở thành nhà cung cấp của DNFDI sản xuất dựa trên mô hình Logistic. Chính vì thế ngoài dữ liệu của 125 DNHT đang là nhà cung cấp cho các

DNFDI thì tác giả cũng tiến hành phỏng vấn và thu thập dữ liệu của 50 DNHT khác mà hiện chỉ là nhà cung cấp cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước (tức là không phải nhà cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng cho các DNFDI sản xuất).

a. Kết quả về loại hình sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

Dựa trên các câu hỏi trong bảng hỏi khảo sát DNHT, tác giả tổng hợp lại các thông tin thu được theo hai nhóm: (1) là nhóm DNHT là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và (2) là nhóm DNHT thuần túy trong nước, không dùng vốn đầu

tư nước ngoài (DDI).

Trước hết, bảng 4.11 tổng hợp kết quả về loại hình sản xuất của các DNHT như sau

Bảng 4.11. Thống kê tần suất về Loại hình sản xuất của các DNHT

giữa 2 nhóm (1) FDI và (2) là DDI

Đơn vị: %

(1) (2) Loại hình sản xuất

10 80

Sản xuất theo phương thức sử dụng nguồn nguyên liệu, thiết kế do khách hàng cung cấp, và gắn nhãn hiệu sản phẩm theo yêu cầu của khách hang

20 10

Sản xuất theo phương thức tự thiết kế sản phẩm, tự mua nguyên liệu, nhưng gắn nhãn hiệu sản phẩm theo yêu cầu của khách hang

65 3 Sản xuất theo phương thức tự thiết kế sản phẩm, tự mua nguyên liệu và có nhãn hiệu riêng của doanh nghiệp.

5 7 Khác

100 100 Tổng

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Qua bảng kết quả trên, có thể thấy rõ ràng rằng các doanh nghiệp hỗ trợ FDI

năng động và tự chủ trong sản xuất hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp DDI. Phần lớn các sản phẩm của họ được sản xuất theo phương thức tự thiết kế, tự mua

125

nguyên liệu và có nhãn hiệu riêng (chiếm 65%) trong khi con số này của các doanh nghiệp DDI là 3%.

b. Kết quả về thiết bị sử dụng trong sản xuất

Bảng 4.12. Thống kê tần suất về thiết bị sử dụng trong sản xuất của các DNHT giữa 2 nhóm (1) FDI và (2) là DDI

Đơn vị: %

(2) (1) Loại thiết bị

50 83 Nhập khẩu

50 17 Nội địa

100 100 Tổng

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Qua bảng kết quả trên có thể thấy là phần lớn các thiết bị mà các DNHT trong

nước đang sử dụng là các thiết bị nhập khẩu, còn các doanh nghiệp hỗ trợ FDI họ cân bằng giữa thiết bị nhập khẩu và thiết bị do nước họ tự sản xuất.

c. Kết quả về công nghệ sử dụng giữa hai nhóm FDI và DDI

Bảng 4.13. Thống kê tần suất về loại công nghệ sử dụng giữa 2 nhóm

(1) FDI và (2) là DDI

Đơn vị: %

(1) (2) Loại công nghệ

10 53 Thủ công

50 37 Bán tự động

40 10 Tự động

100 100 Tổng

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Qua bảng kết quả này, chúng ta cũng thấy rõ khoảng cách về công nghệ giữa hai nhóm DNHT, nếu như nhóm FDI chủ yếu sử dụng thiết bị tự động và

126

bán tự động (chiếm đến 90%) thì các doanh nghiệp DDI vẫn trên 50% sử dụng các thiết bị thủ công.

d. Kết quả về phương pháp quản lý sản xuất của DNHT

Bảng 4.14. Thống kê tần suất về các phương pháp quản lý sản xuất hiện đại mà các DNHT đang sử dụng

Đơn vị: %

(1) (2) Phương pháp quản lý

20 23 ISO

10 8 JIT

30 30 5S

15 0 Kaisen

25 12 Lean

0 17 Không áp dụng

100 100 Tổng

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Từ bảng kết quả cho thấy không có sự khác nhau nhiều giữa hai nhóm DNHT trong việc sử dụng phương pháp quản lý hiện đại. Chỉ khác là việc sử dụng ít nhất một phương pháp quản lý sản xuất hiện đại là bắt buộc với các DNFDI còn các doanh nghiệp DDI thì Việt Nam vẫn chưa có một văn bản yêu cầu chính thức nào để bắt buộc

thực hiện cả nên vẫn có khoảng 17% các doanh nghiệp được hỏi chưa áp dụng bất kỳ một phương pháp quản lý sản xuất hiện đại nào.

e. Kết quả về kênh tiếp thị đang sử dụng của DNHT

Hiện nay, nhiều DNHT cho rằng việc họ tiếp cận với các đối tác để tìm kiếm khách hàng tiềm năng (DNFDI sản xuất) là rất khó khăn, tức là theo các DNHT thì đang có sự bất cân xứng về thông tin cung cầu tại thị trường Việt Nam. Vì thế trong bảng hỏi điều tra DNHT, một số câu hỏi về những kênh tiếp thị được doanh nghiệp sử

dụng (câu trả lời có thể là nhiều lựa chọn) được thực hiện. Bảng 4.15 dưới đây đưa ra kết quả thống kê tần suất các kênh mà DNHT sử dụng để tiếp cận khách hàng.

127

Bảng 4.15: Thống kê tần suất về các kênh tiếp thị mà DNHT sử dụng

để tiếp cận với khách hàng

Đơn vị: %

(1) (2) Kênh tiếp thị

Liên hệ trực tiếp 57 12

Website DN 43 27

Quảng cáo qua website thương mại, các dịch vụ quảng cáo trực tuyến 18 33

Hội chợ, triển lãm 2 30

Các chương trình xúc tiến thương mại 0 15

Khách hàng cũ giới thiệu 10 0

Quảng cáo trên Tivi, radio, báo giấy 0 7

Khác 0 15

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Qua bảng kết quả trên, có thể thấy rõ ràng là việc các doanh nghiệp hỗ trợ DDI có thể tìm kiếm khách hàng FDI sản xuất thông qua trao đổi trực tiếp là tương đối thấp

(12%) so với tỷ lệ 57% của nhóm doanh nghiệp hỗ trợ FDI. Điều này một lần nữa khẳng định một vấn đề mà khi phỏng vấn sâu, các chủ doanh nghiệp hỗ trợ DDI có đề cập là “văn hóa lựa chọn đối tác” của các DNFDI dành một sự ưu tiên đặc biệt và sự tin tưởng tuyệt đối với các DNHT thuộc quốc gia của họ, ví dụ như các DNFDI sản

xuất của Nhật thì rất ưa chuộng các doanh nghiệp hỗ trợ FDI cũng đến từ Nhật. Đây là một rào cản lớn đối với các doanh nghiệp DDI mà họ cần phải nỗ lực rất lớn để vượt qua rào cản này và khẳng định thương hiệu của mình.

f. Những khó khăn chính mà DNHT gặp phải hiện nay

Cùng với khó khăn trong việc tiếp cận khách hàng FDI sản xuất, thì các DNHT hiện nay cũng đang phải đổi mặt với rất nhiều khó khăn khác nữa. Bảng 4.16 dưới đây sẽ tổng hợp lại dưới dạng tần suất những khó khăn mà DNHT đang phải đối mặt hiện

nay (đây cũng là dạng câu hỏi có thể chọn nhiều lựa chọn khi trả lời nên tổng tần suất mỗi nhóm là không bằng 100%)

128

Bảng 4.16. Thống kê tần suất về những khó khăn mà DNHT gặp phải hiện nay

Đơn vị: %

(1) (2) Khó khăn

Vốn vay, tài chính 17 12

Thông tin thị trường 55 47

Thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động kinh doanh 45 33

Liên kết các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất 32 30

Công nghệ lạc hậu 0 35

0 30

Không nắm bắt được nhu cầu, tiêu chuẩn chất lượng về sản phẩm của khách hang

Khả năng tiếp thu, thích ứng công nghệ mới từ nước ngoài thấp 0 15

Thiếu nhân lực chuyên môn kỹ thuật cao 6 35

Khả năng nghiên cứu, thiết kế, chế tạo công nghệ mới yếu kém 7 55

Cạnh tranh từ thương hiệu nước ngoài 21 25

Trình độ quản lý 2 10

Mặt bằng sản xuất 45 15

Liên kết với các nhà cung cấp nội địa 25 17

Giá thành sản xuất cao 20 12

Khó khăn khác 12% 25

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Từ bảng kết quả trên ta có thể thấy rõ ràng là các DNHT trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn hơn so với các doanh nghiệp hỗ trợ FDI đặc biệt là khó khăn về

công nghệ, khả năng nắm bắt nhu cầu tiêu chuẩn chất lượng của khách hàng, thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn cao, v.v… Do đó, trong tương lai để bắt kịp được tốc

129

độ phát triển của các doanh nghiệp hỗ trợ FDI thì đòi hỏi các DNHT trong nước phải có những nỗ lực và bước nhảy vọt đáng kể.

g. Kỳ vọng hỗ trợ của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

Đồng thời, các DNHT cũng mong muốn nhận được sự hỗ trợ tốt hơn nữa từ

phía chính quyền địa phương để đảm bảo hoạt động hiệu quả hơn trong tương lai. Bảng 4.17 tổng hợp kết quả phân tích tần suất về mong muốn của các DNHT đối với chính sách hỗ trợ của chính quyền đối với DN.

Bảng 4.17. Thống kê tần suất về những mong muốn hỗ trợ

từ chính quyền địa phương đối với DNHT

Đơn vị: %

(1) (2) Khó khăn

Hỗ trợ vốn, tín dụng 10 12

Hỗ trợ công nghệ 0 80

Hỗ trợ thủ tục hành chính 78 40

Hỗ trợ tiếp cận thị trường 68 60

Ưu đãi thuế 83 80

Hỗ trợ quỹ đất xây dựng nhà máy 80 36

Liên kết các doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất 10 72

Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 46 60

Hỗ trợ khác 12 12

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Từ bảng kết quả trên có thể thấy rằng, nếu như các doanh nghiệp hỗ trợ FDI cần hỗ trợ chủ yếu về thủ tục hành chính, tiếp cận thị trường, ưu đãi thuế và hỗ trợ quỹ đất xây dựng nhà máy (lần lượt là 78%, 68%, 83% và 80%) thì các DNHT Việt Nam lại

mong muốn nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương chủ yếu về hỗ trợ công nghệ (80%), hỗ trợ thủ tục hành chính (60%), ưu đãi thuế (80%) và hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực (60%).

h. Chất lượng nguồn lao động

Dù là doanh nghiệp hỗ trợ FDI hay DDI thì nguồn nhân công mà cả hai nhóm doanh nghiệp này sử dụng đều chủ yếu là nguồn lao động của Việt Nam. Trong nhiều thập kỷ qua, Việt Nam luôn được các nhà đầu tư đánh giá cao về mảng nhân lực: giá

nhân công rẻ, chất lượng nhân công tốt và tính kỷ luật, chăm chỉ của người lao động

130

cao. Trong bảng khảo sát của nghiên cứu này, các câu hỏi liên quan đến chất lượng của nguồn nhân công đang làm việc được tiến hành trong các DNHT. Bảng 4.18 dưới đây sẽ đưa ra kết quả thống kê tần suất về chất lượng nguồn lao động tại các DNHT.

Bảng 4.18. Thống kê tần suất về chất lượng nguồn lao động tại các DNHT

Đơn vị: %

(1) (2) Chất lượng nguồn lao động

Có kỹ năng phù hợp với công việc 20 27

Chăm chỉ 90 80

Chấp hành tốt các quy định của công ty 73 70

Được trả lương tưng xứng với công việc 78 60

Lao động có trình độ và chuyên môn cao 13% 8%

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

Từ bảng tổng kết ta thấy, phần lớn các DNHT đều đánh giá cao nguồn nhân lực

nước ta trên phương diện chăm chỉ và chấp hành tốt các nội quy của doanh nghiệp (trên 70% các doanh nghiệp được hỏi đều đánh giá như thế). Tuy nhiên, trình độ học vấn và chuyên môn của nguồn lao động nước ta vẫn chưa được đánh giá cao tại các khu công nghiệp.

4.3.2. Đánh giá tác động của các yếu tố nội tại của DNHT đến khả năng trở thành nhà cung cấp của DNFDI sản xuất

Bên cạnh việc đánh giá từ 2 phía DNFDI và DNHT, nghiên cứu về các tác động

của các yếu tố nội tại của DNHT dựa trên mô hình Logit là mô hình mà biến phụ thuộc chỉ có hai trạng thái là bằng 1 (nếu DNHT hiện đang là nhà cung cấp của DNFDI sản xuất) và bằng 0 (nếu DNHT hiện không phải là nhà cung cấp của DNFDI sản xuất) được thực hiện nhằm đánh giá khả năng (hay xác suất) trở thành nhà cung cấp của DNFDI sản xuất. Mục tiêu của mô hình này là xác định xác suất để một biến phụ thuộc nhận giá trị bằng 1 (Pi) (tức là xác suất để DNHT là nhà cung cấp của DNFDI sản xuất) sẽ thay đổi như thế nào khi các biến độc lập thay đổi.

a. Khung lý thuyết của mô hình Logit

X

β

X

i

i

+ ββ 0 1

1

Mô hình Logit (Maddala, 1984) pi được xác định bằng:

X

X

β

i

+ ββ 1 01

1

i

e

1

X exp(

e +

exp( 1 +

) β i X ) β

e

e +1

i

= = (4.1) pi =

X = (1, X1); Xi = (1, X1i ) ; β' = (β0, β1 ).

131

Trong mô hình trên pi không phải là hàm tuyến tính của các biến độc lập.

Phương trình (4.1) được gọi là hàm phân bố logistic. Trong hàm này khi X β

nhận các giá trị từ - ∝ đến ∝, thì p nhận giá trị từ 0 đến 1. pi phi tuyến với X và các tham số β. Điều này có nghĩa là ta không thể áp dụng trực tiếp OLS để ước lượng.

Người ta dùng ước lượng hợp lý tối đa để ước lượng β.

Vì Y chỉ nhận một trong hai giá trị 0 - 1, Y có phân bố nhị thức, nên hàm hợp lý

n

1 −

Y i

p

với mẫu kích thước n dạng sau đây:

(

)

Y i i

i

1 −∏ p

1

i

=

iY

1 iY −

n

1

L =

X exp(

exp(

) β i X ) β

) β

exp( 1 +

1 +

i 1 =

  

  

  

  

i

iX

n

exp(

β

i

∑ ' Y )X i

1i =

L = ∏

n

X

) β

i

+∏ (1 exp(

1i =

n

= (4.2)

iYX

i

1

i

=

, t* là véc tơ hai chiều (số chiều bằng số hệ số hồi quy). Ta cần Đặt t* = ∑

n

tìm ước lượng hợp lý tối đa của β, ta có:

i 1 =

n

Ln(1+ exp(Xi β). Ln(L) = β' t* - ∑

X exp(

exp( 1 +

) β i X ) β

i 1 =

i

n

exp(

i

Xi + t* = 0 (4.3) ∂ Ln(L)/ ∂β = g(β) = - ∑

exp(

) ˆ X β )ˆ X β

1 +

i 1 =

i

Xi + t* g( βˆ ) = - ∑

Phương trình trên phi tuyến đối với β, người ta dùng phương pháp Newton-

Raphson để giải hệ phương trình này.

2

n

X

X

X

(1

exp(

(exp(

β

) β

+

i

i

i

(

)X

i

H(β) = E( ∂2 Ln(L)/ ∂β∂β ') = E(∂g(β)/∂β)

) β X

)) (1

X − i 2 )) β

exp(X i exp( +

i 1 =

i

n

X

)X

= -∑

' i

i

2

))

(1

exp(X exp( +

i 1 =

) β i i X β i

= -∑

132

H(β) được gọi là ma trận thông tin. Nếu như βˆ là nghiệm của g( β), khai triển Taylor

2

- ˆ ( ) ββ

+

tại β, ta có:

ˆ β ) =

LLn )( ∂ ∂ β

LLn )( ∂ ' ∂∂ ββ

2

g(

LLn )( ∂ ' ββ∂∂

1 −

2

g

Nếu là ma trận không suy biến thì

- ˆ ( ββ )

) ( β

LLn )( ∂ ' ββ ∂∂

  

  

= - = - [H(β)]-1 g(β).

Ta có quá trình lặp như sau:

Bắt đầu với giá trị ban đầu nào đó của β, chẳng hạn β0, ta tính được S(β0) và

I(β0), sau đó tìm β mới bằng công thức sau đây:

β = β0 - [H(β0)]-1 g(β0).

Quá trình lặp trên sẽ được thực hiện cho đến khi hội tụ. Do H(β) là dạng toàn

phương xác định dương, nên quá trình trên sẽ cho ước lượng hợp lý cực đại. Tương ứng với βˆ , ta có [H(βˆ )]-1 là ma trận hiệp phương sai của βˆ . Sử dụng ma trận này để

kiểm định giả thiết và thực hiện các suy đoán thống kê khác.

X

exp(

ipˆ =

exp(

) ˆ β i ) ˆ X β

1 +

i

Sau khi ước lượng được βˆ , ta có thể tính được ước lượng xác suất pi = P(Y=1 Xi),

Kết hợp với (4.3) ta có: ∑ ipˆ Xi = ∑YiXi .

ipˆ .

Phương trình này dùng để kiểm nghiệm lại các

Như vậy trong mô hình Logit không nghiên cứu ảnh hưởng trực tiếp của biến độc lập Xk đối với Y mà xem xét ảnh hưởng của Xk đến xác suất để Y nhận giá trị bằng 1 hay kỳ vọng của Y.

X

exp(

p

=

Ảnh hưởng của Xk đến pi được thình như sau:

β k

i

∂ X ∂

(1

exp( +

) ˆ β i 2)) ˆ X β

k

i

= pi(1-pi)βk

133

b. Kết quả mô hình

Các biến đưa vào trong mô hình sẽ được liệt kê trong bảng 3.19 dưới đây

Bảng 4.19. Mô tả các biến đưa vào mô hình

Tên biến Kí hiệu Định nghĩa biến Kỳ vọng dấu

Biến phụ thuộc Y Biến nhị phân, nhận

giá trị bằng 1 nếu DNHT là nhà cung cấp của DNFDI, bằng 0 nếu DNHT

phải cấp nhà của

không cung DNFDI

Tỷ lệ vốn đầu tư CT Vốn đầu đầu tư cho (+)

công nghệ

công nghê/Vốn chủ sở hữu của DN

AL (+)

Tỷ lệ nguồn lao lượng động chất cao Số tốt lao động nghiệp đại học hoặc các trường đào tạo

số lao

nghề/tổng động của DN

ROA nhuận sau (+)

Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản Lợi thuế/Tổng tài sản

Sự bất cân xứng về AI Biến nhị phân, nhận (-)

thông tin

giá trị bằng 1 nếu DNHT cho rằng có sự bất cân xứng

giữa thông tin DNHT và DNFDI sản xuất, và bằng 0 nếu ngược lại

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

134

Do mô hình logit là phi tuyến với các biến độc lập và biến phụ thuộc Y chỉ nhận một trong hai giá trí 0 và 1 nên không thể áp dụng trực tiếp phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) để ước lượng các hệ số của mô hình, nên tác giả sẽ sử dụng phương pháp ước lượng hợp lý tối đa (Maximum Likelihood) để ước lượng các hệ số của βi của mô hình. Bảng 4.20 dưới đây tóm tắt kết quả nhận được từ mô hình Logit.

Bảng 4.20. Kết quả ước lượng mô hình Logit

P-value Biến độc lập Wald statistic Sai số tiêu chuẩn Hệ số hồi quy (βi)

Hệ số chặn -30.740* 7.349 17.498 0.000

1.150* 0.362 10.076 0.002 Tỷ lệ vốn đầu tư công nghệ (CT)

0.531*** 0.224 2.115 0.073 Tỷ lệ nguồn lao động chất lượng cao (AL)

0.019*** 0.016 2.007 0.096 Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)

-2.210* 3.451 7.122 0.001 Sự bất cân xứng về thông tin (AI)

2-log likelihood 113.206

Cox & Snell R2 0.525

Nagelkerder R2 0.657

Homer & Lemeshow Tess Chi-square 10.18 Sig. 0.0023

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp và tính toán

*: Thể hiện biến có ý nghĩa ở mức 1%

**: Biến có ý nghĩa ở mức 5%

***: Biến có ý nghĩa ở mức 10%

Các kiểm định Wald và kiểm định Homer & Lemeshow đều cho thấy mô hình là phù hợp và các hệ số của các biến độc lập đều có ý nghĩa thống kê. Biến ROA và biến tỷ lệ nguồn lao động chất lượng cao có ý nghĩa ở mức 10%, còn hai biến còn lại là tỷ lệ vốn đầu tư cho công nghệ (CT) và sự bất cân xứng về thông tin (AI) có ý nghĩa

với mức ý nghĩa 1%. Và dấu các hệ số hoàn toàn phù hợp với kỳ vọng đặt ra.

135

Về độ lớn các hệ số, ta thấy rằng hệ số góc của biến CT (tỷ lệ vốn đầu tư cho công nghệ) có giá trị lớn nhất (1.150), điều này cho thấy để trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp FDI trong tương lai thì đòi hỏi các DNHT phải đầu tư nhiều hơn nữa để nâng cao công nghệ, cải tiến kỹ thuật sản xuất để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao từ

phía các DNFDI. Biến có tác động ít nhất đến xác suất trở thành nhà cung cấp cho DNFDI sản xuất là biến ROA, điều này cho thấy rằng các chỉ tiêu về lợi nhuận cũng chưa hẳn là yếu tố quan trọng trong quá trình các nhà sản xuất lựa chọn nhà cung cấp

cho mình. Với biến định tính AI (sự bất cân xứng về thông tin) nhận giá trị âm và là một biến có ý nghĩa cho biết nếu tồn tại sự bất cân xứng về thông tin giữa DNHT và DNFDI sản xuất sẽ làm cho xác suất trở thành nhà cung cấp của FDI của DNHT giảm.

Để rõ hơn về tác động của các yếu tố nội tại của doanh nghiệp đến khả năng trở

thành đối tác cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng cho các DNFDI sản xuất, tác giả sẽ tiến hành phân tích tác động biên của từng biến đến xác suất trở thành nhà cung cấp của DNFDI sản xuất với giả thiết xác suất ban đầu P0 = 10% (tức là ban đầu xác suất P(Y=1) = 10%).

Đối với biến tỷ lệ vốn đầu tư cho công nghiệp (CT) có β1 = 1.150, P0 = 10% và

eβ1 = 9.855 ta sẽ tính được:

P1 = P0. eβ1/[1-P0(1- eβ1)] = 0.260 = 26%

Kết quả này cho biết nếu xác suất trở thành nhà cung cấp của DNFDI sản suất ban đầu của một DNHT là 10%, khi các yếu tố khác không đổi, nếu DNHT tăng tỷ lệ vốn đầu tư vào công nghệ lên 1% thì xác suất trở thành nhà cung cấp của DNFDI sản

xuất sẽ tăng 16% so với xác suất ban đầu.

Tính toán tương tự cho các biến còn lại, lần lượt nhận được kết luận tương ứng sau: Khi các yếu tố khác không đổi, nếu tỷ lệ nguồn lao động chất lượng cao của DNHT tăng 1% thì xác suất trở thành nhà cung cấp của DNFDI sản xuất sẽ tăng

5.89% so với xác suất ban đầu. Còn nếu ROA tăng 1% và các yếu tố khác giữ nguyên thì xác suất này sẽ tăng 1.7% so với ban đầu.

Với biến định tính Sự bất cân xứng về thông tin (AI), việc tính toán theo công thức trên và nhận được xác suất P1 = 0.0108 = 1.08%. Kết quả này cho biết khi các yếu tố khác không đổi thì các DNHT nhận được thông tin cân xứng và hiệu quả về DNFDI sản xuất thì xác suất trở thành nhà cung cấp của DNFDI sản xuất sẽ cao hơn 8.92% so với DNHT nhận được thông tin bất cân xứng. Điều này một lần nữa cho

thấy sự cần thiết của việc hỗ trợ DNHT trong việc tiếp cận thị trường và liên kết các

136

doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất là vô cùng quan trọng trong chính sách thu hút FDI của Việt Nam hiện nay.

Tóm lại, từ kết quả nghiên cứu định lượng về ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI, có thể rút ra một số kết luận sau:

- Theo đánh giá của các DNFDI về nguồn cung cấp nội địa và nguồn cung cấp nhập khẩu có thể thấy: Chất lượng nguồn nguyên liệu hay nguồn lao động hoạt động trong lĩnh vực CNHT là không mấy khác nhau, tuy nhiên về giá cả, thời gian giao

hàng, môi trường sản xuất, công nghệ, năng lực trách nhiệm rõ ràng nhà cung cấp nhập khẩu vẫn đang chiếm ưu thế hơn hẳn so với nhà cung cấp nội địa.

- Kết quả phân tích nhân tố, dựa trên kết quả đánh giá của DNFDI với các nhà cung cấp nội địa (gồm doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ FDI và DDI) cho thấy cả 6

thang đo gồm: chất lượng, giá cả, thời gian giao hàng, công nghệ, trách nhiệm và hợp tác lâu dài, lao động đều có ý nghĩa giải thích cho sự hài lòng của DNFDI khi đánh giá DNHT Việt Nam. Trong đó, thang đo lao động được cho là có tác động lớn nhất đến

mức độ hài lòng của DNFDI. Trong thang đo lao động thì biến quan sát được cho là tác động mạnh nhất đó là sự chăm chỉ và cầu tiến, sau đó mới đến chất lượng lao động và thái độ chấp hành kỷ luật.

- Kết quả khảo sát và phỏng vấn sâu nhằm đánh giá các DNHT gồm cả DNFDI

và DDI cho thấy, so với các doanh nghiệp hỗ trợ FDI thì các doanh nghiệp hỗ trợ DDI gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận khách hàng, công nghệ lạc hậu, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, thiếu nhân lực chuyên môn kỹ thuật cao, khả năng nghiên cứu sáng

tạo kém,v.v…

- Kết quả mô hình Logit nhằm xem xét tác động của các yếu tố nội tại của DNHT đến khả năng trở thành nhà cung cấp của DNFDI cho thấy: để trở thành nhà cung cấp của các DNFDI đòi hỏi các DNHT phải tăng tỷ lệ vốn đầu tư cho công nghệ,

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường trao đổi thông tin giữa DNHT và doanh nghiệp FDI. Trong đó yếu tố được đánh giá là quan trọng nhất có thể cải thiện đáng kể khả năng trở thành nhà cung cấp của DNFDI là tỷ lệ vốn đầu tư cho công

nghệ. Vì vậy để tăng cường thu hút FDI trong tương lai thì các DNHT Việt Nam cần tập trung vào việc đầu tư đổi mới công nghệ. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy lợi nhuận không phải là yếu tố quan trọng khi lựa chọn nhà cung cấp.

4.4. Kết luận chung về kết quả nghiên cứu

Từ kết quả nghiên cứu định tính và định lượng của luận án có thể rút ra một số

kết luận chung về ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI vào Việt Nam như sau:

137

1. Mức độ phát triển của ngành CNHT có ảnh hưởng đến quy mô FDI. Nghiên cứu của luận án chỉ ra rằng, nhiều năm trước đây Việt Nam luôn được đánh giá là một quốc gia có tiềm năng và hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI của Việt Nam đang gặp phải nhiều thách thức từ các

quốc gia có ngành CNHT phát triển hơn trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, v.v… Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm trong quy mô FDI. Kết quả nghiên cứu định lượng cũng cho thấy, để phát triển ngành CNHT,

đáp ứng được yêu cầu của các DNFDI, giúp tăng cường thu hút FDI, thời gian tới các DNHT Việt Nam cần: tăng cường tỷ lệ vốn đầu tư cho công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường trao đổi thông tin giữa DNHT và DNFDI. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng đến giải pháp tăng cường tỷ lệ vốn đầu tư cho công nghệ, để nâng

cao trình độ công nghệ, có thể sản xuất được những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của các DNFDI.

2. Ngành CNHT ở Việt Nam còn kém phát triển, do vậy ảnh hưởng đến chất

lượng FDI vào việt Nam, điều này được thể hiện qua các nội dung sau:

(i). Khả năng đóng góp, cải thiện cán cân thương mại của khu vực FDI chưa cao. Nghiên cứu định lượng cũng chỉ ra rằng, các DNHT nội địa hiện đang kém cạnh tranh hơn các doanh nghiệp nước ngoài về: Giá cả, thời gian giao hàng, môi trường

sản xuất, công nghệ, năng lực trách nhiệm. Đó là lý do khiến các sản phẩm CNHT trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu cho các doanh nghiệp FDI, các DNFDI phải nhập khẩu phần lớn các sản phẩm CNHT từ nước ngoài. Do vậy, mặc dù khu vực FDI

có tỷ lệ xuất khẩu cao, song những đóng góp đối với thặng dư cán cân thương mại chưa nhiều.

(ii). Mức độ lan toả công nghệ của khu vực FDI còn thấp và tác động đến mức độ phát triển của doanh nghiệp nội địa còn hạn chế, chưa hình thành được liên kết sản

xuất theo chuỗi. Nghiên cứu định lượng cũng chỉ ra rằng, các DNHT nội địa hiện đang gặp nhiều khó khăn để phát triển như: Khả năng tiếp cận khách hàng, công nghệ lạc hậu, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, lao động chất lượng cao, khả năng nghiên cứu

sáng tạo kém, v.v… Chính những khó khăn này làm cản trở sự phát triển của ngành CNHT nội địa, khiến mức độ lan toả công nghệ của khu vực FDI thấp và chưa có tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp nội địa.

3. Mức độ phát triển của ngành CNHT có tác động đến cơ cấu thu hút FDI vào Việt

Nam hiện nay. Điều này thể hiện ở chỗ:

138

(i). Những địa phương có ngành CNHT và ngành CNHT vệ tinh phát triển như thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội, v.v… thu hút được nhiều FDI hơn so với các địa phương còn lại. Trong một số giai đoạn, ví dụ giai đoạn 2013-2015, một số nhà đầu tư FDI lớn (Nhật Bản) đã giảm vốn FDI đầu tư vào Việt Nam, nguyên nhân là do ngành

CNHT kém phát triển và thiếu cạnh tranh so với các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan, hay Malaysia, v.v…

(ii). Dòng vốn FDI có xu hướng chảy vào lĩnh vực công nghiệp có ngành

CNHT phát triển, khả năng cung ứng sản phẩm hỗ trợ cho sản xuất trong nước cao. Ví dụ, CNHT linh kiện phụ tùng phục vụ ngành xe máy đáp ứng được 85-95% nhu cầu sản xuất trong nước, thì FDI vào lĩnh vực xe máy đạt 24,4 tỷ USD. CNHT linh kiện phụ tùng phục vụ ngành điện tử gia dụng đáp ứng được 50% nhu cầu sản xuất

trong nước, thì FDI vào lĩnh vực này đạt hơn 10 tỷ USD, v.v…

Vì vậy, để tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam và thúc đẩy những tác động tích cực của dòng vốn FDI đối với nền kinh tế, thời gian tới Việt Nam cần có những

giải pháp để phát triển ngành CNHT nội địa.

139

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Chương 4 của luận án tiến hành nghiên cứu thực nghiệm tại tỉnh Vĩnh Phúc. Với số liệu thu được từ điều tra, khảo sát và phân tích từ hai phía: doanh nghiệp FDI và DNHT, luận án đánh giá ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI thông qua hai mô hình nghiên cứu: Thứ nhất, là sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá nhằm đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố thuộc DNHT đến mức độ hài lòng của DNFDI; Thứ hai, là sử dụng mô hình Lôgit nhằm đánh các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng các DNHT trở thành nhà cung cấp của các DNFDI.

Kết quả nghiên cứu cho thấy: (1) Cả sáu yếu tố nội tại của DNHT gồm chất lượng, giá cả, thời gian giao hàng, trình độ công nghệ, trách nhiệm, lao động và hơp tác lâu dài đều có ý nghĩa giải thích cho sự hài lòng của doanh nghiệp FDI khi đánh giá các DNHT Việt Nam; (2). Để trở thành nhà cung cấp của các doanh nghiệp FDI, đòi hỏi các DNHT Việt Nam phải đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, tăng cường trao đổi thông tin, liên kết doanh nghiệp.

Từ kết quả nghiên cứu định lượng và định tính ở chương 3, phần cuối của chương 4 tác giả đưa ra những kết luận chung về ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI vào Việt Nam. Đồng thời khẳng định để tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong thời gian tới, thì cần phải phát triển ngành CNHT nội địa.

140

CHƯƠNG 5

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ GÓP PHẦN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM

Trên cơ sở phân tích lý thuyết về CNHT, ảnh hưởng của CNHT đến thu hút

FDI ở các chương trước. Cùng với đó là việc đánh giá thực trạng phát triển ngành CNHT Việt Nam, nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI tại tỉnh Vĩnh Phúc. Chương 5 của luận án đưa ra quan điểm phát triển ngành CNHT và thu hút FDI. Từ đó, đề xuất một số giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ góp

phần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.

5.1. Bối cảnh trong nước và thế giới ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

5.1.1. Bối cảnh trong nước

Trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, kinh tế Việt Nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nhìn chung bức tranh kinh tế Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng trưởng, với nhiều cơ hội và kỳ vọng sẽ ngày càng khởi sắc hơn. Việt Nam thuộc

nhóm quốc gia có tốc độ tăng GDP cao hàng đầu khu vực và gấp đôi mức tăng trưởng chung toàn thế giới. Lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước tiếp tục được phục hồi và củng cố, nhờ tiếp tục các cải cách thể chế, kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định; dự trữ ngoại hối ổn định và ngày càng tăng trưởng; lạm phát được kiểm soát; lãi suất,

tỷ giá ổn định; môi trường đầu tư được cải thiện; xuất khẩu tiếp tục tăng, v.v… Đây là cơ hội thuận lợi để phát triển CNHT và tăng cường thu hút FDI.

Hiện nay, Việt Nam đã và đang tham gia 16 hiệp định thương mại tự do FTA,

trong đó có một số FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA Việt Nam – Liên minh châu Âu, FTA Việt Nam – Hàn Quốc, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), v.v… Các FTA được kỳ vọng mở ra cơ hội giúp ngành CNHT nội địa tiếp cận được với các đối tác lớn, có cơ hội mở rộng

xuất khẩu sang hầu hết các thị trường lớn như Mỹ, EU, đồng thời có thể nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào rẻ hơn từ những quốc gia có chất lượng cao hơn, giảm phụ thuộc vào Trung Quốc. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu

hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu, giúp nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của sản phẩm CNHT. Hơn thế nữa, việc tham gia các FTA với những ưu đãi thuế quan và quy định về nguồn gốc xuất sứ đã tạo nên lợi thế về thu hút FDI vào Việt Nam. Gần đây, một số tập đoàn điện tử, viễn thông từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đài Loan, v.v…

đã quyết định chọn Việt Nam làm địa điểm sản xuất để xuất khẩu ra toàn thế giới, đây

141

là cơ hội rất lớn cho phát triển CNHT nội địa.

Tuy vậy, bên cạnh những cơ hội, các FTA thế hệ mới cũng đặt ra những khó khăn, thách thức mới, không nhỏ đối với ngành CNHT nước ta như các thách thức từ rào cản phi thuế quan của các nước, tăng chi phí sản xuất do phải đáp ứng các quy

định mới, cao hơn mới về lao động, môi trường, sức ép cạnh tranh lớn từ các nước có cơ cấu kinh tế tương đồng như ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ. Các Tập đoàn lớn đa quốc gia đều có có các các trung tâm nghiên cứu (R&D) rất mạnh, chủ động sáng chế

các công nghệ mới trong khi các DNHT Việt Nam hầu hết phải đi mua công nghệ. Các quy định về sở hữu trí tuệ trong các FTA thế hệ mới rất chặt chẽ, gây không ít khó khăn cho các DNHT nước ta khi muốn tiếp cận công nghệ mới.

5.1.2. Bối cảnh thế giới

Ở phạm vi thế giới, Dòng vốn FDI đang có sự dịch chuyển quan trọng, có xu hướng chảy nhiều hơn vào các nước công nghiệp hoá phát triển, thay vì chảy vào các nước đang phát triển như những năm trước đây. Nếu như trước đây, chi phí nhân công

rẻ được coi là lợi thế của các nước đang phát triển thì nay đã bị giảm sút, trong khi đó các nước công nghiệp hoá phát triển lại có nhiều lợi thế hơn về nhân công trình độ cao, cơ sở hạ tầng, cũng thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn. Đó là nguyên nhân chính khiến dòng vốn FDI có xu hướng quay trở lại các nước công nghiệp phát triển.

Minh chứng rất rõ là nhiều Tập đoàn Mỹ đang rút vốn về nước, trong bối cảnh chi phí nhân công tại các nước trước đây là công xưởng của thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ liên tục gia tăng trong nhiều năm trở lại đây. Có thể thấy, chi phí nhân công ở

Trung Quốc và Ấn Độ đã tăng từ 10 - 20%, trong khi chi phí nhân công ở Mỹ và các nước châu Âu tăng rất ít trong cùng thời kỳ. Vì vậy, việc các Tập đoàn rút vốn quay trở về Mỹ sản xuất là kế hoạch rất hợp lý trong dài hạn.

Có thể thấy rằng, sự phân công lao động quốc tế, những diễn biến của nền kinh

tế thế giới, đã tạo nên những thay đổi trong xu hướng chuyển dịch của dòng vốn FDI cũng như xu hướng mới trong hoạt động hợp tác đầu tư. Trong bối cảnh dòng vốn FDI có xu hướng quay trở lại các nước phát triển, cùng sự bế tắc của TPP, Việt Nam sẽ gặp

khó khăn trong việc phát triển CNHT và thu hút FDI.

Ở phạm vi khu vực, quá trình hội nhập tạo ra cạnh tranh trong thu hút FDI ngày càng gia tăng. Việt Nam đang gặp phải những thách thức rất lớn từ những quốc gia có ngành CNHT phát triển hơn như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia, v.v… Nếu so tỷ lệ

nội địa hóa của doanh nghiệp Nhật Bản đang hoạt động tại các nước trong khu vực như Thái Lan là 55,5%, Indonesia là 40,5%, Malaysia là 36,0% thì tỷ lệ nội địa hóa

142

của Việt Nam là rất thấp (Bộ Công Thương, 2016). Tỷ lệ nội địa hoá thấp là một cản trở rất lớn đối với việc thu hút FDI.

5.2. Quan điểm phát triển công nghiệp hỗ trợ và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Bộ Công Thương, luận án đưa ra một số quan điểm phát triển ngành CNHT và thu hút FDI vào

Việt Nam, cụ thể như sau:

Thứ nhất, phát triển công nghiệp hỗ trợ trên cơ sở nâng cao nhận thức về vai

trò của CNHT trong thu hút FDI nói riêng và trong phát triển kinh tế nói chung.

Cần xác định rằng CNHT không phải ngành công nghiệp mang tính chất "phụ

trợ" mà đây là ngành đóng vai trò xương sống trong nền công nghiệp quốc gia. Trong điều kiện hội nhập kinh tế, nền công nghiệp quốc gia không thể tồn tại và phát triển được nếu không có ngành CNHT phát triển, bởi CNHT quyết định giá thành sản

xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm cuối cùng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Việc dựa vào linh kiện và phụ tùng nhập khẩu đã làm tăng chi phí sản xuất, tăng nguy cơ nhập siêu, tính cạnh tranh của sản phẩm thấp. Bên cạnh đó, khi nhu cầu thị trường có thay đổi, khả năng thay đổi để thích ứng với yêu cầu của thị

trường của các sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh thấp do không chủ động được nguyên liệu đầu vào.

Thứ hai, phát triển CNHT phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và xu hướng phát triển của thế giới, nhằm đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp trong nước và hướng đến xuất khẩu.

Chính sách phát triển CNHT cần được xây dựng dựa trên điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương. Sau 30 năm đổi

mới, tiến hành CNH-HĐH đất nước, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững, tình hình nợ công, nợ xấu tăng cao tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây bất ổn; mục tiêu nước ta là cơ bản trở

thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 không đạt được. Để phát triển ngành công nghiệp nội địa trong thời gian tới cần tập trung phát triển ngành CNHT đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp trong nước, đồng thời hướng đến xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng cho nền kinh tế.

Thứ ba, phát triển CNHT trên cơ sở tạo lợi thế cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới, nhằm thu hút đầu tư, tiếp cận và đáp ứng nhu cầu của các

143

Tập đoàn đa quốc gia, tham gia ngày càng sâu rộng vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu trong các lĩnh vực này.

Theo đánh giá thực trạng, ngành CNHT Việt mới ở giữa giai đoạn một và hai của quá trình phát triển, tụt hậu hơn nhiều so với nhiều quốc gia trong khu vực như

Thái Lan, Malaysia hay Indonesia, v.v… Cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn khi thời gian tới rất nhiều mặt hàng sẽ cắt giảm thuế nhập khẩu, theo lộ trình cam kết của các FTA. Vì vậy, phát triển ngành CNHT, đáp ứng nhu cầu của các MNC, tham

gia chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu là một tất yếu trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tuy vậy, để phát triển CNHT cần tạo được lợi thế cạnh tranh với các nước trong khu vực và thế giới.

Thứ tư, phát triển CNHT hài hòa, bền vững giữa các ngành công nghiệp, lấy phát triển chiều sâu làm trọng tâm, với các ưu tiên đột phá để tạo ra các mũi nhọn cho phát triển công nghiệp, đảm bảo phát triển bền vững và thân thiện môi trường.

Theo các chuyên gia kinh tế, nhiều lĩnh vực công nghiệp quan trọng của Việt

Nam hoặc chưa được coi trọng, hoặc đầu tư dàn trải, manh mún, tự phát dẫn đến giá trị gia tăng thấp. Việt Nam muốn phát triển ngành công nghiệp bền vững cần phải tập trung phát triển ngành CNHT, đó là cơ sở để phát triển bền vững ngành công nghiệp nội địa. Phát triển CNHT cần tập trung phát triển theo chiều sâu, khuyến khích các

doanh nghiệp tham gia sản xuất CNHT, hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất cho các DNHT, lựa chọn lĩnh CNHT mũi nhọn, phát triển các doanh nghiệp trung tâm tạo hiệu ứng lan toả cho các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, luôn phải đảm bảo các yếu tố môi trường, để có sự phát triển bền vững và ổn định.

Thứ năm, phát triển CNHT trên cơ sở phát triển và hệ thống DNNVV, đồng thời huy động nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế, đặc biệt từ DNFDI cho phát triển CNHT.

Kinh nghiệm từ các quốc gia có ngành CNHT phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, v.v… đều cho thấy để phát triển ngành CNHT cần dựa trên nền tảng hệ thống DNNVV. Cơ chế chính sách hỗ trợ DNNVV rất quan trọng trong

việc thúc đẩy sự phát triển của ngành CNHT. Cần phải có các chính sách hỗ trợ thật cụ thể, thiết thực cho doanh nghiệp, xây dựng được cơ chế cho các DNNVV trong các lĩnh vực ưu tiên tiếp cận được nguồn vốn vay như cơ cấu bảo lãnh tài chính và phải có đủ nguồn tài chính để đầu tư khi doanh nghiệp cần. Bên cạnh đó phải có các chính

sách phù hợp để hỗ trợ, xây dựng cơ chế thông thoáng mới có thể thúc đẩy CNHT phát triển. Cùng với đó, phát triển CNHT cần lượng vốn lớn để đầu tư, vì vậy cần huy động

144

nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là các DNFDI.

5.3. Một số giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ góp phần thu hút FDI vào Việt Nam

Căn cứ vào thực trạng ngành CNHT Việt Nam, ảnh hưởng của CNHT đến thu

hút FDI tại Việt Nam nói chung và khảo sát tại Tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. Căn cứ vào quan điểm phát triển ngành CNHT Việt Nam. Luận án đề xuất một số khuyến nghị đẩy mạnh phát triển CNHT góp phần thu hút FDI vào Việt Nam. Cụ thể như sau:

5.3.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ

Có thể thấy, phát triển CNHT được Chính phủ đặc biệt quan tâm, đã có rất chính sách để phát triển ngành CNHT được ban hành. Tuy nhiên, thực trạng ngành CNHT Việt Nam cho thấy: nhiều chính sách hỗ trợ, chính sách ưu đãi các DNHT chưa

tiếp cận được do còn nhiều bất cập hoặc DNHT nội địa không đáp ứng được tiêu chuẩn; việc tổ chức thực hiện chưa gắn với tình hình thực tế của doanh nghiệp; nhiều văn bản chưa cụ thể và khó để áp dụng hiệu quả trong thực tiễn; nhiều chính sách hiện

hành hiện vẫn chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ, do đó chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi nhất để các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT phát triển. Vì vậy, để phát triển CNHT cần phải có một khung pháp lý hoàn chỉnh và cụ thể hơn. Việc sớm hoàn thành các cơ chế, chính sách đồng bộ để phát triển CNHT là yêu cầu cấp thiết, mang

tính quyết định đến việc phát triển các ngành sản xuất then chốt của nền kinh tế.

Thứ nhất, rà soát lại các chính sách cho quy hoạch và phát triển CNHT.

Để phát triển CNHT trong thời gian tới, Chính phủ cần rà soát lại các chính

sách, đặc biệt là các chính sách ưu đãi cụ thể cho các DNHT. Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển hệ thống DNHT.

Rà soát và điều chỉnh các chính sách phát triển ngành công nghiệp hạ nguồn. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp hạ nguồn nhằm hình thành thị trường, tạo

dung lượng thị trường lớn cho các ngành CNHT phát triển.

Xây dựng quy hoạch phát triển CNHT tại một số vùng kinh tế trọng điểm, tạo

liên kết giữa các địa phương về phát triển CNHT.

Rà soát lại danh mục các ngành CNHT trong hệ thống thống kê các ngành kinh tế, kỹ thuật quốc gia, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia sản xuất CNHT phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ hai, tích cực phát huy vai trò của cơ quan đầu mối phát triển CNHT

Ở các nước, cơ quan đầu mối phát triển CNHT có vai trò rất tích cực, giúp tập trung những hỗ trợ, đẩy mạnh sự phát triển của các DNHT. Nhật Bản có phòng phát

145

triển CNHT, trực thuộc JICA; Ở Thái có cơ quan Phát triển liên kết công nghiệp- BUILD; Ở Malaysia có cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia – MIDA,v.v…

Ở Việt Nam hiện nay có hiệp hội CNHT Việt Nam (VASI) được thành lập ngày 16/3/2017, theo Quyết định số 835/QĐ-BNV của Bộ Nội Vụ. Đây là bước tiến mới

góp phần quan trọng nâng cao năng lực DNHT, thay đổi diện mạo các ngành CNHT và góp phần phát triển bền vững các ngành công nghiệp Việt Nam. Hiệp hội được thành lập với mục tiêu tập hợp, kết nối và nâng cao năng lực các DNHT, đại diện hội

viên đóng góp ý kiến trong việc hoạch định chính sách, tìm kiếm và kết nối với thị trường trong nước và xuất khẩu. Ngoài nhiệm vụ kết nối thì Hiệp hội CNHT Việt Nam cũng sẽ đóng góp ý kiến trong việc hoạch định chính sách phát triển ngành CNHT và các ngành công nghiệp liên quan; tìm kiếm và kết nối với thị trường trong nước và

xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Để phát triển ngành CNHT, thời gian tới cần tích cực phát huy hơn nữa vai trò của VASI.

Ngoài ra, theo Nghị định 111/2015/NĐ_CP về phát triển CNHT, các trung tâm

phát triển CNHT sẽ được thành lập ở các địa phương. Trung tâm phát triển CNHT có

nhiệm vụ thực hiện các hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ chế tạo

thử nghiệm sản phẩm CNHT; Hỗ trợ xây dựng hệ thống quản trị sản xuất; Đào tạo

nâng cao nhân lực quản lý kỹ thuật; Xúc tiến thương mại; tổ chức hội chợ, triển lãm;

Xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại mới có thành

phố Hồ Chí Minh là có trung tâm phát triển CNHT. Hiện trung tâm này hoạt động khá

hiệu quả. Trong thời gian tới, để phát triển CNHT, cần sớm hình thành trung tâm phát

triển CNHT ở các địa phương khác trên cả nước.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp

Ưu đãi thuế là một trong những giải pháp quan trọng giải quyết bài toán vốn cho tái đầu tư của DNHT. Khảo sát của luận án cho thấy, 83% các doanh nghiệp hỗ trợ FDI và 80% DDI có mong muốn hỗ trợ liên quan đến ưu đãi thuế. Để phát triển ngành

CNHT, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng hệ thống chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, xuất nhập khẩu, v.v… trong đó có ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Trên cơ sở các vấn đề còn tồn tại trong chính sách ưu đãi thuế TNDN cho DNHT thời gian qua, luận án đề xuất một số khuyến nghị liên quan đến chính sách thuế TNDN nhằm

phát triển CNHT, cụ thể như sau:

Cần sửa đổi, bổ sung Nghị định 12/2015/NĐ-CP theo hướng chuyển tiếp ưu đãi thuế TNDN cho dự án đầu tư thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác trước 01/01/2015 không thuộc diện hưởng ưu đãi (trong đó có dự án sản xuất sản phẩm CNHT) nay đáp

146

ứng điều kiện ưu đãi theo Luật số 71.

Riêng đối với các dự án sản xuất sản phẩm CNHT trước 01/01/2015, nên sửa đổi Thông tư 21/2015/TT-BTC theo hướng quy định rõ việc cho phép áp dụng ưu đãi thuế đối với các dự án sản xuất sản phẩm CNHT trước 01/01/2015.

Việc sửa đổi này sẽ có tác động tích cực tới các doanh nghiệp đã và đang đầu tư triển Dự án sản xuất sản phẩm CNHT sẽ tiếp tục tăng cường đầu tư máy móc thiết bị, nâng nao năng lực sản xuất. Thực tế cho thấy, việc đầu tư của các doanh nghiệp đã có

nhiều kinh nghiệm trong sản xuất sản phẩm CNHT sẽ hiệu quả hơn nhiều so với các doanh nghiệp mới bắt đầu tham gia lĩnh vực này, qua đó góp phần thúc đẩy ngành CNHT phát triển.

Bộ Công Thương cần nghiên cứu, xem xét hướng dẫn chi tiết về các tiêu chí

xác định đối tượng hưởng ưu đãi theo diện Dự án mở rộng có năng lực sản xuất tăng ít nhất 20% tại Nghị định 111/2015/NĐ-CP.

Cần có sự thống nhất về tiêu chí xác định dự án đầu tư mở rộng quy định tại

pháp luật thuế TNDN hiện hành, ví dụ: tăng giá trị nguyên giá tài sản cố định; tăng tỷ trọng nguyên giá tài sản cố định hoặc tăng công suất.

Các DNHT cần chủ động trao đổi, cập nhật thông tin, chính sách ưu đãi hỗ trợ của Nhà nước cũng như phản ánh kịp thời những vướng mắc phát sinh. Việc tháo gỡ

kịp thời giải quyết các tồn tại nêu trên sẽ là động lực quan trọng để thúc đẩy ngành CNHT phát triển.

5.3.2. Hỗ trợ về vốn cho phát triển công nghiệp hỗ trợ

Theo kết quả nghiên cứu của luận án, tỷ lệ vốn đầu tư cho công nghệ là yếu tố

có tác động mạnh nhất đến khả năng trở thành nhà cung cấp của DNFDI. Song thực tế

cho thấy, các DNHT nội địa đa phần là có quy mô nhỏ, thiếu vốn để mở rộng quy mô

sản xuất, thiếu vốn cho đầu tư đổi mới công nghệ, v.v... Vì vậy, để phát triển ngành

CNHT trong thời gian tới cần có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ vốn cho phát triển

CNHT, giúp các DNHT có đủ nguồn vốn cho đầu tư công nghệ, phát triển sản xuất,

nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Cụ thể:

Về phía Chính Phủ

Thành lập Quỹ phát triển CNHT nhằm giảm áp lực vốn trung dài hạn từ hệ

thống ngân hàng đối với các khoản vay của các DNHT. Đồng thời cần xây dựng cơ

chế hỗ trợ vốn riêng. Cụ thể, việc hỗ trợ vốn sẽ không trực tiếp đến với doanh nghiệp,

mà đưa vào các viện nghiên cứu, các viện nghiên cứu là nơi vừa tiếp nhận nguồn tiền

147

ngân sách, đồng thời có thể tự chủ tài chính một phần dựa vào chính những phát minh

được bán lại cho doanh nghiệp. Khi kết quả nghiên cứu được chuyển giao cho doanh

nghiệp dưới dạng sản phẩm thương mại, lợi nhuận phân chia thế nào thì tuỳ thuộc vào

thoả thuận của hai bên ngay từ đầu. Cần xem công tác nghiên cứu phát triển là điểm

cốt yếu trong xây dựng ngành CNHT. Mọi hỗ trợ của Chính phủ vì thế nên tập trung

nhiều vào khâu này.

Ngoài ra, cần yêu cầu các tổ chức tài chính hỗ trợ các DNHT thông qua việc

đẩy nhanh xử lý thủ tục, cải tiến quy trình xử lý hồ sơ, dành lãi suất ưu đãi từng giai

đoạn cho các dự án CNHT có tính khả thi và kinh tế cao.

Về phía các tổ chức tài chính

Nên thiết kế các gói sản phẩm riêng biệt cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNHT, tăng cường thực hiện cho vay theo chuỗi cung ứng; Hỗ trợ quản trị tài

chính, tư vấn quản trị doanh nghiệp cho DNHT, v.v…

Đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, giao dịch; Giải ngân nhanh đối với các lĩnh vực tiềm năng; Nâng cao trình độ nhân viên thẩm định dự án công nghiệp hỗ trợ. Xem xét cho các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp vay vốn, song cần phải đánh giá

được uy tín, tín nhiệm của doanh nghiệp thông qua năng lực quản trị, sổ sách kế toán minh bạch, năng lực tài chính trước khi cho vay.

Nguồn vốn cho quỹ phát triển công nghiệp hỗ trợ

Ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, cần tăng cường thu hút nguồn vốn từ bên ngoài như FDI, ODA, v.v... Theo đó, chủ động, tích cực tìm kiếm nguồn vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam tham gia nhiều FTA, khiến Việt Nam cũng được nhiều nhà đầu tư biết đến và tìm kiếm

cơ hội đầu tư.

Tăng cường nguồn vốn được huy động từ chứng khoán, trái phiếu… Hiện nay, Chính phủ đang đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc thị trường chứng khoán, đa dạng hóa

sản phẩm trên thị trường, đồng thời có chiến lược phát triển đối với trái phiếu. Do vậy, các quỹ đầu tư công nghiệp hỗ trợ cần nghiên cứu tìm kiếm cơ hội để có thể huy động vốn nhiều hơn và hiệu quả hơn từ kênh này.

5.3.3. Hỗ trợ phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

Để có được sản phẩm hoàn chỉnh, vấn đề cốt lõi là sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn chất lượng, yêu cầu kỹ thuật, v.v… Theo khảo sát của luận án, chất lượng sản phẩm là

148

yếu tố thứ hai sau lao động có vai trò quan trọng tác động đến sự hài lòng của DNFDI. Thực tế cho thấy sản phẩm CNHT của Việt Nam thiếu tính cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà lắp ráp FDI, nguyên nhân chính là do trình độ công nghệ lạc hậu. Trong khi 90% các doanh nghiệp hỗ trợ FDI sử dụng thiết bị công nghệ tự động

và bán tự động, thì trên 50% các doanh nghiệp hỗ trợ DDI vẫn sử dụng các thiết bị thủ công. Vì vậy, để nâng cao chất lượng sản phẩm, thì việc phát triển công nghệ là điều tất yếu, 80% các doanh nghiệp DDI được khảo sát có mong muốn hỗ trợ về công nghệ.

Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ phát triển, nâng cao trình độ công nghệ cho các DNHT nội địa với các giải pháp cụ thể sau:

- Xây dựng hàng rào kỹ thuật đối với sản phẩm CNHT nhằm bảo vệ thị trường nội địa và khuyến khích đầu tư sản xuất trong nước. Xây dựng tiêu chí cụ thể nhằm

đánh giá, phân loại công nghệ và sản phẩm CNHT.

- Phát huy vai trò của Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (National Technology Innovation Fund - NATIF) trong việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp hoạt động trong

lĩnh vực CNHT, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp cũng như sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước. NATIF được thành lập với chức năng cho vay, hỗ trợ vốn cho các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp nghiên cứu chuyển giao, đổi mới và hoàn thiện công nghệ. Để NATIF có thể hỗ trợ một cách hiệu quả cho các DNHT, cần làm rõ thực

trạng chính sách và nhu cầu đổi mới công nghệ cho các DNHT của Việt Nam và xác định các lĩnh vực trọng tâm .

- Chỉ đạo quyết liệt, thống nhất, thường xuyên giữa các cơ quan quản lý nhà

nước, các Tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước đi tiên phong trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy mô lớn, các sản phẩm quốc gia thuộc lĩnh vực CNHT; chú trọng xây dựng các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

- Hỗ trợ kinh phí cho các dự án nghiên cứu và sản xuất các sản phẩm CNHT phục vụ các MNC. Tổ chức, cá nhân tự đầu tư nghiên cứu và phát triển các sản phẩm CNHT được xem xét, hỗ trợ kinh phí để triển khai ứng dụng vào sản xuất; khi kết quả ứng dụng mang lại hiệu quả kinh tế được hỗ trợ chi phí nghiên cứu. Tranh thủ sự hỗ trợ, chia sẻ thông tin và tri thức, kinh nghiệm chuyển giao công nghệ trên các lĩnh vực nghiên cứu, quản lý, sản xuất, kinh doanh, đào tạo của các tổ chức quốc tế, các công ty đa quốc gia, các cơ sở nghiên cứu, các trung tâm tư vấn, các chuyên gia là người nước ngoài.

- Đổi mới hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ làm nền tảng cho các

149

ngành CNHT phát triển. Khuyến khích các cơ sở nghiên cứu mở rộng liên kết, liên

doanh với doanh nghiệp sản xuất và hợp tác quốc tế. Khuyến khích các Viện nghiên

cứu chuyên ngành cơ khí, công nghệ, v.v…triển khai nghiên cứu, thực nghiệm các đề

tài, dự án gắn với nhu cầu phát triển sản xuất các chủng loại vật liệu, chi tiết, linh phụ

kiện, phụ tùng, v.v…

- Hình thành liên kết ba bên giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh

nghiệp: Viện nghiên cứu là trung gian liên kết giữa các trường đại học và doanh

nghiệp, họ sử dụng công nghệ của mình nghiên cứu phát triển các sáng kiến ban đầu từ

các trường đại học. Viện nghiên cứu kết nối với doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng

sáng chế này. Liên kết ba bên giữa trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp

được xem là nền tảng cho sự phát triển của CNHT. Ở những nước có ngành CNHT

phát triển, sáng tạo luôn được đặt ở vị trí trung tâm, viện nghiên cứu luôn giữ vai trò

cốt yếu trong quá trình phát triển của cả ngành. Chính vì vậy, những hỗ trợ từ chính

phủ luôn dựa trên những hỗ trợ cho ý tưởng và ngân sách sẽ chỉ qua các viện nghiên cứu.

- Cần duy trì nhiều tầng công nghệ trong các doanh nghiệp và nên dành ưu tiên cho đổi mới “công nghệ quản lý”, mặc dù chi phí ít hơn nhưng lại giúp cho doanh nghiệp và sản phẩm sớm hội nhập. Ban lãnh đạo doanh nghiệp phải có quyết tâm, nỗ lực để trở thành đối tác của các nhà sản xuất sản phẩm hoàn thiện. Sản phẩm cần đáp ứng

được tiêu chuẩn về môi trường - chất lượng - giá cả - giao hàng. Đặc biệt, các lô hàng cần đảm bảo chất lượng đồng đều nhau. Với năng lực hiện nay, các DNHT trong nước rất khó có thể cung ứng trực tiếp cho các Tập đoàn đa quốc gia. Tuy nhiên, doanh

nghiệp trong nước có thể bước đầu cung ứng linh kiện, phụ tùng, sản phẩm đầu vào cho các DNFDI, từ đó hấp thụ công nghệ, phương pháp sản xuất và quản lý để nâng cao năng lực, từng bước tiến lên mức cao hơn trong mạng lưới cung ứng sản phẩm.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNFDI có các dự án chuyển giao công nghệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất tại Việt Nam, hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các DNNVV phát triển CNHT. Xây dựng và thực hiện các chương trình dự án hỗ trợ công nghệ cho các doanh nghiệp thông qua chuyên gia công

nghệ hoặc các công ty FDI. Một số nước phát triển, đặc biệt là Nhật, có chương trình xúc tiến chuyển giao công nghệ cho các DNNVV tại các nước đang phát triển. Việt Nam nên đặc biệt tiếp nhận nhanh sự hỗ trợ này để nhanh chóng tăng khả năng cung cấp các mặt hàng CNHT hiện có, nhất là các mặt hàng đang sản xuất tại các DNNN.

150

- Triển khai áp dụng mô hình Trung tâm Công nghệ Công lập tại Địa phương (Local Public Technology Center (LPTC) – Kohsetsushi) theo đề xuất của Viện nghiên cứu Mitsubishi – Nhật Bản trong hội thảo “Thúc đẩy phát triển CNHT Việt Nam” do CIEM và Viện Nghiên cứu Mitsubishi đồng tổ chức (2016). Đây là một mô hình trung

tâm công nghệ công lập giúp các DNNVV có thể tiếp cận các công nghệ tiên tiến và nhận được sự hỗ trợ của nhà nước trong việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao khả năng cạnh tranh. Các LPTC này tại Nhật Bản có chức năng cung cấp dịch vụ thử nghiệm và tư vấn

kỹ thuật. Trong đó, LPTC có các hoạt động như: (1) Nghiên cứu & phát triển (R&D); (2) Tư vấn kỹ thuật; (3) Kiểm nghiệm; (4) Tư vấn phát triển nhân lực thông qua các hội thảo, đào tạo; (5) Cung cấp thông tin; (6) Kết nối. Chúng được thành lập với mục đích phát triền công nghiệp tại địa phương trong các lĩnh vực: nông, lâm, ngư nghiệp, khoáng sản

và môi trường. Hiện có khoảng 600 LPTC tại Nhật Bản, trong số đó 130 cơ sở được trang bị hệ thống phát triển công nghiệp như: Máy đo 3D; Máy kiểm tra điện từ v.v… Mỗi LPTC có khoảng 50-100 cán bộ (riêng tại Tokyo có đến 326 cán bộ). Nguồn nhân lực là

các chuyên gia kỹ thuật do Cục công nghiệp Nhật Bản phái cử sang. Các LPTC nhận sự hỗ trợ cơ quan địa phương và được cơ quan này quản lý và vận hành.

Thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật cho DNNVV”. Trung tâm này sẽ có chức năng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp như dịch vụ tư vấn về

đổi mới công nghệ, cải tiến trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng cơ sở dữ liệu về chuyên gia tư vấn kỹ thuật, công nghệ đáp ứng yêu cầu của DNNVV, hay ứng dụng và hợp tác nghiên cứu ứng dụng công nghệ, chuyển giao công nghệ,

giúp các doanh nghiệp tiếp cận công nghệ mới, v.v… Những trung tâm hỗ trợ kỹ thuật này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ và quản trị kinh doanh, vươn ngang tầm các doanh nghiệp lớn, đủ khả năng trở thành nhà sản xuất phụ trợ cho các doanh nghiệp sáng tạo là những MNC.

5.3.4. Phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp hỗ trợ

Khảo sát của luận án cho thấy lao động là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của các DNFDI tại Việt nam. Trong đó, các DNFDI đặc biệt đánh

giá cao sự chăm chỉ, cầu tiến, chấp hành nội quy của lực lượng lao động Việt Nam. Tuy nhiên, trình độ lao động và chuyên môn của nguồn lao động lại là điểm yếu rất lớn đối với phát triển CNHT – là một ngày đỏi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, trình độ công nghệ cao. Việt Nam sở hữu một lực lượng lao động lớn nhưng lại thiếu

lực lượng kỹ sư có trình độ. Vì vậy, để phát triển ngành CNHT cần có các giải pháp tập trung phát triển nguồn nhân lực cho ngành này. Các giải pháp cụ thể như sau:

Tăng cường đào tạo cán bộ kỹ thuật các ngành thiết kế, chế tạo máy, luyện kim,

151

điều khiển tự động, điện tử tin học để làm chủ các công nghệ được chuyển giao, nghiên cứu thiết kế tạo ra công nghệ nguồn và kiểu dáng sản phẩm riêng của Việt Nam. Để thực hiện được điều này, ngành giáo dục và các ngành có liên quan phải đào tạo cho được những kỹ sư có đủ trình độ về kỹ thuật thực hành và thực tiễn, trang bị

cho họ kiến thức cần thiết về công nghệ hiện đại; mở rộng sự liên kết trong đào tạo giữa các trường đại học trong nước và các trường đại học có uy tín trên thế giới. Đồng thời, cần có sự đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo, từ các trường đại học cho đến các

trường nghề để từng bước nâng dần chất lượng của những người lao động trong tương lai. Ngoài ra, Nhà nước cũng dành một phần ngân sách thỏa đáng để cử người đi đào tạo ở những quốc gia có truyền thống mạnh về phát triển CNHT nhằm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho việc phát triển CNHT của nước ta trong những năm tiếp theo.

Thu hút sự hỗ trợ của chính phủ các nước phát triển như Nhật Bản, EU,v.v… để đào tạo nguồn nhân lực cho CNHT. Hiện nay, Nhật Bản và một số nước khác đang có chế độ gửi những người đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng còn sức khoẻ và ý chí

muốn đem kinh nghiệm của mình đến giúp các nước đang phát trifển. Việt Nam có thể tận dụng nguồn lực quốc tế này để nhanh chóng tăng sức cạnh tranh của các ngành CNHT. Bên cạnh đó, đặc biệt khuyến khích các DNFDI tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực.

Tạo điều kiện đầu tư trang thiết bị cho các cơ sở nghiên cứu, chủ động đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên ngành, cũng như hợp tác nghiên cứu với các đối tác nước ngoài trong một số chương trình đào tạo nguồn nhân lực để phát triển CNHT. Áp dụng một

số mô hình đào tạo nguồn nhân lực của Nhật Bản:

Mô hình COBLAS (consulting based learning for ASEAN SMEs) với mục tiêu chủ yếu của mô hình là biến sinh viên – đã được đào tạo tinh thần doanh nhân (Entrepreneurship education) trong chương trình đại học – trở thành các tư vấn viên

cho DN; và mục tiêu tiếp theo là hình thành mối quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp địa phương nhằm trao đổi kinh nghiệm chuyên môn. Mô hình này mở rộng trên phạm vi ASEAN được thực hiện thông qua việc giúp đỡ các DNNVV đang hoạt động trong

khu vực. Cụ thể là giáo dục sinh viên thành doanh nhân, bồi dưỡng kiến thức cho doanh nhân để thành công và thiết lập mối liên kết giữa trường đại học và cộng đồng doanh nghiệp tại địa phương (Nhâm Phong Tuân, 2014)

Mô hình đào tạo hạt nhân: Theo mô hình này sinh viên/học viên xuất sắc thuộc các trường đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề được gửi sang các nước có công nghệ phát triển hơn để tu nghiệp kỹ thuật. Sau thời gian thực tập, trở về nước họ sẽ là lực lượng kỹ thuật và quản lý nòng cốt của nguồn nhân lực CNHT Việt Nam. Tạo

152

thành mạng lưới nhân lực công nghiệp và công nghệ thông tin chất lượng cao, là xúc tác cho CNHT phát triển (Nhâm Phong Tuân, 2014).

5.3.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa

Phát triển CNHT, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, có thể trở thành nhà cung cấp của các DNFDI, tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu của các MNC là mục tiêu của rất nhiều DNHT. Tuy nhiên, để làm được điều đó, ngoài sự hỗ trợ từ phía Chính phủ, thì sự nỗ lực và cố gắng từ bản thân các DNHT là một trong những yếu tố có tính chất quyết định.

Tăng cường tỷ lệ vốn đầu tư cho công nghệ: Theo khảo sát của luận án, để trở thành nhà cung cấp của các DNFDI thì đòi hỏi các DNHT cần đầu tư nhiều hơn cho công nghệ, cải tiến kỹ thuật sản xuất. Về phía Chính phủ, đã có những chính sách hỗ

trợ nhằm nâng cao trình độ công nghệ cho các DNHT, tuy nhiên bản thân các DNHT cần chủ động, mạnh dạn đầu tư về công nghệ và thiết bị, nâng cao năng lực quản lý của mình để có thể tiếp cận được những hỗ trợ từ phía Chính phủ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu của các DNFDI.

Mở rộng quy mô và chuyên môn hoá sản xuất: Thực trạng ngành CNHT Việt Nam cho thấy đa phần các DNHT nội địa đều có quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp. Vì vậy, để phát triển ngành CNHT, các doanh nghiệp cần mở rộng quy mô sản xuất. Theo lý thuyết lợi thế kinh tế nhờ quy mô (Chandler, 1990) thì khi một doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa sẽ giúp cho chi phí trung bình dài hạn giảm. Vì khi quy mô tăng sẽ làm (1) giảm chi phí khấu hao trung bình; (2) chuyên môn hóa cao, năng suất tăng; (3) tăng đầu tư máy móc hiện đại, nghiên cứu phát triển. Như vậy, để gia tăng

năng suất và giảm giá thành, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, các doanh nghiệp cần tập trung chuyên môn hóa sản xuất một hoặc một số công đoạn của sản phẩm và đầu tư nghiên cứu phát triển công đoạn đó, khâu còn lại có thể mua ngoài.

Nâng cao năng lực sản xuất: Như đã đề cập ở phần trên, có sự thiếu tin tưởng để đi đến hợp tác lâu dài giữa các DNFDI và DNHT nội địa. Vì vậy, để tạo niềm tin với khách hàng, đặc biệt là các DNFDI, thì DNHT cần nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn cạnh tranh về chất

lượng, chi phí và giao hàng (QCD) đáp ứng được yêu cầu của khách hàng là các DNFDI thì mới tiếp cận và làm việc với khách hàng, tránh trường hợp nóng vội, sẽ làm mất uy tín với khách hàng.

Muốn nâng cao năng lực sản xuất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm đòi hỏi vốn đầu tư lớn và quyết tâm từ phía DNHT. Ngoài việc nâng cao năng lực, DNHT

153

cũng cần phải có biện pháp đẩy mạnh hoạt động marketing để quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, thúc đẩy sự liên kết, cung ứng cho các MNC. DNHT cũng cần quan tâm hơn tới thông tin được tiếp nhận, kịp thời có những phản hồi, đặc biệt về việc tham vấn, kiến nghị chính sách, về các yêu cầu, cơ hội kết nối với các FDI.

Bên cạnh đó, các DNHT cần tích cực tham gia các chương trình đào tạo nâng cao năng lực, các buổi xúc tiến thương mại, hội chợ, triển lãm, v.v… Đây là cơ hội tốt

để học hỏi kinh nghiệm, mở rộng quan hệ và tìm kiếm đối tác.

Áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: Việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng

phát triển; hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế đạt trình độ quốc tế; giành đủ kinh phí cho các Bộ, ngành triển khai xây dựng các tiêu chuẩn ngành và tiêu chuẩn cơ sở liên quan tới các sản phẩm hỗ trợ.

Thực hiện chính sách tư vấn hỗ trợ DNHT áp dụng các tiêu chuẩn, hệ thống quản lý quốc tế hiện đại trong việc quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất với mục tiêu hỗ trợ, tư vấn DNHT áp dụng các tiêu chuẩn, hệ thống quản lý chất lượng hiện

đại, phù hợp với yêu cầu quốc tế; chương trình gồm những hoạt động chính như: Đánh giá khả năng và nhu cầu áp dụng các tiêu chuẩn, hệ thống quản lý chất lượng quốc tế tại các DNHT; xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo cho các doanh nghiệp; tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật để doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn, hệ thống quản lý chất lượng

trong sản xuất; tổ chức đánh giá công nhận hệ thống quản lý chất lượng.

Áp dụng phương pháp quản lý hiện đại, như phương pháp Monozukuri của Nhật Bản, được biết đến rộng rãi trên thế giới với tên gọi TPS hay sản xuất tinh gọn – LEAN. Monozukuri là khái niệm chỉ việc cung cấp ý tưởng về một quá trình xây dựng tinh thần sản xuất, một hệ thống cùng các quy trình tiêu chuẩn để tạo ra một sản phẩm tốt. Thể hiện kỹ năng, tinh thần, niềm say mê và sự tự hào về khả năng thực hiện hoạt động tạo ra những sản phẩm chất lượng một cách tốt nhất. Ý nghĩa của Monozukuri

không phải là hành động lặp đi lặp lại một cách vô thức, nó đỏi hỏi sự tư duy sáng tạo gắn liền với sự khéo léo, lành nghề của người lao động. Thậm chí, mỗi lao động sản xuất phải là một nghệ nhân. Sản xuất phải duy trì mối quan hệ lâu dài và tạo dựng

được kỹ năng, kiến thức trong nội bộ doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp với nhau. Sản xuất kiểu Monozukuri phải đáp ứng nhu cầu cao về quản lý chất lượng theo 5S, QCD, Kaizen - cải tiến, quản lý chất lượng và nỗ lực cải tiến không ngừng.

Để áp dụng phương pháp, Việt Nam cần thay đổi nếp tư duy cũ, đòi hỏi các nhà

154

quản lý và công nhân năng động hơn trong học hỏi và hoạt động maketting; cam kết theo tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn, môi trường, sở hữu trí tuệ; tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu ở các khâu chuyên môn hóa các quy trình đòi hỏi kỹ thuật cao và huy động đầu vào khác từ bên ngoài; cải cách phương pháp hoạch định chính sách.

Áp dụng phương thức sản xuất tích hợp: Theo khảo sát của luận án, 65% các doanh nghiệp DDI sản xuất theo phương thức tự thiết kế sản phẩm, tự mua nguyên liệu và có nhãn nhiệu riêng của doanh nghiệp, trong khi các doanh nghiệp hỗ trợ FDI phần

lớn sản xuất theo phương thức sử dụng nguồn nguyên liệu, thiết kế do khách hàng cung cấp, và gắn nhãn hiệu sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng. Vì vậy, để nâng cao năng lực, các DNHT cần thay đổi phương thức sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tiêu chuẩn của các DNFDI.

Theo tiếp cận lý thuyết về cấu trúc kinh doanh, Giáo sư Takahiro Fujimoto, Đại học Tokyo cho rằng các nước Asean cần phải làm chủ phương thức sản xuất tích hợp, chứ không nên đi theo phương thức sản xuất theo Modun (Oho, 2007).

Bảng 5.1: Sản xuất modun và sản xuất tích hợp

Sản xuất modun Đặc điểm chung Linh phụ kiện được sản xuất đại trà

và dùng cho mọi sản phẩm

Sản xuất tích hợp Mỗi sản phẩm có linh phụ kiện được thiết kế riêng cho từng loại

Điểm mạnh Điểm yếu

Yêu cầu về tổ chức

Quá trình sản xuất nhanh và linh hoạt Chất lượng tốt hơn Không có sự khác biệt Nhiều doanh nghiệp tham gia Lợi nhuận thấp Nhanh chóng, linh hoạt trong việc lựa chọn nguồn cung cấp linh phụ kiện Mất nhiều thời gian và công sức để tạo ra sản phẩm Quan hệ lâu dài để xây dựng kỹ năng và kiến thức nội bộ Kết quả

Nguồn: Ohno, VDF, 2007.

5.3.6. Xây dựng mô hình phát triển công nghiệp hỗ trợ

Một trong những hạn chế của phát triển CNHT đó là số lượng các doanh nghiệp làm CNHT còn quá ít. Vì vậy, theo kinh nghiệm của Thái Lan và Malaysia để phát triển CNHT cần tập trung phát triển số lượng các DNHT theo mô hình phát triển CNHT:

155

Hình 5.1: Mô hình phát triển công nghiệp hỗ trợ

Nguồn: Trương Thị Chí Bình, 2015

Thứ nhất, xây dựng các khu CNHT tập trung. Trong đó có nhiều doanh nghiệp tư nhân có thể trở thành các nhà cung cấp cho các DNFDI có thể coi là một hướng đi tích

cực và thiết thực nhằm phát triển ngành CNHT ở nước ta trong những năm tới. Các khu CNHT được hỗ trợ phát triển, đầu tư trang thiết bị, công nghệ tiên tiến gắn với các vùng có các ngành công nghiệp chính phát triển. Chỉ định một số khu công nghiệp để ưu tiên

giải quyết ngay và triệt để các mặt về hạ tầng, về thủ tục hành chính, về cung cấp nguồn nhân lực cần thiết, v.v… và đặt ra các đội chuyên trách thường xuyên theo dõi hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài để phát hiện ngay các vướng mắc và giải quyết ngay. Khu CNHT là một mô hình rất phát triển ở Nhật Bản. Hiện nay ở Nhật có khoảng 200 các khu CNHT như vậy. Các nhà đầu tư Nhật Bản cũng đã đầu tư vào các khu như vậy ở Malaysia, Thái Lan. Các khu CNHT khác biệt so với các khu công nghiệp thông thường, ở việc các doanh nghiệp đầu tư vào đây đều sản xuất trong các lĩnh vực cung ứng cho các ngành chế tạo. Do các doanh nghiệp nước ngoài này đều có quy mô rất nhỏ, để khuyến khích họ đầu tư ra nước ngoài, hạ tầng tại các khu CNHT được cung cấp một cách đặc biệt, bao gồm cả nhà xưởng theo yêu cầu, cung cấp điện nước hoàn chỉnh trong công trình, hệ thống xử lý môi trường và các dịch vụ mềm khác, nhưng với diện tích tối thiểu để chi phí thấp nhất.

Thứ ba, xây dựng các cụm liên kết ngành. Mô hình các Cụm liên kết ngành nhằm góp phần gia tăng năng lực cung ứng nội địa. Đây là mô hình đã thành công ở

nhiều quốc gia khi phát triển CNHT. Trong cụm liên kết ngành, nhiều doanh nghiệp trong cùng một ngành tập trung theo vùng, do đó chịu tác động tràn về công nghệ, thị trường chung về lao động, chi phí đầu vào thấp. Có nhiều mô hình cụm ngành thành

156

công trong việc thu hút FDI như cụm ngành dệt may ở Trung Quốc, hay cụm ngành hoá dầu ở Hà Lan, v.v…

Hình 5.2. Sơ đồ cụm ngành dệt Trung Quốc

Nguồn: Nguyễn Xuân Thành, 2013

Thứ ba, phát triển chương trình vườn ươm doanh nghiệp cho ngành CNHT : Vườn ươm doanh nghiệp là một tổ chức liên kết giữa Trung tâm, viện nghiên cứu, trường đại học, chính quyền và các doanh nghiệp khởi nghiệp (Nguyễn Hải An, 2013). Vườn ươm

doanh nghiệp có mục đích tạo một "lồng ấp", một môi trường "nuôi dưỡng" các doanh nghiệp khởi nghiệp trong một thời gian nhất định để các đối tượng này có thể vượt qua những khó khăn ban đầu, khẳng định sự tồn tại và phát triển như những doanh nghiệp độc

lập. Vườn ươm cung cấp các dịch vụ và cơ sở vật chất cần thiết để hỗ trợ việc khởi nghiệp từ giai đoạn hình thành ý tưởng, phát triển sản phẩm cho đến khi thành lập và phát triển doanh nghiệp thành công. Sự phát triển của mô hình Vườn ươm doanh nghiệp tại các quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore,v.v… đã chứng minh vai trò tích cực của mô hình vườn ươm.

Ở Việt nam hiện nay, một số mô hình vườn ươm đã được xây dựng và phát triển, tập trung ở hai trung tâm chính của Việt Nam là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống các vườn ươm đã hình thành và dần phát triển, song vẫn còn không ít bất cập, khó khăn như: Công tác triển khai xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, tìm kiếm đối tác, các đơn vị tham gia và vận hành các vườn ươm còn thiếu đồng bộ, vẫn còn bị kéo dài,

157

khiến vườn ươm chậm được đưa vào hoạt động; chậm trễ trong triển khai các dự án vườn ươm; Nguồn tài trợ cho hình thành và hoạt động cho các vườn ươm vẫn còn rất hạn chế; Hầu hết các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ tại Việt Nam vẫn chưa có quy định cụ thể về bản quyền và sở hữu trí tuệ; khung pháp lý về vườn ươm vẫn còn sơ khai,

phạm vi điều chỉnh còn hẹp và chậm được ban hành, v.v…

Một số giải pháp được đề xuất để phát triển vườn ươm CNHT:

- Nâng cao vai trò của Nhà nước trong tổ chức xây dựng, tài trợ vốn hoạt động

cho phát triển vườn ươm.

- Cần huy động tất cả các nguồn lực, khuyến khích các nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài, Việt kiều, tận dụng và kêu gọi tài trợ từ các nhà tài trợ quốc tế để tăng hiệu quả việc thành lập và vận hành vườn ươm.

- Địa điểm xây dựng các vườn ươm nên đặt tại Khu công nghệ cao, công viên khoa học, trường đại học, viện nghiên cứu, v.v… chú trọng phát triển các ngành công nghệ cao, tận dụng công nghệ mới.

- Thành lập các mô hình vườn ươm từng bước, mang tính thí điểm, thực hiện có hiệu quả, rồi nhân rộng, áp dụng có chọn lọc các chính sách và thông lệ hữu hiệu về thành lập và phát triển vườn ươm trên thế giới.

- Xây dựng khung pháp lý và chính sách về thành lập và vận hành vườn ươm

doanh nghiệp

- Xây dựng và ban hành các chính sách ưu đãi đối với cán bộ quản lý và vận

hành vườn ươm.

5.3.6. Tập trung phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ mũi nhọn

Theo quan điểm và định hướng phát triển CNHT, cần tập trung phát triển ngành CNHT mũi nhọn theo lợi thế quốc gia. Porter (2008) cho rằng, sai lầm tồi tệ nhất là lửng lơ giữa các chiến lược hoặc cố gắng theo đuổi nhiều chiến lược cùng một lúc, điều này khiến cho chiến lược trở nên tầm thường và không thể hoàn thành một chiến lược nào hoàn chỉnh. Trong thời đại toàn cầu hoá kinh tế, hàng rào bảo hộ dần bị xoá bỏ, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, không quốc gia nào có thể sản xuất mọi sản phẩm. Các quốc gia chỉ nên tập trung chuyên môn hoá một số sản phẩm mà mình có khả năng và lợi thế. Vì vậy, Chính Phủ cần có định hướng trong phát triển CNHT,

không nên phân tán lực lượng mà phải tập trung phát triển các ngành CNHT mũi nhọn mà mình có khả năng. Cần thay đổi nhận thức, tư duy từ “phát triển theo chiều rộng” dàn trải như trước đây sang “phát triển theo chiều sâu”, chú trọng đầu tư có trọng tâm,

158

trọng điểm nhằm nâng cao hàm lượng chất xám, khoa học công nghệ vào các lĩnh vực, nhóm sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và giá trị gia tăng cao.

Phát triển CNHT tại Việt Nam phải hướng tới các ngành công nghiệp chủ lực của đất nước và các ngành thu hút mạnh nguồn vốn FDI. Cụ thể đó là các ngành dệt

may, cơ khí - điện tử, lắp ráp máy, v.v… Các ngành này có nhu cầu lớn về sản phẩm CNHT. Đối với các ngành Việt Nam chưa đủ điều kiện để phát triển thì nên thu hẹp quy mô hoặc chuyển đổi sang hoạt động ở ngành khác.

Theo khảo sát tiêu chí các ngành CNHT cần ưu tiên phát triển trong luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Thu Phương (2013) cho thấy: trong các yếu tố gồm (1) tạo ra nhiều việc làm, (2) tạo dựng cơ sở cho phát triển bền vững và dài hạn của nền kinh tế (3) tạo sự bình đẳng xã hội, (4) đóng góp nhiều cho GDP, (5) tạo thu nhập, (6) phát

triển năng lực sản xuất giúp doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị, (7) làm tăng giá trị gia tăng của các ngành khác, (8) tạo cơ sở mạnh mẽ cho việc áp dụng KHCN mới thì người được hỏi quan tâm nhiều nhất đến tiêu chí (1) tạo ra việc làm (76%); (4) đóng

góp nhiều cho GDP (69%) và (6) phát triển năng lực sản xuất giúp doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị (59,1%).

Ngoài ra, Chính phủ cần xây dựng bộ tiêu chí để đánh giá sản phẩm CNHT mũi nhọn. Căn cứ bộ tiêu chí này, tổ chức bình chọn danh mục sản phẩm CNHT mũi

nhọn để từ đó có các cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển với mục tiêu vừa phục vụ cho nhu cầu của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh trong nước, vừa hướng tới xuất khẩu.

5.3.7. Phát triển các doanh nghiệp trung tâm tạo động cơ thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ

Dựa vào quy hoạch ngành công nghiệp tổng thể và ngành mũi nhọn, cần xác định và thúc đẩy các doanh nghiệp trung tâm. Đó thường là những doanh nghiệp quy mô lớn, có thương hiệu mạnh, có thị phần cao; Ví dụ trong ngành xe máy có Honda, Yamaha,

Piaggio; ngành ô tô có Honda, Toyota; trong ngành điện tử có Samsung, v.v... Đó là những động cơ để thúc đẩy toàn bộ ngành công nghiệp nói chung và ngành CNHT nói riêng phát triển. Đặc biệt đối với Việt Nam trong giai đoạn này khi chưa thể tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu thì vai trò của các doanh nghiệp trung tâm trong nước này là không thể thiếu. Khi đã hình thành được các doanh nghiệp trung tâm, cần phải phân tích nhu cầu hàng hóa đầu vào và khuyến khích họ mua sản phẩm trong nước, đồng thời tìm

159

kiếm các DNHT trong nước tham gia cung cấp, từ đó hình thành mạng lưới các mối liên

kết giữa doanh nghiệp trung tâm và DNHT.

Tuy vậy, để việc triển khai được hiệu quả, cần xây dựng chương trình và chính sách cụ thể. Nhà nước lựa chọn và chỉ định các doanh nghiệp lớn theo từng ngành

công nghiệp và lĩnh vực ưu tiên phát triển, và yêu cầu các doanh nghiệp đó phải mua các sản phẩm linh kiện, phụ tùng từ các DNHT nội địa được chỉ định chứ không tự sản xuất. Số lượng các sản phẩm chỉ định cũng cần quy định cụ thể và tăng dần theo lộ trình thực hiện.

Bên cạnh đó, để các DNHT nội địa có thể đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp trung tâm về số lượng, chất lượng và tiêu chuẩn hàng hóa thì phải có sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật công nghệ, nhân lực, quản lý và cơ sở hạ tầng. Muốn vậy, cần có sự tham gia hỗ trợ của nhà nước và các nhà khoa học, và hình thành cơ chế liên kết bốn nhà trong công nghiệp là: (i) một là doanh nghiệp trung tâm; (ii) hai là DNHT; (iii) ba là nhà nước; (iv) bốn là nhà khoa học.

5.3.8. Phát triển hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa

Thực trạng ngành CNHT cho thấy sản phẩm CNHT trong nước phần lớn được sản xuất bởi các DNNVV. Theo quan điểm về phát triển CNHT một cách bền vững, thì phát triển hệ thống DNNVV là một điều tất yếu. Phát triển CNHT là sự chung tay

của tất cả các bên: Doanh nghiệp – Cơ quan hỗ trợ – Nhà nước. Chính phủ tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và các cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV. Bài học về phát triển ngành CNHT với tiền đề là phát triển DNNVV có thể thấy được từ Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc và rất nhiều quốc gia

khác. Vì vậy, để thúc đẩy ngành CNHT trong nước, Chính phủ cần có chính sách ưu tiên phát triển các DNNVV.

Hiện nay, cả nước có khoảng hơn 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động,

trong đó DNNVV chiếm đến trên 95%. Dù đóng góp trên 50% GDP cho nền kinh tế đất nước, nhưng Báo cáo PCI 2015 do VCCI công bố cho thấy, các DNNVV gặp nhiều khó khăn khi mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả hoạt động kinh doanh cũng rất thấp, tỷ lệ các DNNVV thua lỗ tương đối cao, 32% doanh nghiệp siêu

nhỏ, 17% doanh nghiệp nhỏ và 16% doanh nghiệp quy mô vừa đã mất vốn trong năm gần nhất.

Trong bối cảnh đó, nhằm giúp các DNNVV gỡ khó, tạo cơ hội phát triển, Quốc

Hội đã thông qua Luật hỗ trợ DNNNV vào ngày 12/6/2017, và có hiệu lực kể từ ngày

160

01/01/2018. Nội dung chính của Luật là hỗ trợ các DNNVV về: tiếp cận vốn, thuế, mở rộng thị trường, mặt bằng sản xuất, đào tạo, thông tin, tư vấn, pháp lý, v.v... Có thể nói, đây là văn bản luật chính thức đầu tiên ở Việt Nam nhằm hỗ trợ DNNVV, tạo khung pháp lý có hiệu lực cao nhất hiện nay. Đây được kỳ vọng sẽ là bước bứt phá tạo

động lực phát triển hệ thống DNNVV Việt Nam trong thời gian tới.

Như vậy, để phát triển hệ thống DNNVV trong thời gian tới, cần triển khai một cách hiệu quả những quy định của Luật hỗ trợ DNNVV. Thứ nhất, Chính phủ cần sớm

ban hành các Nghị định nhằm cụ thể hóa các điều luật, xác định trách nhiệm của các địa phương, bộ, ban ngành có liên quan. Các DNNVV chủ yếu là nằm ở các địa phương, vì vậy vai trò của các địa phương là rất quan trọng, cần tập trung hỗ trợ những nội dung DNNVV cần nhưng còn khó khăn như: mặt bằng, tín dụng, thủ tục hành

chính, v.v… Thứ hai, việc triển khai luật hỗ trợ DNNVV cần sự tập trung vào cuộc của cả hệ thống, tất cả những đơn vị liên quan phải cùng thực hiện. Thứ ba, để việc hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp đạt hiệu quả, ngoài việc yêu cầu doanh nghiệp đáp ứng tiêu

chuẩn của ngân hàng, thì các ngân hàng cần xây dựng tiêu chuẩn riêng cho từng nhóm đối tượng.

5.3.9. Thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp FDI

Khảo sát của luận án cho thấy có sự thiếu tin tưởng để đi đến hợp tác lâu dài

giữa DNFDI sản xuất và DNHT nội địa. Nguyên nhân, xuất phát từ yếu tố văn hoá trong việc lựa chọn nhà cung cấp, các DNFDI luôn dành sự tin tưởng tuyệt đối cho các DNHT từ quốc gia họ. Bên cạnh đó, là sự thiếu cơ sở dữ liệu về năng lực doanh

nghiệp nên rất khó để các DNFDI tìm kiếm được đối tác cung cấp sản phẩm hỗ trợ. Vì vậy, để thúc đẩy liên kết giữa các DNHT nội địa và các DNFDI, thì chính phủ phải là đầu mối trung gian, thúc đẩy liên kết với các giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ

Xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) về năng lực của các DNHT trong nước, làm cơ sở xúc tiến liên kết giữa DNHT với các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp, giữa các DNHT với nhau, hỗ trợ hoạt động xúc tiến đầu tư cấp quốc gia. Hiện nay, tình trạng thiếu thông tin giữa các nhà lắp ráp FDI và các doanh nghiệp cung cấp linh phụ kiện nội địa diễn ra rất phổ biến, 50% các DNFDI được hỏi không hài lòng về dữ liệu cung ứng (khảo sát của

luận án). Do vậy, CSDL về CNHT là rất cần thiết để giảm tình trạng thiếu thông tin và mở rộng giao dịch giữa nhà lắp ráp FDI và nhà cung cấp trong nước.

Hiện nay, Việt Nam mới có cuốn niên giám về CNHT các ngành chế tạo, được xuất bản bởi SIDEC vào năm 2014, 2015. Cuốn niên giám tập trung giới thiệu thông

161

tin và năng lực của các doanh nghiệp CNHT tiêu biểu của Việt Nam, trong 03 lĩnh vực: linh kiện cơ khí; linh kiện nhựa – cao su; linh kiện điện – điện tử. Thông tin về mỗi doanh nghiệp bao gồm các nội dung: thông tin cơ bản, sản phẩm tiêu biểu, thị trường, khách hàng thường xuyên, hệ thống quản lý chất lượng, công nghệ, máy móc

sản xuất, v.v... Tuy nhiên, ngoài cuốn niên giám này, trong nước chưa có tổ chức chuyên trách và nguồn ngân sách thường xuyên cho một cơ sở dữ liệu mang tính quốc gia. Vì vậy, để tăng cường liên kết thông tin giữa DNFDI và DNHT, cần có bộ CSDL

quốc gia đầy đủ về các ngành CNHT.

Bộ CSDL quốc gia về CNHT có thể xây dựng trên cơ sở cuốn niên giám về CNHT của SIDEC, kết hợp với thông tin cần có trong CSDL về CNHT được xây dựng bởi Mori (2007, VDF). Theo Mori, bộ CSDL về CNHT phải đáp ứng được tiêu chí lựa

chọn nhà cung cấp của các doanh nghiệp lắp ráp FDI. Ngoài thông tin về sản phẩm chính, các nhà sản xuất thường lựa chọn nhà cung cấp theo các tiêu chí sau: (1) Thái độ của tổng giám đốc, (2) chất lượng, (3) Giá thành; (4) giao hàng đúng hạn; (5) quy mô sản xuất (Mori, 2007).

Required Form mục trong cơ sở dữ liệu SI

Tiêu chuẩn nhà cung cấp phần chọn

Giới thiệu

--chính sách công ty--kỹ năng chuyên biệt--JIT experienceList của máy móc, tên của hãng sản xuất

Thái độ của tổng giám đốc

Xưởng

Chất lượng

Phạm vi xử lý trong 9mm

Xử lý độ chính xác

Chi phí

Chứng nhận về chất lượng

ISO 9000,14000 ISO

Khách hàng chính

Giao hàng

Doanh thu hàng năm

Quy mô sản xuất

Vốn

Số Nhân viên

Hình 5.3: Thông tin cần có trong cơ sở dữ liệu về CNHT

Nguồn: Mori, 2007, VDF

Thứ hai, hỗ trợ các doanh nghiệp lắp ráp phát triển nhà cung cấp

Hỗ trợ các doanh nghiệp lắp ráp, đặc biệt là các MNC trong việc phát triển nhà cung cấp tại Việt Nam. Hỗ trợ miễn giảm các loại thuế, phí cho doanh nghiệp đối với

162

các hoạt động đào tạo nhà cung cấp: cung cấp, cho thuê máy móc, giải pháp kỹ thuật, gửi chuyên gia tới các doanh nghiệp CNHT, hỗ trợ nhà cung cấp áp dụng hệ thống quản lý chuỗi cung ứng, v.v...

Thứ ba, hỗ trợ doanh nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng cho các tập đoàn

đa quốc gia

Chương trình sẽ tổ chức đánh giá năng lực DNHT, lựa chọn và công nhận các doanh nghiệp có trình độ và quy mô đáp ứng yêu cầu của mạng lưới sản xuất quốc tế; khảo sát, đánh giá nhu cầu, tiêu chuẩn cụ thể cho các sản phẩm CNHT; kết nối DNHT với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh thông qua các cuộc hội thảo, tọa

đàm, triển lãm hội chợ; tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật để doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu khách hàng.

Thứ tư, thực hiện chương trình xúc tiến đầu tư, hỗ trợ thị trường tiêu thụ sản

phẩm công nghiệp hỗ trợ

Khảo sát của luận án cho thấy, việc các DNHT nội địa có thể tìm kiếm khách hàng FDI sản xuất thông qua trao đổi trực tiếp là tương đối thấp (12%). Vì vậy, để

phát triển ngành CNHT nội địa cần thiết phải có những chương trình xúc tiến đầu tư, hỗ trợ thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các DNHT nội địa từ phía chính phủ. Hoạt động chính của chương trình gồm: Tổ chức xúc tiến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào CNHT tại các thị trường mục tiêu; tổ chức hội thảo xúc tiến thu hút đầu tư

trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực CNHT và danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển; tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực CNHT; kết nối DNHT Việt Nam với các doanh nghiệp trong và ngoài nước; tuyên truyền, quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng về hoạt động CNHT, v.v…

Thứ năm, củng cố và nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành nghề

Hiện nay, vai trò của các Hiệp hội ngành nghề cũng còn mờ nhạt, chưa trở thành vai trò kết nối giữa các doanh nghiệp trong ngành hàng khác nhau. Các Hiệp

hội cần phát huy vai trò của mình, khuyến khích các DNHT tham gia. Hiệp hội cần phải đóng vai trò là cầu nối giữa doanh nghiệp với nhà nước, các tổ chức và các đối tác trong và ngoài nước. Hiệp hội có một phần trách nhiệm trong việc áp dụng các chính sách của nhà nước vào thực tế một cách có hiệu quả, hỗ trợ về thông tin, xúc

tiến thương mại, hoạt động đào tạo, hội thảo. Các tổ chức chính phủ và phi chính phủ làm đầu mối liên kết doanh nghiệp, đại diện cho ngành tìm kiếm, tiếp nhận tài trợ thực hiện các giải pháp phát triển ngành, đầu mối xúc tiến đầu tư, phát triển thị

trường, đề xuất các cơ chế chính sách phát triển CNHT.

163

Thứ sáu, tổ chức và nâng cao tính chuyên nghiệp của các hội chợ CNHT, hội

chợ công nghệ, triển lãm và các hội thảo chuyên đề về phát triển CNHT.

Việc tổ chức các hội chợ CNHT, hội chợ công nghệ, triển lãm và các hội thảo chuyên đề về phát triển CNHT là một trong những giải pháp quan trọng nhằm tăng

cường liên kết giữa DNFDI và doanh nghiệp nội địa. Tuy nhiên, theo khảo sát của luận án, chỉ có 2% doanh nghiệp DDI tìm kiếm khách hàng thông qua kênh này, ngược lại với DNFDI tỷ lệ này là 30%. Vì vậy cần thường xuyên tổ chức triển lãm, hội chợ về

CNHT, nhằm hỗ trợ hoạt động tìm kiếm đối tác kinh doanh, hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả của các hội trợ này, có biện pháp thích hợp nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia, quảng bá sản phẩm và tìm kiếm khách hàng thông qua kênh tiếp thị này.

Ngoài ra, các gian hàng không chỉ là từ các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu cũng đưa những sản phẩm sáng tạo mới của mình đến giới thiệu. Đây cũng là một trong những cơ hội tiếp cận nhanh chóng nhất giữa doanh nghiệp có nhu cầu với các

sáng tạo mới. Các sáng chế mới có thể được giới thiệu tại triển lãm như thế này, công nghệ luôn không ngừng thay đổi, đây là cơ hội để tìm kiếm những sản phẩm công nghệ tiên tiến, mà phù hợp với ngành nghề của mình.

164

KẾT LUẬN CHƯƠNG 5

Dựa vào kết quả nghiên cứu ở chương 3 về thực trạng ngành CNHT và chương 4, nghiên cứu ảnh hưởng của CNHT đến thu hút FDI tại Việt Nam nói chung và tại Tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, cùng với quan điểm của Chính phủ về phát triển CNHT, thu hút FDI. Luận án đã đưa ra một số giải pháp quan trọng nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ, góp phần thu hút FDI vào Việt Nam. Các giải pháp chủ yếu tập trung vào vấn đề hoàn thiện cơ chế chính sách cho phát triển CNHT, nâng cao năng lực của các DNHT thông qua hỗ trợ về vốn, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực; thúc đẩy liên kết giữa DNFDI và doanh nghiệp nội địa, v.v…. Các giải pháp được đưa ra nhằm giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý kinh tế có thể đưa ra các giải pháp chính sách phù hợp cho phát triển CNHT và thu hút FDI.

165

KẾT LUẬN

Ngành công nghiệp hỗ trợ ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong phát

triển kinh tế nói chung và trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI nói riêng. Luận án đã phân tích những ảnh hưởng của ngành CNHT đến thu hút FDI vào Việt Nam, thông qua nghiên cứu thực nghiệm tại Tỉnh Vĩnh Phúc. Sau quá trình nghiên

cứu, luận án đã trả lời được các câu hỏi nghiên cứu và rút ra một số kết luận sau:

1. Ngành CNHT đã dần hình thành và phát triển, tuy nhiên vẫn còn ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển, còn sơ khai, manh mún, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của các DNFDI sản xuất, khó tham gia chuỗi

sản xuất toàn cầu, v.v…

2. Luận án đã phân tích cụ thể những ảnh hưởng của ngành CNHT đến dòng vốn FDI vào Việt Nam gồm: (1) Ảnh hưởng đến quy mô FDI, (2) Ảnh hưởng đến chất lượng FDI; (3) Ảnh hưởng đến cơ cấu FDI. Tuy nhiên hiện tại ngành CNHT còn kém phát triển vì vậy ảnh hưởng đến quy mô vốn FDI và quy mô dự án FDI, đồng thời làm tác động tích cực của FDI đối với nền kinh tế.

3. Dựa vào số liệu khảo sát điều tra tại Tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy để đáp ứng được yêu cầu để trở thành nhà cung cấp của các DNFDI, các DNHT nội địa cần phải thay đổi về chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng cũng như về giá cả của các sản phẩm. Đối với các DNHT, khó khăn từ nội tại của các doanh nghiệp đã được thể hiện

rõ như trình độ học vấn, công nghệ, cạnh tranh từ bên ngoài,v.v…

4. Để đánh giá tác động của các yếu tố nội tại của DNHT đến khả năng trở thành nhà cung cấp của DNFDI, mô hình logit đã được sử dụng. Kết quả của mô hình cho thấy các yếu tố gồm tỷ lệ vốn đầu tư cho công nghệ, chất lượng nguồn lao động,

cũng như tăng cường trao đổi thông tin giữa DNFDI và DNHT là các yếu tố quan trọng để thúc đẩy DNHT trong việc thu hút vốn FDI.

5. Dựa trên kết quả nghiên cứu, cùng với quan điểm phát triển CNHT, luận án đã đề xuất một số giải pháp phát triển CNHT góp phần thu hút FDI vào Việt Nam, như: hoàn thiện chính sách phát triển CNHT, hỗ trợ phát triển công nghệ, hỗ trợ vốn, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển số lượng và nâng cao năng lực các DNHT nội địa, v.v… Luận án đặc biệt nhấn mạnh đến các giải pháp tăng cường liên kết giữa các DNHT nội địa và các DNFDI.

166

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Đỗ Thị Thu Thuỷ, “Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng các doanh

nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung cấp của các doanh nghiệp FDI – Nghiên

cứu trường hợp tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số kỳ 2, tháng

9/2017.

2. NCS Đỗ Thị Thu Thuỷ, “Giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ tỉnh

Vĩnh Phúc”, Tạp chí Thông tin và Dự báo Kinh tế -Xã hội, số 139, tháng

7/2017.

3. NCS. Đỗ Thị Thu Thuỷ, “Phát triển công nghiệp hỗ trợ để thu hút FDI vào

Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 08 tháng 3/2017.

4. NCS. Đỗ Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Thị Thanh Dương, “Kinh nghiệm phát triển

công nghiệp hỗ trợ của Hàn Quốc và một số đề xuất cho Việt Nam”, Tạp chí

thông tin và dự báo Kinh tế - Xã hội, tháng 12/2017.

5. NCS. Đỗ Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Thanh Tùng, Trần Thị Nhâm, “Tác động của

thu hút FDI đến GDP của CHDCND Lào sau 30 năm đổi mới(1985 -2015),

Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 07 – tháng 03/2017.

6. NCS. Đỗ Thị Thu Thuỷ, Ths. Lê Anh Minh “Thu hút và sử dụng hiệu quả

nguồn vốn FDI trong thời kỳ hội nhập” Tạp chí Công Thương, số 4 – tháng

04/2016.

7. NCS. Đỗ Thị Thu Thuỷ, NCS. Nguyễn Hương Giang, Nguyễn Thanh Tùng “Tự

do hoá đầu tư trong AEC - triển vọng và thách thức thu hút FDI của Việt

Nam”, Kỷ yếu Hội Thảo khoa học quốc gia “Hoạt động tài chính quốc tế của

Việt Nam trong giai đoạn hội nhập mới”, 2016

8. NCS. Đỗ Thị Thu Thuỷ. “Hạn chế hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp

có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam” đăng trên tạp chí

Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số tháng 4/2013.

167

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. 2.

3.

4.

5.

(2006), “Manufacturing SMEs 6.

ADB (2007), “Triển vọng phát triển Châu Á: Việt Nam”. Hà Nội. Abonyi G. (2007), “Linking greater Mekong subregion Enterprises to international Market. The role of global value chains, International production networks”, New York. Ala Subrahmany M.H. (2008), “Industrial subcontracting and structure in Japan: evolution and recent trends”, Emerald, Vol.14, No.1, 2008. Asian productivtity Orgnisation (2002), “Strengthening of supporting Industries: Asian Experiences”. Asiedu, E. (2002), “On the Determinants of Foreign Direct Investment to Developing Countries: Is Africa Different?” World Development, 30(1), pp. 107-119. in Japan: Bala Subrahmanya. M.H subcontracting. structure and performance”. Tokyo: National Graduate

7.

8.

9.

Institute for Policy Studies (GRIPS). Bevan. A, Estrin, S (2000), “The Determinants of Foreign Direct Investment in Transition Economies”. William Davidson Institute. Working Paper 342 Blomstrom, M.A. and A. Kokko (2003), “The Economics of Foreign Direct Investment Incentives”, NBER Working Paper 9489, 2003. Bộ Công Nghiệp (2007), Quyết định số 34/2007 “phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”.

10. Bộ Công Thương (2011, 2012, 2013, 2015, 2015), “Báo cáo về phát triển các

ngành công nghiệp”.

11. Bộ Công Thương (2015), “Quy định trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối với Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển”.

12. Bộ Công Thương (2016), Diễn đàn “Các giải pháp về vốn phát triển ngành

công nghiệp hỗ trợ.

13. Bộ Công Thương (2016), Diễn đàn “phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ

Việt Nam trong bối cảnh các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” 14. Bộ Công Thương, Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm

nhìn đến năm 2020

15. Bộ Công Thương (2014), “Quy hoạch tổng thể về phát triển công nghiệp phụ

trợ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.

168

16. Bộ Tài chính (2011), “Thông tư hướng dẫn thực hiện chính sách tài chính quy định tại quyết định số 12/2011/QĐ-TTG ngày 24/2/2011 của Thủ tướng Chính Phủ về chính sách phát triển một số ngành CNHT”

17. Bộ Tài chính (2015), “Thông tư số 96/2015/TT-BTC”. 18. Brandt L. and Thomas Rawski (2008), “China's Great Economic

Transformation”, Cambridge University Press, New York, 2008.

19. Buckley, Peter J.; Devinney, Timothy M.; Louviere, Jordan J. (2007), “Do managers behave the way theory suggests? A choice-theoretic examination of foreign direct investment location decision-making”, Journal of International Business Studies, 1238:7, 1-26.

20. Caves. R (1974), “Multinational Firms, Competition and Productivity in the

Host Country”, Economica 41: 176-193.

21. Chính phủ (2011), Nghị định 75/2011/NĐ-CP về “Tín dụng đầu tư và tín dụng

xuất khẩu của nhà nước”.

22. Chính phủ (2015), Nghị định 12/2015/NĐ-CP “Quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế”.

23. Coase, Ronald H. (1937) “The nature of the firm, Economica” (New series), 4,

387-405

24. Chakrabarti, Avik (2001), “The Determinants of Foreign Direct Investment: Sensitivity Analyses of Cross-Country Regressions”, KYKLOS, Vol.54, pp.

89-114.

25. Chandler, A. D. (1990), “Scale and scope”. London: Belknap. 26. Chandler, Alfred Dupont (1990), “Scale and Scope: The dynamics of industrial

capitalism”. United States of America, Seventh printing, 2004.

27. Charle (2014), “Promoting foreign direct investment FDI: The case of

Uganda”.

28. Cục Đầu tư Nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005-2016), số liệu FDI. 29. Culem, C. G. (1988), "The Locational Determinants of Direct Investment among Industrialized Countries." European Economic Review, 32, pp. 885- 904.

30. Đặng Quý Dương (2014), “Tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tới

các ngành công nghiệp chế tác ở Việt Nam”, LATS

31. Đặng Thành Cương (2012), “Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

vào tỉnh Nghệ An”, LATS.

32. Đặng Thu Hương, Trần Ngọc Thìn (2009), “Thực trạng công nghiệp phụ trợ tại

169

Việt Nam và một số giải pháp khắc phục”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 139.

for 33. Dickey, D. and W. Fuller (1981). “Likelihood Ratio Statistics

Autoregressive Time Series with Unit Root,” Econometrica, 30, pp. 167-182.

34. Diễn đàn phát triển Việt Nam (2006), “Báo cáo của VDF: Công nghiệp phụ trợ

Việt Nam theo đánh giá của các nhà sản xuất Nhật Bản”, Hà Nội.

35. Đỗ Đức Bình (2013), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, những bất cập

về chính sách và giải pháp thúc đẩy”,Tạp chí Kinh tế và Phát triển.

36. Do Manh Hong (2004) “Promotion of Supporting Industries:
The Key for

Attracting FDI in Developing Countries”.

37. Đỗ Mạnh Hồng (2005) “Tìm chỗ đứng cho công nghiệp Việt Nam trong mạng lưới phân công lao động quốc tế: Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp để hội nhập và phát triển”.

38. Dunning, J. H. (1973): “The determinants of international production”, Oxford

Economic Papers 25.

39. Dunning, J. H. (1980): “Toward an eclectic theory of international production: Some empirical tests” in Journal of International Business Studies issue 11. 40. Dunning, J. H. (1988): “The Eclectic Paradigm of International Production: A restatement and some possible extensions”, in Journal of International Business Studies issue 19 (Spring).

41. Dunning, J. H. (1993), “Multinational Enterprises and the Global Economy”,

Reading: Addison-Wesley.

42. Dunning, J.H. (1999), “A Rose By Any Other Name? FDI Theory in Retrospect and Prospect” Mimeo, University of Reading and Rutgers University. 43. Dunning, John H. (1981a). “Explaining the international direct investment position of countries: towards a dynamic and development approach”, Weltwirtschaftliches Archiv, 117, pp. 30-64.

44.

45.

Financial Services Guidance Note (2007), “Outsourcing. Financial Services Commission” Fukunari Kimura (2001), “Subcontracting and the performance of small and medium firms in Japan”.

46. Gastanaga, V., J. B. Nugent and B. Pashamova (1998), “Host Country Reforms & FDI Inflows: How Much Difference Do They Make?” Word Development, 26(7), 1299-1314.

170

foreign direct investment: on 47. Globerman,S. and Shapiro, D.M. (1999), “The impact of government policies the Canadian experience”, Journal of

International Business Studies.

48. Goh Ban Lee (1998), “Linkage between the Multinatinl Corporations and Local

Supporting Industries”, Sains University, Malaysia.

49. Goldsbrough, D. G. (1979), "The Role of Foreign Direct Investment in the

External Adjustment Process." (Staff Papers 26), pp. 725-754.

50. GTZ (2007), “Value Links Manual: The Methodology of Value Chain

Promotion”. First Edition.

51. Guoqiang Long (2005), “China’s Policies on FDI: Review and Evaluation” 52. Hà Thị Hương Lan (2014), “ Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công

nghiệp của Việt Nam”, LATS.

53. Haddad, M. and A. Harrison (1993). “Are there positive spillovers from direct foreign investment? Evidence form panel data for Morocco”, Journal of Development Economics, 42: 51-74.

54. Halim Mohd Noor, Roger Clarke, Nigel Driffield (2002), “Multinational cooperation and technological effort by local firm: a case study of the Malaysia Electronics and Electrical Industry”.

55. Harrison, A. and M. McMillan (2003). “Does direct foreign investment affect

domestic credit constraints?”, Journal of international economics, 61(1): 73-100.

56. Hoàng Thị Chỉnh và cộng sự (2010), Giáo trình “Kinh tế quốc tế”. NXB Thống

Kê.

57. Hoàng Văn Châu (2013), “Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt

Nam đến năm 2020”, Đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước.

58. Hoàng Văn Việt (2012), “Cơ sở lý thuyết và định hướng phát triển công nghiệp

hỗ trợ Việt Nam”.

international operations of national firms”, 59. Hymer.S.H (1960), “The

60.

61.

62.

Cambridge, Mass: MIT press. Ichikawa K (2005), “Building and strengthening supporting industries in Vietnam: A survey report”, Hanoi, JETRO
 Japan Automobile Manufacturers Association (JAMA), 2012, “The motor industry of Japan”, Japan. JBIC (2004), “Servey report on overseas business operations by Japanese manufacturing companies”, JETRO.

JETRO, (2003), “Japanese - Affiliated Manufactures in Asia”. 63.

171

64.

JICA (1995), “Investigation report for industrial development: Supporting industry sector”, Tokyo.

JOEA (1994), “Saportingu indasutori no kenkyu” (Nghiên cứu về công

65. 66.

Jordaan, J. C. (2004), "Foreign Direct Investment and Neighbouring Influences", Unpublished doctoral thesis, University of Pretoria.

67. Khachoo and Khan (2012), “Determinants of FDI inflows to developing

countries: a panel data analysis”, MPRA Paper No. 37278

68. Kimura F. (2006), “International Production and Distribution Networks in East Asia: Eighteen Facts, Mechanics, and Policy Implications”, Asian Economic Policy Review, Vol. 1, 326-344.

69. Kokko (2002), “Globalization and Foreign direct investment Incentives, Paper Presented at Annual Bank Conference on development Economics in Europe”,

Oslo, Mimeo.

70. Kokko, A. (1994). “Technology, market characteristics and spillovers”,

Journal of Development Economics, 43: 279-293.

71. Kokko, A. (1996). “Productivity spillovers from competition between local firms and foreign affiliates”, Journal of International Development, 8(4): 517-30. 72. Kokko, A, R. Tansini and M. Zejan (1996), “Local technological capability and spillovers from FDI in the Uruguayan Manufacturing sector”, Journal of Development Studies, 34: 602-611.

73. Kplinsky.R & Morris.M (2001), “A handbook for value chain research”,

Brighton: University of Sussex Institute for Development Studies.

74. Kumar, N. (2002), “Infrastructure Availability, Foreign Direct Investment Inflows and Their Export Orientation: A Cross Country Study Exploration”, RIS Discussion Paper, No.26, 2002.

75. Kyoshiro Ichikawa (2005), “Building and strengthening supporting industries

76.

77.

78.

79. in Vietnam: A survey report”, JETRO Hanoi . Lê Thành Ý (2007), “Công nghiệp hỗ trợ - vấn đề cơ bản của nội địa hóa”, Thông tin Khoa học xã hội, 12 (300). Lê Thế Giới (2009), “Phát triển Công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam: Lý thuyết, thực tiễn và chính sách”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Xuân Sang, Nguyễn Thị Thu Huyền (2011),“Chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ: Lý luận, thực tiễn và định hướng cho Việt Nam”, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương. Lê Xuân Trường, Hoàng Trung Đức (2014), “Giải pháp ưu đãi thuế phát triển

172

80.

81.

82.

83.

công nghiệp phụ trợ”, Tạp chí Tài chính/ 2014, Số 601, Tháng 11. Loree, D.W. and S.E. Guisinger (1995), “Policy and Non Policy Determinants of U.S. Equity Foreign Direct Investment”, Journal of International Business. Lưu Tiến Dũng và cộng sự (2014), “Các yếu tố tác động đến phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí tỉnh Đồng Nai”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Comb 2014, Đại học Kinh tế Đà Nẵng. Lưu Tiến Dũng và Nguyễn Thị Kim Hiệp (2016), “Các yếu tố tác động đến phát triển CNHT ở Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp ngành Dệt may”, Đại học Lạc Hồng. Markusen, J. and Venables, A. (1999) “Foreign direct investment as a catalyst for industrial development”, European Economic Review, 43: 335–56. 84. Mishima, Kohei (2005), “The Suppliers of the Motorcycle Industry in Vietnam, Thailand and Indonesia: Localization, Procurement and Cost Reduction Processes”, in Kenichi Ohno and Nguyen Van Thuong (eds) Improving Industrial Policy Formulation. The Publishing House of Political Theory, pp. 211-234.

85. MITI (1985), “White paper on Industry and Trade”, Japan. 86. Moore, M (1993), “Determinants of German Manufacturing Direct Investment:

1980-1988”, weltwirtschaftliches Archiv, Vol.129, pp 120-137.

externalities increasing positive vertical

87. Mori, J. (2005), “Development of supporting industries for Vietnam’s industrialization: through collaborative training”, Master of Arts in Law and Diplomacy Thesis, The Fletcher School, Tufts University.

88. Mori, J và Ohno K (2004), “Chiến lược tối ưu: Các nhân tố quyết định việc nội

địa hóa phụ tùng trong mối liên kết và cạnh tranh khu vực”, VDF.

89. Narula, Rajneesh, John H. Dunning (2000), “Industrial Development, Globalization and Multinational Enterprises: New Realities for Developing Countries”, Oxford Development Studies, Vol. 28, No. 2, pp. 141-167. 90. Ngo Duc Anh (2007), “Key Issues for Vietnam’s Supporting Industries Development: Government Role in Building Technology Capability”, JBIC’s

International Symposium: “Promoting Regional Linkages to Enhance Asia’s Competitiveness and Dynamism”, Jakarta, Indonesia, 29-30 Aug 2007. 91. Nguyen Bich Thuy (2008), “Industrial Policy As Determinant Of Localization: The Case Of Vietnamese Automobile Industry”. VDF Working Paper Series 92. Nguyễn Đình Luận (2014), “Thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt

173

Nam”, Tạp chí Tài chính/ 2014, Số 601 (Tháng 11), tr. 6 – 9

93. Nguyen Duc Hien (2003), “Localization Policy and the Development of the Vietnam’s Motorcycle Industry”, in JICA-NEU, The Vietnam’s Industrial and Trading Policies in Globalization. Publishing house of Statistics.

94. Nguyễn Mại (2014), “FDI với phát triển công nghiệp hỗ trợ” 95. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), "Các mối liên hệ cơ bản trong công nghiệp hỗ

trợ", Tạp chí Công nghiệp, kỳ 1, tháng 9.

96. Nguyễn Ngọc Sơn (2008), "Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt

Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 359.

97. Nguyễn Ngọc Sơn (2012), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Khái niệm, kinh

nghiệm ở một số nước trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam”

98. Nguyễn Ngọc Sơn, Phạm Hồng Chương (2011), “ Chất lượng tăng trưởng kinh

tế Việt Nam”, VDF, NXB Giao Thông Vận Tải.

99. Nguyễn Quang Dong, Nguyễn Thị Minh (2012),”Giáo trình Kinh tế lượng”,

NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.

100. Nguyễn Thị Liên Hoa & Bùi Bích Phương (2014), “Nghiên cứu các nhân tố tác động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại những quốc gia đang phát triển”, Tạp chí phát triển & Hội Nhập Số 14 (24) - Tháng 01- 02/2014

101. Nguyễn Thị Liên Hoa & Bùi Thị Bích Phương (2014), “Nghiên cứu các nhân tố

tác động đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại những quốc gia đang phát triển”.

102. Nguyễn Thị Tường Anh, Nguyễn Hữu Tâm (2013), “Nghiên cứu định lượng về các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các tỉnh thành của Việt nam trong giai đoạn hiện nay”.

103. Nguyen Thi Xuan Thuy (2007), “Supporting indusstries: A review of concepts

and development”, Vietnam Development Forum.

104. Nguyễn Văn Bổn và Nguyễn Minh Tiến (2013), “Các nhân tố quyết định dòng

vốn FDI ở các nước Châu Á”.

105. Nguyễn Văn Phúc, Nguyễn Hữu Từ (2012), “Một số vấn đề phát triển công

nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam”, NXB Thanh Niên.

106. Nguyễn Văn Thanh (2006), "Xây dựng KCN và KCX theo hướng Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 12.

107. Nguyễn Văn Thanh (2007), "Kinh nghiệm phát triển các cụm liên kết công nghiệp ở các nước đang phát triển", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 6.

174

108. Nguyen Van Thuong (eds) “Improving Industrial Policy Formulation”. The

Publishing House of Political Theory, pp. 235-266.

109. Nham Phong Tuan and Takahashi Yoshi (2010), “Organisational capabilities, competitive advantage and performance in supporting industries in Viet Nam”, Asian Academy of Management Journal.

110. Noor Halim, Clarke Roger, Driffield Nigel (2002), “MNCs and technological effort by local firm: a case study of the Malaysian Electronics and Electrical

Industry”, The Journal of Development Studies.

111. ODI (1997), "Foreign Direct Investment Flows to Low-Income Countries: A

Review of the Evidence."

112. Ohno K. (2006), “Supporting industries in Vietnam”, VDF&GRIPS. 113. Ohno K. (2007), “Building supporting industries in Vietnam”, VDF&GRIPS. 114. Ohno K. (2009), “Avoiding the Middle-Income Trap, Renovating Industrial Policy

Formulation in VietNam”, ASEAN Economic Bulletin, Vol.26, No.1.

115. Ohno, K. (2005), “Designing a Comprehensive and Realistic Industrial Strategy”, in Kenichi Ohno and Nguyen Van Thuong (eds.) Improving Industrial Policy Formulation. The Publishing House of Political Theory. 116. Ohno K. (2009), “Industrial Master Plans: International Comparison of

Contents and Structure” Vietnam Development Forum & GRIPS.

117. Ohno K, Nguyễn Văn Thường (2005), “Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam”, Diễn đàn phát triển Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.

118. Ohno K. and Fujimoto T. (2006), “Industrialization of Developing countries:

Analyses by Japanese Economies”, GRIPS, Tokyo.

119. Ohno K, Mai The Cuong (2005), “The Automobile Industry in Vietnam: Remaining Issues in Implementing the Master Plan”, Improving Industrial Policy Formulation. The Publishing House of Political Theory

120.

Peter J. bukley & Francisco B. Castro (1998), “The investment development path: the case of Portugal”

121. Phạm Thu Hương (2013), “Thu hút FDI cho phát triển công nghiệp phụ trợ ở

Việt Nam”, LATS.

122. Pham Truong Hoang (2004), “The Evolution of Business Architecture and the Chances for Vietnamese Enterprises: The Case of the Vietnamese Motorcycle Industry”, Economics and Development. Vol. 16 (Dec), pp. 28-33.

123. Pham Truong Hoang (2005), “The Competition and Evolution of Business

175

Architecture: The Case of Vietnam’s Motorcycle Industry”.

124. Phan Thế Công , Hồ Thị Mai Sương (2011), “Giải pháp thúc đẩy phát triển khu công nghiệp gắn với phát triển công nghiệp hỗ trợ tạo ra mạng liên kết sản xuất và hình thành chuỗi giá trị”, Hội thảo “Phát triển cụm công nghiệp, khu công nghiệp gắn với phát triển công nghiệp hỗ trợ tạo mạng liên kết sản xuất và hình thành chuỗi giá trị”, Đà Nẵng.

125. Porter, M. E (1998), “Location, clusters and the new microeconomies of

competition”, Journal of Business Economics (in press).

126. Porter, M. E. (1980), “Competitive strategy”, New York: The Free Press. 127. Porter, M. E. (1985), “Competitive advantage”. New York: The Free Press. 128. Porter, M. E. (1990), “The Competitive Advantage of Nations”, New York: Free

Press.

129. Porter, M. E. (1991), “Towards a dynamic theory of strategy”, Strategic

Management Journal, 12, 95–117.

130. Porter, M. E. (1994), “The role of location in competition” Journal of

Economics of Business, 1 (1), 35–39.

Investment 131. Porter, M. E. (1996), “Competitive advantage, agglomerative economies and regional policy”, International Regional Science Review, 19 (1/2), 85–94. 132. Prakash Loungani and Assaf Razin (2001), “How Beneficial Is Foreign Direct for Developing Countries?” June 2001. IMF, Finance and

Development Magazine.

133. Pravakar Sahoo (2011), “Foreign Direct Investment in South Asia: Policy,

Trends, Impact and Determinants”.

134. Pravin Jadhav (2012), “Determinants of foreign direct investment in BRICS

economies”.

135. Prema-Chandra Athukorala, (2002), “Foreign direct investments and exports of manufacturing industry: opportunities and strategies”, Scheme Economic Sciences Research School of Asia Pacific, the Australian National University.

các Luật về Thuế”.

136. Quốc Hội (20114), “Luật 71/2014/QH13 về sửa đổi bổ sung một số điều của

137. Quốc Hội (2014), “Luật 67/2014/QH13 về Luật đầu tư”. 138. Rajneesh Narula (2013), “Foreign direct investment as a driver of industrial

176

development: why is there so little evidence”, United Nation University. 139. Raphael Kaplinsky và Mike Morris, 2001. A handbook for value chain

research. IDRC

140. Ratana Eiamkanitchat (1999), “The role of small and medium supporting

industries in Japan and Thailand”, Tokyo: IDE APEC Study Center.

141. Rodrigo Rendon (2000), “A global review of the industrial subcontracting and partnership exchanges (SPXs) established by UNIDO” Vienna: UNIDO. 142. Ryuichiro, Inoue (1999). Future Prospects of supporting in dustries in Thailand

and Malaysia.

143. S. Weisberg (1980), “Applied Linear Regression. John Wiley & Sons, Inc”. 144. Saunders, R. S. (1982), "The Determinants of Foreign Direct Investment."

Canadian Journal.

145. Schneider, F and B. Frey (1985), “Economic and Political Determinants of

Foreign Direct Investment”, World Development.

146. Shamsuddin, A. F (1994), "Economic Determinants of Foreign Direct Investment in Less Developed Countries", The Pakistan Development Review, 33, pp. 41-51.

147. Shapiro, D. and S. Globerman (2001), “National Infrastructure and Foreign

Direct Investment”, Mimeo, Simon Fraser University

148. Small and Medium Enter prise Agency (2009), “Japan’s Policy for Small

and Medium Enterprise”, Tokyo.

149. Taylor, C.T (2000), “The Impact of Host Country Government Policy on US

Multinational Investment Decisions”, World Economy, Vol. 23, pp. 635-648.

150. Thi Minh Hieu Vuong & Kenji Yokoyama (2011), “Is Vietnam attractive to Japanese FDI comparing to Thailand and China? An attribute-based and holistic analysis”, The International Studies Association of Ritsumeikan

151. Thomas Brandt (2012), “Industries in Malaysia Engineering Supporting

Industry”, Malaysian Investment Development Authority (MIDA).

University, Ritsumeikan Annual Review of International Studies 10: 19-46

152. Thủ tướng Chính phủ (2011), “Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg: Về chính sách

phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ”.

153. Thủ tướng Chính phủ (2011), “Quyết định số 1483/QĐ-TTg: Ban hành danh

mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển”.

154. Thủ tướng Chính phủ (2012), “Quyết định số 1556/QĐ-TTg phê duyệt Đề án

trợ giúp phát triển DNNNV trong lĩnh vực CNHT”

177

155. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định 842/QĐ-TTg phê duyệt "Kế hoạch

phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao đến năm 2020"

156. Thủ tướng Chính phủ (2015), “Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển

CNHT”.

157. Tổng cục thống kê (2012-2015), số liệu công nghiệp hỗ trợ. 158. Tổng cục thống kê (2005-2016), số liệu FDI. 159. Tổng Cục Hải quan (2006-2016), số liệu xuất nhập khẩu . 160. Trần Quang Hậu (2015), “Nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Quảng Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 10 (95), 2005. 161. Trần Quang Lâm, Đinh Trung Thành (2007), "Phát triển công nghiệp phụ trợ Việt Nam trước làn sóng đầu tư mới của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản", Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 21, 22.

162. Trần Tuấn Anh (2014), “Bài học từ câu chuyện Samsung vina tìm nhà cung

ứng”, Tạp chí Tài chính/ 2014, Số 601 (Tháng 11), tr. 14 – 15

163. Tran Van Tho (2004), “Foreign Direct Investment and Development of Supporting Industries in Vietnam”, Obirin Daigaku Sangyokenkuyui-nenpo, Annual Bulletin of the Institute for Industrial Research of Obirin University.

164. Trần Văn Thọ (2006), “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp

hóa Việt Nam”, NXB Trẻ.

165. Trương Bá Thanh & Nguyễn Ngọc Anh (2014), “Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung”, Tạp Chí Khoa học Thương mại.

166. Trương Thị Chí Bình (2010), “ Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện

tử gia dụng ở Việt Nam”, LATS.

167. Trương Thị Chí Bình (2015), “Liên kết trong phát triển công nghiệp hỗ trợ”,

SIDEC.

168. Từ Thúy Anh (2010), "Phát triển cụm công nghiệp phụ trợ chuyên ngành: Lý

thuyết và thực tiễn", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 383.

169. U.S. Department of Energy – Energy Efficiency and Renewable Energy (2005), “Supporting Industries: Industry of the Future, Fiscal Year 2004 Annual Report”, US.

170. UNCTAD, World Investment Report (1996), “Incentives and Foreign Direct

Investment”, New York and Geneva: United Nations.

171. UNCTAD, World Investment Report (1998), “Trends and Determinates”, New

York and Geneva: United Nations.

178

172. UNCTAD, World Investment Report (2006): Incentives and Foreign Direct

Investment, New York and Geneva: United Nations.

173. UNIDO (2005), “Supporting industrial development: Overcoming market

failures and providing public goods”.

174. Vernon R. (1966), “International investment and international trade in the

product cycle”. QuarterlyJournal of Economics 80, pp. 190-207

175. Vintila Denisia (2010), “Foreign Direct Investment Theories: An Overview of

the Main FDI Theories”

176. Võ Thanh Thu & Nguyễn Đông Phong (2014), “Phát triển công nghiệp phụ trợ ở các ngành công nghiệp chủ lực Việt Nam” Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014 Tạp chí phát triển &Hội Nhập.

177. Vũ Chí Lộc (2010), "Vai trò của các TNCs trong quá trình Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ tại các quốc gia đang phát triển", Tạp chí Thương mại, số 19. 178. Vũ Chí Lộc (2010),“Vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong quá trình phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ tại các quốc gia đang phát triển”, tạp chí thương mại số 19.

179. Vũ Nhữ Thăng (2013), “Giải pháp tài chính phát triển ngành công nghiệp hỗ

trợ”, Đề tài khoa học cấp Bộ.

180. Wang, Z. and N. Swain (1995), “The Determinants of Foreign Direct Investment in Transforming Economies: Empirical Evidence from Hungary and China”, Weltwirtschaftiches, Vol.129,pp 359-381

181. Washington: World Bank Institute.
Gene M. Grossma and Elhanan Helpman (2005), “Outsourcing in a Global Economy”, The Review of Economic

Studies, No 72, pp 135-159.

182. Wheeler, D and A. Mody (1992), “International Investment Location Decisions:

The Case of US Firms”, Journal of International Economics, Vol. 33.

179

PHỤ LỤC

Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha cho 8 thang đo mức độ hài lòng

Bảng 1: Thang đo Chất lượng (Q)

Hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể là 0.714 > 0.6

Hệ số tương quan qua biến tổng của biến quan sát “Hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng” (Q3) là 0.069 < 0.3 nên loại biến Q3 và thực hiện lại kiểm định Cronbach’s Alpha được kết quả như sau:

180

Bảng 2: Thang đo Giá cả, Chi phí

181

Bảng 3: Thang đo Thời gian giao hàng

182

Bảng 4: Thang đo Môi trường

Bảng 5: Thang đo Tài chính

183

Bảng 6: Thang đo Công nghệ

Bảng 7: Thang đo Trách nhiệm và hợp tác lâu dài

Hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể là 0.784 > 0.6

Hệ số tương quan qua biến tổng của biến quan sát “Trình độ ban lãnh đạo” (R1) là 0.213 < 0.3 nên loại biến R1 và thực hiện lại kiểm định Cronbach’s Alpha được kết quả như sau:

184

Bảng 8: Thang đo Nguồn lao động

185

186

187

PHỤ LỤC 3

DN số:

PHIẾU KHẢO SÁT DOANH NGHIỆP FDI

Thông tin chung về doanh nghiệp Tên doanh nghiệp:…………………………………………………………………. Địa chỉ doanh nghiệp: …………………………………………………………….

Khu chế xuất Khu công nghệ cao

Khu công nghiệp Cụm công nghiệp

Cơ sở sản xuất của doanh nghiệp có nằm trong khu CN, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao không?

1 . 1 Có 2 Không

2. Lĩnh vực sản xuất chính (ghi cụ thể): …………………………………… …………………………………… ………………………………….. …………………………………..

…………………………………… …………………………………… ………………………………….. …………………………………..

3. Sản phẩm sản xuất và tiêu thụ chính (ghi 5 sản phẩm chính): (Ghi theo danh mục sản phẩm công nghiệp đính kèm theo phiếu điều tra này)

Tỷ lệ giá trị sản phẩm tiêu thụ phân theo thị trường nội địa, xuất khẩu năm 2015 Tên sản phẩm

Các quốc gia xuất khẩu chính

Nội địa (%) Xuất khẩu (%)

1 .

188

Tỷ lệ giá trị sản phẩm tiêu thụ phân theo thị trường nội địa, xuất khẩu năm 2015 Tên sản phẩm

Các quốc gia xuất khẩu chính

Nội địa (%)

Xuất khẩu (%)

2 .

3 .

4 .

5 .

189

4. Loại hình sản xuất (có thể chọn nhiều lựa chọn):

Sản xuất theo phương thức sử dụng nguồn nguyên liệu, thiết kế do khách

hàng cung cấp, và gắn nhãn hiệu sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng

Sản xuất theo phương thức tự thiết kế sản phẩm, tự mua nguyên liệu, nhưng

gắn nhãn hiệu sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng

Sản xuất theo phương thức tự thiết kế sản phẩm, tự mua nguyên liệu và

có nhãn hiệu riêng của doanh nghiệp.

Khác:……………………………………………………………

5. Ông/Bà vui lòng đánh giá về chất lượng nguồn nguyên liệu; linh kiện, phụ tùng được cung ứng bởi nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp nhập khẩu

Tiêu chí đánh giá Nội địa Nhập khẩu

Công nghệ và chu trình sản xuất (Q1) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Thiết bị và phương pháp kiểm tra chất lượng(Q2) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng (Q3) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Các biện pháp khắc phục, phòng ngừa (Q4) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Nhà cung cấp Nội địa được hiểu là sản xuất tại Việt Nam, gồm cả sản phẩm sản

xuất bởi doanh nghiệp FDI

Nhà cung cấp Nhập khẩu được hiểu là có nguồn gốc từ quốc gia khác ngoài Việt

Nam, bao gồm cả hình thức mua hàng từ doanh nghiệp trong nước nhập khẩu bán lại

6. Ông/Bà vui lòng đánh giá về giá cả nguồn nguyên liệu; linh kiện, phụ tùng được cung ứng bởi nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp nhập khẩu (Mức độ hài lòng từ 1 đến 5: 1 = rất không hài lòng, 2 = không hài lòng, 3 = bình thường, 4 = hài lòng, 5 = rất hài lòng)

Tiêu chí đánh giá Nội địa Nhập khẩu

Tính cạnh tranh về giá (C1) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Cấu trúc giá (C2) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Sự minh bạch về giá (C3) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Sự linh hoạt về giá (C4) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

190

7. Ông/Bà vui lòng đánh giá về Thời gian giao hàng đối với nguồn nguyên liệu;

linh kiện, phụ tùng được cung ứng bởi nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp

nhập khẩu

(Mức độ hài lòng từ 1 đến 5: 1 = rất không hài lòng, 2 = không hài lòng, 3 = bình

thường,4 = hài lòng, 5 = rất hài lòng)

Tiêu chí đánh giá Nội địa Nhập khẩu

Khả năng quản lý chuỗi cung ứng (D1) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Bộ phận packing-logistic (D2) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Quản lý kế hoạch sản xuất và giao hàng (D3) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

8. Ông/Bà vui lòng đánh giá về Môi trường sản xuất đối với nguồn nguyên liệu;

linh kiện, phụ tùng được cung ứng bởi nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp

nhập khẩu

(Mức độ hài lòng từ 1 đến 5: 1 = rất không hài lòng, 2 = không hài lòng, 3 = bình

thường,4 = hài lòng, 5 = rất hài lòng

Tiêu chí đánh giá Nội địa Nhập khẩu

Môi trường và an toàn (E1) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Chứng chỉ ISO và OHSAS (E2) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

9. Ông/Bà vui lòng đánh giá về Tài chính của nhà cung cấp nội địa và nhà cung

cấp nhập khẩu

(Mức độ hài lòng từ 1 đến 5: 1 = rất không hài lòng, 2 = không hài lòng, 3 = bình

thường,4 = hài lòng, 5 = rất hài lòng)

Tiêu chí đánh giá Nội địa Nhập khẩu

Khả năng tín dụng (F1) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Tỷ suất nợ (F2) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Khả năng thanh toán (F3) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

191

10. Ông/Bà vui lòng đánh giá về Công nghệ sản xuất của nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp nhập khẩu (Mức độ hài lòng từ 1 đến 5: 1 = rất không hài lòng, 2 = không hài lòng, 3 = bình thường, 4 = hài lòng, 5 = rất hài lòng)

Tiêu chí đánh giá Nội địa Nhập khẩu

Năng lực thiết kế, đổi mới (T1) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Đăng kí bản quyền (T2) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Cơ sở vật chất cho nghiên cứu và phát triển

(R&D) (T3) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

11. Ông/Bà vui lòng đánh giá về Năng lực, trách nhiệm và hợp tác lâu dài của nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp nhập khẩu (Mức độ hài lòng từ 1 đến 5: 1 = rất không hài lòng, 2 = không hài lòng, 3 = bình thường, 4 = hài lòng, 5 = rất hài lòng)

Tiêu chí đánh giá Nội địa Nhập khẩu

Trình độ ban lãnh đạo (R1) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Phản ứng nhanh (R2) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Đưa ra quyết định theo đúng quy trình (R3) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Quản lý dữ liệu cung ứng (R4) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Quan hệ hợp tác lâu dài (R5) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

12. Ông/Bà vui lòng đánh giá về nguồn lao động của nhà cung cấp nội địa và nhà cung cấp nhập khẩu (Mức độ hài lòng từ 1 đến 5: 1 = rất không hài lòng, 2 = không hài lòng, 3 = bình thường, 4 = hài lòng, 5 = rất hài lòng)

Tiêu chí đánh giá Nội địa Nhập khẩu

Chất lượng lao động (L1) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Chấp hành kỷ luật lao động (L2) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Sự chăm chỉ và cầu tiến (L3) 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5

Người trả lời phiếu (Ký, ghi rõ họ tên)

192

PHỤ LỤC 4

Phỏng vấn sâu (Thời gian dự kiến 45-60 phút)

Bảng câu hỏi hướng đến các đối tượng là cán bộ quản lý tỉnh Vĩnh Phúc và các chuyên gia về CNHT và FDI. Đây chính là nhóm người nắm rõ và am hiểu những vấn đề chung đến công nghiệp hỗ trợ và hoạt động đầu tư trưc tiếp nước ngoài.

Mục tiêu: Tìm hiểu về cơ chế chính sách đối với FDI, DNHT tỉnh Vĩnh Phúc, các giải pháp hiện tại và chiến lược phát triển DNHT để thu hút FDI tỉnh Vỉnh Phúc. Phần này chủ yếu đưa vào trong phần thực trạng, giải pháp và kiến nghị. Căn cứ vào mục tiêu trên, phương pháp phỏng vấn áp dụng là phương pháp phỏng vấn sâu, các

câu hỏi sẽ được dẫn dắt theo các vấn đề sau:

1. Ông (Bà) là cơ quan: Sở KHĐT, Sở Công Thương, Ban Quản lý dự án của tỉnh

Vĩnh Phúc?

2. Phòng, Ban nào trong cơ quan Ông (Bà) quản lý các doanh nghiệp FDI, DNHT

trong tỉnh (số lượng nhân viên, cơ cấu quản lý, trình độ)

3. Ông (Bà) đánh giá chung về thực trạng doanh nghiệp FDI, DNHT tỉnh Vĩnh Phúc? Sự cần thiết của FDI, DNHT? Có bao nhiêu khu công nghiệp, DNFDI,

DNHT tại tỉnh, các lĩnh vực chính của FDI, DNHT trong tỉnh là gì?

4. Khả năng đáp ứng của DNHT cho DNFDI như thế nào? (nội địa, nhập

khẩu,v.v…)

5. Điều kiện để DNHT trở thành nhà cung cấp của các doanh nghiệp FDI? 6. Bộ cơ sở dữ liệu về DNHT đã có ở tỉnh Vĩnh Phúc, đã cung cấp cho DNFDI

hay chưa, cách tiếp cận của DNFDI với bộ số liệu này ntn?

7. DNHT phát triển ảnh hưởng đến thu hút FDI như thế nào? (dòng vốn, số lượng,

thay đổi cơ cấu, chất lượng,v.v…)

8. Câu hỏi về nguồn nhân lực của DNHT, DNFDI a. Trình độ của công nhân b. Công nhân có kĩ năng và chăm chỉ c. Nguồn cung về công nhân có kĩ năng (từ tỉnh nào) d. Chi phí cho mức lương là của công nhân e. Công nhân có ý thức và tuân thủ kỉ luật lao động 9. Câu hỏi về môi trường đầu tư FDI, DNHT a. Chính sách của tỉnh nhằm thu hút đầu tư b. Thủ tục hành chính cho hoạt động đầu tư

193

c. Các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh sẵn sàng hỗ trợ các doanh nghiệp về các

thủ tục hành chính.

d. Chiến lược quy hoạch công nghiệp e. Công tác giải phóng mặt bằng, cấp đất cho hoạt động đầu tư của DN. f. Tỉnh ưu đãi về việc cấp đất cho các DN. g. Chi phí sử dụng đất là thấp 10. Câu hỏi về các ưu đãi về thuế FDI, CNHT a. Các chính sách ưu đãi về thuế cho doanh nghiệp là hấp dẫn. b. Tỉnh có đưa ra các ưu đãi về thuế, phí cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao

động địa phương.

c. Tỉnh có chính sách ưu đãi về thuế, phí cho các dự án lớn. d. Tỉnh có chính sách ưu đãi về thuế, phí cho các dự án thu hồi vốn chậm. 11. Câu hỏi vê Cơ sở hạ tầng FDI, CNHT a. Cơ sở hạ tầng giao thông kết là đồng bộ và kết nối nhanh chóng với các khu

vực khác.

b. Cơ sợ hạ tầng viễn thông. c. Cơ sở hạ tầng về năng lượng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của DN d. Cơ sở hạ tâng về năng lượng đáp ứng đầy đủ cho các hoạt động của DN 12. Câu hỏi chung liên quan đến CNHT a. Tiềm năng của các doanh nghiệp (rất lớn và có triển vọng?) vì sao? b. Sẽ mở rộng quy mô hiện tại của DN? c. Sẽ triển khai thêm các dự án mới? d. Chất lượng cung cấp sản phẩm của DNHT? e. Giá cả sản phẩm có mang tính cạnh tranh? f. Uy tín cả DNHT với các DNFDI trong tỉnh? g. Đã phát triển chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng, chuỗi liên kết từ khâu SX tới tiêu

dùng của DNHT cho DNFDI ?

h. Quy chế về an toàn và môi trường cho DNHT? i. Vai trò của cấp quản lý địa phương trong việc kết nối giữa DNHT và DNFDI

như thế nào?

13. Phát triển công nghệ đối với DNHT

a. Tổ chức các buổi Hội thảo nâng cao năng lực cho DNHT (mấy buổi, định

kỳ hay không, đơn vị nào tổ chức,v.v…) b. Chiến lược phát triển công nghệ của tỉnh? c. Tổ chức buổi trao đổi giữa DNFDI và DNHT?

194

14. Chính sách hỗ trợ tín dụng

a. DNHT có được hỗ trợ tín dụng hay không? (nếu có, tổ chức nào?) b. Lãi suất được hỗ trợ hay không?

15. Chiến lược phát triển DNHT

a. Chiến lược như thế nào, ưu tiên lĩnh vực nào trong vòng 5-10 năm sắp tới? b. Có kết nối với các địa phương khác để phát triển DNHT cho DNFDI hay

chưa?

195

Phụ lục 5: HIỆN TRẠNG MỘT SỐ LĨNH VỰC SẢN XUẤT SẢN PHẨM CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC (Giai đoạn 2010-2015)

TT

Tăng trưởng bình quân

Chỉ tiêu

Năm 2010

Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014

Năm 2011

Đơn vị tính

Ước TH Năm 2015

(2011- 2015)

I

Ngành công nghiệp hỗ trợ

67

- Cơ sở sản xuất

63

74

87

Cơ sở

130

110

15,59

27.173

- Lao động

22.875

29.761

36.506

Người

46.287

43.811

15,14

10.176

- Giá trị SXCN (giá SS 2010)

10.176

15.305

17.990

Tỷ đồng

27.996

23.433

22,43

32.862

- Doanh thu

26.897

34.050

39.362

Tỷ đồng

44.850

43.890

10,77

- Giá trị xuất khẩu

198,25

231,52

467,04

657,74

829,60

33,57

195,13

Triệu USD

- Tổng vốn đầu tư

676,5

746,5

876,2

1.039,0

1.111,3

13,75

583,6

Triệu USD

II Theo lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ

vực CNHT ngành

sản

1

Lĩnh xuất/lắp ráp ô tô, xe máy

- Cơ sở sản xuất

Cơ sở

34

34

38

39

43

40

4,81

- Lao động

Người

9.999

10.199

10.555

10.608

10.703

10.638

1,37

- Giá trị SXCN (giá SS 2010)

Tỷ đồng

5.037

6.159

6.627

6.582

7.641

7.047

8,69

- Doanh thu

Tỷ đồng

10.724

11.200

11.635

11.785

11.878

11.788

2,07

- Giá trị xuất khẩu

132,74

141,84

146,10

156,59

144,92

163,20

4,22

Triệu USD

245,7

245,7

299,2

313,6

313,7

318,5

5,33

- T6

Triệu USD

196

2

Lĩnh vực CNHT ngành cơ khí chế tạo

10

10

10

12

15

17

11,20

- Cơ sở sản xuất

Cơ sở

695

686

715

800

862

925

6,16

- Lao động

Người

3.126

1.998

3.199

4.989

4.998

5.751

23,54

- Giá trị SXCN (giá SS 2010)

Tỷ đồng

835,0

812,8

868,0

871,0

914,0

940,2

2,95

- Doanh thu

Tỷ đồng

62,8

62,8

66,0

77,9

4,40

71,2

- Tổng vốn đầu tư

62,8

Triệu USD

8

5

10

19

36

49

57,85

3 Lĩnh vực CNHTngành điện, điện tử - Cơ sở sản xuất

Cơ sở

16.297

22.855

29.890

32.178

26,16

- Lao động

10.067

14.345

Người

2.680

3.428

7.450

10.097

58,69

- Giá trị SXCN (giá SS 2010)

Tỷ đồng

1.003

1.582

20.665

25.748

30.130

30.939

16,37

- Doanh thu

Tỷ đồng

14.500

20.454

- Giá trị xuất khẩu

56,41

85,43

310,45

512,83

626,39

69,79

44,40

Triệu USD

- Tổng vốn đầu tư

343,9

357,4

469,3

623,9

686,2

22,26

251,2

Triệu USD

197

4

Lĩnh vực CNHT ngành dệt may, da giầy

4

4

Cơ sở

- Cơ sở sản xuất

5

6

6

8,45

6

940

911

Người

- Lao động

991

980

1.011

2,10

1.001

269

241

Tỷ đồng

- Giá trị SXCN (giá SS 2010)

119

493

819

27,72

648

211,1

230,0

278,1

310,0

Tỷ đồng

- Doanh thu

298,1

7,15

340,0

-

18,00

- Giá trị xuất khẩu

-

-

40,00

17,32

-

Triệu USD

- Tổng vốn đầu tư

9,5

12,3

12,6

12,6

12,6

5,81

9,5

Triệu USD

5

lĩnh vực CNHT các ngành khác

11

10

Cơ sở

- Cơ sở sản xuất

11

11

15

8,45

13

1.282

1.270

Người

- Lao động

1.275

1.315

1.478

3,08

1.410

2.761

2.147

Tỷ đồng

- Giá trị SXCN (giá SS 2010)

3.174

2.849

4.193

14,32

3.759

684,7

659,7

Tỷ đồng

- Doanh thu

698,0

708,0

794,7

3,79

753,7

- Tổng vốn đầu tư

17,9

15,7

15,7

15,7

18,3

3,37

15,5

Triệu USD

Nguồn: Sở công thương tỉnh Vĩnh Phúc