TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 68, 2011<br />
ẢNH HƯỞNG CỦA THÓI QUEN VIẾT TIẾNG VIỆT<br />
ĐẾN CÁCH DIỄN ĐẠT CÂU VÀ SỬ DỤNG TRẠNG NGỮ<br />
TRONG CÁC BÀI VIẾT HỌC THUẬT TIẾNG ANH<br />
Đỗ Thị Xuân Dung<br />
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài báo phân tích một số lối diễn đạt chưa trang trọng và chưa đạt chuẩn về văn phong<br />
khoa học của sinh viên Việt Nam trong các bài luận học thuật và bài nghiên cứu tiếng Anh;<br />
đồng thời thảo luận các nguyên nhân chủ yếu của lối diễn đạt này. Nguyên nhân chính của sự<br />
khác biệt được lý giải dựa trên những ảnh hưởng của thói quen viết tiếng Việt và lối suy nghĩ<br />
của người Việt đến cách hành văn trong tiếng Anh. Bài báo còn đề xuất một số biện pháp để cải<br />
thiện chất lượng bài viết luận học thuật hoặc bài nghiên cứu bằng tiếng Anh; giúp sinh viên<br />
ngành tiếng Anh tiếp cận thành công những chuẩn mực ngôn ngữ và diễn đạt tu từ của người<br />
bản xứ trong cách hành văn.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Khi thế giới vốn rộng lớn ngày càng trở nên bé nhỏ hơn nhờ con người đã tìm<br />
cách tiếp cận, chia sẻ tri thức và giao tiếp toàn cầu, sinh viên là một trong những đối<br />
tượng được hưởng lợi từ quá trình này bởi họ là những trí thức trẻ được mở mang kiến<br />
thức ra khỏi tầm quốc gia của mình. Trong xu hướng hội nhập quốc tế, ngày càng có<br />
nhiều sinh viên Việt Nam được đi học lấy bằng cấp hoặc nâng cao trình độ chuyên môn<br />
ở các nước tiên tiến, tham gia báo cáo khoa học tại các hội nghị chuyên ngành hoặc viết<br />
bài gửi đăng trên các tạp chí khoa học trong nước và quốc tế. Đây chính là những môi<br />
trường đòi hỏi sinh viên phải thể hiện kỹ năng viết tiếng Anh theo phong cách học thuật,<br />
hay còn gọi là hàn lâm (academic writing). Tiếng Anh hàn lâm là tiếng Anh được sử<br />
dụng bởi những người được giáo dục chính quy trong môi trường đại học; là tiếng Anh<br />
được viết trong những sách báo chuẩn mực và xuất bản chính danh. Do không có nhiều<br />
điều kiện để được giáo viên người bản ngữ chỉnh sửa, góp ý… hoặc do không được tiếp<br />
cận nhiều với nguồn tài liệu học thuật tiếng Anh của người bản xứ, rất nhiều sinh viên<br />
đã gặp khó khăn khi tìm cách thể hiện các diễn đạt văn phong trong các bài luận học<br />
thuật của mình, dẫn đến cách hành văn không đạt chuẩn và có khi là không được hội<br />
đồng khoa học phê duyệt, chỉ vì lối diễn đạt chưa đúng với văn phong tiếng Anh chính<br />
thống.<br />
<br />
5<br />
<br />
2. Nội dung<br />
2.1. Những cơ sở lý luận của phép so sánh tu từ trong tiếng Anh và một số<br />
nước phương Đông khác<br />
2.1.1. Tu từ và so sánh tu từ (Contrastive Rhetoric)<br />
Phép tu từ (rhetoric) là một lối suy nghĩ, liên quan nhiều đến những gì diễn ra<br />
trong đầu của người phát ngôn hơn là những lời phát ngôn cụ thể. Mỗi ngôn ngữ đều tạo<br />
cho người nói ngôn ngữ đó một cách nhìn nhận và phân tích về thế giới xung quanh rất<br />
riêng, cho nên có thể cách nhìn nhận này, lối suy nghĩ của người nói một ngôn ngữ này<br />
sẽ khác với những người nói các ngôn ngữ khác. Khái niệm so sánh tu từ (contrastive<br />
rhetoric) xuất hiện từ năm 1966 khi Kaplan tiến hành nghiên cứu những kiểu diễn đạt<br />
tiếng Anh của những sinh viên quốc tế trong các bài luận học thuật tiếng Anh. Qua phân<br />
tích hơn 600 bài luận tiếng Anh của sinh viên nước ngoài, ông đã đưa ra kết luận về<br />
những kiểu so sánh tu từ giữa người bản xứ nói tiếng Anh và người nước ngoài học<br />
tiếng Anh như là một ngoại ngữ. Ông đã kết luận “Mỗi ngôn ngữ và mỗi nền văn hóa có<br />
một kiểu tổ chức ý tưởng văn phong độc đáo riêng; cho nên khi học một ngôn ngữ cụ<br />
thể thì cần phải nắm vững một cách có hệ thống (Kaplan, 1966, tr.14). Những giải thích<br />
của Kaplan (1987, 1988) và một số tác giả khác sau đó (Connor, 1987, 1996; Kenneth<br />
và cộng sự, 2000; Hirose, 2003) chủ yếu xoay quanh vấn đề hoạt động viết là một hoạt<br />
động được quy định và ít nhiều chi phối bởi yếu tố văn hóa. Những cách nghĩ, thói quen<br />
và những quy tắc, chuẩn mực trong một nền văn hóa cụ thể sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến<br />
cách hành văn của người thuộc nền văn hóa đó khi họ học cách viết một ngoại ngữ.<br />
Hiện nay, rất nhiều người trên thế giới chọn học tiếng Anh như là một ngoại ngữ và họ<br />
có nhu cầu viết bài báo khoa học, viết đơn thư hoặc các văn bản khác để được người<br />
bản xứ xem xét, chấp nhận. Tuy nhiên, việc không ý thức được những chuẩn mực văn<br />
phong chính thống của người nói tiếng Anh bản xứ đã ảnh hưởng đến cách nhìn nhận,<br />
đánh giá của người bản xứ đối với sinh viên nước ngoài trong các bài nghiên cứu, bài<br />
báo khoa học. Có quan niệm còn cho rằng viết tiếng Anh theo lối suy nghĩ của nền văn<br />
hóa khác hơn là của người Anh-Mỹ là một biểu hiện của văn phong thiếu trang trọng,<br />
chưa chuẩn, chưa hàn lâm, chưa mang tính học thuật.<br />
2.1.2. Một số kiểu so sánh tu từ<br />
2.1.2.1. Trực tiếp (directness) và gián tiếp (indirectness)<br />
Người châu Á, đại diện cho nền văn hóa Đông phương được cho là có lối viết<br />
văn, tổ chức ý hay đề cập vấn đề một cách gián tiếp, vòng vo; trong khi người phương<br />
Tây có thói quen theo mô-típ trực tiếp, tuyến tính (linear patterns). Từ cấp độ câu cho<br />
đến cấp độ văn bản, người phương Tây thường đi thẳng vào vấn đề cần nói hơn là cung<br />
cấp những lý giải, rào đón để chuẩn bị cho ý chính như người châu Á thường làm. Sinh<br />
viên Trung Quốc được cho là thể hiện rõ sự khác biệt này khi họ học tiếng Anh, bởi họ<br />
đã quá quen thuộc với kiểu viết văn và diễn đạt tu từ gián tiếp mà họ lĩnh hội khi học<br />
6<br />
<br />
tiếng mẹ đẻ và những đặc trưng văn hóa của một đất nước đậm chất Á đông như vậy.<br />
(Scollon, 1991- trích trong Connor, 1996; Hinds, 1990; Cai, 1993; Cho, 1999). Người<br />
châu Á có quan niệm về lịch sự khác với người phương Tây. Trong khi một người Trung<br />
Quốc xem việc nói năng không có sự rào đón và giải thích là đường đột, là thiếu lịch sự<br />
và dễ làm người đối diện “mất mặt”; thì người châu Âu hay người Mỹ đề cao tính trực<br />
tiếp, sự nói thẳng bởi họ quan niệm rằng đấy chính là biểu hiện của tiếng nói cá nhân, là<br />
lịch sự, là tự chịu trách nhiệm về những phát ngôn của mình- những chuẩn mực văn hóa<br />
của xã hội phương Tây.<br />
Nếu tính đến yếu tố ảnh hưởng của thói quen viết bằng tiếng mẹ đẻ và những<br />
suy nghĩ thuộc nền văn hóa bản địa, người Việt Nam cũng giống người Trung Quốc<br />
trong việc áp đặt thói quen đó lên cách diễn đạt ngoại ngữ mà họ đang học. Chính vì<br />
trong tiếng Trung và tiếng Việt rất khó diễn đạt các khái niệm thì, thức, thể… ngay<br />
trong nội thân của một từ (ví dụ: đi và (đã) đi); nên người ta thường hay thêm những<br />
trạng ngữ diễn đạt thì, thức, thể... vào đầu câu nhằm mục đích nhấn mạnh yếu tố cần nói.<br />
Theo các định nghĩa của Diệp Quang Ban, Mai Ngọc Chừ... hay Nguyễn Minh Thuyết,<br />
Nguyễn Thị Lương... thì để bổ sung cho nòng cốt câu, tức là bổ nghĩa cho cả cụm chủ vị<br />
trung tâm, người ta thường dùng trạng ngữ. Trạng ngữ thường là những từ chỉ thời gian,<br />
địa điểm nơi chốn, mục đích, phương tiện, cách thức… để biểu thị các ý nghĩa tình<br />
huống: thời gian, địa điểm, nguyên nhân, mục đích, kết quả, phương tiện…”. Khi học<br />
tiếng Anh, người Việt thường có khuynh hướng viết những trạng ngữ chỉ mục đích, điều<br />
kiện… ra đầu câu như trong tiếng Việt. Đây cũng chính là một biểu hiện khác của tính<br />
gián tiếp và trực tiếp. Ví dụ, người Anh nói: I came home late last night (tôi về nhà<br />
muộn tối qua) thì người Trung Quốc hoặc người Việt Nam thường nói: Yesterday I came<br />
home late, bởi vốn gốc tiếng mẹ đẻ của họ sẽ nói: Hôm qua, tôi (đã) về nhà muộn.<br />
(không cần thay đổi cấu trúc từ “về nhà”; chỉ cần thêm “hôm qua” và “đã” để nhấn<br />
mạnh thì quá khứ).<br />
Ngoài ra tính gián tiếp này còn thể hiện cả trong thói quen đặt nhiều mệnh đề<br />
phụ hoặc mệnh đề chỉ thời gian, nơi chốn, mục đích… ra đầu câu, trước mệnh đề chính<br />
nhằm thông báo cho người đọc những sự việc mà lẽ ra chỉ thuộc về mệnh đề phụ hoặc<br />
bổ tố.<br />
2.1.2.2. Tính gốc (originality) và tính cá nhân (individuality)<br />
Scollon (1991) cho rằng trong khi người phương Tây rất đề cao tiếng nói của cá<br />
nhân, cực kỳ tôn trọng tính gốc-một biểu hiện của sự thật, và Matalene (1985) quan<br />
niệm rằng người phương Tây đề cao tính gốc và tính cá nhân bởi họ đánh giá cao ý<br />
tưởng mới của những người sáng tạo, thì Cai (1990) lại cho rằng người phương Đông<br />
rất ngại thể hiện cái tôi trong ngôn ngữ nói và viết. Ngược lại, họ có khuynh hướng đề<br />
cao ý kiến chung của nhóm, của tập thể hoặc quy chiếu về những giá trị nhân văn truyền<br />
thống hơn là chỉ luôn phát hiện ra cái mới. Chính những thói quen này đã làm cho người<br />
châu Á học tiếng Anh rất ngại “là chính mình” (như lời khuyên của các giảng viên<br />
7<br />
<br />
người Anh- Mỹ) (Shen, 1989). Thay vì người Anh-Mỹ-Úc nói “I think…”, “I<br />
believe…”, người Trung Quốc hay người Việt có thể nói “We think…” hay “We assert<br />
that…”, “My group’s opinion is that…”, “People often say…” khi trình bày quan điểm<br />
cá nhân. Tính tập thể và tôn trọng người trong nhóm, tổ là một trong những giá trị chuẩn<br />
mực văn hóa của các nước Á đông. Điều này giải thích tại sao khi phê duyệt những báo<br />
cáo hoặc bài báo của người châu Á, giáo viên Anh-Mỹ-Úc thường phê: “So, what’s<br />
your own opinion?” (Vậy thì ý của riêng bạn là đâu ?)<br />
2.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu<br />
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu<br />
Đối tượng nghiên cứu là 200 bài luận của sinh viên khoa tiếng Anh- trường<br />
ĐHNN-ĐHH (giai đoạn 2005-2010) trong các kỳ thi hết học phần môn Viết tiếng Anh<br />
và 10 bài tập lớn (assignment) của 50 sinh viên ngành Sư phạm tiếng Anh-năm thứ 4<br />
trong môn Phương pháp giảng dạy 4. Đây là những bài thi chính thức hoặc bài tập có<br />
yêu cầu văn phong trang trọng, khoa học.<br />
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu<br />
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là thống kê, phân tích, và quy nạp. Ngoài ra,<br />
một cuộc phỏng vấn đối với 5 sinh viên ngẫu nhiên trong nhóm đã viết bài cũng được<br />
thực hiện để làm rõ các nguyên nhân liên quan.<br />
2.2.3. Phạm vi nghiên cứu<br />
Trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi tập trung phân tích những biểu hiện<br />
diễn đạt tiếng Anh chưa đạt chuẩn của sinh viên người Việt học tiếng Anh trên cấp độ<br />
câu. Những biểu hiện ở cấp độ văn bản hoặc phạm trù từ vựng sẽ được trình bày trong<br />
một bài báo khác.<br />
2.3. Những biểu hiện về việc diễn đạt tiếng Anh chưa trang trọng (informal)<br />
trong các bài báo hoặc báo cáo khoa học, bài viết học thuật của sinh viên<br />
Người Việt thường hay có thói quen đặt các mệnh đề phụ ra đầu câu để nhấn<br />
mạnh ý cần nói. Hơn nữa, trong tiếng Việt không có sự chuyển đổi tình thái, trạng thái<br />
cần thiết ngay trong bản thân một từ như trong tiếng Anh. Ví dụ, động từ “go” trong<br />
tiếng Anh khi chuyển sang hình thức quá khứ, người ta có từ “went”. Khác với tiếng<br />
Anh, để diễn tả thì quá khứ trong tiếng Việt, người có thể thêm từ “đã”, “rồi”… hoặc<br />
thậm chí không cần phải thêm từ tố chỉ thì, mà chỉ cần nêu trạng ngữ chỉ thời gian quá<br />
khứ, như “ngày hôm qua”, “cách đây 10 năm”… Chính vì “đặt nhiều trọng trách” cho<br />
trạng ngữ như vậy mà người Việt thường hay có thói quen nêu trạng ngữ chỉ thời gian,<br />
mục đích, điều kiện… ra đầu câu để nhấn mạnh các yếu tố tình thái, trạng thái như được<br />
miêu tả trong một số ví dụ dưới đây:<br />
<br />
8<br />
<br />
1. Vì không biết tiếng Anh nên tôi không xin được công việc đó. (Mệnh đề chỉ lý<br />
do)<br />
Cũng câu này người Anh sẽ nói rằng<br />
“ I was not given that job because I had no knowledge of English.”<br />
(Main clause)<br />
<br />
(connector of cause)<br />
<br />
(subordinate clause)<br />
<br />
2. Hễ khi nào anh cần, tôi sẵn sàng giúp đỡ (Mệnh đề chỉ điều kiện)<br />
Tương đương với câu:<br />
“I am always available whenever you need help.” trong tiếng Anh<br />
(Main clause)<br />
<br />
(time connector) (subordinate clause)<br />
<br />
Và một số cách diễn đạt tương tự khác trong tiếng Việt như:<br />
3. Hôm qua, tôi gặp lại người bạn cũ trên phố (Cụm danh từ chỉ thời gian)<br />
4. Cũng tại nơi này anh ấy đã ngỏ lời cầu hôn tôi (Trạng ngữ chỉ nơi chốn)<br />
5. So với bạn bè, tôi là người may mắn hơn cả (MÖnh ®Ò so s¸nh)<br />
6. Để làm hài lòng bố mẹ, tôi đã nỗ lực thi đỗ vào cả hai trường Đại học. (Trạng<br />
ngữ chỉ mục đích)<br />
Vì đã quen với thói quen này, sinh viên học tiếng Anh thường diễn đạt câu tiếng<br />
Anh bằng những hình thức tương tự như trong tiếng Việt. Theo thống kê từ 200 bài luận<br />
(250-350 từ) và 10 bài tập lớn của sinh viên (700-1000 từ), chúng tôi có một số thông<br />
tin về những biểu hiện về việc diễn đạt tiếng Anh chưa trang trọng, chưa chuẩn văn<br />
phong; được thể hiện chủ yếu trong một số trường hợp sau đây:<br />
2.3.1. Thói quen đặt mệnh đề phụ trước mệnh đề chính<br />
Số lần xuất hiện<br />
<br />
Số bài (N=210)<br />
<br />
Tỉ lệ (%)<br />
<br />
1 lần/ 1 bài<br />
<br />
89<br />
<br />
42,3<br />
<br />
2 lần/ 1 bài<br />
<br />
44<br />
<br />
20,9<br />
<br />
3 lần/ 1 bài<br />
<br />
16<br />
<br />
07,6<br />
<br />
Hơn 3 lần/ bài<br />
<br />
05<br />
<br />
02,3<br />
<br />
Không có<br />
<br />
56<br />
<br />
26,6<br />
<br />
Sau đây là một vài ví dụ trích trong bài của sinh viên để minh họa cho thói quen<br />
này:<br />
−<br />
<br />
Although the differences between high school study and university study is essential,<br />
there are some similarities between them.<br />
9<br />
<br />