Ảnh hưởng của từ gốc Hán trong tiếng Hàn
lượt xem 11
download
Hán tự có ảnh hưởng lớn đối với các ngôn ngữ các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trước khi sáng tạo ra cho mình một hệ thống chữ viết riêng, từ rất sớm, người Hàn đã vay mượn chữ Hán để thực hiện sinh hoạt ký tự. Cũng chính vì thế mà chữ Hán và tiếng Hàn có quan hệ rất mật thiết với nhau. Từ Hán-Hàn còn có khả năng kết hợp với các từ thuần Hàn để tạo nên các từ mới, có khả năng sinh sản trong lĩnh vực cấu tạo từ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ảnh hưởng của từ gốc Hán trong tiếng Hàn
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 ẢNH HƯỞNG CỦA TỪ GỐC HÁN TRONG TIẾNG HÀN SVTH: Đặng Thị Thu Thảo, Đặng Thị Thắm(1H-09) GVHD: Th.s Phạm Thị Ngọc I. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong xu thế Việt Nam đang mở rộng giao lưu và hội nhập với các quốc gia và khu vực trên thế giới, ngoại ngữ là một yêu cầu vô cùng cần thiết. Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp, công ty Hàn Quốc đang đầu tư và hoạt động tại Việt Nam, so với các nước khác, Hàn Quốc đang là nước có nguồn đầu tư lớn thứ hai ở nước ta. Chính vì vậy nhu cầu học tiếng Hàn đang là một nhu cầu cần thiết và tất yếu. Trong bất cứ một ngôn ngữ nào từ vựng cũng đóng vai trò rất quan trọng. Do đó để có thể sử dụng ngoại ngữ một cách trôi chảy người học phải trang bị cho mình không chỉ là một hệ thống ngữ pháp đầy đủ mà còn cần một kho từ vựng phong phú. Trung Quốc là quốc gia có ảnh hưởng lớn không chỉ về chính trị, kinh tế mà còn về cả văn hoá và xã hội đối với các nước phương Đông. Trong đó ngôn ngữ là một lĩnh vực không thể không nhắc đến. Từ xưa Hán tự đã thâm nhập và có ảnh hưởng lớn trong tiếng Hàn Quốc. Bởi khoảng 70% từ vựng trong tiếng Hàn được tạo từ gốc Hán, nên khi học từ vựng tiếng Hàn, Hán tự là điều không thể bỏ qua. Chính vì vậy bài nghiên cứu này của chúng tôi xin được đề cập đến một vấn đề nhỏ trong từ vựng tiếng Hàn đó là “Ảnh hưởng của từ gốc Hán trong tiếng Hàn”. Là những sinh viên đang học tập về tiếng Hàn trong khoa tiếng Hàn Quốc, mục đích của chúng tôi khi làm bài nghiên cứu này trước hết nhằm trau dồi thêm kiến thức, phục vụ bổ ích cho việc học, cũng nhằm giúp những người mới học và muốn tìm hiểu về tiếng Hàn có thể trau dồi thêm một số kiến thức về Hán tự trong tiếng Hàn, đồng thời củng cố được khả năng từ vựng trong tiếng Hàn Quốc. Qua đây, có thể biết được các từ gốc Hán, từ đó có thể hiểu được nghĩa của từ một cách chính xác và dễ dàng. Từ vựng là một đề tài nghiên cứu rộng mở trong lĩnh vực ngôn ngữ. Tuy nhiên vì là những sinh viên đang học tập về chuyên ngành tiếng Hàn Quốc nên bài nghiên cứu này chúng tôi chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ của từ vựng. Dựa trên những nghiên cứu, tài liệu đã có trước, bằng phương thức khảo sát, phân tích, tổng hợp và đưa ra những hiểu biết cơ bản về Hán tự, chúng tôi xin trình bày về một số yếu tố cơ bản liên quan đến Hán tự trong tiếng Hàn, bài viết đã nêu ra những khái quát, ảnh hưởng của Hán tự, cũng như mối quan hệ, đặc điểm và hệ thống về Hán tự trong tiếng Hàn hiện đại II. NỘI DUNG: 1. Lịch sử và quá trình phát triển của tiếng Hàn Quốc: Hàn Quốc là một trong ít những dân tộc trên thế giới có niềm tự hào lớn về ngôn ngữ của đất nước mình. Tất cả các dân tộc Hàn Quốc đều nói chung một thứ ngôn ngữ, 159
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 các nhà ngôn ngữ học và các nhà dân tộc học đã xếp tiếng Hàn Quốc thuộc loại ngôn ngữ An-tai (trong đó bao gồm cả tiềng Thổ nhĩ Khì, tiếng Mông Cổ và tiêng Tunus- Mãn Châu). Vào khoảng thế kỉ thứ 15, trước khi bảng chữ cái Hangul được phát minh, người Hàn Quốc dùng chữ Hán để ghi âm tiếng nói của mình, nhưng vì chữ Hán quá khó đọc và khó viết nên chỉ tầng lớp quý tộc và quan lại có thể hiểu và sử dụng được. Xuất phát từ ý thức dân tộc mình phải có một hệ thống chữ viết để biểu đạt ngôn ngữ hàng ngày, đặc biệt là suy nghĩ mong muốn cho toàn bộ thần dân có thể học và đọc được chữ một cách dễ dàng, đồng thời muốn đẩy lùi sự Hán hoá và tạo ra nét riêng của dân tộc, vua Sejong cùng các học giả trong Tập Hiền Điện đã sáng chế ra chữ Hangul. Trong các quần thần lúc đó, có nhiều người ủng hộ và giúp đỡ ông, nhưng cũng có một bộ phận vốn là những quý tộc đã không những không hưởng ứng ý tưởng của ông trong việc chế tạo ra chữ Hangeul mà còn có nhiều ý kiến chống đối ông. Thời điểm đó, giai cấp thống trị và quý tộc cho rằng họ cần phải bảo vệ sự độc quyền của họ trong học vấn bằng cách tiếp tục sử dụng hệ thống chữ Hán. Tuy nhiên, vượt qua những trở ngại trên, vua Sejong vẫn cương quyết đẩy mạnh sự phát triển của bảng chữ cái Hangeul. Cuối cùng chữ Hangul được sáng lập ra năm 1443 và được ban bố vào năm 1446. Trong những nỗ lực nhằm phát minh ra một hệ thống chữ viết của người Hàn Quốc, vua Sejong đã nghiên cứu nhiều hệ thống chữ viết khác nhau trong đó có chứ Hán cổ, chữ Uighur và hệ thống chữ viết cổ của người Mông Cổ. Tuy nhiên, hệ thống mà ông đã quyết định lựa chọn chủ yếu là dựa trên ngữ âm học. Trên tất cả, hệ thống này được phát minh và sử dụng theo một nguyên lí sự phân chia ba phần âm tiết, bao gồm chữ cái đầu, chữ cái giữa và chữ cái cuối, khác với sự phân chia làm hai của âm tiết trong ngữ âm học của tiếng Hán cổ. Nguyên lúc đầu chữ Hangul được đặt tên là 훈민정음(Hunmin-chongum), nghĩa là những âm chuẩn, âm đúng dùng để truyền bá, để dạy cho dân chúng. Mãi đến thế kỉ XX, từ năm 1913, tên gọi Hangul mới được định ra và sử dụng rộng rãi. Và sự ra đời của bảng chữ cái này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử dân tộc Hàn. Có thể thấy đây không chỉ là một sự sáng tạo độc đáo trong khoa học, mà còn là thành tựu văn hoá đáng tự hào nhất của người Hàn Quốc. Chữ Hangul đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới bởi tính s áng tạo cũng như tính khoa học của nó. 2. Khái quát bảng chữ cái tiếng Hàn Quốc: Về nguyên lý tạo hình của chữ Hangul có thể giải thích ở cả hai góc độ ngôn ngữ học và triết học. Người ta tạo ra một số con chữ cơ bản và dựa theo những ngôn ngữ này để hình thành nên những chữ cái còn lại và tạo thành vô vàn những nhóm âm tiết khác nhau. Theo nhận xét của Giáo sư Lê Quang Thiêm, chữ Hangul là”hệ thống văn tự ghi âm-chữ viết ngữ âm học-có khả năng ghi âm, phiên âm bất kỳ một loại âm nào. Có lời chào đón, ca ngợi của một số nhà ngôn ngữ học, cho rằng nó là một hệ thống chữ viết khoa học nhất trên thế giới. Ưu điểm nổi bật là nó cực kì đơn giản và dễ đọc”. Vì thế việc sáng tạo ra chữ Hangul đã có đóng góp to lớn đối với tỉ lệ biết chữ của người dân Hàn Quốc. 160
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 2.1.H ệ thống nguyên âm: • Hệ thống nguyên âm: Bao gồm 21 nguyên âm, trong đó có 14 nguyên âm đơn và 7 nguyên âm kép. Nguyên âm đơn gồm có: ㅏ, ㅓ, ㅜ, ㅗ, ㅡ, ㅣ, ㅐ, ㅔ, ㅑ, ㅕ, ㅠ, ㅛ, ㅒ, ㅖ. Nguyên âm kép gồm có: ㅘ, ㅙ, ㅚ, ㅝ, ㅞ, ㅟ,ㅢ. Đa số các ký tự biểu thị nguyên âm này được tổ hợp nên từ ba ký tự nguyên âm cơ bản sau: “•“là tượng trưng cho hình tròn của bầu trời, biểu thị cho nguyên âm /Λ/ “⎯“là tượng trưng cho bề mặt bằng phẳng của đất, biểu thị cho nguyên âm // “⏐“là tượng trưng cho con người, biểu thị cho nguyên âm /i/ Các nguyên âm còn lại được ghép với nhau tạo ra các nguyên âm đôi và nguyên âm ba. • Hệ thống phụ âm: Tiếng Hàn Quốc có 19 phụ âm, trong đó có 14 phụ âm đơn ký tự (phụ âm mang một ký tự) và 5 phụ âm lặp (phụ âm mang hai ký tự giống nhau). Chữ cái cho các phụ âm tiếng Hàn, trước hết là những chữ cơ bản, được tạo nên theo những tượng hình, mô phỏng hình dáng của các cơ quan phát âm. Sau đó, bằng cách thêm nét vào những chữ cơ bản này, mà các chữ cái phụ âm khác được hình thành. Các phụ âm được phân loại căn cứ theo vị trí và phương thức cấu âm theo bảng sau: Âm môi Âm răng Âm ngạc Âm ngạc Âm hầu cứng mềm Âm Âm ㅂ ㄷ ㄱ tắc thường Âm ㅃ ㄸ ㄲ căng Âm ㅍ ㅌ ㅋ bật hơi Âm Âm ㅈ tắc thường xát Âm ㅉ căng Âm ㅊ bật hơi Âm Âm ㅅ ㅎ xát thường Âm ㅆ căng Âm trơn ㅁ ㄴ ㅇ Âm mũi ㄹ 161
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 Căn cứ vào bảng phân loại phụ âm trên, có thể rút ra một số đặc điểm trong phụ âm tiếng Hàn như sau: Đặc trưng của phụ âm tiếng Hàn là sự xuất hiện những cặp âm đối lập: âm thường-âm căng-âm bật hơi, là những âm ít thấy trong các thứ tiếng khác. Khác với các ngôn ngữ Ấn-Âu, trong tiếng Hàn không có sự phân biệt rõ ràng giữa các cặp âm vô thanh-hữu thanh như: p-b, t-d, s-z, k-g, đồng thời không có kí tự biểu hiện cho những âm hữu thanh”b, p, g”. 3. Khái quát về Hán tự: Chữ Hán là một trong các loại văn tự có thời gian sử dụng lâu đời nhất, không gian rộng lớn nhất và số người đông nhất thế giới. Việc sáng chế và ứng dụng của chữ Hán không những đã thúc đẩy nền văn hoá Trung Hoa phát triển mà còn ảnh hưởng sâu xa tới sự phát triển của nền văn hoá thế giới. Tại các di chỉ Bán Pha, cách đây sáu nghìn năm đã phát hiện các phù hiệu khắc vào gạch, cả thảy có hơn 500 loại. Chúng xếp thành thứ tự và có quy luật nhất định, mang đặc trưng chữ viết đơn giản. Các học giả cho rằng đây có thể là mầm mống của chữ Hán. Chữ Hán được hình thành một cách hệ thống là vào đời nhà Thương thế khỉ 16 trước công nguyên Khảo cổ chứng thực trong thời kì đầu nhà Thương, nền văn hoá Trung Quốc đã phát triển tới trình độ khá cao, một trong những đặc trưng chủ yếu là việc hình thành chữ Giáp cốt. Chữ Giáp cốt là một loại chữ cổ xưa được khắc trên các mai rùa và xương thú. Trong thời nhà Thương, nhà vua trước khi làm bất cứ việc gì đều phải bói quẻ, Giáp cốt là công cụ dung trong khi bói quẻ. Hiện nay các nhà khảo cổ đã phát hiện được hơn 160 nghìn mảnh Giáp cốt. Trong đó có mảnh hoàn chỉnh, có mảnh vụn không còn chữ nào. Theo thống kê, tổng số chữ trên cac mảnh Giáp cốt này lên tới 4000, trong đó có khoảng 3000 chữ đã được các học giả khảo chứng nghiên cứu, trong hơn 3000 chữ này có hơn 1000 chữ các học giả giải thích giống nhau. Số còn lại hoặc không giải thích được hoặc có sự bất đồng nghiên trọng trong các học giả. Mặc dù vậy, qua hơn 1000 chứ này mọi người đã có thể hiểu 162
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 được tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá…của nhà Thương. Chữ Giáp cốt là một loại văn tự chín muồi và hệ thống, đặt nền tảng cho sự phát triển của chữ Hán sau này. Từ đó về sau chữ Hán lại trải qua các hình thức như Đồng Minh Văn, Tiểu Triện, Lệ, Khải…v à sử dụng cho đến ngay nay. Quá trình diễn biến của chữ Hán là quá trình từng bước quy phạm và ổn định về hình chữ và thể chữ. Tiểu Triện khiến cho mỗi nét bút được cố định; chữ Lệ hình thành một hệ thống viết mới, hình chữ dần dần trở nên hình chữ nhật; chữ Khải sau khi ra đời đã làm cho hình chữ và thể chữ của chữ Hán trở nên cố định: xác định nét bút cơ bản từ gạch, phẩy, dọc, móc…hình chữ được qui pham một bước, số nét và tuần tự của mỗi chữ cũng được cố định. Hơn một nghìn năm qua, chữ Khải luôn là chữ tiêu chuẩn của chữ Hán. Chữ Hán là một hệ thống văn tự biểu đạt ý lấy chữ tượng hình làm nền tảng, lấy chữ tượng thanh làm chủ thể. tổng cộng có hơn 10 nghìn chữ. Trong đó có khoảng 3000 chữ thường dùng nhất. Hơn 3000 chữ này có thể cấu thành nên vô số các cum từ, qua đó có thể cấu thành nên câu nói các loại. Sau khi chữ Hán sản sinh đã ảnh hưởng sâu sắc tới các nước xung quanh.Chữ viết các nước Việt Nam, Nhật Bản, Triểu Tiên đều được sáng tạo trên nền tảng của chữ Hán 4. Ảnh hưởng của chữ Hán đối với các ngôn ngữ Châu Á: 4.1. Ở Trung Quốc: Chữ Hán bắt nguồn từ Trung Quốc từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát đồ vật xung quanh và vẽ thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa. Chữ Hán đã trải qua nhiều thời kì phát triển. Cho đến hiện nay chữ Hán cổ được cho là chữ Giáp cốt (Giáp cốt tự), chữ viết được xuất hiện vào đời Ân vào khoảng thời 1600-1020 trước Công nguyên.Chữ Giáp cốt là chữ Hán cổ viết trên các mảnh xương thú và có hình dạng rất giống với những vật thật quan sát được. Chữ Giáp cốt tiếp tục được phát triển qua các thời: Nhà Chu (1021-256 TCN) có chữ Kim (Kim Văn), là chữ viết trên các chuông bằng đồng và kim loại Chiến Quốc (403-221 TCN) và thời nhà Tần (221-206 TCN) có chữ Triện (Đại Triện và Tiểu Triện) và có chữ Lệ (Lệ Thư). Nhà Hán (Tiền Hán 206 TCN-8 CN, Hậu Hán 25-220) có chữ Khải (Khải Thư). 163
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 Chữ Khải còn có thể chia thành chữ Hành (Hành Thư) và chữ Thảo (Thảo Thư). Chữ Khải là chữ được dùng bút long chấm mực tàu viết lên trên giấy và rất gần với hình dáng chữ Hán ngày nay vẫn còn được dùng ở Nhật, Đài Loan hay Hồng Kông. Chữ Thảo là loại chữ được viết bằng bút lông có lược bớt hoặc ghép một số nét lại. Sự phát triển của chữ Hán trải qua các thời kì có thể đượ minh hoạ bằng một số chữ sau: Chữ Giáp Cốt → Chữ Kim → Chữ Triện → Chữ Lệ → Chữ Khải → Chữ Thư Ngày nay, chữ Hán ở Trung Quốc đã có xu hướng được giản lược đơn giản và ở Trung Quốc còn được sử dụng hai loại chữ: chữ Chính thể và chữ Giản thể. 4.2.Ở Nhật Bản: Chữ Hán xâm nhập vào Nhật Bản thông qua con đường Triều Tiên, chữ Hán ở Nhật được gọi là Kanji và được du nhập vào Nhật thông qua con đường buôn bán giũa Nhật và Triều Tiên vào khoảng thế kỉ thứ 4, 5. Tiếng Nhật cổ đại vốn không có chữ viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật người Nhật dùng chữ Hán để viết tiếng nói của họ. Dạng chữ đầu tiên người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viết tiếng Nhật là chữ Man- yogana. Hệ thống chữ viết này dựa trên chữ Hán và khá phức tạp. Man-yogana được đơn giản hoá thành Hiragana và Katakana. Cả hai loại chữ này trải qua nhiều lần chỉnh lí và hoàn thiện mới trở thành chữ viết ngày nay của người Nhật Bản. Tiếng Nhật hiện đại được viết bằng bốn loại kí tự: Chữ Hán Chữ mềm Chữ cứng Chữ Latinh Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âm Hán cổ, được gọi là On-yomi và cách đọc theo âm tiếng Nhật được gọi là Kun-yomi. Trong quá trình phát triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn mượn chữ Hán để sáng tạo ra một số chữ (khoảng vài trăm chữ) và mỗi chữ này chỉ đọc theo âm tiếng Nhật, các chữ này được gọi là Kokuji, tiếng Nhật gọi là Quốc Âm Quốc Huấn, nghĩa là”chữ quốc ngữ âm quốc ngữ”. Những chữ quốc ngữ này của người Nhật có cách hình thành khá giống chữ Nôm của Việt Nam. Tháng 11 năm 1946, bộ giáo dục Nhật đề nghị đưa vào giảng dạy 1850 chữ Hán cơ bản trong trường học, và được Quốc hội Nhật thông qua năm 1947. Đến năm 1981 thì lượng chữ Hán thông dụng được sửa lại gồm khoảng 1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác dùng để viết tên người. Đến năm 2000, các chữ Hán dùng để viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tăng lên khoảng 400 chữ. Các chữ Hán này được lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thường dùng (Jyoyo Kanji Hyo) và Bảng chữ Hán dùng viết tên người (Jinmeiyo Kanji Hyo). 164
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 4.3. Ở Việt Nam: Trước khi chữ Hán du nhập vào Việt Nam, một số học giả cho rằng người Việt có chữ viết kiểu nút còn gọi là”chữ khoa đấu”. Theo các nhà nghiên cứu thì không phải người Việt dùng kiểu thắt nút để trị quốc như các sử sách của Trung Quốc mà người Việt có văn tự riêng của mình; bằng chứng là các văn tự được tìm thấy ở các bia miền núi phía Bắc có chữ viết ngoằn nghèo như lửa (còn gọi là Hoả tự), Tiếng Việt cổ đại cũng là một ngôn ngữ thuộc họ Mường- Khmer của hệ Nam Á, khác hẳn với hệ ngôn ngữ của tiếng Hán. Nhiều tác giả cho rằng chữ Hán du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỉ I trước công nguyên (TCN), ngay sau khi Trung Quốc chiếm xong Việt Nam, trong suốt 1000 năm, từ hế kỉ 1 TCN cho đến năm 938, tiếng Việt bị ảnh hưởng mạnh mẽ của chữ Hán (hay còn gọi là chữ Nho). Trong suốt thời gian Bắc thuộc đó, với chính sách Hán hoá của nhà Hán, tiếng Hán đã được giảng dạy ở Việt Nam và người Việt đã chấp nhận ngôn ngữ đó cùng với tiếng Việt, tiếng nói truyền miệng. Tuy người Viêt Nam tiếp thu tiếng Hán và chữ Hán nhưng cũng đã Việt hoá nhiều từ của tiếng Hán thành từ Hán-Việt. Từ đó đã có nhiều từ Hán-Việt đi vào trong từ vựng của tiếng Việt. Sự phát triển của tiếng Hán ở Việt Nam trong thời kì Bắc thuộc song song với sự phát triển của tiếng Hán ở chính Trung Quốc thời kì đó. Tuy nhiên, năm 938, sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, Việt Nam đã độc lập và không lệ thuộc vào phương Bắc nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn bị ảnh hưởng nặng nề của tiếng Hán. Sau ngày giành được độc lập, mặc dù tiếng Hán là ngôn ngữ được sử dụng chính thức nhưng sự phát triển theo hướng khác với sự phát triển tiếng Hán ở Trung Quốc. Hiện nay, trong tiếng Việt, lớp từ Hán - Việt chiếm một tỷ trọng rất lớn, nhất là ở phong cách nghị luận, chiếm khoảng 60-70%. Mức độ phong phú của lớp từ này có thể coi như vô hạn trong mọi lĩnh vực. 4.4. Ở Hàn Quốc: Cũng giống như Nhật Bản và Việt Nam, Hán ngữ từ lâu đã được du nhập vào Hàn Quốc, đã từng là ngôn ngữ văn tự chính trong một thời gian dài ở Hàn Quốc. Không có tài liệu nào đề cập chính xác về thời điểm chữ Hàn được truyền vào Hàn Quốc, song có lẽ được sử dụng nhiều từ thế kỉ thứ III, và phát triển vào thời Tam quốc: Shilla, Baekjae, Goguryeo. Chữ Hán được sử dụng rộng rãi và có vị trí quan trọng để ghi chép văn tự vào thời này. Việc vay mượn chữ Hán để ghi chép được biểu hiện qua hai phương thức là mượn âm chữ Hán và mượn nghĩa chữ Hán. Có thể thấy rõ việc này qua các loại kí tự Hyang Ch’al (향찰: Hương Trát), Ku Kyol (구결: Khẩu Quyết), Y Too (이두: Lại Đầu). Hyang Ch’al (Hương Trát) là loại hình vay mượn kí tự được sử dụng chủ yếu để ghi lại hình thức văn họ nghệ thuật Hyang Ka thời Shilla. Đây là cách ghi kí tự hỗn hợp cả hai phương thức vay mượn âm và nghĩa, thường theo phương thức nghĩa ở phía trước và mượn âm ở phía sau.Thường từ các thực từ được nghi chép lại dưới dạng mượn nghĩa, còn các tiểu từ hay đuôi từ ngữ pháp, tức là các hư từ được ghi lại dưới dạng mượn âm. Ku Kyol (Khẩu Quyết) là hình thức gắn bộ phận tiếng Hàn vào sau câu hay các vế câu Hán văn để đọc. Việc vay mượn chữ ghi chép để biểu thị câu văn tiếng Hàn đã được 165
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 tận dụng một cách toàn diện dưới thời Shilla nhưng đến giai đoạn sau, đã có giới hạn trong cách sử dụng. Kí tự vay mượn lúc này không phải là phương tiện biểu thị một cách trọn vẹn toàn bộ tiếng Hàn, mà chỉ đơn thuần là những bộ phận tiếng Hàn, gắn vào sau mỗi đoạn văn, hỗ trợ cho việc đọc những câu viết hoàn toàn bằng Hán văn. Y Too (Lại Đầu) là phương thức mà phần lớn các bộ phận xuất hiện trong câu là Hán văn, nhưng trật tự sắp xếp từ lại được sửa cho giống với tiếng Hàn, thường thì một phần của câu văn được thể hiện thông qua các kí tự vay mượn (mượn âm hoặc mượn nghĩa). Về phương thức vay mượn và thể hiện, Y Too gần giống với Hyang Ch’al, tuy nhiên so với Hyang Ch’al thì việc sử dụng kí tự vay mượn đã có nhiều suy giảm, nhiều trường hợp từ ngữ vẫn được giữ nguyên theo tiếng Hán. Y Too và Ku Kyol là hai phương thức vay mượn kí tự cò tiếp tục tồn tại trong một khoảng thời gian dài, sau khi chữ Hangul xuất hiện. Mặc dù chữ Hangul được sáng lập, nhưng có thể thấy Hán văn đã chiếm một vị trí rất quan trọng trong sinh hoạt văn tự của người Hàn, do đó việc duy trì những hình thức thể hiện, hỗ trợ cho việc đọc và ghi chép Hán văn là tất yếu. Và cũng chính sự phát triển của việc vay mượn kí tự để ghi chép này đã ghóp phần thúc đẩy việc sáng tạo và hoàn thiện, cho ra đời chữ viết mới của dân tộc Hàn. Vào khoảng thế kỉ thứ XV, ở Hàn Quốc xuất hiện chữ kí âm được gọi là 한글(Hangul) hay 조선글(Chosongul), chữ này trải qua nhiều thế kỉ phát triển thăng trầm, cuối cùng đã được sử dụng thay thế cho chữ Hán cho đến ngày nay. Tuy 조선글 (Chosongul) đã xuất hiện nhưng chữ Hán (한자) vẫn được giảng dạy trong trường học. Năm 1972, bộ giáo dục Hàn Quốc đã quy định phải dạy 1800 chữ Hán cơ bản cho học sinh, còn ở Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triểu Tiên người ta bỏ hẳn chữ Hán. 5. Mối quan hệ giữa từ gốc Hán và tiếng Hàn: Hán tự và tiếng Hàn Quốc theo phương diện địa chính học hay lịch sử đều có quan hệ gần gũi với nhau. Không biết hai ngôn ngữ này có sự liên hệ từ khi nào nhưng nếu nhìn về quan hệ lịch sử, người ta cho rằng chúng hình thành mối quan hệ chính thức từ thời đại nhà Hán của Trung Quốc.Trước khi sáng tạo ra cho mình một hệ thống chữ viết riêng, từ rất sớm người Hàn đã vay mượn tiếng Hán. Có thể thấy theo quá trình lịch sử lâu dài, tiếng Hán ở Hàn Quốc dần dần đã chiếm lượng từ vựng lớn hơn so với tiếng Hàn thuần. Nếu khảo sát hệ thống từ ngữ dùng trong quá trình xây dựng chế độ xã hội Hàn Quốc - từ tên gọi các cơ chế tổ chức, hệ thống quan chức, hệ thống luật pháp, ta có thể thấy số từ ngữ Hán - Hàn chiếm phần lớn. Tuy nhiên các từ Hán du nhập vào và được sử dụng trong tiếng Hàn không đọc theo âm tiếng Trung vốn có của nó mà theo âm tiếng Hàn, tuân theo các nguyên tắc ngữ âm tiếng Hàn. Các từ vay mượn từ tiếng Hán này vì vậy có những đặc trưng riêng và có thể được gọi là từ Hán - Hàn. Ví dụ: 가정[ga-jeon]: gia đình, 국가[gukka]: quốc ca, 왕가[wangka]: hoàng gia, 고문[gomun]: cổ văn, 감동 [gamdong]: cảm động, 공동[gongdong]: cộng đồng, 개요[kaeyo]: khái yếu….. 166
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 Từ Hán-Hàn còn có khả năng kết hợp với các từ thuần Hàn đẻ tạo nên các từ mới, có khả năng sinh sản trong lĩnh vực cấu tạo từ. Ví dụ: 대대로[daedaero]:đời đời (đời này sang đời khác), 공부하다[gongbuhada]: học tập, 실패하다[silppaehda ]: thất bại, 불행하다[bulhaenghada ]: bất hạnh… Sở dĩ có khả năng này bởi bản thân mỗi hình vị tiếng Hán đều có tính độc lập cao, trong lĩnh vực cấu tạo từ không gặp nhiều hạn chế về mặt hình thái, không có sự phụ thuộc vào trật tự chắp dính thân từ, đuôi từ khi cần biểu thị những khái niệm phức hợp như hình vị tiếng Hàn (ở cấp độ ngữ hay mệnh đề). Do có tính độc lập cao, mỗi hình vị tiếng Hàn lại có vị trí phân bố khá tự do, có thể đứng cả trước hoặc sau ở một cấu trúc từ ghép. Từ Hán du nhập vào tiếng Hàn đã được đồng hoá với tiếng Hàn, được sử dụng hoà trộn trong tiếng Hàn vể các mặt ngữ âm, ngữ pháp. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh trật tự từ của tiếng Trung (SVO) đang được giữ nguyên trong lĩnh vực cấu tạo từ chẳng hạn các từ Hán-Hàn như: 등산[deungsan]: đăng sơn, 애국[aeguk]: ái quốc, 개원[kaewoun]: khai viện, 접객[joepkaek]: tiếp khách…vẫn thể hiện ý nghĩa theo trật tự bổ ngữ- vị ngữ là”leo núi”,”yêu nước”,”mở trung tâm”,”tiếp khách”….. 6. Đặc điểm và hệ thống về từ gốc Hán trong tiếng Hàn hiện đại: 6.2 Âm đầu (초성): Trong tiếng Hàn Quốc có 19 phụ âm đầu, trong đó có 15 âm được sử dụng bằng âm Hán. Các phụ âm được phân loại căn cứ theo vị trí và phương thức cấu âm dưới bảng sau: Âm môi Âm răng Âm Âm Âm (양순음) (치격음) ngạc ngạc hầu Âm Âm xát cứng mềm (선문 tắc(페 (마찰음) (경구개 (연구개 음) 쇄음) 음) 음) Âm tắc Âm xát (장 thường ㅂ ㄷ ㅈ ㄱ 애음) (평음) Âm bật hơi ㅍ ㅌ ㅊ ㅋ ㅎ (격음) Âm căng 〈ㅃ〉 〈ㄸ〉 ㅆ 〈ㅉ〉 ㄲ (경음) Âm mũi (비음) ㅁ ㄴ ㅇ Âm trơn(유음) ㄹ (Những âm không biểu đạt bằng âm Hán được đặt trong dấu”< >”) 167
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 Trong hệ thống phụ âm đầu, âm tắc phần lớn là âm bật hơi, ngoài ra cũng có âm thường. Những âm Hán có phụ âm đầu là âm căng chỉ có hai âm, thế nhưng những âm này cũng được biểu hiện bằng âm thường trong tiếng Hàn thời kì trung đại và trong quá trình hình thành tiếnh Hàn hiện đại nó đã được âm căng hoá. Theo đó, vốn dĩ trong hệ thống âm Hán-Hàn không có phụ âm đầu nào là âm căng. Ví dụ: ㅆ: 쌍(雙), 씨(氏). ㄲ: 끽(喫) “ㄷ, ㅌ”không kết hợp được với nguyên âm”ㅣ”(gồm cả bán nguyên âm /y/).Hơn nữa”ㅅ, ㅈ, ㅊ,”cũng không kết hợp được với bán nguyên âm /y/. Tuy nhiên quy tắc này trong tiếng Hàn trung đại có thể nói là ngoại lệ. Ví dụ: âm”田”là”뎐”nhưng trong tiếng Hàn thời kì cận đại đã được âm vòm miệng hoá tạo thành từ”젼”và trong quá trình hình thành tiếng Hàn hiện đại trở thành”전”. 6.2 Âm giữa (중성): Tiếng Hàn có 21 âm giữa (nguyên âm, bán nguyên âm + nguyên âm, nguyên âm đôi) và theo tài liệu chúng tôi nghiên cứu thì chỉ có duy nhất âm”ㅒ”không được biểu thị trong hệ thống âm Hán. Nguyên âm đơn ㅏ ㅓ ㅗ ㅜ ㅡ ㅣ ㅐ ㅔ ㅚ ㅟ (단모음) /y/+ nguyên âm ㅑ ㅕ ㅛ ㅠ ㅒ ㅖ (/y/+모음) /w/+nguyên âm ㅘ ㅝ ㅙ ㅞ (/w/+모음) Nguyên âm đôi ㅢ (이중모음) 168
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 Có sự hạn chế trong sự kết hợp giữa âm đầu với âm giữa và cả giữa âm giữa với âm cuối. Ví dụ, trong hệ thống nguyên âm đơn, âm”ㅡ”ghép được với phụ âm”ㅂ,ㅍ,ㅁ”và nhất định phải có phụ âm cuối đặt ở sau. Những nguyên âm giữa có ghép với âm /w/ (trừ âm”ㅘ,ㅝ”) thì không kết hợp được với âm cuối. Trong hệ thống tiếng Hàn hiện đại, nguyên âm đơn”ㅐ”được phát âm là [ε], [e] nhưng trong quá trình hình thành văn tự tiếng Hàn thời kì trung đại chúng được phát âm như các nguyên âm đôi [ai], [∂i]. Trong tiếng Hàn thời kì trung đại, âm”태”trong từ Hán”太”được thừa nhận phát âm là [t ai] trong tiếng Hàn thơi kì trung đại, cũng vừa là sự phản ánh của âm [t ai] trong âm Hán Trung vừa có quan hệ đối lập với âm”タイ”(tai) trong âm Hán-Nhật. Còn nguyên âm đôi trong tiếng Hàn thời kì cận đại đã được nguyên âm đơn hoá. 6.3 Âm cuối (종성): Trong hệ thống tiếng Hàn có 7 âm cuối nhưng trong đó trừ âm”ㄷ”thì 6 âm còn lại đều được sử dụng bằng tiếng Hán. Âm môi Âm răng Âm ngạc mềm (양순음) (치격음) (연구개음) ㅂ 〈ㄷ〉 ㄱ Âm tắc (장애음) ㅁ ㄴ ㅎ Âm mũi (비음) ㄹ Âm trơn (유음) Tuy nhiên trong đó cũng có những trường hợp hạn chế trong việc kết hợp với âm giữa. Ví dụ: âm cuối”ㅂ,ㅁ”không được ghép với những nguyên âm”ㅗ,ㅜ”. III. KẾT LUẬN: Hán tự có ảnh hưởng lớn đối với các ngôn ngữ các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trước khi sáng tạo ra cho mình một hệ thống chữ viết riêng, từ rất sớm, người Hàn đã vay mượn chữ Hán để thực hiện sinh hoạt ký tự. Cũng chính vì thế mà chữ Hán và tiếng Hàn có quan hệ rất mật thiết với nhau. Từ Hán-Hàn còn có khả năng kết hợp với các từ thuần Hàn để tạo nên các từ mới, có khả năng sinh sản trong lĩnh vực cấu tạo từ. Việc vay mượn chữ Hán được biểu hiện qua hai phương thức là mượn âm chữ Hán và mượn nghĩa chữ Hán qua 3 loại ký tự: 향찰, 구결 và 이두. Hệ thống Hán tự trong tiếng Hàn hiện đại có những đặc điểm nhất định về âm đầu, âm giữa và âm cuối. Thông qua việc đọc và hiểu âm và nghĩa của các từ gốc Hán, ta có thể biết và hiểu được nghĩa của từ một cách dễ dàng và chính xác. Khi đã hiểu thêm và biết được nhiều từ gốc Hán trong tiếng Hàn, chắc chắn các bạn sẽ thêm yêu và có nhiều 169
- HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5 Tháng 3 - 2011 hứng thú nghiên cứu về tiếng Hàn Quốc. Trong khuôn khổ, phạm vi có hạn, trên đây chúng tôi mới trình bày một số vấn đề nhỏ về từ gốc Hán trong tiếng Hàn. Bài nghiên cứu này chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và các bạn. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Các ngôn ngữ Phương Đông_TS.Lưu Tuấn Anh (NXB: Đại học Quốc Gia) 2. http://vi.wikipedia.org. 3. http://kr.wikipedia.org. 4. http://naver.co.kr. 5. http://ngonngu.net. 170
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam dưới góc nhìn tôn giáo học: 25 năm nhìn lại (1991-2016)
31 p | 79 | 16
-
Một số vấn đề trong giảng dạy và biên soạn tài liệu tiếng Trung Quốc nhìn từ góc độ đối chiếu ngữ nghĩa của từ Hán Việt và từ Hán tương đương
5 p | 127 | 14
-
Ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán (phần 2)
8 p | 119 | 13
-
Các Loại Đàn Tranh ở Viễn Đông
22 p | 137 | 11
-
Ảnh hưởng của hàn lưu tại Việt Nam: Nhìn từ góc độ liên ngành (phần 2)
27 p | 166 | 8
-
Từ góc độ chữ Hán tìm hiểu văn hóa động vật để ứng dụng trong việc dạy và học thành ngữ động vật
8 p | 73 | 7
-
Ảnh hưởng của văn hóa Kinh, Hán tới thi pháp lời thơ nghệ thuật của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày
7 p | 48 | 5
-
Sự thay đổi trong công tác dân tộc từ giữa thế kỷ XX đến nay qua tiếp cận lý thuyết Nhân học
8 p | 44 | 5
-
Thân phận các nhân vật chính trong Tấm ván phóng dao - nhìn từ lý thuyết chấn thương
13 p | 15 | 4
-
Vận dụng tri thức hán nôm trong đào tạo dạy học mở rộng vốn từ cho sinh viên sư phạm tiểu học: Khảo sát gốc từ Hán Việt phần mở rộng vốn từ, sách giáo khoa tiếng Việt lớp 5
11 p | 49 | 4
-
Hán ngữ trong tiếng Hàn Quốc nguồn gốc và phát triển
9 p | 75 | 4
-
NGỌ THIÊN - Zarathustra đã nói như thế
7 p | 66 | 4
-
Liệt nữ thời Joseon qua các văn bản lịch sử
7 p | 31 | 3
-
Cơ chế quản lý nguồn thu học phí tại các trường đại học công lập Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
11 p | 14 | 3
-
Tư tưởng phân tâm học Freud về nguồn gốc của tôn giáo
20 p | 12 | 2
-
Ảnh hưởng Hàn lưu đến giới trẻ Việt Nam (từ góc nhìn của một người làm giáo dục)
7 p | 9 | 2
-
Sức hấp dẫn của Hàn lưu đối với giới trẻ Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa đại chúng
8 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn