LUẬN VĂN: Ảnh hưởng của đạo Công giáo đối

với đồng bào dân tộc Bana tỉnh Kon Tum

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tôn giáo là một vấn đề xã hội khách quan, luôn gắn liền với đời sống chính trị,

văn hóa, là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Từ khi tôn giáo ra đời cho đến nay, nó đã

tác động, chi phối đời sống con người trên nhiều lĩnh vực. Có lúc, có nơi tôn giáo đã

đóng vai trò chính trong một nước, một khu vực nhất định.

Ngày nay, vai trò và ảnh hưởng của tôn giáo thu hẹp dần trong đời sống là xu

hướng tất yếu của sự phát triển xã hội. Nhưng cũng có tình hình ngược lại ở một số nơi

trên thế giới tôn giáo có xu hướng phục hồi và phát triển mạnh hơn, trong đó có Việt

Nam.

Các cuộc xung đột sắc tộc, âm mưu lật đổ, các nhóm khủng bố quốc tế... trong

đời sống hiện tại ít nhiều đều có liên quan đến tôn giáo. Vấn đề dân tộc và tôn giáo ngày

nay ở nhiều nơi là ngòi nổ của các mâu thuẫn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đã gây

nên những xáo trộn lớn cho các quốc gia dân tộc, nhất là các quốc gia ở thế giới thế ba.

Kon Tum là một tỉnh miền núi, biên giới thuộc Tây Nguyên, là địa bàn chiến

lược của cả nước. Trên địa bàn tỉnh có nhiều dân tộc sinh sống và nhiều tôn giáo đang tồn

tại. Trong những năm trở lại gây, hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh trở nên sôi

động hơn bao giờ hết. Sự phát triển không bình thường của đạo Tin Lành ở một số vùng

đồng bào dân tộc thiểu số, sự phục hồi của đạo Công giáo với sự trở lại của các tín đồ

trước đây đã khô đạo đang thu hút thêm nhiều tín đồ mới. Ngay cả những vùng trước đây

là căn cứ cách mạng, đồng bào một lòng một dạ theo Đảng, theo kháng chiến đến ngày

thắng lợi cuối cùng, thì nay tôn giáo cũng đã xâm nhập, cắm rễ vào.

Riêng đạo Công giáo đã có mặt ở Kon Tum trên 150 năm nay. Chừng ấy thời

gian tồn tại, chung sống với các dân tộc ở đây, đạo Công giáo hẳn nhiên đã in dấu ấn vào

đời sống của họ không ít. ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với các dân tộc được nhìn

nhận như một tác động kép vừa tích cực vừa tiêu cực. Khai thác, phát huy những mặt tích

cực và hạn chế những mặt tiêu cực của tôn giáo là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta,

như tinh thần Chỉ thị 37 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu: "phát huy những

giá trị văn hóa, đạo đức lành mạnh, hướng thiện của tôn giáo phù hợp với truyền thống

văn hóa dân tộc và đời sống xã hội, thực hiện tôn giáo gắn bó với dân tộc, đoàn kết hòa

hợp các tôn giáo cùng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".

Dân tộc Bana có dân số đông và số lượng tín đồ theo đạo Công giáo tính theo tỷ

lệ là nhiều nhất ở Kon Tum. Khi đạo Công giáo xâm nhập vào Kon Tum cũng là vào dân

tộc này trước tiên.

Với các lý do trên, tác giả chọn vấn đề "Ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với

đồng bào dân tộc Bana tỉnh Kon Tum " làm đề tài luận văn, hy vọng góp phần nhỏ bé

vào việc hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của đạo Công giáo đối với đồng

bào Bana tỉnh Kon Tum hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu

Nói về ảnh hưởng của tôn giáo đối với đời sống xã hội đã có nhiều công trình

khoa học, nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau.

Nhưng chưa có công trình nào đề cập một cách hệ thống và cụ thể về ảnh hưởng của đạo

Công giáo đối với một dân tộc như là dân tộc Bana ở Tây Nguyên. Công trình "ảnh

hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay" do PGS.

Nguyễn Tài Thư chủ biên, có một phần nói về: Cơ sở tồn tại và ảnh hưởng của Thiên

Chúa giáo ở Việt Nam hiện nay.

Nghiên cứu về Tây Nguyên nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng được giới khoa

học quan tâm từ lâu. Những tư liệu trong các sách sử biên niên của những thế kỷ XVI,

XVII, XVIII được Lê Quý Đôn tổng kết lại trong cuốn sách nổi tiếng "Phủ Biên Tạp

Lục". Các tác giả phương Tây nói đến Tây Nguyên và Kon Tum bắt đầu từ thế kỷ XVII

của các Thừa sai và các quan lại cai trị. Những tác phẩm đó nhằm tìm hiểu khái quát tình

hình các dân tộc bản địa, đặc biệt chú ý đến các mặt phong tục tập quán, tôn giáo và phản

ánh đời sống cư dân đương thời.

Từ năm 1975, các tác phẩm đề cập đến Tây Nguyên và Kon Tum mới có hệ

thống, khối lượng các tác phẩm tăng nhanh được đăng tải trên các tạp chí và in ấn, trong

đó có hai tác phẩm có tính khái quát và đi sâu vào từng dân tộc là "Các dân tộc tỉnh Gia

Lai - Kon Tum" của Đặng Nghiêm Vạn chủ biên và cuốn "Các dân tộc ít người ở Việt

Nam - các tỉnh phía Nam" của Viện Dân tộc học.

Ngoài ra, còn một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, các luận văn cử nhân,

thạc sĩ viết về tôn giáo cũng chỉ mới nêu lên tình hình tôn giáo nói chung và tập trung ở

chính sách tôn giáo, quản lý tôn giáo của chính quyền. Đề tài này là một trong những

hướng đi vào nghiên cứu một tôn giáo cụ thể với một dân tộc cụ thể, ở một địa bàn có

nhiều vấn đề phức tạp và nhạy cảm hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích

Đề tài đi sâu nghiên cứu những ảnh hưởng của đạo Công giáo trên một số lĩnh

vực của đời sống xã hội đối với đồng bào dân tộc Bana tỉnh Kon Tum nhằm phát huy

những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, góp phần ổn định đời sống kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội đối với đồng bào dân tộc Bana trên địa bàn tỉnh.

3.2. Nhiệm vụ của đề tài

- Một là, nghiên cứu, khảo sát làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn những ảnh hưởng

của đạo Công giáo đối với đồng bào Bana ở Kon Tum hiện nay.

- Hai là, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy và khắc phục ảnh hưởng của

đạo Công giáo với đồng bào Bana ở Kon Tum hiện nay.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với

đồng bào dân tộc Bana ở tỉnh Kon Tum hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những nguyên lý lý luận của của

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về tôn giáo và mối

quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo.

Kết hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn, phỏng vấn nhằm làm rõ vấn đề

nghiên cứu. Đề tài kết hợp phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp so sánh, phương

pháp phân tích - tổng hợp trong quá trình nghiên cứu.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn

Từ mục đích, nhiệm vụ trên, luận văn góp phần làm rõ thêm vấn đề tôn giáo đi

vào đời sống đồng bào các dân tộc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa Tây Nguyên có đời

sống kinh tế, văn hóa, xã hội còn thấp kém đã bị ảnh hưởng như thế nào, khắc phục

những ảnh hưởng đó, vấn đề gì cần quan tâm. Đồng thời nêu ra một số phương hướng

giải pháp để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của đạo Công giáo đối với

đồng bào Bana tỉnh Kon Tum.

6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Đánh giá đúng thực chất quá trình xâm nhập và hoạt động của đạo Công giáo

cùng với những ảnh hưởng của nó đối với đồng bào Bana ở Tây Nguyên. Thông qua việc

khắc phục những ảnh hưởng đó nhằm xây dựng mối quan hệ đoàn kết, hòa hợp các tôn

giáo, các dân tộc vì mục tiêu chung của đất nước. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo

cho công tác dân tộc, tôn giáo ở địa phương; các nghiên cứu và giảng dạy ở trường của

Đảng và Nhà nước.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3

chương, 9 tiết.

Mục lục

Trang

1 Mở đầu

Chương 1 6

Đạo Công giáo và dân tộc Bana ở Kon Tum

1.1. Khái quát về dân tộc Bana 6

1.1.1. Những đặc điểm chủ yếu về dân tộc Bana 6

1.1.2. Dân tộc Bana và đạo Công giáo ở Kon Tum 12

1.2. Đạo Công giáo ở Kon Tum 18

1.2.1. Khái quát đặc điểm chủ yếu của đạo Công giáo ở Kon Tum 18

1.2.2. Tình hình đạo Công giáo ở Kon Tum hiện nay 26

Chương 2 29

ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đồng bào dân tộc

bana trên một số lĩnh vực chính

2.1. ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đời sống kinh tế 29

2.2. ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đời sống chính trị 34

2.3. ảnh hưởng của đạo Công giáo với đạo đức, lối sống 38

2.4. ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với văn hóa - nghệ thuật 43

Chương 3 49

Những giải pháp khắc phục ảnh hưởng

của đạo công giáo đối với đồng bào dân tộc bana tỉnh

Kon Tum hiện nay

3.1. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội 49

3.2. Nhóm giải pháp về chính sách dân tộc và tôn giáo 56

3.3. Nhóm giải pháp về văn hóa 68

75 Kết luận

77 danh mục Tài liệu tham khảo

81 phụ lục

Chương 1

đạo Công giáo và dân tộc bana ở Kon Tum

1.1. Khái quát về dân tộc Bana

1.1.1. Những đặc điểm chủ yếu về dân tộc Bana

Kon Tum là tỉnh nằm ở cực Bắc Tây Nguyên. Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam,

phía Nam giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Tây giáp với Lào và

Đông Bắc Campuchia.

Tỉnh Kon Tum có diện tích 9.661 km2, chia thành 7 đơn vị hành chính cấp huyện thị, trong đó Thị xã Kon Tum có 424,9 km2; Đăkglei có 1.532,5 km2; ĐăkTô có 1.377,4 km2; Đăk Hà 843,6 km2; Konplong 2.248,2 km2; Ngọc Hồi có 823,9 km2; Sa Thầy có 2.441,9 km2 [6, tr. 18].

Với vị trí ngã ba đường của Đông Dương, nên từ lâu đã có nhiều dân tộc đến

định cư sinh sống và quá trình này vẫn còn đang tiếp diễn. Hiện trong tỉnh có các thành

phần dân tộc chính gồm Xê Đăng, Bana, Gia Rai, Giẻ Triêng, Brâu và Rơ Mâm cùng

nhóm các thành phần dân tộc phía Bắc di cư vào từ trước và sau năm 1975.

Các dân tộc Xê Đăng, Bana, Giẻ Triêng, Gia Rai, Brâu, Rơ Mâm là các dân tộc

bản địa chiếm tỷ lệ trên 50% dân số toàn tỉnh (dân số toàn tỉnh là 285.782 người) [6, tr.

35].

Dân tộc Số người (người) Tỷ lệ % so với dân số toàn tỉnh

Xê Đăng 70.518 24,32

Bana 32.356 11,16

Giẻ Triêng 23.507 8,11

Gia Rai 14.779 5,10

Brâu 253 0,08

Rơ Mâm 299 0,10

Sự phân chia khu vực cư trú của mỗi dân tộc mang tính chất tương đối theo địa

giới hành chính. Thực tế các dân tộc sống đan xen là khá phổ biến. Tuy rằng, mỗi dân tộc

sống độc lập trên một lãnh thổ nhất định nhưng nhìn trên tổng thể xu hướng đan xen ngày

càng chiếm ưu thế và cũng hợp với nhu cầu phát triển đất nước hiện nay.

Về dân tộc Bana, là một dân tộc lớn nhất nói tiếng Môn-Khơ me ở Miền Nam

Trung Bộ. Cho đến nay chưa có một tư liệu chính xác về những chuyển cư ban đầu của

dân tộc Bana, có giả thuyết cho rằng xưa kia có thể họ định cư ở đồng bằng vùng ven

biển Bình Định, Phú Yên nhưng sau đó họ bị đẩy dần về phía Tây. Còn trên thực tế, có

thể xem người Bana là một trong những cư dân sinh sống lâu đời nhất ở Cao Nguyên [44,

tr. 106]. Người Bana có các nhóm địa phương mang tên gọi khác nhau như: GiơLar, Tô

lô, Giơ lăng (y lăng), Rơ ngao, Krem, Roh, Konkclê, Alacông, Kpăng công, Bơnâm, và

phân bố trên một diện rộng bao gồm các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum.

Riêng ở Kon Tum, dân tộc Bana chiếm số lượng dân cư đông thứ hai sau dân tộc Xê

Đăng, cư trú tập trung phần lớn ở Đông Nam thị xã Kon Tum và một phần ít hơn ở Tây

Huyện Konplong và Nam huyện Đắk Hà [6, tr. 35].

Sau đây là những đặc điểm chủ yếu của dân tộc Bana ở Kon Tum.

- Những hoạt động kinh tế

+ Trồng trọt là thành tố cơ bản của sản xuất nông nghiệp, là nơi cung cấp sản

phẩm chủ yếu và thường xuyên nuôi sống con người. Trồng trọt gắn với các hình thức

sản xuất khác nhau như canh tác nương rẫy, làm ruộng nước, ruộng khô, làm vườn...

nhưng canh tác nương rẫy chiếm vị trí hàng đầu, là nguồn sinh sống chủ yếu của đồng

bào.

Canh tác nương rẫy phổ biến của người Bana là phát-đốt-chọc-tỉa. Cho mãi đến

nay cách thức này họ vẫn còn duy trì ở nhiều nơi. Công cụ canh tác chủ yếu là dao, rựa,

rìu để chặt phát rẫy, cuốc, niếc để dọn nạo cỏ, gậy vót nhọn hoặc bịt nhọn bằng sắt để tra

hạt. Rẫy chọn canh tác là những khu đất rừng già vì ở đây đất xốp và tốt. Rẫy được canh

tác một thời gian lại bỏ hoang, rồi sau đó quay lại canh tác theo lối luân canh.

Đồng bào thực hiện canh tác nương rẫy theo một chu kỳ khép kín, quy trình sản

xuất được bắt đầu bằng việc đốt cây, phát cỏ, khai hoang mặt bằng đốt và dọn sạch. Khi

mưa đầu mùa xuất hiện là bắt đầu thời vụ gieo trồng. Sau khi gieo hạt, điều quan trọng

bậc nhất trong quá trình chăm sóc là làm cỏ, vì mùa mưa cỏ dại sinh trưởng nhanh, bỏ

qua khâu làm cỏ là đồng nghĩa với sự mất mùa. Cây trồng trên nương rẫy có nhiều loại,

nhưng chính yếu nhất vẫn là cây lúa. Do kỹ thuật canh tác nương rẫy còn đơn giản thô sơ,

phần lớn lệ thuộc vào thiên nhiên nên năng suất thấp [6, tr. 48].

Canh tác ruộng nước: Cách đây hơn một thế kỷ, kỹ thuật canh tác ruộng nước

hầu như xa lạ với tập quán sản xuất của đồng bào Bana. Thực sự, đồng bào biết đến kỹ

thuật canh tác lúa nước là khi người Kinh lên khai phá vùng thung lũng rộng lớn ở hai

bên bờ sông Đălbla của Kon Tum. Khi đó, đồng bào dân tộc ở đây mới biết đến cày bừa

bằng trâu, bò, bón phân chăm sóc. Ngày nay, ở vùng dân tộc Bana đã biết làm lúa nước 2

vụ, tuy kỹ thuật canh tác chưa thật nhuần nhuyễn nhưng so với canh tác lúa rẫy thì năng

suất cao hơn, nguy cơ bị mất mùa ít hơn.

+ Chăn nuôi trong đời sống đồng bào dân tộc Tây Nguyên nói chung và dân tộc

Bana nói riêng, trước đây chưa phải là nhu cầu giải quyết về thịt mà trước hết chăn nuôi

nhằm mục đích phục vụ cho việc cúng tế và sau đó mới làm vật trao đổi ngang giá. Vật

nuôi, đối với trâu, bò thường thả rông trong rừng tự kiếm sống và sinh sản, khi nào cần

chủ vào rừng tìm bắt. Đối với các loại như lợn, gà, dê, vịt... theo lối nửa chăn dắt, nửa

thả rông. Hiện nay, ở một số làng do sống định canh, định cư lâu dài, đồng bào đã cải

tiến cách thức chăn nuôi theo lối hiện đại dần với người Kinh, sản phẩm làm ra được đem

trao đổi, mua bán trên thị trường. Tiếp thu các giống con mới nên năng suất vật nuôi tăng

lên nhiều.

+ Các nghề thủ công gia đình: để có công cụ cho việc sản xuất, săn bắn trong các

nghề phụ gia đình, nghề rèn đã phát triển đáng kể. Do tính chất quan trọng của sản phẩm

làm ra, người thợ rèn Bana có rất nhiều kiêng cữ trong các công đoạn sản xuất.

Nghề dệt hầu như phổ biến trong các gia đình có phụ nữ. Mỗi gia đình tự trồng lấy

bông để dệt, công cụ dệt còn thô sơ, mang nhiều nét gần gũi với nghề đan lát, đồng bào

chưa biết sử dụng cửi và con thoi để dệt vải. Do kỹ thuật còn thô sơ nên vải dệt thường

chậm, sản phẩm làm ra chỉ để dùng trong gia đình, ai khéo dệt có dư mới đem trao đổi lấy

các loại hàng hóa khác.

Đan lát là công việc của đàn ông, đàn ông phải biết đan lát cũng giống như phụ

nữ phải biết dệt vải vậy. Rừng là nguồn cung cấp nguyên liệu vô tận cho họ. Với bàn tay

khéo léo, họ đã tạo nên những vật dụng vừa phục vụ cho cuộc sống, vừa thể hiện tính

thẩm mỹ qua mỗi sản phẩm với dạng thức hoa văn rất phong phú, đa dạng.

Ngoài ra, người đàn ông Bana còn biết đan chiếu bằng lá Pmắt, Mơnal, là giống

lá dừa nhưng dài đến 2-3m trong rừng. Lá xẻ thành năm sáu dây đem lên phơi khô năm

đến sáu ngày rồi phơi sương hay ngâm nước cho mềm để đan những chiếc chiếu (SKooc)

khổ 1,20-1,60 mét [44, tr. 119].

+ Kinh tế khai thác tự nhiên, chiếm đoạt từ tự nhiên không còn là bộ phận kinh tế

chủ yếu, nhưng vẫn còn có vai trò khá quan trọng trong đời sống người dân gần rừng. ở

vùng dân tộc Bana, chuyện mất mùa xảy ra thường xuyên, ngay cả những năm được mùa

ý thức cất trữ phòng cơ không được chú ý đúng mức cũng có lý do của nó vì rừng có thể

nuôi sống họ. Lúc được mùa rừng cũng đem lại cho họ nhiều thứ: rau, nấm, măng. Thịt

săn ở rừng đôi khi là nguồn protein chủ yếu trong các bữa ăn. Rừng còn cung cấp cây gỗ

cho việc làm nhà và các nghề thủ công. Ngày nay, rừng đang bị đe dọa, động thực vật

nghèo đi rất nhiều, nhưng kinh tế sản xuất vẫn chưa thay thế và đáp ứng được hoàn toàn

nhu cầu của cuộc sống.

- Tổ chức và quan hệ xã hội

Đơn vị xã hội duy nhất ở vùng đồng bào dân tộc Bana là làng (Plây). Người Bana

gọi làng là "Kon" và tiếp sau là tên của một địa danh như Kon Tum, Kon Kơ Xâm, Kon

Rbang... Trước hết làng là một khối cộng đồng thống nhất, bền chặt, những người sống

trong làng phần lớn là người đồng chủng, cùng cư trú trên một lãnh thổ nhất định, được

quy định một ranh giới không cụ thể, thường lấy các con sông, quả núi, khu rừng hoang

làm ranh giới phân định giữa hai làng. Trong một làng quan hệ giữa các thành viên là

bình đẳng, tôn trọng quyền sở hữu, sở thích của mỗi người, đặc biệt quan tâm hỗ trợ nhau

trong cuộc sống, không phân biệt giữa người cùng họ hay khác họ. Mối quan hệ này

được củng cố bởi các luật tục, lễ nghi tôn giáo và vai trò của người chủ làng.

Người chủ làng có vai trò đặc biệt trong đời sống cộng đồng. Ông cùng với hội

đồng già làng điều hành và quyết định tất cả những việc lớn nhỏ trong làng và chịu trách

nhiệm trước cộng đồng. Do vậy, chủ làng được chọn thường là những người cao tuổi,

giàu có, có uy tín, có kinh nghiệm và am hiểu phong tục. Người Bana tin rằng, chủ làng

là do thần thánh thừa nhận, hướng dẫn dân làng sẽ có nhiều điều tốt đẹp. Một khi công

việc đã được bàn bạc đi đến quyết định thì cả làng tự giác hoàn thành dưới sự điều khiển

của già làng. Ngoài ra, nhiều nơi có thêm một thủ lĩnh quân sự trông nom việc chiến đấu

và phòng thủ; Bơ đâu (thầy cúng), lo việc xử kiện và thực hành các nghi thức tôn giáo có

liên quan đến xóm làng.

Trước thế kỷ XX, trong cộng đồng người Bana chưa có sự phân chia giai cấp.

Trong làng có người giàu (mđrông), người nghèo (đmú, đmé). Những người giàu thường

là những chủ gia đình đông người, có nhiều lao động, khai phá được nhiều ruộng nương.

Họ giàu có còn do có tiền lấy được nhiều vợ, nhiều con cái nên có nhiều lao động hay

thuê người làm mướn (đăm), có nhiều người đem thân gán nợ cho họ (đích). Người giàu

thường được đo bằng số chiêng, ché quý trong nhà, đàn trâu ngoài chuồng, số đích, đăm

đến ở. Những người nghèo trong xã hội Bana cũng không nhiều, thường thuộc những gia

đình ít lao động, con nhỏ, mồ côi, tàn tật, già nua không có nơi nương tựa [44, tr. 135].

- Tôn giáo, tín ngưỡng

Trước kia, giống như nhiều dân tộc, người Bana cho rằng cuộc sống hàng ngày

của họ bị chi phối bởi những lực lượng siêu nhiên. Từ việc ốm đau, bệnh tật đến việc sản

xuất đều không phải tự thân mà do thần linh, ma quỷ quyết định.

ở người Bana, khái niệm thần đã rõ rệt, gọi thần linh bằng danh từ tập hợp là

Giàng, nhưng thường ngày người ta gọi một cách cung kính là ông (bốc) và bà (dạ). Bốc

kơi đơi và Dạ cung ké được xem như hai vị thần tối cao sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài.

Thế giới thần linh của người Bana vô cùng đa dạng và phong phú, thần linh có mặt ở

nhiều nơi và chi phối mọi mặt đời sống con người. Mỗi vị thần đảm nhiệm một chức

năng nhưng có ảnh hưởng nhiều nhất là các vị thần: Giàng Xri (thần lúa), ẩn mình trong

con nhện hay con cóc ở nương rẫy, đồng ruộng, nhà kho chuyên ban phát thóc lúa cho

con người; Giàng Đắc (thần nước); thần sấm sét (BốcGlái); thần giữ cho mưa thuận gió

hòa.

Thật ra, trừ một số thần có có tên tuổi hẳn hoi, người Bana chỉ quan niệm có

những vị thần chung chung cư trú ở khắp nơi thường hóa thân vào các con vật, cây cối.

Do hình dạng kỳ dị hay vì sức mạnh thần bí dễ sợ, do tình cờ tiếp xúc nhiều lần mà các

thần thường mang họa hay ban ơn cho họ. Cho nên, họ buộc phải vị nể, cầu xin, cúng lễ

[44, tr. 150].

Ngoài thế giới thần, người Bana còn tin có tinh linh trong mỗi con người đang

sống (giống như "hồn, vía" ở người Kinh). Khi chết đi, hồn biến hóa thành ma, ma người

chết bình thường không làm hại người. Ma chỉ đòi hỏi, vòi vĩnh người thân khi không

được chăm sóc tử tế. Nguy hiểm cho người ta là những vong hồn chết không bình

thường, lang thang đây đó hay làm hại người. Người ta có thể ngăn cản chúng bằng cách

chôn xa làng hoặc nhờ pháp thuật của bọn Bơ đâu. Người Bana cũng quan niệm có một

thế giới riêng của những người chết, sau lễ bỏ mả, ma đi đến ở cùng với tổ tiên. Vì thế

ma không làm hại người, chịu yên bề với đời sống của mình.

Mỗi người lại có vía, coi vía với hồn như hơi thở với thể xác. Vía có người

mạnh, người yếu và ở mỗi người vía có lúc yếu lúc mạnh khác nhau tùy vào sức khỏe,

tuổi tác. Thường người gặp vận may là người vía mạnh. Cũng có vía lành và vía dữ,

người nào vía lành thì đoàn tụ được nhiều người, người vía dữ bị mọi người lánh xa vì

hay mang tai họa cho người khác.

Quan hệ giữa con người với các thần linh, ma quỷ chi phối đời sống của từng

người: Thần làm tốt cho con người, người phải trả ơn, phải dâng lễ vật để lễ thần. Nếu

không, con người mắc nợ với thần linh, nợ không trả, thần làm cho người đó luôn luôn

không gặp vận may, bị mất mùa, ốm đau, chết chóc... Vậy quan hệ giữa con người với

thần linh, ma quỷ là quan hệ của một kẻ yếu cần được che chở, giúp đỡ.

1.1.2. Dân tộc Bana và đạo Công giáo ở Kon Tum

Vào nửa đầu thế kỷ XIX, trước nguy cơ xâm lược của thực dân Pháp và sự dính

líu của các nhà truyền giáo đạo Công giáo trong âm mưu đó, triều Nguyễn đã ban hành

hàng loạt các chỉ dụ cấm đạo (từ tháng 11-1832 dưới thời Minh Mạng đến tháng 11-1861

dưới thời Tự Đức, có tất cả 11 chỉ dụ cấm đạo), tùy theo thời điểm mà mức độ các chỉ dụ

ngày càng nghiêm ngặt và khốc liệt hơn. Việc làm của các ông vua triều Nguyễn vào lúc

này, suy cho cùng xuất phát từ ý thức phòng vệ trước sự mất còn của triều đại và dân tộc.

Chúng ta đã khẳng định được rằng, sự truyền bá đạo Công giáo vào Việt Nam

đặc biệt kể từ cuối thế kỷ XVIII sang nửa đầu thế kỷ XX, không thuần túy chỉ là việc

truyền bá đức tin mà chứa đựng đầy rẫy những việc làm liên hệ với âm mưu xâm lược

của thực dân Pháp. Đây chính là nguyên nhân ban đầu, sâu xa dẫn tới những nguyên nhân

cụ thể trực tiếp khác đẩy triều Nguyễn đi đến chủ trương cấm và giết đạo. Chủ trương

này là một phản ứng từ nhẹ nhàng, tới kiên quyết và trở thành luật của nhà nước [30, tr.

45].

Năm 1840, giáo sĩ Cuénot kế vị giám mục Fabord, làm giám mục chính tòa địa

phận đàng trong (1840-1861). Cũng trong năm này, giám mục Cuénot nhóm họp cộng

đồng miền Nam tại Gò Thị, (Tuy Phước, Bình Định), tại cuộc họp này đã chia đàng trong

ra nhiều giáo phận và bàn việc tiến hành truyền giáo lên Tây Nguyên. Vùng Tây Nguyên

lúc này còn tương đối độc lập và dưới quyền tự trị của các thủ lĩnh người dân tộc. Đây là

cơ hội thuận lợi để các nhà truyền giáo mở rộng nước Chúa về phía Tây mà không có sự

cấm đoán của Triều Nguyễn.

Năm 1842, giám mục Cuénot chỉ thị cho 2 linh mục thừa sai Miche và Daclos

cùng với một số thầy giảng người việt đột nhập từ Phú Yên lên vùng cheo leo của GiaLai

và Bản Đôn (ĐăkLăk), nhưng đã bị bắt đưa về triều đình Huế. Những năm kế tiếp, họ lại

mở vài ba vụ mưu toan vượt biên khác, qua lối Quảng Ngãi để vào Kon Tum song đều

thất bại.

Nhiều lần tìm đường vô Tây Nguyên không thành công, các thừa sai người Âu

không thể mạo hiểm đi vào rừng núi mà không có người hướng đạo. Cuối cùng họ đã tìm

ra được một con đường mới, lần này họ xâm nhập từ phía Bình Định, từ điểm An Sơn

(nay là Tây Sơn), nơi giáp ranh giữa người Thượng với người Kinh.

Vào năm 1848, sau nhiều lần đột nhập thất bại, lần này thận trọng hơn, họ cử một

người Việt gốc địa phương giả làm lái buôn trà trộn vào đám người Kinh lên buôn bán ở

vùng dân tộc Tây Nguyên. Với mục đích nắm tình hình và tìm một con đường đi về

hướng tây, nơi mà người Kinh chưa tới được. Cách làm này, bước đầu có kết quả: "Với

bao nhiêu là vất vả, khó nhọc và kiên tâm, trì chí, thầy phó tế Do đã đạt được nhiều kết

quả quan trọng. Trước tiên, thầy đã biết được một ít thổ ngữ thượng, đó là điều căn bản;

kế đến và nhất là thầy đã khám phá ra con đường độc đáo, hiểm trở, ngoài các con đường

thông thường của các thương buôn người Kinh sử dụng, mà qua đó, các vị thừa sai có thể

kín đáo tới được các vùng rừng núi phía tây" [11, tr. 8-10].

Khi đã tìm được đường vào Tây Nguyên, tránh sự truy lùng của quan quân triều

Nguyễn, các thừa sai lần lượt xâm nhập sâu vào phía tây rừng núi, càng xa càng tránh

được tầm kiểm soát của triều đình. Công cuộc truyền giáo, con đường dẫn đến thành

công của các vị thừa sai, ban đầu đầy thử thách cam go: bệnh tật nơi rừng thiêng nước

độc đã lấy đi nhiều sinh mạng khi các vị mới đặt chân đến; sự thờ ơ, lạnh nhạt và cả sự

cấm cửa của dân làng người dân tộc. Nhưng với đức tính kiên trì, mẫn cảm trong công

việc, lòng tin được thăng hoa. Mặc dù trải qua thăng trầm khó khăn nhưng cuối cùng họ

đã gieo được những hạt giống đầu tiên ở Tây Nguyên, 5 năm sau 1853 (kể từ năm 1848)

bước đầu họ đã xây dựng được cơ sở truyền giáo ở bốn làng dân tộc trong tỉnh Kon Tum:

Konkơxâm (Bana), Kontrang (Xê Đăng), Rơhai (Bana), Pleichữ (Gia Rai) và cùng trong

năm này, có ba người dân địa phương đầu tiên nhận phép rửa tội (một ở Konkơxâm, hai

người ở Kontrang). Từ bốn trung tâm đầu tiên này, đạo Công giáo dần dần phát triển ra

các vùng khác. Tuy rằng chậm, từng bước một nhưng thật chắc chắn.

Vậy thì bằng cách nào mà đạo Công giáo xâm nhập được vào dân tộc Bana và

thu phục được nhiều người tin đạo như vậy. Trong khi đó, buổi đầu truyền giáo, dân tộc

bản địa ở đây tỏ ra chống đối và không chấp nhận đạo Công giáo và các vị thừa sai.

- Trước hết, tính kiên trì, lòng nhẫn nại, chịu khó, chịu khổ đã giúp họ thành

công, chỉ riêng con đường đi, vượt qua bao niêu chướng ngại, thú dữ và kẻ thù luôn đeo

bám, nếu không có những đức tính cần thiết sẽ khó vượt qua: khi đến làng dân tộc nào

không tiếp hoặc xua đuổi, họ làm trại trong rừng để ở; khi đối mặt với nguy hiểm, họ

điềm tĩnh một cách liều lĩnh; bệnh tật đã giết chết nhiều người và làm suy yếu nhiều

người khác, họ vẫn không nản; bao nhiêu năm trời sống giữa cộng đồng xa lạ, luôn có sự

mặc cảm, chống đối, nhưng họ vẫn kiên trì bám trụ. Chính điều này đã đem lại kết quả

cho họ.

- ở xứ Thượng, chủ làng, già làng là những người có uy tín và quyền uy trong

cộng đồng. Sự khôn khéo của các nhà truyền giáo là tìm cách chiếm cảm tình của họ,

bằng nhiều cách như kết nghĩa cha con, anh em hoặc biếu tặng một vài vật dụng cần thiết,

dần dà họ tạo ra được mối quan hệ thân thiết với những người có uy tín trong làng. Nhờ

có sự quen biết này họ dễ dàng đi lại và tiếp xúc với nhiều người.

Đối tượng các nhà truyền giáo quan tâm nữa là thanh thiếu niên và giới phụ nữ.

Thanh thiếu niên bị lôi cuốn vào những điều mới lạ, còn phụ nữ là những người nhẹ dạ cả

tin. Điều này được minh chứng bởi số lượng tín đồ tân tòng ở hai giới này bao giờ cũng

chiếm tỷ lệ cao so với lớp người già và đàn ông. Sau này, họ cũng là những người sốt

sắng việc đạo hơn cả.

- Một ưu điểm của các vị thừa sai là khi đến một dân tộc nào, việc quan trọng đầu

tiên là bắt tay vào nghiên cứu và học ngôn ngữ của dân tộc ấy. Chính nhờ nói được ngôn

ngữ của dân tộc bản địa, nên họ nhanh chóng am hiểu được phong tục tập quán, dễ dàng

tiếp xúc, gần gũi với người bản xứ. Đồng thời họ không gặp khó khăn gì trong việc

chuyển tải nội dung của giáo lý đạo Công giáo cho dân làng. Một xúc cảm tự nhiên khi

nghe người khác chủng nói bằng tiếng mẹ đẻ của mình, nó có sức thuyết phục rất nhiều

lần qua người khác phiên dịch. Nên khi chúng ta thấy các tín đồ người dân tộc tuân phục

các vị linh mục, không có gì là ngạc nhiên.

- Điều quan trọng hơn cả là các vị thừa sai dám đả phá thế giới thần linh và mê

tín hủ tục tồn tại qua bao đời nay ở người Bana. Ban đầu, tất nhiên bị phản đối quyết liệt

từ phía dân làng, nhưng rồi, người ta thấy được cái lợi rõ ràng là đỡ tốn thời gian và của

cải để phụng sự thần linh, tâm lý được giải phóng ra khỏi nỗi sợ hãi làm hại của các thế

lực siêu nhiên, họ thực sự trút bỏ được gánh nặng truyền kiếp. Xét về mặt nào đấy, đây là

công đầu của các nhà truyền giáo, nhưng về sau việc làm được đẩy đến cực thái quá, có

xu hướng phủ nhận cả các giá trị văn hóa cổ truyền thì không thể chấp nhận được.

Tư duy của đồng bào dân tộc Bana là trực quan và cụ thể. Việc làm trên có lợi

đối với họ mà không thấy sự nổi giận hay trừng phạt nào của thần linh thì lòng tin vào

thần thánh ở họ suy giảm một cách nghiêm trọng. Tất nhiên các vị linh mục thừa sai

không bỏ lỡ dịp thay thế Chúa của mình vào chỗ thần linh đã mất kia. Mặt khác, nếu để

nguyên các từ ngữ và hình ảnh trừu tượng trong kinh thánh mà rao giảng trong đồng bào

dân tộc sẽ không thu được kết quả. Nên buộc lòng họ phải xuyên tạc các huyền thoại

trong kinh thánh cho gần gũi với các truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian hay cụ

thể hóa nó thành một thứ ngôn ngữ gần với đời thường mà mọi người có thể lĩnh hội

được.

- Trước đây, mỗi làng là một đơn vị khép kín và được canh phòng rất cẩn mật,

quan hệ giữa các làng với nhau không phải lúc nào cũng hữu hảo, đôi lúc vì một xúc

phạm nhỏ về danh dự thôi cũng rất dễ dàng nổ ra xung đột đổ máu giữa hai làng. Chiến

tranh giữa các làng đồng chủng hay khác chủng cũng đều gây ra cảnh chết chóc và phá

hoại, càng đẩy con người vào chỗ bần cùng, nghèo khó hơn. Trên bước đường truyền

giáo, các cha cố thấy rằng, các cuộc xung đột liên miên nổ ra là một chướng ngại cho "sứ

mệnh" truyền giảng "tin mừng" của mình. Bằng mối quan hệ đã được xác lập, bằng kinh

nghiệm tích lũy với bao nhiêu năm sống nơi đồng bào Thượng, các Thừa sai có vai trò

dàn xếp, đứng làm trung gian hòa giải xung đột và mang lại mối quan hệ hòa hiếu, tránh

được cuộc chiến cho cả hai bên. Đây cũng là cái lợi mà đồng bào thấy được từ đạo Công

giáo mang lại.

Sản xuất manh mún, bấp bênh lại bị cản trở bởi hàng rào tín ngưỡng, tập tục. Hậu

quả đã đem lại cho đồng bào cuộc sống khốn khó, nạn đói về bệnh dịch là những căn

bệnh kinh niên không thuốc chữa. Khi đến vùng Bana, các vị thừa sai ngoài chức năng

truyền giáo, họ còn nghĩ ra cách làm rẫy, làm ruộng để nuôi sống bản thân. Cách làm của

họ hoàn toàn mới, không bị ràng buộc bởi lề thói cũ, thời vụ, kỹ thuật quản lý đến cây

giống như là cuộc canh tân trọng sản xuất ở nơi đây. Những mô hình "trình diễn" này có

tác động sâu xa đến tâm lý của đồng bào, họ nhìn nhận, so sánh với cách làm cũ thì rõ

ràng cách thức canh tác mới mang lại lợi ích nhiều hơn. Tuy thay đổi rụt rè nhưng cái lợi

ích thiết thân đã thúc đẩy họ đến với cách làm ăn mới.

Sau cái đói ăn là bệnh tật đã lấy đi nhiều mạng sống của dân làng, tình trạng hữu

sinh vô dưỡng là phổ biến. Khi bị bệnh, người ta phó thác sinh mệnh cho các thầy cúng

(Bơ đâu) kim lang vườn, việc lành bệnh hay không đều do thần linh quyết định. Trong

khi truyền đạo, các linh mục đúng vai trò người thầy thuốc bất đắc dĩ nhưng tỏ ra có hiệu

nghiệm hơn các thầy cúng nhiều. Sau này, nhà thờ phát triển đội ngũ giáo phu ở vùng dân

tộc, đảm nhiệm nhiều việc, trong đó có chức năng thầy thuốc chữa bệnh theo phương

pháp khoa học. Do vậy, người bệnh thấy yên tâm khi đau ốm và đỡ phải tốn kém cho các

Bơ đâu (những điều trình bày trong phần 1.1.2, tác giả sẽ phân tích kỹ hơn ở chương 2

trong luận văn này).

Tóm lại, con đường truyền giáo vào Tây Nguyên nói chung và vào dân tộc Bana

nói riêng, buổi ban đầu gặp rất nhiều trở ngại, ngoài việc cấm đạo gắt gao của triều

Nguyễn, quan trọng hơn là sự xa lạ của người dân ở đây, những khoảng cách mà trong

buổi đầu các nhà truyền giáo chưa vượt qua được như về chủng tộc, ngôn ngữ, lối sống,

sinh hoạt tôn giáo... Nhưng với tính mẫn cảm kiên trì của các nhà truyền giáo, họ xâm

nhập từng bước, chuyển hóa dần dần, bằng những việc làm rất cụ thể, thiết thực mang lại

những cái lợi trông thấy đối với đời sống đồng bào. Nhờ cách làm này mà họ chiếm được

lòng tin và tình cảm của đồng bào, để rồi sau đó họ rao giảng đức tin và kết quả là được

nhiều người chấp nhận, tin theo.

1.2. Đạo Công giáo ở Kon Tum

1.2.1. Khái quát đặc điểm chủ yếu của đạo Công giáo ở Kon Tum

- Từ xưa đến nay, giáo phận Kon Tum được đánh giá là vùng truyền giáo phát

triển

Điểm qua một số mốc lịch sử quan trong của quá trình truyền giáo để minh họa

cho đặc điểm này.

Với hàng ước Nhâm Tuất (6/6/1862), triều đình nhà Nguyễn bãi bỏ chính sách

cấm đạo, đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển đạo lên Tây Nguyên. Riêng ở Kon

Tum, đến năm 1870 số tín đồ đạo Công giáo có hơn 700 người, mở ra được mười chín

làng trong ba dân tộc Bana, Xê Đăng và Gia Rai (năm 1901 có 8.000 giáo dân Bana) [49,

tr. 25], đặc biệt đến năm 1881, Pháp chiếm xong Tây Nguyên, đặt tòa đại lý hành chính

(1892) tại Kon Tum do người Pháp trực tiếp cai quản. Ngày 3/10/1893, Pháp và Thái ký

hiệp ước tách Tây Nguyên ra khỏi Việt Nam thành một khu tự trị do Pháp bảo hộ. Thực

dân Pháp đặc biệt chú ý đến vùng chiến lược này, chúng tích cực bảo trợ và biến nó thành

chỗ dựa cho hoạt động truyền giáo. Giao cho các linh mục nhiệm vụ quản lý hành chính

để họ trở thành những người đầy quyền lực và giàu có. Đây là giai đoạn quan trọng trong

quá trình truyền giáo đến Kon Tum, không những đã ổn định được các cơ sở truyền bá

đức tin mà còn có cơ hội để các vị thừa sai đúc rút ra những kinh nghiệm, phương pháp

truyền giáo. Đến năm 1929, vùng truyền giáo Kon Tum đã hình thành được các giáo

đoàn mới ở vùng đông dân, dọc các trục lộ giao thông. Lúc này, số tín đồ ở ba tỉnh Kon

Tum, Gia Lai, ĐăkLăk lên tới con số 17.700 người, có 23 cơ sở, 146 họ đạo thượng, 23

linh mục và

1 trường nội trú đào tạo giáo lý viên cho người dân tộc. Trong báo cáo của đạo Công giáo

gửi về hội thừa sai Paris viết: "Tinh thần dân chúng thuận lợi, và một cuộc tiến lên với tài

lực và nhân lực đầy đủ, đã đem lại kết quả mỹ mãn. Hãy cầu xin chủ nhân mùa thu hoạch

gởi công nhân đến vườn nho cao nguyên của người" [34, tr. 15].

Trước sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng Công giáo, và sự thành công

trong sự truyền giáo, năm 1932, tòa thánh Vatican đã có sắc chỉ thành lập giáo phận Kon

Tum tách khỏi giáo phận Quy Nhơn gồm ba tỉnh: Kon Tum, Pleiku, Đăklăk và một phần

lãnh thổ của Lào (Atôpư). Cùng với việc thành lập giáo phận, thời kỳ này có nhiều

trường, tổ chức tôn giáo được thành lập, như: trường tiểu chủng viện, trường dòng, bệnh

viện, các dòng tu lần lượt ra đời.

Qua thời kỳ Mỹ - Diệm, đạo Công giáo có điều kiện phát triển hơn. Để nắm chắc

vùng đất chiến lược Tây Nguyên, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thực hiện việc di dân,

lập ấp (dinh điền) bằng cách đưa số dân di cư từ miền Bắc vào và đồng bằng ven biển

miền Trung lên hình thành những điểm dân cư ở những vị trí chiến lược. Năm 1960, địa

phận Kon Tum được tòa thánh Vatican nâng lên thành địa phận chánh tòa, và trở thành

giáo phận mẹ. Vào năm 1967, tín đồ đạo Công giáo ở Tây Nguyên chiếm tỉ lệ cao nhất ở

miền Nam, hơn cả vùng Sài Gòn. Riêng địa phận Kon Tum, tín đồ chiếm tới 16% dân số,

năm 1963 tăng lên 101.000 người so với 45.000 người (vào năm 1957), trong đó hơn một

nửa là tín đồ người dân tộc [31].

Cho đến trước năm 1975, giáo phận Kon Tum vẫn được đánh giá là vùng truyền

giáo đang phát triển, có nhiều hoạt động sầm uất. Tại thời điểm này toàn tỉnh Kon Tum

có: 68.443 tín đồ (trong đó 46.257 tín đồ là người dân tộc thiểu số), 26 cơ sở, 195 làng

đạo, 01 giám mục, 17 linh mục (trong đó có 9 linh mục là người Pháp), 300 giáo phu, 10

trường học và 32 lớp học ở làng, 1 trường tiểu chủng viện với 255 chủng sinh, 1 trường

đào tạo giáo với gần 200 học viên, 4 trường phổ thông do giáo hội quản lý, 7 cơ sở nuôi

dạy trẻ, 01 trường dạy nghề, 6 dòng nữ tu [34, tr. 31].

Sau năm 1975, hoạt động của giáo hội Công giáo Kon Tum có bước chững lại.

Giáo hội mất cả chỗ dựa vật chất cũng như tinh thần. Tình hình giáo dân bị xáo trộn lớn

không những phân tán và giảm về số lượng mà còn suy sụp về niềm tin. Số lượng lớn

giáo dân là đồng bào dân tộc bỏ đạo và có hiện tượng khô đạo. Trước tình hình đó giáo

hội Kon Tum dần đi vào xu hướng chấp nhận và thích nghi với tình hình mới.

Đến sau năm 1986, khi có chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, trong bối

cảnh chung của đất nước đang đứng trước sự khủng hoảng về kinh tế, đời sống vật chất

và tinh thần của quần chúng còn nhiều khó khăn, lúc này, giáo hội Công giáo Kon Tum

có chủ trương "cùng nhau nhìn nhận khuôn mặt của giáo hội Kon Tum trong xã hội hôm

nay để tìm ra hướng đi". Họ tìm cách củng cố đức tin, củng cố giáo hội để khôi phục lại

những vùng bỏ đạo và khô nhạt đạo, mở rộng địa bàn phát triển đạo vùng sâu, vùng xa

vùng căn cứ cách mạng.

Như vậy, hơn 150 năm tồn tại qua các thời kỳ khác nhau, giáo hội Kon Tum luôn

tận dụng mọi cơ hội để phát triển đạo Công giáo, coi việc phát triển đạo là vấn đề sống

còn của giáo hội.

- Giáo hội Công giáo ở Kon Tum luôn gắn liền với vấn đề dân tộc thiểu số

Điều này được thể hiện trên các mặt sau:

+ Tính xác định ngay từ đầu của hội truyền giáo: từ lâu miền thượng du Tây

Nguyên đã nằm trong tầm ngắm của các nhà truyền giáo phương Tây. Năm 1661 hội thừa

sai Paris chính thức thành lập, được Rôma cho truyền đạo vùng viễn Đông, không phụ thuộc

vào Bồ Đào Nha. Năm 1790, quốc hội Pháp thừa nhận Hội thừa sai Paris là tổ chức tôn giáo,

vừa có nhiệm vụ truyền đạo, vừa giúp cho Pháp bành trướng thế lực của mình ở Viễn

Đông. Tại đây, người ta đào tạo sẵn những linh mục cho việc truyền giáo ở miền thượng:

"Hai Cha Combes và Fontaire là hai vị thừa sai đầu tiên được phái đi truyền giáo cho dân

tộc Bana. Cha Combes thuộc giáo phận Alby, thì phong linh mục tại chủng viện của hội

thừa sai Balê và được phái sang địa phận đàng trong vào năm 1849 với ý định dành riêng

cho cơ sở truyền giáo mà người ta đang cố gắng thiết lập nơi miền thượng du trung bộ...

Tại tân gia ba, Cha Combes đã gặp Cha Fontaire, cũng sắp dấn thân lên miền truyền giáo

thượng, theo lời đề nghị của Đức cha Cuénot" [11, tr. 11-12].

Ngay từ đầu, việc tổ chức cho công cuộc truyền giáo ở miền thượng rất được chú

ý, tại cuộc nhóm họp Cộng đồng giáo hội miền Nam tại Gò Thị (1840), nội dung truyền

giáo lên Tây Nguyên được đưa vào nghị sự. Sau đó xúc tiến ngay việc đào tạo hàng giáo

sĩ người Việt Nam để cùng với thừa sai Pháp xâm nhập vào vùng dân tộc. Mặc dù đang

có sự cấm đạo ráo riết nhưng bằng mọi cách họ đã mở được con đường truyền giáo thành

công và với tham vọng là thiết lập một giáo hội vững bền ở Tây Nguyên, có thể được

vươn xa ra cả Lào: "Từ lâu Đức cha Cuénot đã nghe nói về một con sông trong vùng

Bana, mà dòng nước đổ vào con sông lớn bên Lào. Do đó kế hoạch truyền giáo của Đức

cha, thoạt tiên bao gồm một miền lớn, trong đó có cả xứ Lào. Cha Combes đảm trách

truyền giáo cho dân Bana, cha Desgoure xây dựng một tiểu chủng viện, Cha Fontaire và

tôi (Bousisboure) khi nào gặp con sông Đăkbla này, thì kiếm thuyền mà xuôi dòng đến

Lào... một lá thư của ngài (Cuénot) sau đó đã phân định cho chúng tôi mỗi người một

phần hành: Cha Fontaire phải đi đóng đô ở nơi dân Gia Rai; Cha Combes, lãnh chức bề

trên miền truyền giáo, làm đại diện đức giám mục, và tiếp tục chăm lo dân Bana, và tôi,

tôi phải đến với các chú thợ rèn Xê Đăng. Còn tại Rơ ngao (làng Rơhai Kon Tum) thì có

thầy phó tế Do và Cha Desgouts với số đông anh em trong đoàn, ý Đức cha là lần lần tạo

lập tại xứ Rơ ngao tốt đẹp này một trang trại kiểu mẫu" [11, tr. 67].

+ Thứ hai, đối tượng người dân tộc thiểu số từ xưa đến nay được giáo hội đặc

biệt quan tâm: Trong quan niệm của các nhà truyền giáo, Tây Nguyên là vùng đất mới,

trước khi Công giáo đến, thì chưa từng tồn tại một tôn giáo ngoại sinh nào. Đây là điều

kiện rất thuận lợi cho đạo Công giáo phát triển mà không gặp sự cản trở từ các tôn giáo

khác. Điều quan trọng hơn là đa số dân cư bản địa Tây Nguyên và dân tộc Bana ở Kon

Tum là những người nghèo khổ, có đời sống vật chất khó khăn, luôn bị đe dọa bởi hiểm

họa của thiên nhiên, bệnh tật, chiến tranh... nên họ mong muốn có một vị thần tối cao nào

đó để được che chở và nương tựa, điều mà các vị thần của họ tỏ ra không còn đảm đương

được nữa.

Khi có chỗ đứng trên địa bàn Kon Tum, giáo hội đã nghĩ ngay đến việc mở

trường đào tạo đội ngũ thầy giảng người dân tộc địa phương, để sau khi ra trường về làng

trở thành những người truyền bá đức tin, giảng dạy giáo lý, phát triển đạo tại chỗ và cắm

rễ sâu vào dân tộc mình. Vừa thực hiện chức năng truyền đạo, vừa nắm tình hình từ cơ sở

giúp giáo hội vươn tay ra nắm các vùng dân tộc ở xa. Trong 90 năm (1908) trường giáo

phu Cuénot đã đào tạo được 1228 giáo phu người dân tộc (tài liệu tại phòng trưng bày tòa

giám mục Kon Tum).

Ngoài trường giáo phu dành cho nam tín đồ người dân tộc, giáo hội lập ra một

dòng tu dành riêng cho nữ dân tộc (dòng Chị em ảnh phép lạ được thành lập năm 1947),

với mục đích là truyền đạo vào vùng dân tộc thiểu số, như lời giám mục tiên khởi của

giáo phận Kon Tum nói: "Nếu có được những nữ tu sắc tộc thì công việc truyền giáo tiến

triển hơn ngày hôm nay" [3, tr. 147]. Các nữ tu tích cực tham gia vào công việc dạy dỗ

giới trẻ, thăm viếng bệnh nhân, giúp các công việc của vùng truyền giáo. Ngoài ra giáo

hội cũng mở các trường học, bệnh xá ở những vùng truyền giáo để lôi cuốn tín đồ.

Ngày nay, đối tượng đồng bào dân tộc vẫn là nơi phát triển đạo chủ yếu của giáo

hội Kon Tum. Với chủ trương bám sát cơ sở, các linh mục mở rộng địa bàn hoạt động

quá giới hạn cho phép, xâm nhập vào vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, mục đích cuối

cùng là phát triển đạo.

Đặc điểm này còn được thể hiện ở chỗ: Trong kiến trúc, lễ nghi của đạo Công

giáo ở Kon Tum mang đậm dấu ấn văn hóa của các dân tộc bản địa như trong kiến trúc

nhà thờ, nhà nguyện có dáng dấp của chiếc nhà rông với mô típ kiến trúc phương Tây;

giảng đạo và đọc kinh bằng tiếng dân tộc; các dịp lễ tết cồng chiêng được sử dụng làm

nền âm nhạc và hát thánh ca cũng bằng tiếng dân tộc; lồng ghép nội dung giáo lý, lễ nghi

của đạo Công giáo vào các lễ hội truyền thống của người dân tộc.

- Sự liên hệ với chính trị của Giáo hội Công giáo ở Kon Tum rất rõ nét

Sự liên kết này được bộc lộ ngay khi các vị thừa sai đặt chân đến Kon Tum.

Trong báo cáo của một nhà truyền giáo gởi về chính phủ Pháp (1850), có đoạn: "Cao

Nguyên phía Tây của An Nam với độ cao trung bình 570 mét, trấn giữa ngã ba của nước

An Nam, Ailao, Cambot có tiềm năng tài nguyên phong phú, vì vậy ai làm chủ miền cao

Nguyên này người đó sẽ cai quản được Đông Dương" [34, tr. 27]. Như vậy, sau mục đích

truyền đạo, các thừa sai còn đảm trách một nhiệm vụ khác là những người mở đường cho

thực dân Pháp lên xâm chiếm Tây Nguyên.

Khi chiếm được Tây Nguyên (1891), thì sự gắn kết giữa giáo hội Công giáo và

chính quyền thực dân Pháp ở Kon Tum càng chặt chẽ hơn, đạo Công giáo có điều kiện

phát triển và chiếm lĩnh các vị trí chiến lược, các trục lộ giao thông quan trọng. Các Thừa

sai ngoài việc đạo còn trực tiếp tham gia bộ máy chính quyền và trở thành những người

có thế quyền chi phối đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của giáo dân và những vùng

Pháp chiếm đóng.

Năm 1951, Hội đồng giám mục Đông Dương nhóm họp đề ra thư chung chống

cộng, ủng hộ thực dân Pháp. Đây là thời kỳ giữa Pháp và Tòa giám mục Kon Tum phối

hợp đánh phá phong trào cách mạng Tây Nguyên quyết liệt nhất, cũng là thời kỳ đạo

Công giáo dựa vào lực lượng quân sự của Pháp mở rộng đạo hầu khắp Tây Nguyên (trừ

số vùng căn cứ cách mạng). ở Kon Tum, giám mục Paulseitz, đưa các linh mục, tu sĩ

người việt và giáo phu người dân tộc xuống củng cố các địa sở hiện có và mở rộng ảnh

hưởng dọc các hành lang chiến lược. Về vũ trang tòa giám mục nắm các sĩ quan trong lực

lượng đặc biệt của Pháp, người dân tộc có đạo trở thành lực lượng vũ trang của giáo hội

được trang bị vũ khí nằm trong dân, chuẩn bị để hợp tác với Mỹ và Diệm khi chúng đến

Tây Nguyên [49, tr. 9].

Dưới thời Mỹ - Ngụy, với ý đồ "Thiên Chúa hóa Tây Nguyên" để làm hậu thuẫn

cho chế độ. Đây là điều kiện thuận lợi để nâng cao uy thế của giáo hội, các giáo sĩ trở

thành những người có thế lực lớn trong vùng, hàng trăm cơ sở Công giáo được mở mang xây

dựng, số tín đồ ngày càng tăng (đến năm 1963, từ số 13 địa sở lên 47 địa sở, từ 189 nhà

thờ, họ đạo lên đến 470 nhà thờ, họ đạo; từ 127 làng có đạo lên 269 làng có đạo; từ

32.500 tín đồ lên 78.685 tín đồ) [34, tr. 37]. Số linh mục người Pháp đã chỉ đạo và tiến

hành xây dựng những họ đạo ba không: không nghe theo cộng sản, không che giấu cộng

sản, không tiếp tế cho cộng sản. Tháng 12.1960, giám mục Paulseitz đã ra thông báo gởi

các linh mục, tu sĩ, giáo dân trong toàn địa phận với nội dung cấm đoán những người

Công giáo tham gia hay giúp

đỡ cộng sản, bởi vì "theo cộng sản là trái với Chúa". Hầu hết các tỉnh trưởng Kon Tum đến

nhận chức, thì việc làm đầu tiên của họ là đến Tòa giám

mục để chào và ra mắt giám mục địa phận và xin sự che chở, nâng đỡ của giáo hội. Quan

chức nào trong tỉnh gặp chuyện rắc rối đều đến cầu cứu người cho tinh thần, nhiều công

chức được thăng tiến là do có sự đảm bảo của giáo hội [34, tr. 37].

Sau ngày miền Nam giải phóng, giáo hội Kon Tum mất chỗ dựa về kinh tế và

chính trị từ chế độ Mỹ - Ngụy. Trong giai đoạn tình hình còn chưa ổn định này, họ cố

tình đưa ra những thông tin sai lệch để nói xấu những người cộng sản và gây hoang mang

trong quần chúng tín đồ như: sau khi cộng sản ổn định được tình hình sẽ có sự trả thù

đẫm máu, chính phủ của những người cộng sản không bao giờ chung sống với giáo hội

Công giáo... Mặt khác, giáo hội đã liên kết với lực lượng Fulrô trong rừng, làm chỗ dựa

về tinh thần và vật chất cho lực lượng này chống phá ta trong những ngày mới giải

phóng. Linh mục Nguyễn Hoàng nói với giáo dân trong xứ đạo của mình: "Cách mạng ở

đây không lâu, quốc gia mới sẽ lên thay, đó là quốc gia của những người dân tộc" [34, tr.

39], để tập hợp một lực lượng đông đảo, xây dựng thực lực chờ thời cơ tiến hành hoạt

động vũ trang lật đổ chính quyền ta.

Trong những năm gần gây, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng và không tín

ngưỡng của Đảng và Nhà nước, tòa giám mục Kon Tum tăng cường hoạt động trên nhiều

lĩnh vực nhằm củng cố giáo quyền. Có những hoạt động vượt ra ngoài khuôn khổ của

pháp luật đã quy định, như xây dựng nhà nguyện, nhà thờ trái phép, dùng giáo dân gây áp

lực với chính quyền để đòi lại đất đai mà trước đây giao cho Nhà nước sử dụng vào việc

công ích; tuyên truyền và chống lại đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt

Nam.

Sở dĩ có sự gắn kết giữa giáo hội Công giáo Kon Tum với những hoạt động

chính trị là xuất phát từ nguyên nhân lịch sử của nó, đó là sự độc quyền truyền giáo lên

Tây Nguyên của hội thừa sai Paris và sau đó là sự xâm chiếm Tây Nguyên của thực dân

Pháp không nằm ngoài ý đồ đã được sắp xếp từ trước. Cho nên sự hợp tác giữa thực dân

Pháp với giáo hội Công giáo ở Kon Tum suốt thời gian cai trị của mình là việc hiển

nhiên. Dưới thời Mỹ - Ngụy, với ý đồ "Công giáo hóa Tây Nguyên", đạo Công giáo được

chính quyền cai trị đặc biệt ưu đãi, nên sự tham gia hợp tác giữa hai thế lực này càng

mạnh mẽ hơn. Như vậy, giáo hội Công giáo ở Kon Tum thực sự trở thành một lực lượng

chính trị làm hậu thuẫn cho chính sách cai trị và chống cộng sản của chủ nghĩa thực dân

xâm lược.

1.2.2. Tình hình đạo Công giáo ở Kon Tum hiện nay

Hiện nay trên địa bàn tỉnh Kon Tum có khoảng 90.282 tín đồ Công giáo, trong

đó 70.731 tín đồ là người dân tộc ít người chiếm 78,3% so với tổng tín đồ. Có 2 giám

mục, 19 linh mục, 514 giáo phu, cai biện và 4 dòng tu nữ với 88 nữ tu [5].

Tình hình của đạo Công giáo Kon Tum hiện nay được thể hiện trên các mặt hoạt

động sau:

- Giáo hội kiện toàn lại hệ thống tổ chức, bố trí, sắp xếp lại nhân sự, tích cực đào

tạo thế hệ trẻ kế cận để chuẩn bị cho đường hướng phát triển trong tương lai: như củng cố

lại ban hành giáo; lập hội đồng tư vấn các ban phát triển đạo, ban giáo lý, ban thánh ca,

ban văn hóa dân tộc; bổ nhiệm một số linh mục đi cai quản địa sở, kêu gọi các linh mục,

tu sĩ trước đây ở địa phận Kon Tum trở về lại giáo phận; tổ chức hội thảo củng cố lại hội

đồng giáo xứ và hội đoàn. Tòa giám mục đang có kế hoạch phát triển lực lượng trẻ có

trình độ văn hóa cấp 2 trở lên, đặc biệt là thanh thiếu niên người dân tộc. Xây dựng đội

ngũ cốt cán ở cơ sở theo từng làng, họ đạo, nhóm gia đình, thay thế linh mục để điều

hành các cơ sở đạo và những việc khác có liên quan trong khi khi chính quyền cơ sở của

ta chưa nắm và quản lý được, mở lớp giáo phu trái phép, được tuyển mộ trong giới trẻ để

thay thế các giáo phu đã già hay mất tác dụng.

Đối với giáo hội cơ sở, hệ thống tổ chức bộ máy của đạo Công giáo được kiện

toàn, từ đội ngũ con chiên ngoan đạo đến các chức việc kế cận như giáo phu, câu, biện

được giáo hội tiếp tục đào tạo. Các ca đoàn từ trước đến nay đã có ở các xứ đạo, họ đạo

nay được tiếp tục phát triển xuống các làng. Bên cạnh đó, ngoài những ngày lễ thông

thường trong năm, giáo hội đã bắt đầu chú trọng tổ chức ngày lễ bổn mạng của giáo xứ

nhằm đề cao vai trò của giáo hội, củng cố đức tin và mở rộng phạm vi hoạt động trên địa

bàn tỉnh.

- Kết hợp làm công tác từ thiện với việc bám sát cơ sở để truyền đạo và củng cố

đức tin: Giáo hội tích cực mở rộng địa bàn hoạt động xuống các xã vùng sâu, vùng xa nơi

chưa có nhà thờ, nhà nguyện để phục thêm sức cho giáo dân. Phân công một số linh mục

và nữ tu xuống bám sát cơ sở, ở các làng đồng bào dân tộc nhằm củng cố giáo xứ, họ đạo

và các hội đoàn... ở các xã vùng sâu, vùng xa nơi linh mục, nữ tu không đến được đã có

đội ngũ giáo phu người dân tộc thay linh mục làm mục vụ.

Đi đôi với hoạt động trên, các hoạt động từ thiện nhân đạo cũng được xúc tiến

thường xuyên, với phương châm hoạt động từ thiện nhỏ, liên tục nhưng mang lại hiệu

quả lớn. Tòa giám mục đã có sự phân công và hoạt động một cách hữu hiệu đặc biệt là

các nữ tu người dân tộc, với những khoản vật chất nhỏ nhưng thiết thực như việc cung

cấp các giống cây trồng, sách vở, thuốc men và những đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, họ

đã gần gũi và chiếm được cảm tình của người dân tộc. Họ còn xin xây cầu treo, và triển

khai "chương trình nước sạch nông thôn" cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ

cách mạng. Mục đích của giáo hội là khuếch trương, mở rộng thanh thế, tích cực lôi kéo

những con chiên khô nhạt đạo trở lại đạo và cuốn hút thêm tín đồ mới.

- Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, nơi thờ tự và tổ chức nhiều hoạt động để

củng cố đức tin: Bên cạnh các hoạt động mục vụ, giáo hội không ngừng xây dựng, củng

cố cơ sở vật chất. Dưới các hình thức vận động, quyên góp khác nhau, tòa giám mục một

mặt tích cực xây dựng, cơi nới và sửa chữa nhà thờ, nhà nguyện. Mặt khác, kích động

giáo dân đến đấu tranh với chính quyền đòi cho xây dựng mới những nơi chưa có nơi thờ

tự. Nghiêm trọng và phức tạp hơn là việc đòi lại đất mà trước đây giáo hội đã hiến cho

nhà nước sử dụng vào mục đích công cộng, vận động giáo dân giành đất đai với chính

quyền nhà nước. Chỉ đạo các cơ sở họ đạo, dòng tu mở các lớp mẫu giáo mầm non, lập

cơ sở nuôi trẻ mồ côi...

Để củng cố lòng tin đối với tín đồ, giáo hội ở Kon Tum đã tổ chức nhiều hoạt

động nhân năm thánh 2000 và các ngày lễ kỷ niệm lớn như: kỷ niệm 200 năm huyền

thoại về Đức mẹ La Vang, 150 năm ngày truyền giáo lên Kon Tum (1848), 50 năm ngày

thành lập dòng tu ảnh phép lạ (dòng tu của địa phận - 1947). Đặc biệt là 150 năm ngày

truyền giáo lên Tây Nguyên, được Tòa giám mục tổ chức lớn nhất từ trước tới nay, gồm

15 giám mục, 230 linh mục (trong đó có 2 linh mục người Pháp ở Kon Tum trước đây),

hơn 10 ngàn giáo dân ở các nơi về dự [4].

Chương 2

ảnh hưởng của đạo Công giáo

đối với đồng bào dân tộc Bana

trên một số lĩnh vực chính

2.1. ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đời sống kinh tế

Các dân tộc vùng Tây Nguyên và dân tộc Bana, trước thế kỷ XX, đang trên đà

tan rã của chế độ công xã thị tộc, trình độ kinh tế - xã hội đang ở điểm xuất phát thấp,

hoạt động khai thác tự nhiên còn chiếm vị trí chủ yếu trong đời sống. Xã hội khép kín và

gần như xa lạ với thế giới bên ngoài. Khi tiếp nhận đạo Công giáo, xã hội cổ truyền

người Bana nói chung và đời sống kinh tế có những chuyển biến căn bản.

Khâu đột phá đầu tiên, đồng thời là cuộc đấu tranh giằng co, gay go nhất giữa tập

quán sản xuất cũ với những yếu tố mới du nhập từ đạo Công giáo diễn ra quyết liệt.

Trong cuộc sống của người Bana, dường như thần linh có mặt ở mọi nơi, chi phối tất cả

các hành vi của con người. Trước khi làm việc gì đều phải có lễ vật dâng cúng thần

(Giàng) để được phù hộ hoặc tránh sự trừng phạt. Do vậy, từ khi bắt đầu vào mùa sản

xuất cho đến khi thu hoạch là cả một chuỗi dài các nghi lễ phiền toái (như lễ chọn đất làm

rẫy, lễ phát rẫy, lễ đốt rẫy, lễ tỉa lúa, bắp, lễ cúng lúa mời, lễ thu hoạch, lễ mở của kho

lúa...), vừa chiếm mất nhiều thời gian, vừa tốn kém về vật chất ở những làng có đạo, dần

dần đồng bào đã chia tay với nạn cúng kiến, tốn kém và phiền phức này. Chúa đến đã loại

dần các thần linh ra khỏi đời sống của người Bana, đồng thời Chúa thâu tóm mọi quyền

năng của các vị thần đã ra đi, Chúa có mặt mọi nơi và làm chủ tất cả. Lúc này, làm việc

gì chỉ cần cầu Chúa, xin Chúa là đủ.

Tuy nhiên cuộc chiến giữa Chúa với các thần bản địa, người có được phần thắng

không dễ dàng chút nào, trước khi chịu lùi bước các vị thần đã phản kháng lại mãnh liệt:

"Khi chúng tôi bày tỏ cho anh em thượng thấy rõ sự vô bổ của điều luật giữ, khi chúng

tôi muốn làm cho họ bỏ những tập tục mê tín có hại, thì họ luôn luôn trả lời: ồ, nhưng mà

sẽ xảy đến cho tai ương này, mất mát kia, bệnh tật nọ; nhưng vụ mùa của chúng tôi sẽ

hỏng, con cái tôi sẽ chết, tôi sẽ thiệt mạng một cách khốn nạn" [11, tr. 27].

Truyền từ đời này qua đời khác chỉ có một phương pháp canh tác: phát - đốt -

chọc - tỉa, cho mãi đến ngày nay vẫn còn được duy trì rộng rãi ở nhiều nơi. Công cụ sản

xuất chủ yếu là dao, rựa, rìu để chặt phát rẫy; cuốc, niếc để dọn nạo cỏ; gậy vót nhọn

hoặc bịt nhọn bằng sắt để chọn lỗ tra hạt; lúc thu hoạch dùng tay để tuốt lúa. Với những

phương thức canh tác như vậy chỉ mang lại hiệu quả thấp, nạn đói luôn là nỗi ám ảnh đối

với mọi người. Muốn tăng năng suất lao động, trước tiên phải có công cụ sản xuất và

luôn được cải tiến. Có trâu bò nhưng họ chưa biết sử dụng làm sức kéo vì không dám

đụng chạm đến những con vật linh thiêng chỉ dùng vào việc cúng tế. Đạo Công giáo,

đúng hơn là các Thừa sai khi đến đây làm cho họ thay đổi cách nghĩ, trâu bò cũng chỉ là

những con vật bình thường như các con vật khác. Có sức kéo, người ta nghĩ đến việc mở

rộng diện tích canh tác, năng suất tăng và đời sống được cải thiện.

Trước đây, lịch canh tác theo một quy trình rất chặt chẽ, trước khi vào vụ gieo

trồng thường thì chờ sự linh ứng, báo mộng của thần linh, khi nào được thần linh cho

phép mới dám gieo trồng, nhiều khi bỏ lỡ mất dịp thời tiết thuận lợi cho việc thời vụ canh

tác. "Đến mùa mưa phương pháp duy nhất để thoát khỏi cơn túng đói, dĩ nhiên là gieo

bắp sớm. Nhưng theo tập tục mê tín trong xứ này, người ta không thể muốn trồng tỉa lúc

nào thì trồng tỉa, mà phải chờ điềm báo này hay điềm báo khác, con trăng này hay con

trăng kia, chờ đợi nhiều khi lâu lắc và chờ đợi để mà chết đói, trong lúc thời tiết rất thuận

lợi cho cây trồng" [11, tr. 98].

Một đóng góp quan trọng của các nhà truyền giáo vào lĩnh vực sản xuất nông

nghiệp là kỹ thuật làm lúa nước. Thực ra người Bana biết đến ruộng nước trước đó do

học hỏi từ người Việt và người Chăm, nhưng do không có kỹ thuật canh tác nên năng

suất không cao. kỹ thuật làm ruộng nước thật sự được chú ý khai thác dưới thời các cố

thừa sai. Họ đã lập nên những trang trại, ở đó có đủ con người và công cụ phục vụ cho

công việc. Những kết quả mà họ thu được có sức thuyết phục dân làng và từ những

trang trại kiểu mẫu như thế được nhân rộng ra thành một tập quán sản xuất mới vùng

đồng bào dân tộc Bana và một số dân tộc khác ở Kon Tum: "Trong chương trình của

tôi, làng Công giáo phải là một nông trại kiểu mẫu. Tôi đã phái vài thanh niên người

Kinh của chúng tôi đi mua trước một số trâu bò nơi bộ lạc Hagou. Vài anh khác thì

xuống Trung Châu (Bình Định) mua sắm cày bừa với các nông cụ khác mà người Kinh

thường dùng để làm ruộng nước... Năm sau, thịnh vượng càng tăng nhờ những tiến bộ

quan trọng trong vấn đề canh tác. Dân thượng ở các làng lân cận thường hay đếm xem

người chúng tôi làm việc, và vào mùa gặt hái, họ đều trầm trồ ngạc nhiên vì thấy mùa

màng quá tốt đẹp. Do đó, nhiều gia đình ở các làng lân cận đã xin gia nhập vào làng mới

của chúng tôi, và dân số của làng tôi tăng lên gấp đôi" [11, tr. 206].

Nhờ các tiến bộ trong canh tác ruộng nước đã hình thành nên những làng có đạo

định canh, định cư lâu dài, đời sống kinh tế ổn định, bỏ được tập quán du canh, du cư.

Đối với nghề thủ công gia đình và giao lưu hàng hóa, đạo Công giáo cũng có

những đóng góp nhất định. Cũng như trong sản xuất nông nghiệp, khi tiến hành các công

đoạn làm nghề thủ công, ở người Bana chịu nhiều kiêng cữ, nhất là trong nghề rèn, như

khi trong làng có ngoại tình, nếu chưa tế Giàng xin xá tội, người thợ rèn phải nghỉ việc và

khi bắt đầu trở lại, phải sửa lễ cúng Giàng. Đạo Công giáo đã giúp người thợ rèn và nhiều

người thợ thủ công khác từ bỏ những kiêng cữ và họ có thể yên tâm làm việc.

Sự giao lưu buôn bán của người Bana trước đây chỉ thu hẹp trong nội bộ làng

hoặc hàng năm đến những tháng nghỉ sản xuất, sau vụ thu hoạch, dân làng tổ chức những

đoàn đi xuống miền xuôi để trao đổi những sản phẩm làm ra, lấy các nhu yếu phẩm

không sản xuất được, chủ yếu là hàng đổi hàng. Khi tiếp xúc với đạo Công giáo, việc

giao lưu trao đổi được đẩy mạnh hơn một bước. ở đây hình thành nên những làng định

canh định cư với số lượng dân cư đông đúc, cùng với quá trình di dân từ đồng bằng lên

những thị tứ, thị trấn dần được thành lập đã có tác dụng thúc đẩy quá trình trao đổi hàng

hóa ở đồng bào dân tộc Bana. Nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp nay được mở ra tiếp

xúc với thế giới bên ngoài.

Đóng góp vào lĩnh vực phát triển kinh tế còn có vai trò của các linh mục xứ, giáo

phu. Họ là những người có kiến thức, nhanh nhạy với cái mới. Ngoài việc đạo, họ còn là

người hướng dẫn cung cách làm ăn cho tín đồ, như phổ biến kỹ thuật canh tác, cung cấp

giống cây con có năng suất, cách đưa khoa học vào sản xuất... Các linh mục còn đứng ra

tổ chức, giáo dân trong làng tương trợ nhau trong sản xuất và đời sống.

Như vậy, dưới tác động của đạo Công giáo, ở một phương diện nào đó đã có

những đóng góp tích cực vào đời sống kinh tế của người giáo dân Bana, góp phần làm

thay đổi tập quán sản xuất cũ lạc hậu, năng suất thấp và đem tới những yếu tố mới, hiện

đại phần nào giúp cho đời sống vật chất của giáo dân được cải thiện. Nhưng ở phương diện

khác, đạo Công giáo cũng đem lại những yếu tố bất lợi hay kìm hãm quá trình phát triển

kinh tế, là nguyên nhân của sự trì trệ, nghèo đói. Có thể thấy qua các biểu hiện sau đây:

Sự cản trở lớn nhất trong phát triển kinh tế là vấn đề tăng dân số nhanh ở vùng

đồng bào có đạo. Giáo hội Công giáo ở Kon Tum, không cho phép giáo dân của mình

thực hiện các biện pháp tránh thai do ủy ban Kế hoạch hóa gia đình triển khai. Họ cho

rằng làm như vậy là phạm vào giáo lý, cho nên ở vùng có đạo việc vận động triển khai

chương trình hạn chế sinh đẻ ít mang lại hiệu quả, tỷ lệ sinh ở những nơi này bao giờ

cũng cao hơn nhiều so với các nơi không có đạo, mỗi gia đình có từ 5-10 người con là

phổ biến. Do dân số tăng nhanh, số ruộng rẫy trung bình trên đầu người ngày càng thu

hẹp dần, có một nghịch lý là các làng ở gần vùng thị xã, gần người Kinh đời sống lại khó

khăn hơn ở những vùng xa, bởi họ thiếu đất để sản xuất. Chỉ xét riêng về cuộc sống

thường ngày với cái ăn, ở, đi lại không thôi thì chủ trương này của giáo hội càng làm cho

cuộc sống của giáo dân thêm nghèo khó.

Trong đời sống, việc đạo đã chiếm phần lớn thời gian của giáo dân không kể

những buổi đọc kinh hàng ngày, riêng lễ ngày chủ nhật và các lễ trọng khác buộc giáo

dân phải tham gia, điều này làm ảnh hưởng đến thời gian sản xuất nhất là trong những

tháng mùa vụ. Nương rẫy người Bana hiện nay ở cách nhà khá xa, đường đi lại khó khăn,

thông thường đến mùa rẫy đồng bào làm trại, ăn ở tại chỗ để khỏi tốn thời gian đi lại.

Nhưng các ngày lễ buộc họ phải về nhà thờ, có lễ kéo dài 2-3 ngày, phải bỏ việc đồng

áng, như vậy sẽ ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Những vùng ở xa khi về thị xã tham

dự lễ ngoài chuyện mất thời gian còn tốn tiền đi lại và ăn uống.

Ngoài ra, tư tưởng trong giáo lý và giáo luật của đạo Công giáo vốn không

khuyến khích sự phát triển kinh tế như một số tôn giáo khác, đạo Công giáo có khuynh

hướng lý tưởng hóa cuộc sống thanh bần. Điều này đã đem đến cho giáo dân tư tưởng thụ

động, chờ đợi và an bài với cuộc sống hiện tại. Tin mừng Chúa Giêsu theo thánh Matthêu

(Mt 6, 26-33): "Hãy xem chim trời, cúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho;

Thế mà cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quí giá hơn chúng hay

sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ

một gang không ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm hoa huệ ngoài

đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi; Thế mà,

thầy bảo cho anh em biết: ngay cả Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng

bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào bờ, mà thiên Chúa

còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin ! vì thế, anh em đừng

lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặt gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm

kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cầu tất cả các thứ đó. Trước hết hãy tìm

kiếm nước thiên Chúa và đức công chính của người, còn tất cả những thứ kia, người sẽ

thêm cho" [41, tr. 23].

2.2. ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với đời sống chính trị

Trước khi có đạo Công giáo, ở người Bana tồn tại duy nhất một tổ chức là làng

(plây), mọi người trong làng đều bình đẳng, và tính dân chủ làng xã được coi trọng, xã

hội chưa nảy sinh quan hệ bóc lột, tự do cá nhân được tôn trọng. Nhưng dưới ảnh hưởng

của đạo Công giáo và chủ nghĩa thực dân, xã hội cổ truyền của người Bana đã có những

thay đổi rất căn bản.

Trước hết làm thay đổi cơ cấu xã hội cổ truyền, trước thế kỷ XIX ở xã hội Bana

chưa có sự phân hóa giai cấp, đã xuất hiện người giàu, người nghèo nhưng chưa có quan

hệ bóc lột. Một thiểu số người do có nhiều lao động, có kinh nghiệm sản xuất, làm ăn

giỏi nên có của cải dư thừa. Số đông còn lại, chủ yếu sống bằng nghề nương rẫy và khai

thác tự nhiên, cuộc sống tạm đủ ăn. Xã hội cũng chia ra hai tầng lớp, tạm gọi là tầng lớp

trên và tầng lớp dưới: Tầng lớp trên gồm các thành phần là chủ làng và bộ máy giúp việc

cho chủ làng như thầy cúng, thủ lĩnh quân sự, chủ rừng hay cả một hội đồng già làng, họ

là những người có vị thế và quyền uy đối với tất cả dân làng nhưng chủ yếu là về mặt

tinh thần, còn cuộc sống vật chất không cách biệt mấy với dân làng. Còn tầng lớp dưới là

tất cả những thành viên còn lại và họ phải chịu sự lãnh đạo, điều hành của tầng lớp trên.

Đến khi Pháp thống trị, sự phân hóa giàu nghèo trong dân làng được đẩy mạnh,

số người giàu có thường là những công chức, những chân tay của Pháp đứng ra làm

chánh tổng, lý trưởng, những sĩ quan, binh lính nhiều quyền hành, chức sắc của đạo Công

giáo, một số ít là thương nhân... do được chính quyền thực dân Pháp ưu đãi, được cấp

nhiều ruộng đất và nhiều bổng lộc khác, họ trở thành tầng lớp người giàu, có nhiều đặc

quyền đặc lợi và đối lập với quảng đại quần chúng nhân dân. Các hình thức bóc lột cũng

được du nhập từ xã hội bên ngoài vào (cho vay nặng lãi, mua bán ruộng đất, cho cấy rẽ

thu tô...), với những đặc quyền của bộ máy chính quyền, đã phá vỡ dần tổ chức và quan

hệ xã hội cổ truyền Bana, nhất là những vùng quanh thị trấn, thị xã, dọc các trục đường

giao thông. Đồng thời với quá trình này là quá trình làm thay đổi tổ chức cổ truyền của

người Bana, làng được xác định bởi một ranh giới nhất định, ở đó người dân có quyền sử

dụng đất đai rừng rú, nguồn nước, săn thú, đánh cá... khi người Pháp, thành lập các tổng,

các huyện thì những đơn vị hành chính trên làng đó được áp đặt không còn dựa trên địa

giới của làng cổ truyền.

Đồng thời thiết chế xã hội cổ truyền xóa bỏ và được thay bởi một thiết chế xã hội

mới có lợi cho chính quyền đang cai trị. Vai trò của già làng, hội đồng già làng, thủ lĩnh

quân sự... có những thay đổi rất lớn. Hình ảnh một vị già làng đầy quyền uy không còn

mấy ảnh hưởng trong đời sống cộng đồng. Bộ máy điều hành lãnh đạo của làng dần được

thay thế những nhân tố mới với các vai trò, chức năng khác nhau. Bên cạnh già làng, lúc

này có thêm những chức danh mới.

+ Giáo phu (thầy giảng), đại diện cho giáo hội coi sóc phần hồn cho giáo dân,

người thay mặt cho linh mục giảng dạy giáo lý, truyền bá đức tin và thực hiện các nghi lễ

cần thiết khi không có linh mục. Tuy chỉ lo việc đạo nhưng thực tế tiếng nói của giáo phu

có vai trò quyết định đối với các vụ việc xảy ra trong làng.

+ Lý trưởng, chánh tổng là các chức danh do nhà nước thực dân bổ nhiệm. Họ là

người đại diện cho Nhà nước để cai trị dân làng.

+ Già làng, bây giờ không còn là tổng chỉ huy cao nhất, quyết định mọi vấn đề

của làng nữa. Vai trò của ông được thu hẹp lại trong một số lĩnh vực như giải quyết

những tranh chấp, kiện tụng và các vấn đề khác theo luật tục.

Ba chủ thể này, mỗi người phụ trách một lĩnh vực của cuộc sống nhưng không vì

thế mà đi đến phân rẽ, chống đối nhau. Mỗi khi có việc chung của làng cần phải giải quyết,

đều có sự bàn bạc thống nhất từ phía ba vị này. Dân làng trước đây chỉ chịu sự lãnh đạo từ

một chủ thể (già làng), nay một lúc chịu sự chi phối bởi ba "trung tâm quyền lực" này.

Như vậy, tính dân chủ từ thiết chế truyền thống mang lại đã bị thiết chế xã hội mới vi

phạm.

Trước khi có đạo Công giáo đến Tây Nguyên và Kon Tum đã từng xảy ra nhiều

cuộc chiến tranh tàn sát lẫn nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác, thậm chí giữa các

làng có cùng dân tộc. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến xung đột nhưng hậu quả của nó để

lại thật tàn khốc (ngoài những thiệt hại về con người, của cải điều quan trọng hơn là để

lại mối hận thù, vết thương khó hàn gắn). Các nhà truyền giáo, thấy rõ đây thực sự là

chướng ngại cho quá trình phát triển đạo của mình. Với uy tín đã có và tài ăn nói khôn

khéo, các vị thừa sai làm trung gian hòa giải, dàn xếp các vụ tranh chấp, phần nào đã hạn

chế được các cuộc chiến không cần thiết giữa các dân tộc. "Chúng tôi đã không còn ở

trong thời kỳ mà các làng thượng đóng cổng làng trước mũi chúng tôi. Ngày nay, chúng

tôi vào làng nào cũng được, chẳng những thế mà còn được tiếp đãi niềm nở. Từ khi

chúng tôi nói được tiếng thượng, chúng tôi không ngừng bắt chuyện với hết mọi người

chúng tôi gặp mặt. Lần lần, họ đã hiểu lợi ích của chúng tôi đem đến cho họ. Vì vậy mà

bây giờ nhiều người tỏ lòng tin cẩn đối với chúng tôi còn hơn đối với bà con bạn bè. Họ

thường đến hỏi ý kiến của chúng tôi về nhiều việc và phó thác cho chúng tôi lo toan

quyền lợi của họ. Hai làng có chuyện xích mích với nhau chăng, đã đánh nhau chăng ?

Họ đều yêu cầu chúng tôi làm trung gian dàn xếp cho họ, hòa giải mà không làm mất

danh dự phía nào? và không phải là những làng chúng tôi đang ở đã hành động như vậy

mà thôi đâu, có nhiều làng thượng khác ở xa, còn ngoại đạo, cũng đã hành động như thế"

[11, tr. 148].

Khi đạo Công giáo thật sự có chỗ đứng trong dân tộc Bana và một số dân tộc

khác thì hiện tượng xung đột, đánh nhau ở những nơi này dường như vắng bóng. Xuất

phát từ quan niệm những người trong cộng đồng đạo Công giáo đều là anh em và bình

đẳng trước Chúa, nên những làng có đạo thường không có xung đột xảy ra. ở đây còn kể

đến vai trò của các vị linh mục, giáo phu trong việc ngăn ngừa và dàn xếp xung đột.

Tuy nhiên, ở một thời điểm và góc độ khác, đạo Công giáo trực tiếp hoặc gián

tiếp bị các thế lực chính trị lợi dụng vào những mục đích phi tôn giáo. Với chính sách

chia để trị, thực dân Pháp tìm cách gây chia rẽ, khinh miệt, gây hằn thù giữa các tộc

người. Cuộc chiến giữa người Bana và người Xê Đăng, giữa người Bana với người Gia

Rai vào cuối thế kỷ XIX có liên quan dính líu đến đạo Công giáo là thực tế lịch sử. Nhiều

linh mục đã đích thân tham gia cuộc chiến giữa người Bana với người Xê Đăng. Trường

hợp của cố Guerlach là một ví dụ [7, tr. 36].

ở khía cạnh khác, ngoài chính sách gây chia rẽ kích động lòng hận thù giữa các

dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực chính trị trong nhà thờ còn tiêm nhiễm, gieo

rắc tư tưởng chống cộng trong đồng bào giáo dân, đối lập giữa đạo Công giáo với chủ

nghĩa cộng sản, gây tâm lý hoang mang lo sợ cộng sản diệt đạo trong tín đồ. Hình ảnh

người cộng sản và lý tưởng chủ nghĩa cộng sản bị bóp méo, xuyên tạc, nhằm làm cho

giáo dân hiểu sai lệch về Cộng sản đi đến bất hợp tác với cách mạng trong sự nghiệp

đấu tranh giải phóng đất nước. Thực tế trong những năm kháng chiến chống Pháp và

chống Mỹ, những địa bàn có đồng bào theo đạo Công giáo, cán bộ ta khó thâm nhập vào

được. Trên địa bàn Kon Tum đã hình thành hàng loạt họ đạo thực hiện ba không: không

nghe theo cộng sản, không che giấu cộng sản, không tiếp tế cho cộng sản và trở thành

vùng trắng của cách mạng [34, tr. 32].

Ngày nay, tuy Đảng và Nhà nước có chính sách đặc biệt chăm lo đến đời sống

đồng bào có đạo cũng như không đạo ở dân tộc Bana và các dân tộc khác trong tỉnh. Nhưng

để tạo một niềm tin mới trong đồng bào có đạo là không dễ chút nào. Trong khi đó việc

thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo ở một số nơi chưa tốt, càng làm cho lòng tin của

dân đối với Đảng thêm mờ nhạt. Lợi dụng tình hình này, giáo hội Công giáo tăng cường

hoạt động, bằng nhiều hình thức để tranh giành, lôi kéo giáo dân về phía mình.

Ngoài ra, ở các làng theo đạo lâu đời, niềm tin Kitô giáo đã ăn sâu vào đời sống,

họ không lý giải đúng đắn sự đau khổ ở trần gian. Họ cho rằng sự sướng khổ ở trên đời là

do Chúa quyết định chứ không phải xuất phát từ con người. Do đó, ở họ nảy sinh tư

tưởng chờ đợi, thụ động và an phận, mất đi khả năng chủ động, sáng tạo của mình trong

cuộc sống, những tác động này đã kìm hãm đời sống vật chất và tinh thần của người dân,

dẫn đến chỗ khủng hoảng lòng tin, mất lòng tin đối với Đảng, chế độ. Bọn lợi dụng tôn

giáo kích động, thổi phồng ngọn lửa tôn giáo gây mất ổn định chính trị, xã hội ở nhiều

nơi.

2.3. ảnh hưởng của đạo Công giáo với đạo đức, lối sống

Sự hiện diện của đạo Công giáo, cùng với giáo lý, giáo luật, lễ nghi của nó đã

làm thay đổi hẳn lề lối sinh hoạt, cách sống và hành vi ứng xử trong cuộc sống thường

ngày ở những vùng có đạo.

Trước hết, đạo Công giáo đem đến cho cộng đồng dân cư có đạo những quan

niệm hoàn toàn mới mẻ về thế giới. Từ thế giới đa thần, tín ngưỡng vạn vật hữu linh và

hàng loạt những cấm kỵ trong sản xuất, sinh hoạt, đến nay họ tiếp nhận ở đạo Công giáo

một quan niệm về thế giới hoàn toàn khác. Thế giới này là do Chúa sáng tạo nên và chi

phối mọi sự chứ không phải do các thần linh như họ tưởng. Ngay như các thần linh của

họ cũng chỉ là sản phẩm của Chúa, quyền năng của Chúa là vô hạn, không có vị thần

thánh nào sánh bằng. Từ quan niệm thế giới họ đang sống là của thần linh, do thần linh

chi phối, thì nay được thay thế bởi hình ảnh của Chúa. ở trình độ phát triển thấp cộng với

những tập tục nhiều khi rất vô lý đã giam hãm cuộc đời và số phận từng con người trong

cái vòng nghèo đói, bệnh tật, chết chóc và thường xuyên bị đe dọa bởi nhiều hiểm họa

của thiên tai. Có một vị Chúa đầy lòng nhân ái, có nhiều phép màu sẵn sàng đưa tay cứu

giúp họ lúc hoạn nạn và hứa hẹn một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia. ít ra cũng là

chỗ dựa, niềm an ủi để giảm bớt nỗi đau thực tại và nhen nhóm niềm hy vọng một cuộc

sống tốt đẹp trong tương lai. Không ngẫu nhiên mà đạo Công giáo nhanh chóng có được

chỗ đứng trong đời sống tâm linh của dân tộc Bana, vì nó đã đáp ứng được nhu cầu và

khát vọng đó.

Sự có mặt của đạo Công giáo cũng làm cho nếp sống và sinh hoạt của từng cá

nhân và cộng đồng theo một chiều hướng mới có lợi cho sản xuất và đời sống. Lúc này,

họ được giải phóng ra khỏi những ràng buộc của các lễ nghi phiền toái, tốn kém và

những kiêng cữ dần được đẩy lùi khỏi đời sống. Nhịp sống và sinh hoạt trong các làng có

đạo theo những quy định rất chặt chẽ của giáo luật, tín điều của đạo Công giáo. Dần dà

nếp sống mới hình thành và chiếm ưu thế. Nếu các sinh hoạt cộng đồng trước đây diễn ra

chung quanh chiếc nhà rông của làng, nơi được coi là trung tâm văn hóa, xã hội, tín

ngưỡng và là niềm tự hào của dân làng thì nay các sinh hoạt đó được nhà nguyện và nhà

thờ đảm nhiệm với những nội dung và hình thức theo tín điều và lễ nghi của đạo Công

giáo.

Từ chỗ quan hệ giao lưu xã hội khép kín trong nội bộ từng làng, thì nay những

làng có đạo, mối quan hệ này được mở rộng ra với thế giới bên ngoài. Khi đến nhà thờ,

ngoài việc thực hiện các lễ nghi về tôn giáo, các tín đồ còn được tiếp nhận những kiến

thức về xã hội, khoa học từ phía các linh mục, giáo phu. Đây cũng là dịp để họ mở rộng

quan hệ giao lưu với những tín đồ các làng khác, dân tộc khác, qua đó có thể tăng cường

sự học hỏi hiểu biết lẫn nhau, xóa bỏ đi mối nghi ngờ, lòng hận thù có thể có trong quá

khứ, giúp họ gần gũi và thông cảm nhau hơn. Như vậy thông qua các sinh hoạt ở nhà thờ

cũng giúp họ nâng cao tầm nhận thức về thế giới và xã hội, cũng như mở rộng quan hệ xã

hội ra khỏi phạm vi của làng mình.

Ngoài ra, nhà thờ cũng rất chú ý phát triển hệ thống trường học ở các xứ đạo để đào

tạo các trí thức trẻ người dân tộc. Không nằm ngoài mục đích phát triển đạo song cũng

góp phần nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc ít người ở Kon Tum: năm 1909

nhà chung lập trường dạy 30 con trai và 20 con gái Bana; trường của các cha cố tại Kon

Tum - Kon Nôm (Kon Tum cũ); từ 1880 - 1890, mỗi năm cũng chừng 15 học sinh Bana

tới học; trường Cuénot chuyên đào tạo các giáo phu cho người dân tộc [9, tr. 40]. Cạnh

đó còn có các trường do các dòng tu lập ra chủ yếu giành cho học sinh người dân tộc, như

trường tiểu học Kim Phước (dòng Lasan) trường tiểu học Tê-rê-xa (dòng Nữ tu Phaolô);

trường tiểu học Đức bà (dòng Nữ tu thánh Vinh Sơn); trường gia chánh... [3, tr. 40].

Có thể nói, đóng góp đáng kể nhất của đạo Công giáo và của các nhà truyền giáo

nói riêng với đời sống tinh thần dân tộc Bana là họ đã xây dựng được một hệ thống chữ

viết Bana (dựa trên mẫu tự La tinh). Đóng góp này của các nhà truyền giáo có ý nghĩa rất

quan trọng đối với việc nâng cao dân trí, mở ra một cánh cửa cho dân tộc Bana có điều

kiện tiếp thu và giao lưu với nhiều nền văn hóa khác, làm giàu vốn văn hóa của dân tộc

mình đưa nền văn hóa Bana lên một bước phát triển mới. Vào năm 1894, hội thừa sai

Paris đã in cuốn "Giáo lý và kinh cầu nguyện" bằng tiếng Bana ở Hồng Kông

(Dourisboure: Hiamarmãbơtho tơdrong Balângpang tơdrongKlop). Từ đó đến nay chữ

viết Bana đã được dùng để giảng dạy cho con em Bana, nhiều tác phẩm văn học như sử

thi, chuyện kể, thơ ca... được viết bằng tiếng Bana lưu truyền cho đến ngày nay. Điều đó

đã góp phần vào việc bảo tồn những giá trị văn hóa, bản sắc dân tộc đang có nguy cơ bị

tấn công của lối sống xa lạ từ bên ngoài.

ở xã hội cổ truyền người Bana, những chuẩn mực đạo đức, các giá trị truyền

thống được đề cao và có cả hệ thống luật tục, quy ước để bảo vệ, mỗi một thành viên

trong cộng đồng đều có ý thức tự giác chấp hành và tuân thủ nghiêm ngặt những luật tục

đã quy định. Bất cứ ai vi phạm đều có hình thức xử phạt theo hành vi phạm tội và bị dư

luận dân làng lên án. Tuy cuộc sống kinh tế khó khăn nhưng ở người Bana có được một

trạng thái xã hội ổn định, có kỷ cương. Khi vào xã hội người Bana, đạo Công giáo không

có ý xóa bỏ những điều có lợi này mà góp phần củng cố thêm những chuẩn mực đạo đức

đã có bằng các quy chuẩn về lề luật, các giới răn... với quan niệm "Chúa ở khắp mọi nơi,

Chúa thấu hiểu mọi việc", vì vậy khi có một hành vi phạm giới răn hay vô đạo đức dù kín

đến đâu thì thiên Chúa cũng biết tất cả. Nhờ có "cơ chế" kiểm tra này mà các tín đồ

không dám vượt quá giới luật để phạm tội.

Trong quan niệm của Kitô giáo, thượng đế là cái tồn tại tuyệt đối, là ý thức tuyệt

đối, là chủ thể tuyệt đối. Thượng đế do vậy, vừa là khách thể, vừa là chủ thể của mọi mối

quan hệ giá trị. Những giá trị tôn giáo, mặc dù như Mác nói, chỉ là "những bông hoa giả",

tôn giáo chỉ là "hạnh phúc hư ảo", là "mặt trời hư ảo", nhưng lại được giáo dân tiếp nhận

một cách thành tâm và với một trạng thái tinh thần hoàn toàn thỏa mãn.

Ngoài hệ thống giá trị, tôn giáo còn xây dựng hệ thống chuẩn mực nhằm củng cố

niềm tin vào những giá trị siêu nhiên thông qua hành vi thờ cúng. Những chuẩn mực tôn

giáo điều chỉnh cả hành vi xã hội con người

có đạo. Các mối quan hệ của họ trong đời sống, trong gia đình, và tất

nhiên cả trong quan hệ đạo đức. Vì với tính chất cả một hình thức thế giới quan, tôn giáo

không thể trả lời những vấn đề đạo đức, nghĩa là không bao chứa những giáo lý này có

tác động quan trọng đến hành vi xã hội của con người thông qua một hệ thống khá phức

tạp và đa dạng những đều răn dạy và cấm đoán.

Tất nhiên trong hệ thống những giá trị chuẩn mực tôn giáo, ngoài những đều

khuyên răn, cấm đoán tạo nên nội dung riêng của đạo đức tôn giáo, còn có những đều

khuyên răn và cấm đoán không hề có nội dung tôn giáo, mà là biểu hiện của các mối

quan hệ thuần túy trần thế. Chúng chỉ gắn một cách hình thức với các giáo lý tôn giáo.

Thí dụ, những đều răn dạy trong một số tôn giáo như: "Hãy kính trọng người già", "Làm

điều thiện tránh điều ác", "Không ăn cắp, ăn trộm", "Không cướp của giết người"...

những chuẩn mực đạo đức này vẫn luôn có ý nghĩa trong đời sống đạo đức của mọi xã

hội [48, tr. 153-154].

Do đó, ở các làng có đạo, hiện tượng ăn cắp, đánh nhau, say rượu... ít xảy ra hơn

so với các làng ngoại đạo khác, nó đã góp phần tạo nên một trạng thái xã hội ổn định và

hướng thiện. Cuộc vận động xây dựng làng văn hóa mới, các chủ trương chính sách của

Đảng và Nhà nước được giáo dân hưởng ứng nhiệt tình, hơn cả một số làng có công trong

kháng chiến (họ thường có tư tưởng công thần và ỷ lại). Trong các làng có đạo, ta còn

thấy được cuộc sống đạo đã tạo nên mối quan hệ hòa hảo, đoàn kết gắn bó giữa các tín

đồ. Mặc dù giữa các thành viên không hoàn toàn bình đẳng về hoàn cảnh kinh tế, cũng

như vị thế xã hội, nguồn gốc xuất thân. Nhưng trước Chúa họ là những người anh em

Kitô hữu, có quyền bình đẳng như nhau. Thêm nữa hàng loạt mối liên hệ, quan hệ đủ loại

hỗ trợ làm cho sự cố kết càng bền chặt hơn. ý thức cộng đồng buôn làng sống động trên

cơ sở đó.

Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, đạo Công giáo đã gây ra những tác dụng ngược

chiều, những hạn chế mà trong quá trình xây dựng xã hội mới cần phải khắc phục dần.

Đạo Công giáo có đem lại cho tín đồ Bana một nhận thức mới về thế giới, nhưng

thực sự cái thế giới mà đạo Công giáo xây dựng rất xa lạ với cuộc đời thực, có tác dụng

an ủi hơn là giải quyết các vấn đề của cuộc sống đặt ra. Chính nơi đây lại có quan hệ

đóng kín nhất, tư tưởng cách mạng và xã hội chủ nghĩa là những vấn đề còn khá xa lạ với

nhận thức của đồng bào, con người không lý giải đúng đắn sự đau khổ ở trần gian, với họ

sự sướng khổ, hạnh phúc hay bất hạnh đều tùy thuộc nơi Chúa và Chúa đã sắp đặt trước,

con người không thể làm gì khác hơn ngoài sự khuất phục, chờ đợi sự cứu rỗi ở thế giới

khác. Người ta không hiểu được rằng tất cả các đau khổ ở đời đều xuất phát từ nguyên

nhân kinh tế- xã hội của cuộc sống thực ở trần thế này gây ra. Do đó, họ không tìm ra con

đường đi đúng để cải tạo cuộc sống, giảm bớt những nguyên nhân gây ra sự đau khổ ở

đời. Cũng xuất phát từ quan niệm như vậy, nên con người có tư tưởng an bài, chờ đợi sự

ban phát và sắp đặt sẵn, mất đi khả năng chủ động, sáng tạo của mình, lâu ngày đã ăn sâu

vào tư tưởng của từng con người và tạo ra một nếp nghĩ, cách sống, lối sống thụ động

buông xuôi, dễ dàng chấp nhận bất công, thủ tiêu đấu tranh vươn lên cải tạo thế giới, xã

hội để xây dựng cho mình một cuộc sống tốt đẹp hơn.

2.4. ảnh hưởng của đạo Công giáo đối với văn hóa - nghệ thuật

Điều dễ nhận thấy nhất là sự có mặt của đạo Công giáo đồng nghĩa với sự mất đi

hàng loạt các lễ hội truyền thống. xét về khía cạnh nào đó, nó dẹp bỏ được tập tục mê tín,

tốn thời gian và của cải khá lớn phục vụ cho việc lễ hội. Nhưng mặt khác, nó lại phủ nhận

các lễ hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. ở các dân tộc Tây Nguyên nói

chung và dân tộc Bana nói riêng có rất nhiều lễ hội cá nhân, gia đình hoặc của cộng đồng,

hầu như quanh năm người ta sống trong không khí lễ hội, đình đám. Thông qua các hình

thức lễ hội này, tính cộng đồng được củng cố, các giá trị văn hóa được bảo tồn và cũng

qua đây con người muốn gửi gắm tâm tư, khát vọng của mình vào trong ấy. Từ bao đời,

lễ hội đã có tác dụng nuôi dưỡng tâm hồn, tính cách người Bana. Qua bao nhiêu thăng

trầm, biến thiên của lịch sử, nền văn hóa ấy vẫn trường tồn và khẳng định một bản sắc

riêng rất độc đáo.

Dưới tác động của đạo Công giáo, các lễ hội này đã biến dạng rất nhiều. Đơn cử

như lễ hội bỏ mả, một hình thức lễ hội đặc trưng nhất của người Bana thể hiện ở chỗ số

người tham dự đông nhất, thời gian chuẩn bị và thời gian lễ hội kéo dài nhất, đồng thời

cũng tốn kém nhiều nhất: "Lễ hội bỏ mả của người Bana thường kéo dài từ 3-5 ngày. Để

có lễ hội đó, trước đây từ 1-2 tháng (tùy theo điều kiện của từng gia đình có thể làm được

nhà mả loại nào) chủ nhà đã phải sẵn sàng có gà, heo, bò, trâu, rượu và gạo: Chuẩn bị gỗ,

tre... để làm nhà mả; báo tin cho họ hàng và bà con các làng lân cận đến dự... Nếu chỉ

thoáng thấy công việc chuẩn bị, nhất là chỉ đứng ngoài nhìn vào những ngày lễ đó thì có

người sẽ kinh hãi và ắt nghĩ rằng, phải tốn kém nhiều lắm cho công việc này: Hàng trăm

người đến dự và ăn uống suốt 3- 4 ngày liền, hàng chục người chặt gỗ, đẽo cột, tạc tượng

hàng tháng ròng... Quả thật nếu chỉ có gia chủ chi cho tất cả chừng ấy người ăn uống thì

chắc chắn không mấy ai, thậm chí kể cả những người có của cũng không tài nào kham

nổi. ấy thế mà, từ bao đời nay, người Bana vẫn làm bỏ mả; mà lễ bỏ mả nào cũng đông

vui như hội. Chủ nhà có thịt gà, heo, thậm chí bò, trâu, có đem hàng chục ché rượu ra đãi

khách, nhưng hầu như để cúng tế và "làm quà" cho khách mỗi người một gói thịt nhỏ

đem về. Còn thì mỗi người đến dự đều đem theo những ống cơm lam, những ống thịt và

một vài ché rượu đến góp vui với gia chủ. Số cơm rượu và thức ăn của mỗi người đem

đến đều thừa đủ cho người đó trong mấy ngày lễ hội.

Khách đến dự lễ còn đem theo những bộ cồng chiêng tốt nhất, hay nhất của nhà

mình, làng mình để góp vui. Những người đi đẵn gỗ, tạc tượng làm nhà mả, những người

giúp việc nấu nướng, phục vụ... đều là những người tự nguyện giúp công. Mỗi người đến

dự, đặc biệt là họ hàng bà con gần gũi... tùy theo khả năng của mình đều có sự giúp đỡ

gia đình chủ lễ bằng gạo hoặc gà, heo, thậm chí cả trâu, bò..." [13, tr. 69].

Qua lễ bỏ mả của người Bana, ta thấy rằng nó vừa thể hiện tính nhân văn cao cả,

tính cộng đồng sâu sắc, vừa thể hiện tính thẩm mỹ, nghệ thuật độc đáo của người Bana với

các tượng nhà mồ, được nhiều người biết đến và ngợi khen. Thế nhưng, ở vùng Bana theo

đạo không còn thực hiện lễ này nữa. Người chết được tập trung ở một nghĩa địa riêng, lễ

bỏ mả được thay bằng hình thức tảo mộ hàng năm và đọc kinh cầu nguyện. Nhà mồ và

tượng nhà mồ, nay được thay thế bởi cây thánh giá. Còn các lễ hội khác chỉ còn là ký ức

mờ nhạt của dân làng. Nhiều người được hỏi, nhất là thế hệ trẻ, họ không còn hình dung

được ở dân tộc mình đã có những lễ hội nào. Giờ đây họ chỉ nhớ và quan tâm đến các ngày

lễ bên đạo. ở làng và từng gia đình hàng năm cũng có tổ chức những bữa liên hoan trong

những dịp thu hoạch xong, về nhà mới, Tết năm mới, lễ Nô-en... Cũng có giết mổ trâu, bò,

lợn, dê... nhưng để ăn mừng với nhau là chính chứ không thực hiện phần lễ hội như trước.

Nói đến văn hóa Bana cũng như văn hóa Tây Nguyên mà quên cồng chiêng là

một thiếu sót lớn. Cồng chiêng được coi như một thứ ngôn ngữ âm nhạc không thể thiếu

được trong mỗi cuộc đời của người Bana. Từ khi sinh ra cho đến khi về với đất, suốt

cuộc hành trình của con người, vui cũng như buồn đều có cồng chiêng chia sẻ. Đúng như

giáo sư Tô Ngọc Thanh nhận xét: "Trong văn hóa phần lớn các dân tộc Tây Nguyên,

cồng chiêng đóng vai trò quán xuyến cuộc sống con người. Với quan niệm cộng đồng

gồm 2 nửa - hôm qua và hôm nay - thế giới hữu hình luôn có quan hệ với thế giới vô hình

mà cồng chiên với âm thanh và với sức mạnh thiêng của nó, là cầu nối... Hầu như mọi hoạt

động văn hóa đều có cồng chiêng. Đón con người vào đời là nhạc cồng chiêng, lại cũng nhạc

cồng chiêng sẽ tiễn đưa con người ấy đến huyệt mộ để rồi trong lễ bỏ mả, linh hồn con

người đi theo tiếng cồng chiêng mà về với "nửa cộng đồng hôm qua". Có thể nói, cuộc

đời con người Tây Nguyên dài theo tiếng cồng chiêng" [37, tr. 464-465].

Nhưng ngày nay, ở các buôn làng Bana có đạo hầu như vắng bóng tiếng cồng

chiêng đã từng một thời vang lên trong những đêm lễ hội, những cuộc ăn mừng chiến

thắng, có cả tiếng cồng chiêng tiễn con người đi vào cõi hư vô. Nay lễ hội không còn thì

cồng chiêng cũng đi vào dĩ vãng. Sau Công đồng Vatican II và gần đây hơn, giáo hội ở

Kon Tum có chủ trương đưa cồng chiêng vào các lễ trong nhà thờ nhưng đã tách biệt với

không gian văn hóa của nó, nên "văn hóa cồng chiêng" trở nên lạc điệu, không hòa nhịp

được với cuộc sống vốn đa chiều, sôi động của buôn làng.

Nói đến văn hóa Tây Nguyên không thể không nói đến nhà rông. Nhà rông

không chỉ là một sản phẩm văn hóa đã được sáng tạo từ lâu đời mà còn rất độc đáo

mang sắc thái địa phương rất rõ rệt. Nó như là một biểu tượng của Tây Nguyên, nhà

rông vẫn là một cái gì thiêng liêng cao quý và rất đỗi thân thương, không thể thiếu

trong đời sống xã hội và tinh thần của cư dân Bana. Về mặt công năng, nhà rông đảm

nhận nhiều chức năng khác nhau của đời sống dân làng: Nhà rông như một trụ sở của

bộ máy quản trị; một trung tâm chỉ đạo sản xuất và chiến đấu; là một nhà khách của

buôn làng; là một nhà tập thể của những chàng trai chưa vợ, tối đều tới ngủ ở đây; như

là một trường học của những con trai làng, hàng ngày họ đến đây để học tập kinh

nghiệm từ những người lớn truyền dạy cho; nhà rông như là một câu lạc bộ của buôn

làng, như cuộc kể chuyện, nhảy múa, biểu diễn cồng chiêng cùng với những làn điệu

dân ca diễn ra tại nơi đây; nhà rông như là một trung tâm sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng.

Mọi nghi lễ, hội hè đều được tổ chức tại đây; nhà rông như là một trung tâm cộng cảm

của buôn làng. Mỗi con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay đã có biết

bao mối quan hệ thông qua hoạt động những sinh hoạt cộng đồng ở nhà rông, nhà rông

đã như là tiếng gọi kết đoàn, sợi dây ràng buộc cái tình nghĩa cộng đồng đã được hình

thành từ bao giờ [43].

Thật đáng tiếc, chiếc nhà rông biểu tượng cho văn hóa, niềm tự hào của người

Tây Nguyên đã mất dần ở những làng Bana có đạo Công giáo. Số ít làng còn giữ được

nhưng công dụng và chức năng của nó không còn như xưa nữa. ở đây tất cả các sinh hoạt,

lễ hội người ta tập trung đến nhà nguyện, nhà thờ. Còn chiếc nhà rông gần như vật kỷ

niệm không còn tác dụng mấy đối với họ. Nhà nước và kể cả giáo hội cũng có chủ trương

khôi phục lại các nhà rông đã mất, tiền của và công sức bỏ ra nhiều nhưng hiệu năng lại

kém, xa lạ với người dân.

ở đây ta cũng ghi nhận một điều rằng, dân tộc Bana không chỉ biết tiếp thu ảnh

hưởng đạo Công giáo mà còn có tình hình ngược lại là đạo Công giáo trong quá trình

xâm nhập vào dân tộc Bana đã vay mượn, tiếp biến văn hóa Bana, làm cho hình ảnh của

đạo Công giáo trở nên gần gũi với người Bana hơn. Hay nói cách khác văn hóa Bana có

tác động ảnh hưởng ngược lại đối với đạo Công giáo.

Để cắm rễ vào mảnh đất này, các cố đạo đã đành lòng phải địa phương hóa đạo

Công giáo, ở các vùng đồng bào theo đạo, hệ thống huyền thoại cổ truyền đã bị xuyên

tạc, giải thích lại, hệ thống tín ngưỡng đa thần đã dần dần biến thành hệ thống độc thần

mà vị Giàng tối cao đó là Giêsu Chrirt. Biến một Ađam và Eva thành Bốcxơgơr, biến

Chúa Giêsu gần như một Bốcglái, biến câu chuyện xây Tháp Ba-ben trong kinh thánh

giống na ná truyện tại sao các dân tộc nói tiếng khác nhau và cư trú các vùng khác nhau

[44, tr. 156-157]. Từ sau Công đồng Vatican II, Thiên Chúa giáo càng mạnh dạn thúc đẩy

quá trình thích nghi và hội nhập văn hóa dân tộc. Tại một số làng theo đạo, các nghi thức

đâm trâu được đưa vào lễ thánh Mi sa; các linh mục đã đưa thơ ca dân tộc vào các lễ thức

ban phép cho nhà mới, lễ tạ ơn được mùa [31]. Đối với các lễ nghi liên quan đến đời sống

như hôn phối, mai táng thì đạo Công giáo vẫn chấp nhận lễ thức cổ truyền, như hôn lễ

được cử hành theo giáo luật, bí tích hôn phối, kết hợp với lễ nghi dân tộc (như trao nắm

cơm và chân gà cho nhau biểu thị cho tình yêu chung thủy và bền vững). Đặc biệt, thánh

ca được dịch ra tiếng Bana và được hát trong các ngày lễ trọng cùng với cồng chiêng thay

cho nhạc cụ xa lạ với văn hóa dân tộc Bana; tiếng và chữ Bana được sử dụng để đọc kinh

và thực hiện các nghi lễ khác trong nhà thờ (trước đây chỉ được dùng tiếng La tinh). Một

số nhà thờ, nhà nguyện được xây dựng theo kiểu kết hợp giữa kiến trúc phương Tây với

kiến trúc cổ truyền dân tộc, tạo nên nét độc đáo riêng có ở Kon Tum. Bên cạnh những

tranh tượng mang nội dung tôn giáo, trong nhà thờ còn có những họa tiết khắc chạm, theo

mô típ hình họa thường thấy trên nhà cửa, vải vóc, đồ dùng của người Bana, càng làm

tăng lên vẻ đẹp quyến rũ. Tóm lại, khác với đạo Tin Lành vào Tây Nguyên, đạo Công

giáo không phủ nhận hết hoặc có những hành động quá khích như đạo Tin Lành đã từng

làm khi đến một dân tộc nào đó, khiến cho nền văn hóa dân tộc đó bị "Tin Lành hóa" hay

bị khúc xạ đi thành một thức văn hóa xa lạ với chính dân tộc mình. Tuy nhiên, đạo Công

giáo cũng làm biến dạng đi rất nhiều đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của người

Bana, đã để lại những di căn khó khắc phục trên con đường phát triển và hội nhập ngày

hôm nay. Vấn đề bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thực sự có những trở ngại

hơn so với các cộng đồng dân cư khác.

Chương 3

Những giải pháp khắc phục ảnh hưởng

của đạo Công giáo đối với đồng bào dân tộc Bana tỉnh Kon Tum hiện nay

Từ những ảnh hưởng tích cực, cũng như tiêu cực của đạo Công giáo đối với dân

tộc Bana, luận văn sẽ trình bày những giải pháp chính để vừa phát huy mặt tích cực, vừa

hạn chế mặt tiêu cực của nó. Trong quá trình trình bày luận văn sẽ đi vào từng nhóm vấn

đề cụ thể, sát với tình hình thực tiễn đang diễn ra trong đời sống hiện nay của đồng bào

dân tộc Bana có đạo. Thông qua các nhóm vấn đề này nhằm đạt mục đích đưa ra những

giải pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của đạo Công giáo trong đời

sống của đồng bào Bana hiện nay.

3.1. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội

Để khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực và phát huy những yếu tố tích cực của

đạo Công giáo trong đời sống dân tộc Bana hiện nay. Thiết nghĩ, vấn đề cần phải làm đầu

tiên là phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào có đạo, để họ có được cuộc sống no ấm,

hạnh phúc thực sự là ở trần thế do con người tạo ra chứ không phải ở lực lượng nào khác.

Muốn xóa bỏ hạnh phúc hư ảo ở thế giới bên kia thì phải xây dựng hạnh phúc thực sự ở

thế giới hiện thực. Vì vậy, công việc đầu tiên là phải tập trung cải thiện và nâng cao đời

sống cho đồng bào có đạo, đó cũng là tiền đề cho những việc tiếp theo.

Vấn đề bức xúc và nổi cộm nhất hiện nay là vấn đề đất đai và quyền sở hữu về

đất đai. Vì các làng Công giáo được phân bố bao quanh thị xã, các trục lộ giao thông

quan trọng. Trong khi đó sự bùng nổ dân số của cư dân bản địa, cùng với sự gia tăng dân

số cơ học của các khu kinh tế mới từ dưới đồng bằng lên và sự mở rộng các nông trường

quốc doanh càng làm cho vấn đề đất đai trở nên nóng bỏng. ở các vùng dân tộc Bana

quyền sở hữu về đất đai đã được xác lập trong lịch sử, theo những cộng đồng dân cư nhất

định và quyền đó được tôn trọng theo tập quán dân tộc. Nhưng trải qua thời kỳ chiến

tranh loạn lạc và sau ngày đất nước hòa bình là phong trào hợp tác hóa nông nghiệp gây

ra những xáo trộn lớn về đất đai, quyền sở hữu truyền thống đã bị phá vỡ. Bên cạnh đó,

các khu kinh tế mới được hình thành với chủ trương là phân bố lại dân cư và khai thác

tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Nhưng trong quan niệm của những

người đi phát triển kinh tế mới ở Tây Nguyên như đi vào vùng đất mới vô chủ, không có

ai sử dụng, mặc sức lấn chiếm khai phá. Trực tiếp gây ra những xung đột, tranh chấp

không đáng có làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng. Các cơ sở quốc

doanh đã khoanh vùng quản lý những phạm vi đất đai màu mỡ, thuận lợi, nhiều khi là

những vùng mà một số làng thượng đang làm đất thổ cư và đất canh tác, rồi yêu cầu họ

chuyển cư đi nơi khác ít màu mỡ và ít thuận lợi hơn. Tình hình đó đã gây nên tâm lý bị

chiếm đất sinh nhai và vô hình chung đã dồn họ vào rừng sâu hẻo lánh. Một thực tế đáng

lo ngại hiện nay là lợi dụng những lúc khó khăn của đồng bào dân tộc, một số người Kinh

đã mua đất, thuê đất với giá rẻ càng làm cho diện tích canh tác thu hẹp dần và biến họ

thành những người đi làm thuê ngay chính trên mảnh đất của họ.

Do vậy, để phát triển kinh tế và ổn định đời sống của đồng bào, thiết nghĩ, điều

cần kíp trước tiên là giải quyết vấn đề đất đai. Phải khẳng định quyền sử dụng đất cho

từng cá nhân. Từ đó làm cơ sở cho việc định canh, định cư, cho việc sản xuất theo hướng

lâu dài, chấm dứt tình trạng xâm chiếm đất đai của các cơ quan, nông trường, khu kinh tế

mới đảm bảo quyền sử dụng đất đai của người dân trong phạm vi làng xóm của họ đã

được chính quyền địa phương và Nhà nước quy định.

Tiếp theo là giao đất sản xuất nông nghiệp, giao đất khoán rừng ổn định cho

đồng bào. Đối với người nông dân miền núi, đất rừng là tư liệu sản xuất, là phương tiện

quan trọng nhất để tự tạo việc làm, tìm kiếm thu nhập nâng cao đời sống của mình và gia

đình. Việc giao đất sản xuất nông nghiệp, giao đất khoán rừng ổn định lâu dài, giúp đồng

bào sản xuất và tự vươn lên thoát cảnh đói nghèo là cần thiết. Giao đất, giao rừng cho họ

sẽ gắn trách nhiệm của họ với mảnh đất và khu rừng, họ sẽ không phát nương làm rẫy

làm cạn kiệt tài nguyên rừng và hủy hoại môi trường, dần dần họ có ý thức được giá trị

của mảnh đất và khu rừng được giao. Nguồn thu nhập của đồng bào khi được giao đất

giao rừng là lấy từ rừng, nên chính sách lâm nghiệp cũng phải tính đến nhu cầu của đồng

bào và giải quyết những nhu cầu dân sinh. Khi đồng bào làm chủ đất rừng thì không

những làm cho đất tái sinh, mà còn bộc lộ nhiều khả năng sáng tạo của đồng bào. Phát

triển kinh tế hộ gắn với giao đất giao rừng là giải pháp mang lại hiệu quả kinh tế cao, phù

hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Bana nói riêng và các dân tộc ở

Kon Tum nói chung.

Giải pháp về hỗ trợ vốn song song với quá trình hướng dẫn cách làm ăn. Tập

quán ở đồng bào dân tộc là sản xuất ra bao nhiêu thì tiêu thụ hết bấy nhiêu không có ý

thức tích lũy để tái mở rộng sản xuất, muốn phát triển sản xuất thì cũng không có vốn

để đầu tư. Những hộ nghèo phải vay các hộ giàu với lãi suất rất cao hoặc bán rẻ lúa, hoa

màu non để sống thì không thể nói đến đầu tư cho sản xuất. Do vậy cần có tổ chức hệ

thống ngân hàng tín dụng hỗ trợ người nghèo, bao gồm các ngân hàng nông nghiệp,

ngân hàng cổ phần, hợp tác xã tín dụng và tất cả các hình thức góp vốn của cộng đồng.

Như vậy, sẽ loại trừ được nạn cho vay nặng lãi và bán lúa, hoa màu non của đồng bào,

và điều quan trọng là có vốn để cho người nghèo là đồng bào dân tộc đầu tư sản xuất

kinh doanh vươn lên xóa đói giảm nghèo.

Tuy nhiên, đối với đồng bào dân tộc, khi được vay vốn thường họ không biết sản

xuất mà sử dụng vào việc tiêu dùng, đến hạn trả nợ không có để thanh toán. Do vậy,

trước khi vay vốn phải hướng dẫn cách làm ăn rồi mới cho vay vốn, nhưng thủ tục phải

thật nhanh chóng, đơn giản và chặt chẽ. Về số lượng vốn vay cho một lượt hộ trong

những năm qua quá ít. Một số đơn vị cho vay từ 300.000-500.000đ/một lượt hộ (như Hội

phụ nữ tỉnh), hộ nhiều là 1,9 triệu đồng (như Ngân hàng phục vụ người nghèo). Thực tế

không đủ chi phí sản xuất trên một vụ, chưa tính đến việc chi phí gối vụ và vốn cần cho

việc xây dựng cơ sở vật chất, chuồng trại chăn nuôi, máy móc nông cụ. Do vậy, phải có

cơ chế cho vay để xóa đói giảm nghèo có số vốn tối thiểu phải được 5 triệu đồng/một

lượt hộ, thời gian vay phải dài khoảng 3- 4 chu kỳ sản xuất cây con tùy theo từng loại.

Sau thời gian đó người nghèo sẽ có phần tích lũy để đầu tư tái sản xuất và hoàn trả vốn

lại cho cơ quan quản lý vốn. Có như vậy mới xóa đói giảm nghèo cho họ được.

Đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật và nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc

Bana có đạo: Tuy sống gần thị xã, gần các điểm thuận lợi về giao thông, đồng bào có

điều kiện học tập và tiếp cận được nhiều thông tin, tri thức so với các vùng sâu, vùng xa.

Nhưng nhìn chung mặt bằng dân trí vẫn còn thấp, những tri thức về khoa học kỹ thuật

xâm nhập vào đời sống chưa nhiều. Đây cũng là nguyên nhân của sự đói nghèo, bởi vậy cần

phải có chương trình đào tạo, hướng dẫn cách làm ăn kinh tế. Trước hết dạy cho họ biết

thâm canh tăng năng suất cây trồng (vì đồng bào không có tập quán bón phân chuồng cho

cây trồng). Trong khi đó phân gia súc để trong làng bản gây ô nhiễm môi trường. Chỉ dẫn

cho đồng bào cách chăn nuôi hợp lý, hướng dẫn cho họ hợp tác với nhau trong sản xuất.

Đồng thời, tỉnh có kế hoạch phát triển các ngành nghề phụ truyền thống như nghề rèn, dệt

thổ cẩm, nghề gốm, thủ công mỹ nghệ bán cho khách du lịch hoặc xuất khẩu. Vừa giải

quyết công ăn việc làm tại chỗ, tăng thu nhập, vừa giữ gìn được bản sắc dân tộc.

Các hình thức đào tạo phải thật cụ thể, chi tiết, chỉ dẫn tận tay và thông qua các

mô hình làm ăn giỏi, thông qua các mô hình trình diễn để đồng bào mắt thấy, tai nghe,

lúc đó họ mới thấy được hiệu quả kinh tế và khi có vốn họ sẽ tự vươn lên xóa đói giảm

nghèo.

Để phát triển bền vững, phải phát triển mạnh giáo dục, nâng trình độ dân trí cho

đồng bào. Đây chính là chìa khóa để mở ra cách cửa thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, là

điều kiện để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa vùng đồng bào dân tộc Bana ở Kon

Tum. Thực tế trong những năm qua có gia đình đã được vay vốn nhưng họ không biết

cách làm ăn, không biết sản xuất như thế nào, sử dụng giống cây gì, nuôi con gì nên

không có hiệu quả kinh tế. Do đó làm giảm lòng tin của họ. Trước mắt trong những năm

tới phải xóa nạn mù chữ và chống tái mù chữ, phổ cập tiểu học cho đồng bào dân tộc để

dần dần nâng cao trình độ dân trí đáp ứng với cuộc sống trong xã hội đương đại. Phải có

chính sách khuyến học cho đồng bào, phát triển nhiều hơn các trường phổ thông trung

học nội trú.

Xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phá thế độc canh, áp dụng

giống mới, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển sản xuất

hàng hóa: Vấn đề phát triển xây dựng kết cấu hạ tầng cho đồng bào là đặc biệt quan

trọng, nhất là mạng lưới giao thông phải đi trước một bước. Hiện tại, ở Kon Tum chất

lượng đường xá quá kém, nhiều xã còn chưa có đường ô tô đi vào, hoặc có nhưng chỉ

thông xe được mùa khô. Có vùng gần như tách biệt với xã hội bên ngoài. Do vậy, sản

phẩm nông nghiệp do đồng bào làm ra không bán được cho ai hoặc bán được thì giá cả

cũng rất thấp, không đủ bù đắp chi phí sản xuất và công lao động, vì chi phí lưu thông

sản phẩm và các loại vật tư phục vụ cho sản xuất quá cao. Như vậy là vấn đề quan trọng

là phải thúc đẩy kinh tế ở vùng nông thôn miền núi. Muốn phát triển sản xuất, giao thông

phải đi trước một bước, phải thông xe hai mùa mưa nắng đến tận làng bản.

Đồng bào dân tộc Bana ở Kon Tum trong sản xuất nông nghiệp, từ bao đời nay

chủ yếu là cây lúa rẫy, cây sắn (dùng để chăn nuôi và nấu rượu cần), ngô. Sau này có

canh tác thêm lúa nước, sản xuất mang tính tự cung tự cấp, thực hiện khép kín từ khâu

sản xuất đến tiếp thu chủ yếu trong gia đình, mua bán trao đổi giữa các làng với nhau và

với người Kinh có diễn ra nhưng đang ở trình độ thấp, kinh tế hàng hóa chưa phát triển.

Do vậy, phải kích thích sản xuất hàng hóa, xóa bỏ kiểu kinh tế tự cung tự cấp, chuyển đổi

vật nuôi cây trồng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phá thế độc canh các loại cây lương thực

truyền thống bằng cách cải tạo giống cũ năng suất thấp, đưa giống mới có năng suất cao

vào sản xuất.

Thế mạnh ở đây là rừng, chăn nuôi đại gia súc, và cây công nghiệp như cao su,

cà phê, mía và trồng nguyên liệu cho cây công nghiệp giấy. Trước tiên, cần phải quy

hoạch từng vùng cụ thể nên trồng cây con gì cho phù hợp với điều kiện tự nhiên và thổ

nhưỡng ở vùng đó. Hình thành các trang trại phát triển sản xuất hàng hóa, gắn việc giao

đất khoán rừng, định canh định cư với xóa đói giảm nghèo. Qua khảo sát, mô hình kinh tế

trang trại rất thích hợp với Kon Tum. Kinh tế trang trại có ưu điểm là tận dụng được đất

đai, sử dụng tốt các lao động trong gia đình và lao động trong xã hội. Các chủ trang trại

biết phát huy ý thức tự lực, tự cường, tạo vốn bằng nhiều hình thức tiết kiệm trong sinh

hoạt để tập trung vốn cho sản xuất kinh doanh. Kinh tế trang trại rất thích hợp cho việc

phát triển sản xuất hàng hóa, là mô hình cần thiết để cho đồng bào thoát khỏi đói nghèo.

Nhưng các trang trại ở Kon Tum hiện nay đều do người Kinh lập nên, còn trong đồng

bào dân tộc (kể cả dân tộc Bana sống gần người Kinh nhất) thì chưa ý thức được về hiệu

quả của kinh tế trang trại. Do vậy, trách nhiệm của các cấp chính quyền là phải hướng

dẫn cho họ phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế trang trại gắn với việc giao đất giao

rừng. Đây là xu thế tiến bộ và tất yếu phân công lao động trong nông nghiệp hiện nay.

Tổ chức định canh định cư, tách hộ lập vườn trồng cây công nghiệp, phát triển hệ

thống thủy lợi: phần lớn các làng có đạo đã sống định canh định cư trong những vùng có

điều kiện làm lúa nước. Do sống định cư lâu dài, trong khi đó có những nơi có điều kiện

về đất đai chưa được khai thác. Chủ trương dãn dân, tách hộ lập vườn được đồng bào ủng

hộ. Vườn cổ truyền đã từng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống dân cư. Trừ lương

thực, vườn cung cấp hầu như tất cả nhu yếu phẩm hàng ngày để người dân tự cung tự cấp

và trao đổi. Nay giao thêm chức năng cho mảnh vườn xưa, ngoài chức năng như trước,

còn làm ra các sản phẩm hàng hóa và đi vào chuyên canh một số cây công nghiệp có giá

trị kinh tế cao, tùy theo quy hoạch tổng thể của địa phương. Đi đôi với tách hộ lập vườn

trồng cây công nghiệp cần có nước tưới trong mùa khô (ở Kon Tum khí hậu chia ra hai

mùa rõ rệt, 6 tháng nắng và 6 tháng mưa). Nếu không có nước tưới trong mùa khô thì

việc trồng cây công nghiệp không có hiệu quả, sẽ dẫn tới việc thiếu tin tưởng vào chủ

trương tách hộ lập vườn. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, địa bàn định canh định cư, tách

hộ lập vườn phải là nơi đất tốt, địa thế thuận lợi, gần nguồn nước và được dân làng tán

thành nhất trí.

Về giá cả nông sản, chế biến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cho đồng bào, giá cả

nông sản trên thị trường hiện nay lên xuống thất thường, gây ra những thiệt thòi cho nông

dân nhất là các hộ vay vốn để sản xuất. Đầu vào cho sản xuất thì cao nhưng khi có sản

phẩm để bán giá lại hạ, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ và bị tư thương ép giá. Đến thời hạn

trả nợ ngân hàng, đồng bào buộc phải bán với giá rẻ, nên lỗ so với vốn ban đầu bỏ ra. Để

tránh trường hợp hàng hóa nông sản sản xuất ra không bán được cho ai, Nhà nước cần có

các xí nghiệp chế biến và thu mua sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Khuyến

khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ chế biến nông sản và làm dịch vụ hai đầu cho đồng

bào. Các xí nghiệp vừa và nhỏ tuy ít vốn nhưng lại năng động, giải quyết được nhiều việc

làm, mở rộng thị trường. Đây cũng là giải pháp tích cực để phát huy nội lực và là lối

thoát cho đồng bào khỏi sự ràng buộc trong sản xuất, khắc phục tình trạng tư thương ép

giá và nạn cho vay nặng lãi.

Về chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình, thực tế ở các làng có đạo bao

giờ cũng có mức sinh cao hơn ở các làng khác không có đạo. Cuộc vận động sinh đẻ có

kế hoạch ở những vùng này không mấy thành công. Con đông là nguyên nhân trực tiếp

dẫn đến đói nghèo và các vấn đề xã hội khác trong vùng giáo. Việc đưa chương trình dân

số - kế hoạch hóa gia đình đến với họ và làm cho họ tham gia tích cực, là một biện pháp

rất quan trọng làm giảm mức sinh và xóa đói giảm nghèo. Giải quyết vấn đề này có nhiều

việc phải làm, trước hết giúp họ hiểu biết và thấy được cái lợi trong việc sinh đẻ ít con;

hỗ trợ về các phương tiện, dụng cụ tránh thai, các dụng cụ y tế và thuốc men cần thiết;

phát triển mạng lưới y tế và công tác viên dân số - kế hoạch hóa gia đình đến từng làng

bản vận động và thực hiện các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình tại địa bàn làng, xã để cho

người dân không phải đi xa khi muốn thực hiện kế hoạch hóa gia đình; lồng ghép kế

hoạch hóa gia đình với vay vốn xóa đói giảm nghèo, có ưu tiên hơn cho các gia đình thực

hiện kế hoạch hóa gia đình vay vốn trước. ở đây, vai trò các linh mục xứ trong việc vận

động dân số - kế hoạch hóa gia đình rất quan trọng, nếu được họ chấp nhận các biện pháp

tránh thai hiện đại và tham gia tuyên truyền chương trình này thì kết quả sẽ hơn nhiều lần

cán bộ ta vận động. Do vậy, tỉnh có chủ trương vận động họ tham gia tích cực vào sự nghiệp

chung này. Kinh nghiệm ở một số tỉnh cho thấy, có sự ủng hộ, tham gia của đội ngũ chức

sắc thì công việc được tiến hành thuận lợi và đạt kết quả cao.

3.2. Nhóm giải pháp về chính sách dân tộc và tôn giáo

- Về chính sách dân tộc:

Việc thực hiện chính sách dân tộc ở Kon Tum được đặt trong mối tương quan với

cả hệ thống chung của Đảng và Nhà nước, chính sách dân tộc có nội dung xuyên suốt bao

trùm là: Thực hiện đoàn kết, bình đẳng, hỗ trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển trong sự

nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa đất nước.

Dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó từ lâu đời, tinh thần tương

thân tương ái, đồng cam chịu khổ trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Bọn đế quốc,

phong kiến trước đây luôn thực hiện chính sách "chia để trị", hòng phá vỡ khối đoàn kết

dân tộc, làm suy yếu sức mạnh đoàn kết của nhân dân cả nước để chúng duy trì ách áp

bức bóc lột các dân tộc nước ta. Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu

"Diễn biến hòa bình" tìm cách chia rẽ khối đoàn kết giữa các dân tộc trong nước. Để làm

việc đó, chúng gieo rắc những tư tưởng và tình trạng bất bình đẳng dân tộc, gây nên

những xung đột, hiềm khích, nghị kỵ lẫn nhau. Chúng kích động các mặt tiêu cực của chủ

nghĩa dân tộc hẹp hòi, cho rằng rừng núi là của dân tộc thiểu số, người Kinh lên chiếm

đoạt, phải tiêu diệt họ để lấy chủ quyền của mình, cụ thể như bọn phản động vừa tiến

hành ở một số địa phương ở Tây Nguyên vừa qua. Nhưng nhân dân các dân tộc qua thực

tế cuộc sống hiểu rõ là cần phải đoàn kết để đấu tranh với mọi lực lượng thù địch, tiến tới

thực hiện quyền làm chủ và sự bình đẳng của mình. Khối đoàn kết dân tộc trở nên bền

vững và có sức mạnh khi thọ thực sự tôn trọng quyền bình đẳng và quyền làm chủ của

nhau [32, tr. 45].

Để củng cố, xây dựng bền vững khối đoàn kết giữa các dân tộc ở Kon Tum cũng

như các tỉnh khác, đòi hỏi chúng ta giải quyết hàng loạt nhiệm vụ nhằm nâng cao đời

sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, đồng thời phải thường xuyên nâng cao

cảnh giác chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động và thù địch lợi dụng các

vấn đề liên quan đến dân tộc, quan hệ dân tộc nhằm thực hiện "Diễn biến hòa bình", chia

ré sự thống nhất đoàn kết vốn có trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Với phương

châm "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện tốt chính

sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là tạo điều kiện phát triển sự thống nhất,

đoàn kết các dân tộc, xây dựng đất nước phồn vinh đưa lại cuộc sống ấm no hạnh phúc

cho đồng bào các dân tộc.

Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là một trong nội dung cốt yếu về

chính sách dân tộc cuả Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Do nhiều nguyên nhân khách quan

và chủ quan, trong cộng đồng dân tộc Việt Nam nói chung và ở Kon Tum nói riêng, tình

trạng chênh lệch còn rất lớn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội... nên trong thực tế

việc thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc vẫn còn những vướng mắc nhất định.

Bình đẳng dân tộc là quyền của mọi dân tộc, không phân biệt đa số hay thiểu số,

trình độ kinh tế, văn hóa cao hay thấp... Quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả

các lĩnh vực trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Tôn trọng quyền bình đẳng

giữa các dân tộc, là điều kiện để các dân tộc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển,

khắc phục dần trình độ chênh lệch như hiện nay. Nhưng trên thực tế "duờng như sự bình

đẳng dân tộc mới đạt về mặt chính trị, còn chưa thực sự bình đẳng về kinh tế, mức độ

hưởng thụ về vật chất và tinh thần. Đời sống của đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa,

biên giới, những vùng căn cứ kháng chiến cũ còn nhiều khó khăn" [32, tr. 54]. Để đảm

bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần thực hiện đồng bộ các chính sách lớn trên các

phuơng diện: kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội.

Về kinh tế: Hỗ trợ những điều kiện cần thiết để đồng bào phát huy tiềm năng và

nguồn lực sẵn có đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế hàng hóa, từng bước

khắc phục sự chênh lệch còn khá lớn về tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay.

Về phương diện chính trị: Xây dựng thiết chế xã hội mới đảm bảo quyền làm chủ

của nhân dân, phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân

trực tiếp tham gia giám sát và quản lý nhà nước ở làng xã. Chú ý quan tâm đến công tác

đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ người địa phương...

Về phương diện văn hóa: Giữ gìn bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển văn

hóa dân tộc trong mối quan hệ kết hợp truyền thống và hiện đại, nâng cao trình độ dân trí,

trình độ văn hóa cho nhân dân, đồng thời đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, chống văn

hóa lai căng, chống sự đồng hóa về văn hóa...

Về phương diện xã hội: Triển khai có hiệu quả các chính sách về: xóa đói giảm

nghèo, chính sách tạo việc làm, chính sách đền ơn đáp nghĩa, chính sách bảo trợ xã hội,

chính sách kế hoạch hóa dân số, phòng chống các dịch bệnh, chống tệ nạn xã hội...

Như vậy, có thực hiện được quyền bình đẳng giữa các dân tộc thì mới xây dựng

được khối đại đoàn kết dân tộc và phát huy quyền làm chủ của mỗi người dân, "sự thống

nhất biện chứng của đoàn kết, bình đẳng, cùng làm chủ đã đem lại những lợi ích thiết

thân của các dân tộc cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất

nước" [32, tr. 46].

Giúp đỡ lẫn nhau là nội dung cụ thể của đoàn kết dân tộc. Cả đồng bào Kinh và

đồng bào thiểu số đều coi giúp đỡ nhau cùng có lợi chứ không phải ban ơn cho nhau.

Không ít người còn hiểu lầm nội dung dân tộc đa số giúp đỡ, dìu dắt dân tộc thiểu số, nên

có thái độ "kẻ cả", "dân tộc lớn", thiếu tôn trọng dân tộc thiểu số. "Những người này

không hiểu được rằng, nhờ đồng bào các dân tộc bao nhiêu đời nay chăm sóc, bảo vệ

rừng núi, bảo vệ cách mạng, đến nay họ mới được tự do đi lại, tự do khai thác, sinh sống

bình đẳng bên cạnh đồng bào các dân tộc" [32, tr. 57]. Sự giúp đỡ của Nhà nước, của các

tỉnh bạn miền xuôi đã ít lại không đúng lúc, thiếu kịp thời, thiếu công bằng, còn gây

nhiều phiền phức, có nơi bị bọn xấu lợi dụng sơ hở chiếm đoạt nên không đến tay người

cần giúp đỡ.

Sự giúp đỡ về vật chất khi gặp khó khăn là cần thiết, nhưng quan trọng hơn là

qua sự giúp đỡ đó thì đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được nâng lên. Thiết

nghĩ không chỉ có cân gạo, bát muối lúc thiếu thốn là đủ, mà có sự trợ giúp trên nhiều

lĩnh vực của cuộc sống. Trên cơ sở đó đồng bào tự vận động đi lên và bắt kịp với nhịp độ

chung của đất nước, đó mới là điều quan trọng.

- Về chính sách tôn giáo:

Kon Tum là địa bàn có nhiều tôn giáo (Công giáo, Phật giáo, Tin Lành, Cao

Đài), riêng đạo Công giáo có số lượng tín đồ chiếm 28% dân số toàn tỉnh, trong đó

khoảng 78,3% [5], giáo dân là người dân tộc thiểu số. Do vậy, việc thực hiện chính sách

tôn giáo ở Kon Tum có những đặc thù riêng so với các nơi khác. Trong những năm qua,

tình hình tôn giáo ở Kon Tum có những biến chuyển khá phức tạp. Sự phục hưng của đạo

Công giáo với số lượng tín đồ trở lại đạo và tham gia sinh hoạt đạo ngày càng đông ở

vùng các dân tộc ít người. Sự phát triển đạo Tin Lành không bình thường mà đối tượng

chủ yếu là người dân tộc vùng sâu, vùng xa. Hiện tượng đòi lại đất, xin xây nhà thờ, nhà

nguyện... khá phổ biến. Trước tình hình này, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể đã

cùng nhau phối hợp giải quyết những vụ việc diễn ra hàng ngày và thực hiện đúng chủ

trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo. Nhờ vậy giữ được tình hình

an ninh ổn định, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa trên địa bàn. Song

trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ những hạn chế cần nghiêm túc đánh giá, rút kinh

nghiệm. Riêng đối với đạo Công giáo, chúng ta thấy nổi lên những vấn đề chính sau:

- Trước hết, nhận thức của đa số cán bộ đảng viên trong hệ thống chính trị đối

với tôn giáo nói chung, và với đạo Công giáo nói riêng còn có những định kiến hẹp hòi,

mặc cảm, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực, hạn chế. Nên khi giải quyết các vấn đề có liên quan

đến đạo Công giáo còn cực đoan, phân biệt đối xử và có hành động o ép những tín đồ

ngoan đạo, từ đó tạo sự chống đối không cần thiết giữa đạo Công giáo với chính quyền.

Nguyên nhân của tình trạng trên là đa số cán bộ đảng viên kể cả những người trực tiếp

làm công tác tôn giáo các cấp phần nhiều chưa qua đào tạo về chuyên môn, chưa nắm

vững đường lối chính sách của Đảng, những quy định của nhà nước đối với hoạt động tôn

giáo. Nên những hiểu biết về tôn giáo và chính sách tôn giáo còn bất cập, dẫn đến xử lý

các vấn đề về tôn giáo và đạo Công giáo còn lúng túng nhiều khi vi phạm những quy

định của nhà nước, để lại những ấn tượng không tốt đối với tín đồ và chức sắc.

- Đối với công tác vận động quần chúng tín đồ đạo Công giáo ở Kon Tum và

đồng bào dân tộc Bana nói riêng chưa được các cấp chính quyền quan tâm đúng mức,

mới chú ý đến bề nổi chưa đi vào chiều sâu, nội dung và hình thức hoạt động còn đơn

điệu, chưa gắn với từng đối tượng cụ thể, phương thức tuyên truyền chưa phù hợp với

tâm lý, phong tục tập quán, trình độ của đồng bào. Giải quyết chưa kịp thời những

nguyện vọng chính đáng của giáo dân về việc đạo cũng như việc đời, nên chưa thu hút

được đông đảo quần chúng có đạo tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đa số tín đồ còn hiểu biết quá ít về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, những

quy định của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, do đó, giáo dân thường có tư tưởng tự

ti, mặc cảm gây ra sự hiểu lầm, nghi ngờ không cần thiết.

- Về công tác tranh thủ, phân hóa hàng ngũ chức sắc, thật sự chưa đạt được kết

quả như mong muốn. Số giáo sĩ tiến bộ, có tinh thần dân tộc, có thiện cảm với cách mạng

chưa được quan tâm đúng mức để xây dựng họ thành hạt nhân cho công tác đấu tranh

chống địch lợi dụng đạo Công giáo. Vì vậy, họ bị giáo hội cô lập, làm mất tác dụng và

ảnh hưởng đến các giáo sĩ khác có xu hướng tích cực ủng hộ cách mạng. Một số cán bộ

do sẵn có mặc cảm với các giáo sĩ của đạo Công giáo, nhìn họ với cặp mắt thiếu thiện

cảm, điều này đã tạo ra một khoảng cách trong quá trình tiếp xúc. Việc giải quyết các nhu

cầu chính đáng của giáo hội cũng như của các giáo sĩ chưa kịp thời, thỏa đáng. Nhiều nơi

còn vi phạm chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, vi phạm quy định của nhà nước đối

với các hoạt động tôn giáo. Việc tiếp xúc với các giáo sĩ để làm công tác tranh thủ thiếu

chương trình, kế hoạch vì vậy, hình thức tiếp xúc khô cứng, nội dung nghèo nàn chưa có

tính thuyết phục.

Để khắc phục những tồn tại và tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa những chủ trương,

chính sách của Đảng và nhà nước về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Kon Tum nói chung và đối

với đồng bào dân tộc Bana theo đạo Công giáo nói riêng. Chúng ta tập trung làm tốt

những việc sau:

- Về nhận thức, trước hết cần quán triệt sâu sắc trong cán bộ đảng viên, nhất là

những người trực tiếp làm công tác tôn giáo thấy được rằng, tôn giáo là một hiện tượng

xã hội còn tồn tại lâu dài, không dễ dàng mất đi theo ý chí chủ quan của một chủ thể nào

đó. Đây thật sự là vấn đề cần thiết, chỉ khi nào nhận thức đúng đắn về vấn đề này thì khi

đó mới có cơ sở khoa học để giải quyết các vấn đề khác có liên quan đến tôn giáo.

Đã có một thời, người ta nghĩ rằng, tôn giáo là hình thái ý thức xã hội đã lỗi thời

và lạc hậu, nó sẽ mất đi nhanh chóng trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội vì nó

không còn cơ sở để tồn tại. Nhận thức này đã dẫn đến tư tưởng nóng vội, muốn loại bỏ

tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội càng sớm càng tốt. Nhưng trong thực tế tôn giáo không

mất đi nhanh chóng như chúng ta tưởng mà có xu hướng hồi phục trên toàn cầu và ngay

cả ở Việt Nam cũng có tình hình như vậy. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội do con

người sáng tạo nên tồn tại với xã hội loài người cho đến ngày hôm nay, mặc dù những

điều kiện sinh ra nó có thay đổi nhưng tôn giáo luôn tìm cách thích nghi để tồn tại. Chỉ

đến khi nào con người không chỉ nhận thức được quy luật và vận dụng nó mà có khả

năng làm chủ được hoàn toàn tự nhiên, xã hội và bản thân, khi xã hội không còn áp bức,

bất công, bóc lột và mối quan hệ giữa người với người là bình đẳng, sống nhân ái phải

chăng tôn giáo khi đó mất đi hoặc có một diện mạo khác ngày nay. Trong thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vẫn còn những cơ sở kinh tế - xã hội để niềm tin tôn giáo

tồn tại. Sự sai sót, tiêu cực trong quản lý, những tệ nạn xã hội, sự phân hóa giàu nghèo

trong kinh tế thị trường, sự xuống cấp về đạo đức, văn hóa truyền thống bị mai một, văn

hóa lối sống lai căng xâm nhập tràn lan.. đó là những điều kiện thuận lợi cho việc phục

hồi và phát triển tôn giáo trong đó có đạo Công giáo.

Từ việc khẳng định sự tồn tại lâu dài của tôn giáo nói chung và đạo Công giáo

nói riêng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, coi tín ngưỡng tôn giáo là

nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước đã ban hành những

chính sách, quy định mới nhằm đáp ứng nhu cầu giải quyết vấn đề tôn giáo, trong đó có

đạo Công giáo. Đây là cơ sở quan trọng cho việc nhìn nhận và giải quyết vấn đề tôn

giáo trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Do vậy, vấn đề quan trọng có tính quyết định là

nhận thức đúng những nội dung cơ bản, chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà

nước để tránh tình trạng không thống nhất về nhận thức đánh giá tình hình, nhận thức về

chủ trương và các giải pháp cụ thể dẫn đến thiếu đồng bộ trong tổ chức thực hiện, gây

mất lòng dân, tạo cớ cho kẻ thù lợi dụng.

Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị ra ngày 16/10/1990 về: "Tăng cường công tác

tôn giáo trong tình hình mới" đã khẳng định ba quan điểm quan trọng, thể hiện rõ nét

những tư tưởng đổi mới của Đảng về vấn đề tôn giáo là:

- Công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần

chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng. Tôn giáo

là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận

nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.

- Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.

- Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị.

Vận động quần chúng tín đồ là nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo. Trong

công tác vận động quần chúng theo đạo Công giáo ở vùng dân tộc ít người có những đặc

điểm riêng so với các cộng đồng dân cư khác. Mức độ tin theo đạo ở họ rất cao, ảnh

hưởng của các giáo sĩ trong đời sống giáo dân rất lớn, họ được coi là những "cha thiêng

liêng" thay mặt Chúa coi sóc phần hồn cho con "chiên" vì vậy, họ rất được kính trọng và

vâng lời. Mặt khác, dưới chủ nghĩa thực dân đế quốc, tư tưởng "chống cộng" được thổi

phồng và xuyên tạc làm cho hình ảnh người cộng sản, chủ nghĩa xã hội dưới cái nhìn của

giáo dân là một tác nhân phá đạo, diệt đạo. Sau mấy mươi năm giải phóng nhưng trong

giáo dân vẫn có người còn thành kiến, chưa thật sự tin Đảng và Nhà nước. Do vậy, yêu

cầu nhiệm vụ cách mạng hàng đầu hiện nay là tăng cường công tác tuyên truyền giáo

dục, nâng cao nhận thức cho đồng bào giáo dân.

Cần làm cho đồng bào thấy rõ Đảng và Nhà nước luôn chăm lo đến phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào và chứng

minh cho đồng bào hiểu chỉ có Đảng và Nhà nước mới đem lại cho họ cuộc sống ấm no

hạnh phúc chứ không có lực lượng nào khác. Đồng thời cũng nói rõ cho đồng bào hiểu

rằng đất nước ta trong giai đoạn hiện nay còn nhiều khó khăn nhưng vẫn dành phần ưu

tiên để phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc ít người. Chỉ ra những thuận lợi khó khăn

của đất nước và hướng giải quyết để đồng bào thấy trách nhiệm của mỗi người dân đối

với đất nước. Giúp đồng bào giáo dân xác định con đường đi đúng đắn là chỉ có theo con

đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của đảng mới đem lại cuộc sống ấm no hạnh

phúc, sống "tốt đời, đẹp đạo".

Chúng ta tiếp tục tuyên truyền để quần chúng thấy rằng Đảng, Nhà nước luôn tôn

trọng quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, coi tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu

của một bộ phận quần chúng và còn tồn tại lâu dài. Đảng và Nhà nước không coi chính

sách tôn giáo là sách lược tạm thời mà là chiến lược lâu dài. Chính sách nhất quán của

Đảng và Nhà nước ta từ xưa đến nay và trong tương lai là luôn tôn trọng quyền tự do tín

ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân. Giải thích cho đồng bào thông suốt rằng có

hiện tượng một số cán bộ cơ sở có những việc làm vi phạm quyền tự do tín ngưỡng là do

họ chưa hiểu và làm chưa đúng chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Thông

qua các tổ chức quần chúng thường xuyên tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật về

tôn giáo đến từng người dân với phương châm "mưa lâu thấm đất", tránh làm theo kiểu

phong trào, chiến dịch.

Trong tuyên truyền, giáo dục vận động quần chúng cũng cần nói rõ để quần

chúng biết được âm mưu thủ đoạn hoạt động lợi dụng tôn giáo của bọn phản động và các

thế lực thù địch. Chỉ cho đồng bào thấy đâu là việc lợi dụng tôn giáo của kẻ xấu để hoạt

động chính trị phá hoại đất nước, đâu là hoạt động tôn giáo bình thường. Thấy được âm

mưu lợi dụng tôn giáo vào mục đích phi tôn giáo thì quần chúng tự giác đấu tranh, phê

phán ngăn chặn những việc làm sai trái của bọn phản động và bảo vệ cái đúng.

Đi đôi với việc tuyên truyền vận động quần chúng tín đồ, chúng ta vận động, tập

hợp quần chúng giáo dân tham gia các tổ chức đoàn thể. Nhìn chung, hoạt động của các

tổ chức đoàn thể quần chúng như đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân... ở vùng

đồng bào giáo dân Bana còn là hình thức, kém hiệu quả. Đây cũng là tình hình chung ở

các vùng dân tộc ít người khác trong tỉnh. Nội dung và hình thức hoạt động còn nghèo

nàn thiếu thiết thực và chưa phù hợp với đối tượng là người dân tộc ít người, do vậy,

chưa thật sự lôi cuốn quần chúng tham gia thường xuyên. Trong khi đó giáo hội có nhiều

hình thức hoạt động phong phú có sức cuốn hút nhiều đối tượng quần chúng tín đồ tham

gia. Đặc biệt đối tượng thanh thiếu niên và phụ nữ được giáo hội rất quan tâm. Thanh

thiếu niên được coi là tương lai của giáo hội, đạo còn tồn tại lâu dài hay không là ở thanh

thiếu niên: "Thà mất ngôi thánh đường, còn hơn mất tâm hồn trẻ thơ". Người phụ nữ dân

tộc có vai trò và vị trí rất lớn trong cộng đồng và gia đình, họ có tinh thần tín ngưỡng rất

cao, luôn mong muốn giữ cho mọi người trong gia đình không được lơ là việc đạo. Vì

vậy, công tác đối với phụ nữ và thanh thiếu niên ở đây có ý nghĩa rất quan trọng. Thực tế

cho thấy những tổ chức đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, hội nông dân một số nơi có

đồng bào theo đạo Công giáo hoạt động mang lại hiệu quả là những phong trào thường

gắn với quyền lợi thiết thực nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho hội viên

như phong trào xóa đói giảm nghèo, phong trào phụ nữ giúp nhau làm kinh tế, phong trào

câu lạc bộ thanh niên ở các làng với nội dung hoạt động phong phú, bổ ích đã thu hút

nhiều thanh thiếu niên tự nguyện tham gia. Qua các phong trào này, thiết nghĩ nên có

tổng kết, xây dựng thành mô hình mẫu và nhân rộng ra các nơi khác có điều kiện tương

tự.

Công tác đối với chức sắc đạo Công giáo, tầng lớp giáo sĩ (giám mục, linh mục,

phó tế) của đạo Công giáo giữ vai trò hết sức quan trọng, không những trong đời sống

đạo mà cả phần đời của giáo dân, với tư cách là người cha "linh hồn" là bề trên của giáo

dân nên hàng ngũ giáo sĩ được tín đồ tôn sùng và tin theo. Do đó, cần hết sức coi trọng

công tác vận động tranh thủ các chức sắc trong đạo Công giáo. Thực tế cho thấy, ở đâu

làm tốt công tác vận động được các giáo sĩ tích cực ủng hộ thì ở đó công tác vận động

giáo dân đạt kết quả. Ngược lại, nơi nào coi nhẹ, làm chưa tốt công tác này thì công tác

vận động quần chúng giáo dân gặp nhiều khó khăn.

Trong công tác vận động, tranh thủ hàng ngũ giáo sĩ Công giáo cần thực hiện

phương châm gần, hiểu, cảm hóa, thuyết phục, làm thay đổi nhãn quan chính trị của họ,

từ những người không đồng tình chống đối trở nên đồng tình ủng hộ sự nghiệp cách

mạng của Đảng và tham gia đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước. Cần nắm chắc

thái độ chính trị của từng giáo sĩ, trên cơ sở đó đề ra kế hoạch, biện pháp tranh thủ cho

phù hợp. Trong quá trình tranh thủ phải vận dụng linh hoạt giữa vận dụng rộng rãi và vận

động cá biệt, tổ chức các cuộc họp mặt với các giáo sĩ bằng hình thức thích hợp để phổ

biến đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Tổ chức gặp gỡ cá biệt để

động viên, giải quyết những vướng mắc của từng giáo sĩ, tạo ra bầu không khí hiểu biết

lẫn nhau giữa chính quyền và các giáo sĩ trên địa bàn mình quản lý.

Trong tầng lớp giáo sĩ có nhiều thành phần khác nhau, nên việc vận động tranh

thủ hàng ngũ này phải có những phương pháp khác nhau cho từng loại đối tượng.

Đối với số giáo sĩ tiến bộ, có tinh thần dân tộc, chúng ta tích cực thường xuyên

động viên khuyến khích phát huy vai trò của họ trong việc đạo cũng như việc đời, quan

tâm giúp đỡ họ tham gia vào sự nghiệp chung thích hợp với khả năng, điều kiện của từng

người tạo điều kiện cho họ nắm vững những vị trí then chốt trong giáo hội để góp phần

lèo lái hoạt động của giáo hội theo chiều hướng tiến bộ và ngày càng gắn với dân tộc và

Tổ quốc.

Đối với giáo sĩ lưng chừng, cần tăng cường công tác tranh thủ, kéo họ ngả hẳn về

phía ta, không để họ bị các phần tử chống đối lôi kéo, mua chuộc. Chúng ta nắm chắc diễn

biến tư tưởng của từng giáo sĩ kịp thời phát hiện âm mưu lôi kéo của kẻ địch, nắm bắt

những vướng mắc trong tâm tư tình cảm của họ để tháo gỡ tạo điều kiện cho công tác

tranh thủ đạt hiệu quả.

Đối với số giáo sĩ bảo thủ cực đoan (thường là số chức sắc lớn tuổi) chúng ta

kiên trì tiếp cận thuyết phục có lý, có tình. Gần gũi để hiểu và cảm hóa họ thay đổi dần.

Nếu ai có thái độ chống đối, ta vừa đấu tranh, vừa lôi kéo làm cho họ giảm dần hành

động chống đối. Có kế hoạch theo dõi hành động của họ để lúc tiến hành đấu tranh mới

đạt hiệu quả cao.

3.3. Nhóm giải pháp về văn hóa

Lịch sử ra đời và phát triển của các tôn giáo cho thấy bất kỳ tôn giáo nào khi có

mặt trong một quốc gia, một dân tộc thì mối liên hệ của nó dưới những hình thức và mức

độ khác nhau với quốc gia dân tộc là có tính tất yếu. Xuất phát từ bản chất xã hội của tôn

giáo, mỗi tôn giáo đều tồn tại trong một quốc gia, một dân tộc nhất định và chịu sự tác

động bởi những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của dân tộc đó. Không có tôn

giáo nào nằm ngoài con người và con người luôn luôn thuộc về một quốc gia, dân tộc, thời

đại đó. Chính những điều kiện khách quan của xã hội, dân tộc quyết định sự tồn tại biến đổi

của tôn giáo. Do vậy, tôn giáo muốn tồn tại luôn phải gắng chuyển đổi cho thích nghi với

trình độ phát triển xã hội và tâm linh tôn giáo của cộng đồng, phải dân tộc hóa. Ngược lại

tôn giáo thông qua các chức năng của mình có tác động trở lại đối với xã hội dân tộc. Nó

không chỉ chi phối ý thức hệ của cộng đồng mà còn có cả phương diện khác từ chính trị,

kinh tế, thiết chế xã hội, đạo đức lối sống, văn hóa nghệ thuật.

Có thể nói một cách đại thể rằng, quan hệ tôn giáo dân tộc là quan hệ đa chiều

giữa hai hiện tượng xã hội phức tạp về mặt cấu trúc. Sự tác động giữa chúng là sự tác

động tương hỗ vừa có khả năng thúc đẩy lẫn nhau, vừa có khả năng kìm hãm lẫn nhau.

Mặt khác, sự tác động đó không thuần nhất, vì vậy có khi bị biến dạng qua vô vàn những

tác động khác như lợi ích của giai cấp sử dụng tôn giáo, trình độ người tiếp nhận... nhưng

nhìn chung khi tồn tại trong cộng đồng dân tộc hay quốc gia, dù nội sinh hay ngoại nhập,

tôn giáo bị biến đổi cho phù hợp với nhu cầu tâm linh của dân tộc, nếu không như vậy,

nó sẽ bị dân tộc loại bỏ hay từ chối. Vì vậy, về cơ bản, tôn giáo mặc dù có những vai trò

nhất định đối với dân tộc nhưng nó không thể đứng trên dân tộc. Ngược lại chính dân tộc

sẽ chủ động tiếp nhận hay sáng tạo ra những hình thức tôn giáo nào đó khi nó có nhu cầu.

Tôn giáo bị bản địa hóa và bao giờ nó cũng mang sắc thái riêng biệt của dân tộc dù cho

nó là tôn giáo ngoại sinh.

Đạo Công giáo được truyền sang Việt Nam trong khuôn khổ và kỷ luật cứng rắn

của Công đồng Trento (1545 - 1563) và sau đó là Công đồng Vatican I (1869 - 1870).

Đây là thời kỳ giáo hội có thể nói là đông nhất khắp nơi. ở đâu giáo hội Công giáo cũng

dùng một ngôn ngữ chính thức là tiếng La tinh, đâu đâu hàng giáo sĩ cũng như nhau, ở

đâu cũng là những nghi lễ đó, những nghi thức mà nhiều khi người ta không hiểu nhưng

vẫn nghiêm chỉnh tuân theo, đó là thời kỳ giáo hội đồng nhất, giáo hội mà trong đó các

sắc thái và giá trị địa phương của các quốc gia dân tộc bị đồng hóa với một nền văn hóa

xa lạ từ phương tây. ở Việt Nam người theo đạo phải từ bỏ thờ cúng tổ tiên, các nghi lễ

phong tục thờ cúng khác bị coi là tà giáo... đã gây nên sự xáo trộn lớn về xã hội và tinh

thần của dân chúng. Đã đưa đến những xung đột gay gắt giữa đạo Công giáo với các tôn

giáo truyền thống, giữa người theo đạo Công giáo với người không theo đạo Công giáo,

giữa đạo Công giáo với người cầm quyền... Tình trạng này kéo dài cho đến Công đồng

Vatican II (1962 - 1965), khi giáo hội Công giáo chấp nhận cho phép những người theo

đạo Công giáo được tổ chức và tham dự các nghi lễ tôn kính ông bà tổ tiên theo phong

tục Việt Nam.

Đạo Công giáo đến Tây nguyên trong thời kỳ đầu cùng với tính chất áp đặt cứng

nhắc như vậy, nên bị các dân tộc ở đây phản ứng và từ chối như ở vùng Ê Đê và

Mnông, mãi đến năm 1957 mới rửa tội được 12 người Ê Đê [31]. Riêng ở Kon Tum, việc

truyền đạo vào dân tộc Bana cũng gặp không ít trở ngại khó khăn, buộc các cố đạo trong

hội Thừa sai Paris phải chấp nhận những phương pháp truyền giáo mềm dẻo, linh hoạt,

vượt ra ngoài những quy định của giáo hội. Sự việc này đã đem đến một hệ quả, đạo

Công giáo đã được bản địa hóa phần nào và ngược lại văn hóa Bana cũng bị khúc xạ dưới

ảnh hưởng của đạo Công giáo, tạo nên sự hỗn dung văn hóa giữa dân tộc Bana với đạo

Công giáo. ở đây, tác giả luận văn xin trình bày những nét tương đồng giữa đạo Công

giáo và văn hóa dân tộc Bana nhằm phát huy những mặt tích cực của đạo Công giáo và

đồng thời bảo tồn những giá trị văn hóa dân tộc Bana.

Trong vấn đề hôn nhân gia đình, tuy rằng cuộc sống kinh tế khó khăn nhưng gia

đình của người Bana rất đầm ấm, hiếm thấy các cuộc cãi vã, xô xát nhau giữa các thành

viên trong gia đình. Người già được coi trọng, họ được coi là người có kinh nghiệm,

thường có những ý kiến đúng đắn: Trẻ em được chiều chuộng, ít khi bị đánh mắng. Vợ

chồng hòa thuận, ít có trường hợp phải dẫn đến ly dị. Nét nổi bật trong đời sống gia đình

người thượng là quan hệ hòa thuận, mỗi người tự giác làm ăn sinh sống theo nếp phân

công lao động tự nhiên và theo tập tục cổ truyền, mọi thành viên có trách nhiệm với

nhau, với cuộc sống chung của gia đình. ở đây không phát triển chế độ gia trưởng kèm

theo quyền lực ít nhiều nghiêm khắc, nghiệt ngã, mà cũng không cần đến điều đó để điều

hành sinh hoạt gia đình [27, tr. 108].

Theo quan niệm của đạo Công giáo, gia đình là một cộng đồng yêu thương căn

bản mà thiên Chúa đã sắp đặt cho nhân loại "Thiên Chúa đã đặt gia đình làm nguồn gốc

và nền tảng cho xã hội loài người, nên gia đình trở thành tế bào đầu tiên và sống động

của xã hội..." Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Ê Phê Sô (Ep 5, 21-

22): "Vì lòng kính sợ đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau, người làm vợ hãy tùng

phục chồng, người làm chồng hãy yêu thương vợ như chính Kitô yêu thương hội thánh và

hiến mình vì hội thánh... kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa và đó là

điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, để người được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất

này. Nhưng bậc cha mẹ đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay

mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy" [41, tr. 273].

Ngay từ bài giảng đầu tiên cho những tín hữu dự tòng, các giáo sĩ đã dạy: "Vì

chúng ta có cha mẹ thì mới được thân xác thịt này sinh mà ra chứ ta chịu ơn mẹ vì có

chịu... mà ta ở trong lòng chín tháng mười ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta đoạn, ba năm bú

mớm. Có khi mẹ cất cửa miệng mình mà cho con ăn; cũng có khi mẹ ăn miếng đắng mà

miếng ngon để dành cho con, lại có khi mẹ nằm chỗ ướt mà chỗ khô ráo để con nằm, cha

đẻ con đoạn thì lo cuộc sống. Vì vậy khi thì cha thức sớm mà làm việc, lo việc kia, khi thì

cha chạy ngược chạy xuôi kiếm của mà nuôi con thật con thảo kính cha mẹ thì thậm phải.

Và bằng có ai chẳng thảo kính cha mẹ thì thật có tội trọng" [38].

Gia đình có bền vững êm ấm phải được xây dựng trên một nguyên tắc hôn nhân

truyền thống. Trước khi có đạo Công giáo, ở người Bana, chế độ hôn nhân một vợ một

chồng được xác lập vững chắc từ lâu. Thanh niên nam nữ được tự do tìm bạn đời, họ

không có bị ép duyên, tình yêu của họ được tôn trọng, sự chung thủy trong đời sống vợ

chồng được đề cao. Ngoại tình bị xử phạt rất nặng và bị dân làng lên án, khinh bỉ. Làng

cũng phạt nặng nề của cải vật chất đối với những người khởi xướng ly hôn: "Vợ chồng

lấy nhau được xem như là chuôi với lưỡi dao, như lửa với tro, như người ở chung một

gian, ăn chung một bếp. ít thấy xảy ra ly dị. Việc ly dị không chỉ do họ hàng mà do hội

đồng già làng thu xếp một cách rất thận trọng. Đó là do việc ly dị của hai người thường

dẫn đến sự cắt đứt quan hệ tốt lành giữa cả hai dòng họ. Kẻ gây ra việc ly dị bị xử phạt

rất nghiêm trọng. Người Bana được phép lấy vợ bé với sự đồng ý của vợ cả hoặc trong

trường hợp vợ cả vô sinh hay có bệnh tật điên dại, bại liệt... Chỉ sau khi người chồng hai

vợ chết được hai năm, người góa mới được tái giá" [44, tr. 144-145].

Nguyên tắc hôn nhân của đạo Công giáo là chế độ một vợ, một chồng và chung

thủy suốt đời, khi đã nhận bí tích hôn phối thì hai người không được ly dị dù bất kỳ trong

hoàn cảnh nào. Đạo Công giáo cũng lên án việc ngoại tình dù đó là trong ý nghĩ, "Ai nhìn

người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng cũng ngoại tình với người ấy rồi" (Mt 5, 27-

28). Tin mừng Chúa Giê Su Kitô theo thánh Mác Cô (Mc 10, 2-8): "Có mấy người Pha ri

Siêu đến gần đức Giê Su và hỏi rằng: "Thưa thầy, chồng có được phép rẫy vợ không",

Người đáp: "Thế ông Mô Sê đã truyền dạy cho các ông điều gì?". Họ trả lời: "Ông Mô Sê

cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ". Đức Giê Su nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai

dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Lúc khởi đầu công trình tạo dựng,

thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà

gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt" [41, tr. 272]. Còn cố đạo

Dourisboure, người truyền đạo lên Kon Tum và dân tộc Bana đầu tiên, có nhận xét: "Sự

trung thành của người Thượng trong hôn phối rất đáng khâm phục. Trong hai mươi năm

qua, tôi đã không gặp trường hợp ngoại tình nào trong các làng Công giáo" [11, tr. 204].

Nét đặc trưng cơ bản nhất ở các dân tộc Tây nguyên cũng như dân tộc Bana là tính

cộng đồng rất cao. Mỗi buôn làng là khối cộng đồng cấu kết chặt chẽ nhằm bảo vệ và

tương trợ lẫn nhau. Tinh thần làm chủ tập thể, ý thức tự giác về nhiệm vụ và trách nhiệm

của từng cá nhân đối với cộng đồng được giáo dục ngay từ nhỏ. Có việc vui buồn, hạnh

phúc hay bất hạnh... mỗi người đều nghĩ tới cộng đồng, tìm sự nương tựa và hỗ trợ ở dân

làng. Mỗi cá nhân, dù thuộc gia đình nào, dòng họ nào, đều là thành viên của một buôn làng

và được cộng đồng chia sẻ. Tinh thần cộng đồng làng được xây dựng và củng cố thông qua

các sinh hoạt mang tính chất cộng đồng, luật tục, tập quán...

Đạo Công giáo là một tôn giáo có tổ chức rất chặt chẽ, tất cả những sinh hoạt tôn

giáo đều diễn ra trong một cộng đồng nhất định, cộng đồng Kitô giáo. ở các làng theo đạo, ta

thấy hình thành những cộng đồng làng mà cư trú trên đó là những người có cùng tôn giáo.

Có điều khác với làng truyền thống, bây giờ mối quan hệ được mở rộng ra trong cộng

đồng Kitô bao gồm cả họ đạo, giáo xứ đến cả giáo phận hoặc rộng hơn nữa. Tinh thần cộng

đồng Công giáo được củng cố thông qua các tín điều, giáo luật và các hình thức lễ nghi.

Tinh thần tương thân, tương ái "thương người như thể thương thân" là một nét

đẹp trong đời sống của người Bana, có việc vui buồn, hạnh phúc hay khổ đau, thành công

hay mất mát của mỗi người đều có sự chia sẻ của dân làng. Không ai phải chết đói trong

khi kho thóc nhà khác vẫn còn, không có người sống đơn độc mà không có sự trợ giúp

của người khác. "ít thấy có trường hợp nào người Bana từ chối cho người trong làng

mượn cái chiêng, ché quý các công cụ hay từ chối không cho người khác lương thực hay

thực phẩm. Thế nhưng, ít ai tự ý chiếm đoạt của người khác một cách tự tiện dù chỉ

những vật nhỏ không có giá trị" [44, tr. 131]. Đây cũng chính là điều răn quan trọng nhất

trong các giáo huấn của đạo Công giáo: "Hãy yêu thương anh em như yêu thương chính

mình" (Mc 12/31).

Cuộc sống người Bana tuy nghèo nhưng không vì thế mà xảy ra những hiện

tượng trộm cắp, lừa gạt... bản tính của họ là chân thật, ghét sự gian dối. Khi thiên tai mất

mùa đói kém, thì thà vào rừng kiếm cái ăn chứ không bao giờ nghĩ đến chuyện phải đi

trộm cắp. Bản tính này cũng là điểm gặp gỡ với các điều răn cấm trong đạo Công giáo

như phải tôn trọng sự thật, không được gian dối, không tham lam của người, "một khi cởi

bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói thật với người thân cận, và chúng ta là

phần thân thể của nhau" (Ep 4, 25), "người không được ham muốn vợ người ta, người

không được ước ao nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa bất cứ

vật gì của người ta" [41, tr. 229].

Có thể nói người dân Bana từ khi sinh ra cho đến khi từ biệt cõi trần đã đắm

mình trong không khí lễ hội. Lễ hội đi suốt cuộc hành trình của đời người, đã góp phần

hun đúc lên bản lĩnh, nhân cách con người xứ thượng. Từ lễ hội mạng tính chất cộng

đồng buôn làng đến lễ hội của từng gia đình cá nhân, ở đâu cũng có sự tham gia chứng

kiến của dân làng. ở đạo Công giáo hàng năm cũng có rất nhiều lễ, trong đó có những

ngày lễ trọng được tổ chức trọng thể không khác gì ngày hội của giáo dân. ở mỗi xứ, mỗi

họ đạo đều có một thánh quan thày bảo trợ, ngày lễ quan thày trong năm thực sự như

ngày hội của làng. Nó vừa mạng những nét chung của lễ hội truyền thống, vừa có nét

riêng độc đáo. Góp thêm một sắc thái vào sự phong phú của lễ hội Tây Nguyên.

Chắc chắn còn nhiều điểm chung giữa văn hóa Bana và đạo Công giáo, sẽ tiếp

tục khai thác trong các công trình nghiên cứu khác. Vấn đề ở đây là chúng ta cần có thái

độ cởi mở, sự nhìn nhận khách quan, đánh giá bằng nhãn quan khoa học để có những

biện pháp nhằm mục đích phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực

của đạo Công giáo. Đồng thời góp phần bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Bana

trước hiện tượng mai một về văn hóa dân tộc và sự lai căng văn hóa từ bên ngoài, như

nhận định của Đảng ta trong văn kiện hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW khóa VIII

rằng: "Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối

sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến phong tục của dân tộc..." [17, tr. 46].

Kết Luận

Đạo Công giáo xâm nhập vào vào dân tộc Bana trong bối cảnh lịch sử đầy biến

động và phức tạp, Việt Nam đang đứng trước họa xâm lăng của chủ nghĩa thực dân, dẫn

đến sự cấm đạo ngày càng ráo riết của triều Nguyễn. Bị truy bức dưới đồng bằng, từ lâu

các nhà truyền giáo trong hội Thừa sai Paris đã nghĩ đến việc mở đường truyền đạo lên

miền thượng còn hoang sơ, đồng thời tránh xa tầm kiểm soát của triều nguyễn. Bằng

nhiều nỗ lực và họ đã thành công trong việc mở đường truyền đạo vào các dân tộc Tây

Nguyên trong đó có dân tộc Bana. Nhưng sự thành công đó không dễ dàng chút nào, cái

giá họ phải trả bằng cả tính mạng và sự thờ ơ xa lánh của các tộc người bản địa, ít nhất là

thời gian đầu. Cái mà giúp họ mở rộng được "nước Chúa" trong dân tộc Bana và một số

dân tộc khác ở Tây nguyên là việc làm đầu tiên của họ không phải là rao giảng đức tin

mà bằng một phương pháp khác với việc truyền đạo vào người Kinh ở đồng bằng. Trước

hết các cha cố xâm nhập, tìm hiểu phong tục, tập quán, văn hóa của mỗi dân tộc và cả

học tiếng của người địa phương. Khi có một vị trí nhất định nào đó thì họ có những hành

động, việc làm mang lại những lợi ích thiết thực cho đồng bào như đả phá hủ tục mê tín

dị đoan, dẹp bỏ cúng kiếng tốn kém, đem đến kỹ thuật canh tác mới với năng suất cao,

phát triển làm ruộng nước... những việc làm này thật sự mạng lại cho họ một vị thế mới,

dần dà họ trở thành những người có uy tín và vai trò trong đời sống cộng đồng thì việc

truyền bá niềm tin vào đồng bào không mấy trở ngại. Không lâu sau đó thực dân pháp đặt

nền cai trị lên đất Tây Nguyên, đạo Công giáo được ưu ái và trở thành thế lực có nhiều uy

quyền, dưới thời Mỹ - Ngụy với ý đồ "Kitô hóa" Tây nguyên, thì đạo Công giáo có điều

kiện để phát triển và bành trướng ảnh hưởng của mình ra khắp Tây Nguyên. Ngày nay,

tuy không còn những điều kiện như trước, nhưng đạo Công giáo vẫn có một số lượng

giáo dân lớn trên Tây Nguyên, và ảnh hưởng của nó vẫn còn rất lớn trong các cộng đồng

dân cư, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Sự xâm nhập tồn tại cùng với những tác động, ảnh hưởng của đạo Công giáo đã

làm thay đổi căn bản đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội người Bana có đạo. Sự

tác động này theo hai khuynh hướng vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm, vừa có những yếu tố

tích cực và vừa tiêu cực. Với sự có mặt của đạo Công giáo trong đời sống của người

Bana, đã mang lại những nhân tố mới có ý nghĩa thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, văn

hóa, xã hội. Ngược lại, nó cũng là nhân tố kìm hãm quá trình phát triển, đồng thời phủ

nhận và gạt bỏ những giá trị truyền thống có tác dụng tốt đối với đời sống dân tộc Bana.

Luận văn bước đầu phân tích những ảnh hưởng của đạo Công giáo trên một số lĩnh vực

của đời sống người Bana như kinh tế, chính trị, đạo đức - lối sống, văn hóa - nghệ thuật,

dưới tác động kép của đạo Công giáo để tìm ra những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực,

nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó trong đời sống.

Trên cơ sở đó luận văn nêu ra một số giải pháp chủ yếu và việc thực hiện đồng

bộ các giải pháp trên nhiều lĩnh vực nhằm sớm ổn định và nâng cao đời sống cho đồng

bào, để đồng bào thấy được hạnh phúc là có thực trên trần thế chứ không ở nơi nào khác.

Tăng cường giáo dục và quán triệt sâu sắc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước

về tôn giáo cho đồng bào, làm cho chính sách của Đảng và Nhà nước thật sự đi vào lòng

dân, được giáo dân hưởng ứng. Mặt khác,cần tìm ra tiếng nói chung giữa đạo Công giáo

với văn hóa dân tộc Bana và kết hợp được yếu tố chung, tích cực này vào công cuộc xây

dựng xã hội mới. Làm tốt được các vấn đề nêu trên là yêu cầu và nhiệm vụ cấp bách hiện

nay.

Tài Liệu THAM Khảo

1. Ban Tôn giáo Chính phủ (1999), Một số tôn giáo ở Việt Nam (tài liệu tham khảo lưu

hành nội bộ), Hà Nội.

2. Ban Tôn giáo tỉnh Kon Tum (1997), Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị định

69/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), (21), Kon Tum.

3. Ban Tôn giáo tỉnh Kon Tum (1998), Tôn giáo ở Kon Tum, thực trạng, nguyên nhân

và giải pháp (đề tài khoa học cấp tính), Kon Tum.

4. Ban Tôn giáo tỉnh Kon Tum (1999), Báo cáo công tác tôn giáo năm 1999, (12),

Kon Tum.

5. Ban Tôn giáo tỉnh Kon Tum (2000), Tình hình tôn giáo và công tác quản lý nhà

nước về tôn giáo năm 1999, (11), Kon Tum.

6. Ban Tuyên giáo tỉnh Kon Tum (1997), Kon Tum đất nước con người, Nxb Đà

Nẵng.

7. Ban Tuyên giáo tỉnh Kon Tum (1996), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Kon Tum, tập 1, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Chi cục Dân tộc, định canh định cư tỉnh Kon Tum (1999), Báo cáo về tình hình thực

hiện công tác dân tộc, định canh định cư di dân xây dựng kinh tế mới từ 1992

- 1999, (111), Kon Tum.

9. Võ Chuẩn (1933), Kon Tum tỉnh chí, Kon Tum.

10. Cục Thống kê Kon Tum (2000), Niên giám thống kê năm 1999, Kon Tum.

11. P.Dourisboure (1972), Dân làng Hồ, Sài Gòn.

12. Phan Hữu Dật (1988), Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược

phát triển đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Ngô Văn Doanh (1995), Lễ bỏ mả Bắc Tây Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

14. Ariel Durant (1968), Nguồn gốc văn minh, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.

15. Ariel Durant (1972), Bài học lịch sử, Nxb Lá Bối, Sài Gòn.

16. Nguyễn Hồng Dương (1968), Hoạt động tôn giáo và chính trị của Thiên Chúa giáo

miền Nam thời Mỹ - Ngụy (1954 - 1975), Trường Cao đẳng An ninh nhân dân

II, thành phố Hồ Chí Minh.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung

ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Lê Duy Đại (1990), "Những đặc điểm về cư dân Tây Nguyên", Dân tộc học, (4), tr.

61-70.

19. Bế Viết Đẳng (1984), "Về một số đặc điểm xây dựng của các dân tộc Trường Sơn -

Tây Nguyên", Dân tộc học, (1), tr.11-22.

20. Nguyễn Văn Đông (1998), Tìm hiểu chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đạo

Thiên Chúa giáo, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.

21. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ thứ XIX đến

Cách mạng tháng Tám, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ thứ XIX đến

Cách mạng tháng Tám, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội (1995), Vấn đề dân

tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

24. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Đà Nẵng (1996), Giữ gìn và

phát huy bản sắc văn hóa Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Phạm Quang Hoan, Vũ Đình Lợi (1998), "Gia đình ở các dân tộc Tây Nguyên trong

thời kỳ quá độ", Dân tộc học, (4), tr.19-26.

26. Nguyễn Hồng (1959), Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, quyển 1, Nxb Hiền Tài, Sài

Gòn.

27. Lưu Hùng (1981), Văn hóa cổ truyền Tây Nguyên, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

28. Lưu Hùng (1994), Buôn làng cổ truyền xứ Thượng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

29. Lưu Hùng (1992), "Tìm hiểu thêm về một số khía cạnh của xã hội cổ truyền

vùng Trường Sơn - Tây Nguyên", Dân tộc học, (3), tr.60-71.

30. Đỗ Quang Hưng (1989), Một số vấn đề lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, Tủ

sách Đại học Tổng hợp, Hà Nội.

31. Nguyễn Xuân Nghĩa (1989), "Thiên Chúa giáo và đạo Tin Lành ở vùng các dân tộc

thiểu số Tây Nguyên", Dân tộc học, (4), tr.59-68.

32. Trần Quang Nhiếp (1997), Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

33. Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về

dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Võ Sáu (1998), Đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng đạo Công giáo ở tỉnh

Kon Tum, đảm bảo ổn định chính trị, an ninh quốc phòng ở địa phương, Luận

văn tốt nghiệp cử nhân chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

35. Trần Cao Sơn (1998), Đồng bào Công giáo với chính sách dân số kế hoạch hóa gia

đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

36. Sở Văn hóa thông tin tỉnh Gia Lai - Kon Tum (1993), Nhà mồ và tượng nhà mồ Gia

Lai, Bana. Gia Lai.

37. Tô Ngọc Thanh (1995), "Vùng văn hóa Tây Nguyên", Các vùng văn hóa Việt Nam,

Nxb Văn học, Hà Nội.

38. Huy Thông (2000), "Nét tương đồng giữa văn hóa Công giáo và văn hóa Việt

Nam", Cuộc tọa đàm "Một số vấn đề về văn hóa Công giáo Việt Nam từ khởi

thủy đến đầu thế kỷ XX", Huế.

39. Cao Duy Thuần (1988), Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam 1957 -

1914, Nxb Hương Quê, Paris.

40. Nguyễn Tài Thư (1997), ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với đời

sống con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Tòa giám mục Xuân Lộc (1997), Lớn lên trong Chúa thánh thần, Sài Gòn.

42. Trần Tam Tĩnh (1988), Thập giá và lưỡi gươm, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

43. Nguyễn Khắc Tụng (1988), "Nhà Rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên", Dân tộc học,

(3), tr.59-64.

44. Đặng Nghiêm Vạn (1981), Các dân tộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

45. Đặng Nghiêm Vạn (1984), "Tây Nguyên trên chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá

độ, cần tạo nên một truyền thống xã hội chủ nghĩa", Dân tộc học, (1), tr.23-31.

46. Đặng Nghiêm Vạn (1996), "Bảo vệ và phát triển di sản văn hóa của các dân tộc thiểu

số miền núi Việt Nam", Dân tộc học, (4), tr.2-13.

47. Viện Dân tộc học (1984), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam).

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Nguyễn Hữu Vui (1994), "Tôn giáo và đạo đức", Những vấn đề tôn giáo hiện nay,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Nguyễn Thế Vũ (1992), Đạo Công giáo đến cao nguyên Kon Tum, đề tài khoa học

cấp tỉnh, Kon Tum.

phụ lục

Phụ lục 1

Con đường truyền đạo của đạo Công giáo vào Kon Tum

năm 1848 đến năm 1850

- Chú thích:

Từ Gò Thị  Trạm Gò (mất 3 ngày đường đi bộ)  Baham (1 ngày đi bộ) 

Bơlu (1 ngày đi bộ)  Konphar (2 ngày đi bộ)  Kon Kơlăng (1 buổi đi bộ)  Kon

Kơxâm (1 ngày đi bộ)  Kon Rơhai (1 ngày đi bộ)  Kon Trang (1 buổi đi bộ)  Plei

Chữ ( 1 buổi đi bộ)

(Sơ đồ lấy ở phòng trưng bày Tòa giám mục Kon Tum).

Phụ lục 2

Sự phát triển đạo Công giáo ở Kon Tum từ năm 1855 đến 1933

Số người theo đạo Số làng có đạo Năm

1855 45 3

1860 100 3

1865 400 3

1870 800 3

1875 900 3

1880 995 5

1885 1.230 7

1890 1.387 11

1895 3.312 40

1900 7.300 76

1905 10.610 95

1910 11.120 120

1915 12.827 135

1920 15.137 140

1925 17.124 153

1930 18.699 160

1933 20.480 180

Nguồn: [9, tr. 140].

Phụ lục 3

Số lượng người ở các dân tộc bản địa theo Công giáo (năm 1999)

Tổng số: 70.731 người

Dân tộc Bana Xêđăng Giarai Giẻtriêng

29.630 15.560 11.500 14.041 Số lượng tín đồ

(người)

Nguồn: Số liệu lấy ở Ban Tôn giáo tỉnh Kon Tum.

Phụ lục 4

Dân số theo các tôn giáo chia theo dân tộc

(Thị xã Kon Tum)

Chia theo tôn giáo Tổng Dân tộc Phật Công Tin Hồi Cao số giáo giáo lành giáo đài

67.779 20.893 46.215 305 1 365 Tổng số

39.973 20.779 18.751 80 1 362 1. Kinh

23 23 16 0 0 1 2. Tày

4 4 0 0 0 0 3. Thái

28 12 14 0 0 2 4. Hoa

10 10 0 0 0 0 5. Khơme

9 8 1 0 0 0 6. Mường

6 4 2 0 0 0 7. Nùng

8. Giarai 3.208 21 3.177 0 0 0

9. êđê 0 7 7 0 0 0

10. Bana 23.092 28 23.038 26 0 0

11. Xêđăng 1.38 1.135 0 0 0 3

2 12. Cơho 0 0 0 0 2

5 13. Hrê 0 0 0 1 4

14. Giẻtriêng 264 189 0 0 0 75

15. Người nước 10 0 0 0 7 3

ngoài

Phụ lục 5

Dân số từ 5 tuổi trở lên đang đi học phổ thông chia theo dân tộc

(Thị xã Kon Tum)

Chia ra

Dân tộc Tổng số

Cấp I Cấp II Cấp III

Tổng só 29.496 17.331 8.627 3.538

21.720 11.398 7.106 3.216 1. Kinh

115 43 48 24 2. Tày

22 7 7 8 3. Thái

24 8 8 8 4. Hoa

29 15 8 6 5. Mường

40 19 17 4 6. Nùng

2 1 1 0 7. Dao

1.464 1.222 223 19 8. Giarai

5.478 4.305 1.046 127 9. Bana

10. Xêđăng 456 264 118 74

9 1 2 6 11. Hrê

1 0 0 1 12. Mnông

13. Giẻtriêng 130 47 41 42

1 0 1 0 14. Co

3 0 1 2 15. Lào

2 1 0 1 16. Người nước ngoài

Nguồn: Số liệu lấy ở phòng thống kê thị xã Kon Tum.