Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 1<br />
MỤC LỤC<br />
<br />
<br />
Câu 1. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân <br />
đội nhân dân Việt Nam thành lập ngày, tháng, năm nào, ở đâu? do ai làm Đội <br />
trưởng và Chính trị viên đầu tiên? Tư tưởng chỉ đạo khi thành lập Đội Việt <br />
Nam tuyên truyền giải phóng quân là gì?........................................................4<br />
Câu 2. Khái quát quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và những <br />
chiến công nổi bật của Quânđ ội nhân dân Việt Nam từ khi thành lập đến <br />
nay? 11<br />
<br />
Câu 3. Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội <br />
ta được biểu hiện như thế nào?.......................................................................30<br />
<br />
Câu 4: Ngày Hội Quốc phòng toàn dân được Ban Bí thư Trung ương <br />
Đảng quyết định vào ngày, tháng, năm nào? ý nghĩa của ngày Hội Quốc phòng <br />
toàn dân?............................................................................................................<br />
33<br />
Câu 5: Đồng chí (anh, chị) hãy làm rõ mục tiêu trọng yếu của quốc <br />
phòng, an ninh được xác định trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần <br />
thứ XII của Đảng?............................................................................................36<br />
Câu 6. Hãy nêu những nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn <br />
dân được qui định trong Luật Quốc phòng năm 2018?....................................39<br />
<br />
Câu 7. Nêu quyền và nghĩa vụ của công dân về quốc phòng; các hành vi <br />
bị nghiêm cấm trong lĩnh vực quốc phòng, được quy định trong Luật Quốc <br />
phòng năm 2018?...............................................................................................42<br />
Câu 8: Đồng chí (anh, chị) hãy trình bày hiểu biết về giáo dục quốc phòng và <br />
an ninh trong nhà trường theo Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh năm 2013?<br />
44<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 2<br />
Câu 9: Đồng chí (anh, chị) hãy khái quát những điểm mới nổi bật trong <br />
Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015?...................................................................46<br />
Câu 10. Đồng chí (anh, chị) trình bày về một trong những sáng kiến, mô <br />
hình tiêu biểu hoặc viết về gương nguời tốt, việc tốt ở cơ quan, đơn vị mình <br />
trong thực hiện ngày Hội Quốc phòng toàn dân (không quá 2000 từ)?..........51<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 3<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 4<br />
Chỉ thị thành lập Đội Tuyên truyền Giải phóng quân (Ảnh tư liệu)<br />
<br />
Để tiếp tục xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, chuẩn <br />
bị tổng khởi nghĩa, tháng 12 năm 1944, Lãnh tụ Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành <br />
lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.<br />
<br />
Theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải <br />
phóng quân, được thành lập vào ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại khu rừng giữa <br />
hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh <br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 5<br />
Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao <br />
Bằng). Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm lãnh <br />
đạo. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gồm 34 người, biên chế <br />
thành 3 tiểu đội, đồng chí Hoàng Sâm được giao làm đội trưởng và đồng chí <br />
Xích Thắng làm Chính trị viên. Đội có chi bộ Đảng lãnh đạo.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội <br />
nhân dân Việt Nam)<br />
<br />
Tư tưởng chỉ đạo khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng <br />
quân được nhấn mạnh trong Chỉ thị là: “1. Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN <br />
TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là <br />
đội tuyên truyền..., nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho <br />
nên, theo chỉ thị mới của đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích <br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 6<br />
Cao Bắc Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập <br />
trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực... 2. V ề chiến thuật: vận <br />
dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô <br />
ảnh, khứ vô tung... Tuy lúc đầu qui mô của nó còn nhỏ, nh ưng tiền đồ của nó <br />
rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam <br />
chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”.<br />
<br />
Thực hiện Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Trong một tháng phải có <br />
hoạt động. Trận đầu nhất định phải thắng lợi”. Ngay sau ngày thành lập, Đội <br />
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã đánh thắng giòn giã liền hai trận: <br />
Phai Khắt (ngày 25/12) và Nà Ngần (26/12), mở đầu cho truyền thống đánh <br />
chắc thắng, đánh thắng trận đầu của quân đội ta.<br />
Phai Khắt – Nà Ngần: Trận đầu đánh thắng<br />
<br />
QĐND Online Ngày 22121944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải <br />
phóng quân được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị, Đội xây dựng kế <br />
hoạch tổ chức một trận đánh để “cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của cả <br />
một dân tộc đang bị nô lệ, đang sục sôi ý chí vùng lên”, đồng thời “khắc phục <br />
tình hình thiếu vũ khí trang bị”[1].<br />
<br />
Dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đội thảo luận kỹ <br />
lưỡng để làm rõ vấn đề: Đánh vào đâu và đánh như thế nào, để chỉ với một <br />
lực lượng nhỏ nhưng có thể giành được thắng lợi to lớn về chính trị và quân <br />
sự, đồng thời hạn chế tổn thất về người và vũ khí của ta. Sau khi bàn bạc các <br />
phương án, Ban chỉ huy Đội quyết định “phải tập kích vào đồn trại của địch <br />
để chiếm lấy đạn dược”[2], mục tiêu là đồn Phai Khắt và Nà Ngần.<br />
<br />
Do địa thế đồn Nà Ngần hiểm trở, nên Đội quyết định cải trang làm <br />
một toán lính dõng, lính khố đỏ áp giải ba Cộng sản Mán đến giao nộp cho <br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 7<br />
quan đồn. Lực lượng đánh đồn Nà Ngần là toàn bộ đội viên đã tham gia đánh <br />
đồn Phai Khắt. Khoảng 7 giờ sáng ngày 2612, đồng chí Thu Sơn cùng tổ <br />
xung phong dẫn ba cộng sản bị trói vào đồn cùng với lá cờ tam tài (Đội lấy <br />
được ở đồn Phai Khắt). Bọn lính tưởng thật vội bố trí 6 lính và tên cai ra xếp <br />
hàng đón theo nghi thức nhà binh. Sau khi cả Đội tiến vào đồn, theo kế hoạch <br />
đã phân công, bốn chiến sĩ tiến tới gian giữa án ngữ giá để súng. Đồng chí <br />
Thu Sơn và Bế Văn Sắt nói chuyện với tên Đường để đánh lạc hướng. Tiểu <br />
đội 2 chặn các cửa đồn, sau đó chia thành từng tổ vây bắt tù binh. Tiểu đội 3 <br />
vừa bắn chỉ thiên vừa gọi địch đầu hàng.<br />
<br />
Kết thúc trận đánh, ta tiêu diệt 5 tên, bắt 17 tên, thu 27 súng và nhiều <br />
đạn. Trong trận này, đồng chí Nông Văn Bê bị thương nhẹ. Sau khi hạ đồn <br />
xong, Đội nhanh chóng thu gom súng đạn, tài liệu và phát truyền đơn biểu <br />
ngữ cho nhân dân. Tốp tù binh được tập hợp ở giữa sân, hai nữ đồng chí Cầm <br />
và Thanh giải thích bằng tiếng Tày cho họ hiểu chủ trương chính sách đánh <br />
Pháp, Nhật, cứu nước của Việt Minh, kêu gọi họ quay súng vào PhápNhật <br />
để giành độc lập cho dân tộc. Sau khi được nghe chính sách của Việt Minh, <br />
một số tù binh xin đi theo cách mạng còn đa phần xin được trở về quê.<br />
<br />
Trong hai trận đánh đầu tiên, Đội sử dụng chiến thuật “tiến công bằng <br />
lối hoá trang kỳ tập (tập kích) đã mở đầu một cách xuất sắc trang sử chiến <br />
thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam”[6]. Hoá trang kỳ tập là lối đánh tốn ít <br />
súng đạn, thương vong thấp song hiệu quả chiến đấu cao. Hai trận đánh đầu <br />
tiên, ngoài việc tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch trong đồn, Đội còn thu <br />
được nhiều vũ khí, quân trang. Quan trọng nhất là Đội giành thắng lợi theo <br />
đúng Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Trận đầu nhất định phải thắng <br />
lợi”[7].<br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 8<br />
Hình ảnh về trận Phai Khắc và trận Nà Ngần<br />
<br />
Ngoài việc vận dụng chiến thuật phù hợp, thắng lợi của hai trận đầu ra <br />
quân thể hiện một số nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó là <br />
chọn mục tiêu và thời điểm tiến công phù hợp. Lực lượng ta tham gia trực <br />
tiếp đánh đồn chỉ có hơn 20 người, vũ khí thô sơ, cán bộ chưa được thử thách <br />
qua chiến đấu. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy Đội đã chọn hai đồn Phai <br />
Khắt và Nà Ngần là phù hợp. Ngoài ra, hai đồn nằm cách xa nhau và xa trung <br />
tâm chỉ huy của địch (châu lỵ Nguyên Bình), nên không thể chi viện kịp thời <br />
cho nhau. Trong khi đó, ta có điều kiện cả về thời gian và không gian giải <br />
quyết trọn vẹn trận đánh. Về thời cơ tiến công, ta chọn vào những lúc bất <br />
ngờ nhất đối với địch: Đánh đồn Phai Khắt chọn lúc chiều muộn (17 giờ) <br />
địch đang hoặc vừa ăn cơm chiều xong; đánh đồn Nà Ngần ta chọn lúc sáng <br />
sớm (7 giờ sáng) khi địch vừa ngủ dậy đây là hai thời điểm quân địch sơ hở, <br />
mất cảnh giác nhất. Cả hai đồn, ta đánh đúng lúc tên chỉ huy đi vắng nên đã <br />
triệt tiêu được yếu tố sắc sảo và tinh nhanh của địch.<br />
<br />
Ta đã giữ được yếu tố bí mật từ đầu đến cuối, từ lên kế hoạch tác <br />
chiến, tổ chức hành quân, triển khai lực lượng đến thực hành tiêu diệt mục <br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 9<br />
tiêu, làm cho địch không kịp phản ứng. Ngoài ra, Đội Việt Nam tuyên truyền <br />
giải phóng quân còn có sự chuẩn bị chu đáo cho trận đánh về huấn luyện và <br />
hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng tự vệ địa phương. Để nắm địch, Đội <br />
đã biết tận dụng tai mắt quần chúng cung cấp đầy đủ những thông tin mới <br />
nhất về địch. Bởi vậy, khi thực hành tiến công đồn, ta diễn làm cho quân địch <br />
không một chút nghi ngờ.<br />
<br />
Hai trận Phai Khắt và Nà Ngần “chính là hai ngôi sao sáng soi tỏ lối đi <br />
cho đội quân du kích trên con đường chiến đấu đầy gian lao, nguy hiểm”.<br />
<br />
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, đánh dấu sự ra đời của Đội Việt Nam <br />
tuyên truyền giải phóng quân đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân <br />
dân Việt Nam một tổ chức quân sự mới của dân tộc Việt Nam. Kể từ đây, <br />
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh, quân đội ta phát triển <br />
nhanh chóng không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, làm nòng cốt trong đấu <br />
tranh vũ trang của toàn dân, hỗ trợ đắc lực cho đấu tranh chính trị của quần <br />
chúng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của Cách mạng Tháng tám năm <br />
1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu <br />
tiên ở Đông Nam Á.<br />
<br />
Chú thích:<br />
<br />
[1] Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử chiến thuật Quân đội nhân <br />
dân Việt Nam (19441975), tập I, Nxb QĐND, H. 2003, tr. 43, 44.<br />
[2] Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb CTQG, H.1994, tr.129.<br />
<br />
[3]Đồn Phai Khắt thuộc địa bàn xã Tam Lọng (nay là xã Tam Kim <br />
Nguyên Bình Cao Bằng), quân số của đồn có 21 tên lính dõng chủ yếu là <br />
người Nùng và Mán, do tên cai người Pháp Simônô chỉ huy.<br />
<br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 10<br />
[4]Nhân lúc tên đồn trưởng đi vắng, 4 tên lính đã trốn về thăm nhà.<br />
<br />
[5]Nay là xã Hoa Thám (Nguyên Bình). Đồn Nà Ngần có 22 lính khổ <br />
đỏ, do 2 sĩ quan Pháp chỉ huy.<br />
<br />
[6]Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử chiến thuật quân đội nhân <br />
dân Việt Nam (19441975), tập I, Sđd, tr.52.<br />
<br />
[7]Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb QĐND, H. 1994, <br />
tr.125.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 11<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 12<br />
Để đáp ứng yêu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, <br />
ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được <br />
thành lập theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tháng 4 năm 1945, Hội nghị <br />
quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng quyết định hợp nhất các tổ chức vũ <br />
trang trên cả nước (hợp nhất đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, <br />
Cứu quốc quân và các tổ chức vũ trang khác), thành lập Việt Nam giải phóng <br />
quân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân <br />
được đổi tên thành Vệ quốc đoàn, rồi Quân đội quốc gia Việt Nam (năm <br />
1946), đến năm 1950 được đổi tên là Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22 <br />
tháng 12 năm 1944 được lấy làm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.<br />
<br />
Tháng 8 năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn <br />
kết thúc. Thời cơ đến nhân dân Việt Nam vùng dậy giành tự do, độc lập đã <br />
đến. Sau khi phân tích tình hình, Trung ương Đảng quyết định phát động tổng <br />
khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Quân đội ta làm nòng cốt cùng <br />
toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc.<br />
<br />
Trong năm đầu xây dựng, bảo vệ chính quyền nhân dân, quân đội ta <br />
vừa xây dựng, vừa chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, cùng toàn dân thực hiện <br />
tốt nhiệm vụ chống giặc ngoài, thù trong, góp phần bảo vệ vững chắc chính <br />
quyền nhân dân, xứng đáng là công cụ bạo lực của Đảng và Nhà nước Việt <br />
Nam dân chủ cộng hòa.<br />
<br />
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19461954), <br />
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân <br />
<br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 13<br />
Việt Nam tham gia toàn quốc kháng chiến, cùng toàn dân đánh bại chiến lược <br />
“Đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp (19461947); đánh bại âm mưu <br />
“bình định” và “phản công” của địch (19481952); giành thắng lợi trong chiến <br />
cục Đông Xuân 19531954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.<br />
<br />
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (19531975), Quân đội <br />
nhân dân Việt Nam cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh đơn <br />
phương” (1954 1960); chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (19611965), <br />
“Chiến tranh cục bộ” (1965 1968), “Việt Nam hóa chiến tranh” (19691972) <br />
của đế quôc Mỹ; tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm <br />
1975 với đỉnh cao là Chiến dịch H ồ Chí Minh lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc <br />
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.<br />
<br />
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ <br />
nghĩa (từ năm 1975 đến nay), Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn dân <br />
khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, đưa sự nghiệp <br />
cách mạng sang một giai đoạn mới; cùng toàn dân giành thắng lợi trong hai <br />
cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, <br />
làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.<br />
<br />
Được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục và rèn <br />
luyện, quân đội ta không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, thật sự là lực lượng <br />
nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ T ổ quốc, có những đóng góp xứng <br />
đáng vào thành tựu chung của đất nước trong hơn 30 năm đổi mới. Quân đội <br />
đã thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước v ề quân sự, quốc <br />
phòng; xử lý kịp thời có hiệu quả các tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, <br />
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà <br />
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực hiện vai trò nòng cốt trong <br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 14<br />
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế <br />
trận an ninh nhân dân vững chắc trên địa bàn cả nước. Chất lượng tổng hợp, <br />
sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội được nâng <br />
lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ <br />
quôc trong tinh hình mới. Chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc <br />
phòng, xây dựng lòng tin chiến lược, thúc đẩy xu thế hòa bình hợp tác trong <br />
khu vực và trên thế giới. Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu <br />
của Đảng bộ Quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong lình tình hình mới.<br />
<br />
75 năm qua, dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ <br />
tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta đã cùng với toàn dân vượt qua những chặng <br />
đường đầy gian lao thử thách, giành thắng lợi vẻ vang, không ngừng lớn <br />
mạnh trưởng thành, cùng toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ <br />
quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả với những chiến công nổi bật đó là:<br />
<br />
Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng <br />
quân đã cải trang dùng mưu tập kích diệt đồn Phai Khắt. Tiếp đó, ngày 26 <br />
tháng 12 năm 1944 Đội đánh tiêu diệt đồn Nà Ngần (cách Phai Khắt 15km về <br />
phía đông bắc).<br />
<br />
Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch H ồ Chí <br />
Minh (19121946) với linh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, các chi ến <br />
sĩ vệ quốc quân, tự vệ và nhân dân Thủ đô chiến đấu đánh địch rất dũng cảm. <br />
Nhiều trận đánh quyết liệt đã diễn ra ở Bắc Bộ Phủ, nhà ga, cầu Long Biên, <br />
chợ Đồng Xuân (Hà Nội).<br />
<br />
Ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, thu và phá hủy nhiều <br />
vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch; làm phá sản chiến lược “Đánh <br />
<br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 15<br />
nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp; bảo toàn và phát triển bộ đội chủ lực, <br />
bảo vệ cơ quan lãnh đạo và căn cứ địa kháng chiến.<br />
<br />
Chiến thắng Việt Bắc năm 1947 (từ 710 đến 20121947): <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bộ đội tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu Đông năm 1947<br />
<br />
Chiến thắng Biên Giới năm 1950 (từ 169 đến 14101950): <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đ/c Uỷ viên BCH Trung ương Đảng Lao <br />
động Việt Nam họp bàn về tình hình chiến sự của chiến dịch Biên Giới năm <br />
1950. (Từ trái qua phải: Trường Chinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phạm Văn <br />
Đồng, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp).<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 16<br />
Quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 10 tiểu đoàn địch, thu <br />
trên 3.000 tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh; giải phóng khu vực biên giới từ <br />
Cao Bằng đến Đình Lập (L ạ ng Sơn), mở thông giao lưu quốc tế.<br />
<br />
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 (từ 133 đến 751954): <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày 751954, toàn bộ Tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ bị <br />
tiêu diệt. Lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt <br />
Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, kết thúc cuộc kháng chiến <br />
chống Pháp oanh liệt đầy hy sinh, gian khổ kéo dài suốt 9 năm. Ảnh tư liệu.<br />
<br />
Quân và dân ta tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện <br />
Biên Phủ, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến <br />
tranh, khôi phục lại hòa bình ở Đông Dương.<br />
<br />
Đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ ở <br />
miền Bắc (7/2/1965 1/11/1968): Quân và dân miền Bắc bắn rơi 3.243 máy <br />
bay, bắn chìm, bắn cháy 143 tàu chiến, tàu biệt kích... buộc Tổng thống Mỹ <br />
Giônxơn tuyên bố chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc (ngày 01 tháng 11 <br />
năm 1968).<br />
<br />
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân ta đã giành <br />
thắng lợi vô cùng to lớn như: Chiến thắng Bình Giã (2/12/1964 3/1/1965) <br />
theo QĐND Online Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch tiến công đầu tiên của <br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 17<br />
bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, góp phần vào việc chuyển hóa tương <br />
quan so sánh lực lượng trên chiến trường, tạo ra thế và lực mới để đánh bại <br />
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch Bình <br />
Giã không chỉ đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của quân chủ lực miền <br />
Nam mà còn góp phần phát triển nghệ thuật chiến dịch trong cuộc kháng <br />
chiến chống Mỹ cứu nước.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Trực thăng và bộ binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Ảnh tư liệu.<br />
<br />
Đầu năm 1964, trên chiến trường miền Nam, phong trào đấu tranh chính <br />
trị cùng với hoạt động quân sự của lực lượng vũ trang địa phương đã làm thất <br />
bại một bước quan trọng quốc sách “ấp chiến lược” của Mỹ và chính quyền <br />
Sài Gòn; mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Sài Gòn càng thêm sâu sắc; kế <br />
hoạch XtalâyTaylo phá sản hoàn toàn. Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố, <br />
từ tháng 31964, đế quốc Mỹ thực hiện kế hoạch mới, Kế hoạch Giônxơn <br />
Mắc Namara, nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, hòng cứu vãn <br />
nguy cơ sụp đổ hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.<br />
<br />
Quán triệt tinh thần Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương <br />
Đảng, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định <br />
mở chiến dịch Đông Xuân 1964 1965 trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, <br />
lấy Bình Giã làm điểm quyết chiến của chiến dịch. Chiến dịch Bình Giã diễn <br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 18<br />
ra từ đêm 2121964 đến ngày 311965, được chia thành 2 đợt: đợt 1: từ ngày <br />
2 đến 17 tháng 12 năm 1964; đợt 2, từ 27 tháng 12 năm 1964 đến 3 tháng 1 năm <br />
1965.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Một lính Mỹ bò qua ruộng lúa để thoát khỏi tầm bắn của quân Giải <br />
phóng. Ảnh tư liệu.<br />
<br />
Thắng lợi của chiến dịch Bình Giã đã đánh dấu bước trưởng thành <br />
vượt bậc về chiến thuật, đặc biệt là nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi” để điều <br />
viện binh địch. Việc chọn điểm “khơi ngòi” vào “ấp chiến lược” Bình Giã là <br />
một quyết định sáng suốt của Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch, bởi vì “ấp <br />
chiến lược” Bình Giã là một vị trí có giá trị cả về quân sự và chính trị; là một <br />
mắt xích trong hệ thống phòng thủ phía đông Sài Gòn. “Ấp chiến lược” Bình <br />
Giã được chính quyền Sài Gòn coi là ấp “kiểu mẫu”, vì ở đây tập trung phần <br />
lớn là gia đình hậu phương của các lực lượng biệt động quân và thủy quân <br />
lục chiến của quân đội Việt Nam cộng hòa cùng phần đông giáo dân bị địch <br />
lợi dụng chống phá ta. Vì vậy, khi ta đánh ấp Bình Giã, địch sẽ phản ứng <br />
ngay bằng cả đường bộ và đường không. Mặt khác, Bộ chỉ huy chiến dịch <br />
chọn “ấp chiến lược” Bình Giã phù hợp với trình độ tác chiến của bộ đội chủ <br />
lực lúc đó. Nếu như chọn chi khu Xuyên Mộc làm điểm khơi ngòi của chiến <br />
dịch thì ta hoàn toàn bất lợi, bởi vì ở đó địch xây dựng công sự vững chắc, mà <br />
trình độ đánh công kiên của bộ đội ta còn hạn chế, nên khó chiếm được chi <br />
<br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 19<br />
khu để kéo địch ra tiêu diệt. Thực tiễn diễn biến của chiến dịch đúng như <br />
nhận định và kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch. Khi “ấp chiến <br />
lược” Bình Giã bị tấn công, địch đã vội vã điều quân đến ứng cứu trong thế bị <br />
động, lúng túng. Ngược lại, lực lượng ta chủ động chặn đầu, khóa đuôi, bao <br />
vây, chia cắt, đánh cả phía trước, phía sau, bên sườn, đánh địch cả trên không, <br />
mặt đất tiến tới tiêu diệt gọn từng bộ phận. Ngoài việc tập trung lực lượng <br />
tiến công trên hướng chủ yếu thì Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch đã phát <br />
động nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ, giải phóng đất đai.<br />
<br />
Chiến dịch Bình Giã tuy nhỏ, với quy mô liên trung đoàn, nhưng có ý <br />
nghĩa lớn về chiến lược và nghệ thuật chiến dịch, có nghệ thuật đặc trưng, <br />
đó là nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi”, một cách đánh độc đáo và sáng tạo của <br />
quân chủ lực miền Nam. Thắng lợi của chiến dịch đã để lại những kinh <br />
nghiệm vô cùng quý báu cho chiến dịch sau này trong cuộc kháng chiến chống <br />
đế quốc Mỹ xâm lược.<br />
<br />
Chiến thắng Núi Thành (26/5/1965)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Đồng chí Nguyễn Chí Thanh (thứ hai từ trái qua) trực tiếp chỉ đạo trận <br />
Núi Thành (Quảng Nam), tháng 5/1965 Ảnh Tư liệu BTLSQSVN.<br />
<br />
Ngày 7/5/1965, Sư đoàn thủy quân lục chiến số 3 của Mỹ đổ bộ vào <br />
Chu Lai. Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng đã đưa vào đây 5 tiểu đoàn lính <br />
thủy đánh bộ, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo 105 ly, một đại <br />
Người dự thi: Nguyễn Thanh Lâm Trang 20<br />