intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài dự thi: Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017 - Đặng Quang Trung

Chia sẻ: Đào Đức Mạnh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:15

68
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài dự thi "Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017" do Đặng Quang Trung trình bày sẽ giúp mọi người nắm được định hướng cơ bản của chiến lược hợp tác trong giai đoạn 2011 - 2020 là Phát huy truyền thống quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào - Việt Nam trở thành động lực tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong hợp tác kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập của mỗi nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài dự thi: Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017 - Đặng Quang Trung

BÀI DỰ THI<br /> TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT<br /> VIỆT NAM ­ LÀO, LÀO ­ VIỆT NAM NĂM 2017<br /> Người tham gia: <br /> Họ và tên: Đặng Quang Trung Tôn giáo: không<br /> Ngày sinh:  Đơn vị: Đoàn phường Phước Long, <br /> Giới tính: Nam Nha Trang, Khánh Hoà<br /> Nghề nghiệp: Cán bộ đoàn Nơi thường trú: <br /> Dân tộc: Kinh Số điện thoại: <br /> NỘI DUNG BÀI DỰ THI<br /> Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, tôi xin trình bày tầm quan trọng của <br /> việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam  <br /> trong lịch sử của hai dân tộc và trên những chặng đường phát triển mới.<br /> Trước hết, xin giới thiệu một chút về  nước Lào anh em. Lào là quốc gia <br /> Đông Nam Á trong bán đảo Đông Dương có chung đường biên giới dài 2069 km <br /> về phía Tây, được Việt Nam ôm trọn phía biển Đông, đường biên giới giữa Việt <br /> Nam và Lào trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam cũng thật trùng hợp tiếp giáp với  <br /> 10 tỉnh phía Lào. Quan hệ  đặc biệt Việt Nam ­ Lào có nhiều cơ  sở  thực tiễn  <br /> quan trọng.<br /> Với những thành tựu to lớn về  kinh tế  ­ xã hội sau hơn 30 năm tiến hành <br /> công cuộc đổi mới và những chuyển biến quan trọng trong quan hệ hợp tác toàn <br /> diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam trong những năm qua đã tạo nên những <br /> điều kiện vật chất to lớn thúc đẩy việc tiếp tục tăng cường hợp tác toàn diện <br /> Việt Nam ­ Lào, Lào ­ Việt Nam trong giai đoạn mới.<br /> Để  tăng cường hợp tác toàn diện, đưa quan hệ  đặc biệt Việt Nam ­ Lào, <br /> Lào ­Việt Nam lên tầm cao mới cần bổ sung và điều chỉnh cơ  chế, chính sách,  <br /> chương trình và tổ  chức chỉ đạo hợp tác cho phù hợp với thực tế  và những đòi <br /> hỏi mới của sự hợp tác toàn diện giữa hai nước. Đặc biệt là trong bối cảnh hội  <br /> nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay và những năm tới, càng cần phải đẩy  <br /> nhanh việc điều chỉnh kịp thời, linh hoạt các nội dung đã thỏa thuận bằng các <br /> văn bản hợp tác nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức, đơn vị  hợp tác thực hiện  <br /> có hiệu quả những mục tiêu chiến lược hợp tác đã đặt ra.<br /> Trong quá trình tăng cường quan hệ  hợp tác toàn diện, hai bên cần luôn  <br /> luôn tôn trọng đường lối đối ngoại độc lập, tự  chủ  và chủ  trương đa phương  <br /> hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của nhau.<br /> Trong quan hệ  hợp tác kinh tế  sắp tới cần phải chú trọng tính thực chất, <br /> hiệu quả  và chất lượng. Có nghĩa là, các chương trình hợp tác, nhất là từ  phía  <br /> Việt Nam (các dự án của Việt Nam đầu tư  vào Lào) phải phù hợp với yêu cầu <br /> của công cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia  <br /> của Lào. Việt Nam cần ưu tiên các dự án hợp tác với Lào phù hợp với qui hoạch <br /> và kế hoạch phát triển của Lào đã được vạch ra tại các kế hoạch 5 năm 2006 ­ <br /> 2010 và tầm nhìn đến 2020 của Lào. Đó là các dự án hợp tác về  phát triển thủy  <br /> điện với Lào, dự án xây dựng đường giao thông ra biển; các dự án hợp tác trong <br /> lĩnh vực giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.<br /> Việt Nam và Lào cần phải phát huy quan hệ  hữu nghị  truyền thống, tình  <br /> đoàn kết đặc biệt trở thành động lực thúc đẩy ngày càng mạnh mẽ hợp tác toàn <br /> diện, đặc biệt là hợp tác kinh tế phục vụ mục tiêu phát triển của mỗi nước, đưa  <br /> hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam trong thời gian tới ngang  <br /> tầm với quan hệ truyền thống đặc biệt giữa hai nước chúng ta.<br /> Tính chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam khác căn <br /> bản với các quan hệ đối tác thông thường ở chỗ nó là quan hệ hợp tác toàn diện  <br /> bao gồm cả chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa... và ưu tiên, ưu đãi cho nhau cao  <br /> hơn cả  các quan hệ  song phương khác. Cần có một nhận thức thống nhất của  <br /> cán bộ và nhân dân hai nước về  tính chất đặc biệt này. Cả  hai bên cần có tầm  <br /> nhìn rộng hơn, toàn diện và lâu dài hơn chứ không chỉ ở các lợi ích kinh tế thuần <br /> túy và ngắn hạn.<br /> Để tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam  <br /> trong giai đoạn mới, cần tập trung tiếp tục thực hiện những định hướng lớn đã  <br /> được thỏa thuận giữa hai Bộ Chính trị tháng 1 năm 2008 tại Viêng Chăn và tiếp <br /> tục thực hiện 6 chương trình mục tiêu đã được thỏa thuận tại Hiệp định hợp tác <br /> giữa hai Chính phủ giai đoạn 2006 ­ 2010. Thực hiện thắng lợi chương trình hợp <br /> tác giai đoạn 2006 ­ 2010 sẽ tạo những tiền đề  vật chất cần thiết cho việc xây <br /> dựng chiến lược hợp tác Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam giai đoạn 2011 ­ 2015 <br /> và tầm nhìn đến 2020.<br /> Định hướng cơ bản của chiến lược hợp tác Việt Nam  –  Lào, Lào  –  Việt  <br /> Nam giai đoạn 2011 ­ 2020 là: “Phát huy truyền thống quan hệ đặc biệt Việt <br /> Nam­Lào, Lào ­ Việt Nam trở thành động lực tạo ra sự chuyển biến mạnh  <br /> mẽ trong hợp tác kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế­<br /> xã hội và hội nhập của mỗi nước”. Trong đó, không ngừng nâng cao nhận <br /> thức và làm sâu sắc thêm quan hệ đặc biệt Việt Nam  –  Lào, Lào  –  Việt Nam <br /> trong hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật tạo sự chuyển biến mạnh mẽ <br /> thúc đẩy hợp tác kinh tế  ngang tầm với quan hệ  truyền thống giữa hai nước.  <br /> Thấm nhuần tư  tưởng chỉ  đạo: coi trọng, phát triển và củng cố  mối quan hệ <br /> hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa hai nước  <br /> và coi đây là nhiệm vụ có tầm chiến lược to lớn, thiết thực phục vụ lợi ích đảm <br /> bảo  ổn định an ninh chính trị  và phát triển của mỗi nước. Coi hợp tác và nâng <br /> cao chất lượng giáo dục­đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ <br /> chiến lược lâu dài giữa hai nước nhằm hình thành một thế  hệ  mới kế  cận có  <br /> đầy đủ  năng lực và nhận thức một cách sâu sắc về  mối quan hệ  hữu nghị <br /> truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước, tạo  <br /> lòng tin vững chắc, lâu dài lẫn nhau, góp phần tăng cường bền vững mối quan <br /> hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Đặc biệt coi trọng đào tạo và bồi dưỡng đội  <br /> ngũ cán bộ chính trị, nhất là đội ngũ cán bộ các cấp của các địa phương Lào, cán <br /> bộ  làm việc  ở  các dự  án giữa hai nước; kết hợp hài hòa giữa đào tạo và bồi <br /> dưỡng, giữa số lượng và chất lượng, giữa đào tạo chính qui các bậc học với đào <br /> tạo nghề.<br /> Thường xuyên phối hợp và cụ thể hóa quan điểm về quan hệ đặc biệt Việt <br /> Nam  –  Lào, Lào  –  Việt Nam trên tinh thần các tuyên bố chung và thỏa thuận  <br /> cấp cao giữa lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước vào các nội dung hợp tác kinh tế,  <br /> văn hóa, khoa học kỹ  thuật giữa hai nước. Từng bước nâng cao chất lượng và  <br /> hiệu quả  hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và tinh thần quan hệ <br /> đặc biệt theo luật pháp của mỗi nước trên cơ sở những nội dung sau:<br /> ­ Tiếp tục đầu tư và phát huy những tiềm năng, lợi thế của hai nước nhằm  <br /> bổ sung nguồn lực cho nhau, phù hợp với mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế ­  <br /> xã hội của mỗi nước theo từng giai đoạn, góp phần thực hiện mục tiêu công <br /> nghiệp hóa, hiện đại hóa của Lào trong 10 năm tới, đưa nước Lào thoát khỏi  <br /> nước kém phát triển vào năm 2020.<br /> ­ Phấn đấu tăng kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước đạt 5 tỷ  USD vào <br /> năm 2020. Quan tâm đặc biệt tới việc bảo đảm kết nối giao thông đường bộ <br /> trên các trục huyết mạch và các tuyến kết nối qua biên giới với các cảng biển <br /> của Việt Nam để phục vụ  đầu tư, thương mại và hội nhập giữa hai nước trên <br /> nguyên tắc đầu tư đồng bộ và đồng thời giữa hai bên.<br /> ­ Tăng cường và nâng cao vai trò hợp tác giúp đỡ  lẫn nhau giữa các bộ,  <br /> ngành, tổ chức, địa phương và doanh nghiệp hai nước. Gắn phát triển kinh tế ­  <br /> xã hội với quốc phòng, an ninh, đặc biệt là các địa phương có chung đường biên <br /> giới nhằm phát triển các địa phương khu vực biên giới trở  thành hậu phương <br /> chiến lược vững chắc,  ổn định, hòa bình, hữu nghị, hợp tác lâu dài, tạo sự  gắn  <br /> bó, tin tưởng lẫn nhau lâu dài.<br /> ­ Hai bên phối hợp chặt chẽ việc rà soát, bổ sung sửa đổi các văn bản thỏa  <br /> thuận, phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách mới phù hợp với luật pháp và tình <br /> hình thực tế  mỗi nước, thể hiện mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước và thông <br /> lệ quốc tế, tạo sự chuyển biến trong hợp tác kinh tế cũng như hội nhập quốc tế <br /> và khu vực của mỗi nước.<br /> ­ Phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các cam kết và có sự đồng thuận <br /> trong các khuôn khổ hợp tác đa phương đối với những vấn đề  có liên quan đến <br /> hai nước.<br /> Trên cơ  sở  những kết quả  to lớn của sự  hợp tác toàn diện Việt Nam   –  <br /> Lào, Lào   –   Việt Nam những năm qua, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà <br /> nước thống nhất đặt  ưu tiên cao nhất cùng phấn đấu nâng quan hệ  đặc biệt <br /> Việt Nam  –  Lào, Lào  –  Việt Nam lên tầm cao mới, theo phương châm chất <br /> lượng và hiệu quả, góp phần giữ  vững  ổn định an ninh chính trị, tăng trưởng <br /> kinh tế  bền vững, hội nhập ngày càng sâu rộng và có vị  thế  xứng đáng trên  <br /> trường quốc tế. Để  đạt được mục tiêu này, lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất <br /> trí trước hết tiếp tục củng cố, tăng cường sự  gắn bó, tin cậy và phối hợp chặt <br /> chẽ, thường xuyên trong những vấn đề  có tính chiến lược giữa hai Đảng, hai <br /> nước; duy trì các cuộc gặp cấp cao truyền thống. Tăng cường tuyên truyền, giáo <br /> dục bằng nhiều hình thức phong phú, hiệu quả  và thiết thực về  mối quan hệ <br /> hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam –  <br /> Lào, Lào – Việt Nam cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hai nước, đặc  <br /> biệt là thế hệ thanh thiếu niên hôm nay và mai sau.<br /> Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam – Lào, Lào  <br /> – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về  sự  gắn  <br /> kết, bền chặt, thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả  giữa hai dân tộc đấu  <br /> tranh giành độc lập tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ đó được lãnh đạo hai  <br /> Đảng hai Nhà nước khẳng định là mối quan hệ  đặc biệt . Điều này cắt nghĩa <br /> cho việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt <br /> Nam trong lịch sử  và trên những chặng đường phát triển mới là vô cùng quan  <br /> trọng<br /> Quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam là quan hệ đặc biệt quy định sự <br /> sống, còn của hai dân tộc trong lịch sử cũng như  trên những chặng đường phát <br /> triển mới.Các điều kiện tự  nhiên, các yếu tố  đó đặt ra yêu cầu tất yếu về  sự <br /> hợp tác và hỗ  trợ lẫn nhau giữa hai dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm, xây <br /> dựng và bảo vệ đất nước. Trong phạm vi bán đảo Đông Dương Việt Nam nằm <br /> ở phía đông Trường Sơn như một bao lơn nhìn ra biển; Lào nằm ở sườn tây dãy <br /> Trường Sơn, lọt sâu vào đất liền của bán đảo. Như vậy dãy Trường Sơn được <br /> ví như  cột sống của hai nước, tạo thành biên giới tự  nhiên trên đất liền giữa  <br /> Việt nam và Lào. Địa hình tự nhiên đã quy định hệ thống giao thông ở Việt Nam <br /> và Lào cùng chạy dài theo trục Bắc ­ Nam; ở Việt Nam là trục quốc lộ 1A và ở <br /> Lào là trục quốc lộ  13. Về  mặt tự  nhiên bên cạnh con đường 13 nối Pạc­xê ­  <br /> Thành Phố  Hồ  Chí Minh. Lào có thể  thông thương ra biển gần nhất bằng hệ <br /> thống đường xương cá chạy ngang trên lãnh thổ  hai nước đó là đường 6 Sầm <br /> Nưa – Thanh Hoá, đường 7 Xiêng Khoảng ­ Nghệ  An, đường 8 Khăm Muộn ­ <br /> Hà Tĩnh, đường 9 Xa­van­na­khẹt ­ Đông Hà, đường 12 Khăm Muộn ­ Quảng <br /> Bình....<br /> Lãnh thổ Việt Nam trải dài theo chiều dọc của bán đảo, mặt hướng ra biển  <br /> đông với bờ  biển dài 3260 km, tiếp giáp với Vịnh Bắc bộ, biển Đông và Vịnh <br /> Thái Lan, có nhiều cảng biển lớn, nhất là các các biển nước sâu ở Miền Trung. <br /> Việt Nam và Lào là những nước thuộc loại “vừa” và “tương đối nhỏ” sống <br /> bên cạnh nhau chiếm vị  trí địa chiến lược quan trọng  ở  vùng Đông Nam Á do <br /> nằm kề con đường giao thương hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc  <br /> Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và Ấn độ Dương. Về quốc phòng, bờ biển <br /> Việt Nam ở phía Đông tương đối dài nên việc bố phòng về mặt biển gặp không <br /> ít trở ngại. Trong khi đó dựa vào địa hình hiểm trở, nhất là với dãy Trường Sơn <br /> ­ một “lá chắn chiến tranh” hùng vĩ, một lợi thế tự nhiên che chắn cho cả Việt  <br /> Nam và Lào, nên chẳng những hai nước có thể  khắc phục được những điểm <br /> yếu “hở  sườn”  ở  phía đông mà còn phát huy được sự  cần thiết dựa lưng vào <br /> nhau tạo ra vô vàn cách đánh của chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân bảo <br /> vệ  tổ  quốc. Nhân dân hai nước có thể lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh,  <br /> giành thắng lợi từng bước, tiến lên đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Về quân sự,  <br /> Cánh đồng Chum ­ Xiêng Khoảng, hay cao nguyên Bô­la­vên của Lào và Tây <br /> Nguyên   của   Việt   Nam,   vùng   rừng   núi   Tây   Bắc   Việt   Nam   và   Đông   Bắc <br /> Lào....đều   là   những   vị   trí   có   tầm   chiến   lược   hàng   đầu   trên   bán   đảo   Đông <br /> Dương. Nhiều nhà chiến lược và quân sự cho rằng: Ai nắm được địa bàn chiến  <br /> lược trên, người đó sẽ làm chủ toàn bộ chiến trường Đông Dương. Điều đó cắt  <br /> nghĩa về  tầm quan trọng phải giũ gìn và phát huy mối quan hệ  đặc biệt Việt <br /> Lào lên tầm cao mới<br /> Quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam là tài sản vô giá, là quy  <br /> luật giành thắng lợi của hai dân tộc. Quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam <br /> là mối quan hệ giữa hai dân tộc cùng chung lý tưởng chiến đấu. Đảng cộng sản  <br /> Việt Nam ­ tiền thân của Đảng cộng sản Đông Dương thành lập, đánh dấu việc <br /> thiết lập quan hệ  đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Việt Nam, Lào, <br /> Cao Miên tuy là ba nước nhưng đều nằm trong một xứ, đều bị  thực dân Pháp <br /> thống trị  và áp bức. Giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị  áp bức trong ba  <br /> nước muốn đánh đổ  thực dân Pháp, giành lại độc lập, đánh đổ  chế  độ  phong  <br /> kiến để  giải phóng cho mình thì không thể  đấu tranh riêng lẽ  được. Ngay sau  <br /> khi hợp nhất ba tổ chức cộng sản và lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng <br /> đã thông qua các văn kiện “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, “Sách lược vắn <br /> tắt của Đảng” “  Chương trình tóm tắt và Điều lệ  vắn tắt của  Đảng”. <br /> “Sách lược vắn tắt” và “ Chương trình tóm tắt” chứa đựng tinh thần yêu nước <br /> chân chính kết hợp với tinh thần quốc tế trong sáng, được thể hiện ở chỗ trong  <br /> khi tuyên truyền khẩu hiệu An Nam độc lập, đồng thời cũng tuyên truyền và xây <br /> dựng quan hệ  đoàn kết với các dân tộc bị  áp bức và giai cấp vô sản thế  giới.  <br /> Với những văn kiện đó, nhất là “Luận cương chánh trị” của Đảng cộng sản <br /> Đông Dương sau đó đã xác định cụ thể, toàn diện về mặt lý luận cho mối quan <br /> hệ  giữa phong trào cách mạng Việt nam và phong trào cách mạng Lào, đặt <br /> phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng Lào với các tổ  chức <br /> Đảng trong các xứ  Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam Kỳ, Ai lao, Cao Miên dưới sự  lãnh <br /> đạo của Đảng cộng sản Đông Dương. <br /> Quan hệ  đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam đã được khẳng định <br /> trong lịch sử, in đậm những mốc son sáng chói về  tình nghĩa ruột, thịt, thủy  <br /> chung trong sáng, nương tựa lẫn nhau, sống chết có nhau: Nhân dân Lào đã cùng <br /> Việt Kiều tích cực đấu tranh chống chế độ  thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách <br /> mạng Việt Nam giai đoạn 1930 – 1939 và tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa <br /> vũ trang giành chính quyền giai đoạn 1939 – 1945. Hợp tác giúp nhau chống thực <br /> dân Pháp xâm lược; phối hợp đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơ­ne­vơ, chống <br /> Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Đế quốc Mỹ, thiết lập quan hệ ngoại giao  <br /> (1954 – 1962); phát triển liên minh chiến đấu, đánh thắng các chiến lược chiến <br /> tranh của Đế  quốc Mỹ, giành thắng lợi hoàn toàn (1973 – 1975); Quan hệ  đặc <br /> biệt Việt Nam ­ Lào, Lào ­ Việt Nam trong giai đoạn, mở đường đổi mới (1976 <br /> – 1986) Quan hệ  đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – <br /> Việt Nam thời kỳ  đổi mới và hội nhập quốc tế  (1986 – nay). Trong tiến trình <br /> cách mạng đó, mỗi bước phát triển của cách mạng Lào tạo hậu thuẩn cho cách  <br /> mạng Việt Nam giành thắng lợi và ngược lại thắng lợi của cách mạng Việt <br /> Nam tạo điều kiện cho cách mạng Lào phát triển. Mối quan hệ đó xuẩt phát từ <br /> yêu cầu khách quan của công cuộc đấu tranh giải phóng mang bản chất quốc tế <br /> vô sản, mang lại hiệu quả rõ rệt. Trong sự nghiệp chung, Lào và Việt Nam đã <br /> trở  thành những người bạn, những người đồng chí, những người anh em máu <br /> thịt, chung một kẻ thù, chung một chiến hào đánh thực dân Pháp, đánh đế  quốc <br /> Mỹ. Đó là một mối quan hệ  xưa nay hiếm ­ một mối quan hệ  láng giềng tự <br /> nhiên, có lịch sử  gắn bó lâu dài, chung một dãy Trường Sơn, chung một dòng <br /> sông Mê Kông, chung một ý thức hệ... Hai Đảng, hai Nhà nước không những đã <br /> đoàn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau chống kẻ thù chung là Pháp và Mỹ mà còn <br /> giúp đỡ nhau có hiệu quả trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Quan  <br /> hệ  đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam trải qua nhiều thử  thách khắc <br /> nghiệt, đầy hy sinh gian khổ vì độc lập tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân <br /> dân hai nước đã trở thành quy luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đưa tới những <br /> thắng lợi vĩ đại của Việt Nam và Lào trong đấu tranh giành chính quyền, kháng <br /> chiến chống thực dân Pháp và Đế  quốc Mỹ  xâm lược; tiến hành thành công sự <br /> nghiệp đổi mới đưa hai nước cùng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.<br /> Nhìn lại lịch sử  đã qua, Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng nhân dân cách <br /> mạng Lào luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, quý báu, chí tình, chí nghĩa <br /> và có hiệu quả  mà hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dành cho sự <br /> nghiệp cách mạng của nhau. Những năm qua, hai bên thường xuyên tổ chức các <br /> cuộc gặp gỡ, tiếp xúc cấp cao, duy trì cơ chế trao đổi thông tin, lý luận và kinh  <br /> nghiệm thực tiễn về công cuộc đổi mới và xây dựng Đảng; hoàn thành và công <br /> bố các sản phẩm của Công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam ­ Lào; hợp <br /> tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực được  ưu tiên và mở  rộng với nhiều hình <br /> thức được thực hiện từ  Trung  ương tới các bộ, ngành, địa phương, tổ  chức,  <br /> doanh nghiệp. Hai bên đã ký Đề  án nâng cao chất lượng và hiệu quả  hợp tác <br /> Việt Nam ­ Lào trong lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, giai đoạn <br /> 2011 – 2020. Những năm gần đây, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai  <br /> nước tiếp tục được tăng cường; Việt Nam là nước đứng thứ  hai trong số  các  <br /> nước đầu tư vào Lào với 5200 cán bộ lưu học sinh Lào đang học tập tại các cơ <br /> sở  đào tạo của Việt Nam và 500 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại Lào. <br /> Thương mại hai chiều năm 2011 đạt 734 triệu USD, tăng 50% so với năm 2010.  <br /> Hoạt động đầu tư  của các doanh nghiệp Việt Nam tại Lào với hơn 400 dự  án,  <br /> tổng vốn đầu tư trên 5 tỷ U SD. Dự báo đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam sẽ <br /> tăng 7 tỷ USD vào năm 2015, kim ngạch 2 chiều đạt 2­3 tỷ USD vào năm 2015  <br /> và 5 tỷ USD vào năm 2020. Trong năm 2012, hàng loạt các công trình, dự  án sẽ <br /> hoàn thành chào mừng Năm đoàn kết hữu nghị  Việt ­ Lào, như  Khu lưu niệm  <br /> Chủ  tịch Hồ  Chí Minh tại Lào, Đường 2E, Nhà máy thủy điện Xe Kham­an,  <br /> Trường phổ thông trung học dân tộc nội trú Hua Phan<br /> Tại kỳ họp lần thứ 33  Ủy ban liên Chính phủ, hai bên đã ký thỏa thuận về <br /> Chiến lược hợp tác giai đoạn 2011 – 2020; Hiệp định hợp tác Việt Nam ­ Lào <br /> giai đoạn 2011 – 2015; Hiệp định hợp tác Việt Nam ­ Lào năm 2011. Bên cạnh <br /> đó, Việt Nam và Lào thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp chặt chẽ trong <br /> các vấn đề  quốc tế  và khu vực, hoạt động tại các tổ  chức và các diễn đàn đa  <br /> phương. Sự   ủng hộ  mạnh mẽ  và toàn diện của hai Đảng, hai nước dành cho  <br /> nhau trong sự  nghiệp bảo vệ  và xây dựng đất nước của mỗi nước là vô cùng <br /> quan trọng và to lớn.<br /> Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân Lào đã giành được  <br /> những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử, làm cho thế  và lực của <br /> Cách mạng Lào không ngừng lớn mạnh, uy tín và vị  thế  của nước Cộng hòa <br /> Dân chủ  Nhân dân Lào ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Những  <br /> thắng lợi đó không chỉ có ý nghĩa sâu sắc đối với nhân dân Lào, mà còn là nguồn <br /> cổ vũ, động viên to lớn đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong sự <br /> nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ  Tổ quốc. Việt Nam luôn ghi nhận với sự <br /> biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào anh em về sự ủng hộ và giúp  <br /> đỡ chí tình, chí nghĩa, vô tư, trong sáng và có hiệu quả trong sự nghiệp đấu tranh <br /> giành độc lập, thống nhất đất nước trước đây, cũng như  trong sự  nghiệp xây  <br /> dựng và bảo vệ  Tổ  quốc ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và <br /> nhân dân cùng các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam luôn  ủng hộ  và tin <br /> tưởng vững chắc rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, <br /> nhân dân Lào anh em sẽ  tiếp tục giành được nhiều thành tựu mới, to lớn hơn  <br /> nữa trong công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi Nghị  quyết Đại hội IX của  <br /> Đảng,   xây   dựng   thành   công   nước   Lào   hòa   bình,   độc   lập,   dân   chủ   và   thịnh  <br /> vượng <br /> Bước sang thế  kỷ  XXI, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế  quốc tế  diễn ra  <br /> ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại trên tất cả các lĩnh vực, đặc <br /> biệt kinh tế, khoa học, công nghệ, thương mại......Đó là xu thế  khách quan lôi  <br /> cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực,  <br /> vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Toàn cầu hóa vừa có thời cơ cho sự hội nhập <br /> và phát triển kinh tế ­ xã hội; đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều  <br /> khi hoàn toàn mới mẽ  đối với các nước đang còn  ở  trong tình trạng chậm phát <br /> triển. Thế giới đứng trước những vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng <br /> lẽ nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương. Mặt khác vị trí  <br /> chiến lược của Đông Nam Á ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương từ lâu đã trở <br /> thành địa bàn tranh chấp  ảnh hưởng và quyền lực giữa các nước lớn trên thế <br /> giới. Cùng với sự phát triển như vũ bão của quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, <br /> Đông Nam Á ngày càng trở nên sống động, không chỉ bởi sự gia tăng hợp tác và <br /> liên kết nội khối, mà còn trở  thành nơi hội tụ  của các sáng kiến mới thúc đẩy <br /> quan hệ hợp tác ASEAN với các đối tác bên ngoài, đặc biệt là với các nước lớn  <br /> và các nước đang phát triển. Trước xu thế  đó, các nhà lãnh đạo ASEAN càng <br /> nhận thức rõ hơn tính bức thiết trong việc đẩy nhanh tiến trình hội nhập trong <br /> nội khối cũng như ngoài khu vực. Chính vì vậy, Đại hội XI của Đảng Cộng sản  <br /> Việt Nam và Đại hội IX của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tiếp tục khẳng  <br /> định đường lối, chính sách coi trọng và không ngừng củng cố  và tăng cường <br /> quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt <br /> Nam ­ Lào, coi đó là di sản vô giá của hai dân tộc và là quy luật phát triển, là  <br /> một trong những nhân tố đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ <br /> Tổ quốc ở mỗi nước. Việc đưa quan hệ Việt Nam ­ Lào lên tầm cao mới sẽ đáp <br /> ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào, đồng  <br /> thời đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và <br /> trên thế giới. <br /> Trên tinh thần đó, ngay sau khi được bầu làm Tổng Bí thư  Ban chấp hành  <br /> Trung ương Đảng Cộng sản Việt nam, Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn <br /> Phú Trọng trong hoạt động đối ngoại của mình đã chọn Lào là quốc gia đầu tiên  <br /> trong chuyến thăm chính thức của mình trên cương vị Tổng Bí thư. Sau khi được <br /> bầu   làm   Tổng   bí   thư,   Chủ   tịch   nước   của   Đảng   Nhân   dân   Cách   mạng   Lào <br /> Choummaly Sayasone đã chọn Việt Nam trong chuyến thăm hữu nghị chính thức <br /> của mình. Những hoạt động đó là biểu hiện sinh động của tình hữu nghị truyền  <br /> thống, đoàn kết đặc biệt, gắn bó keo sơn, thủy chung, trong sáng giữa hai Ðảng, <br /> hai Nhà nước và nhân dân hai nước và là bằng chứng hai Đảng, hai nhà nước và <br /> hai dân tộc luôn ưu tiên và coi trọng, quan tâm và chăm sóc để mối quan hệ Việt  <br /> ­ Lào “mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững”<br /> Tuyên bố  chung về  kết quả  cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư  Nguyễn Phú <br /> Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone trong chuyến thăm <br /> hữu nghị  chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ  tịch nước Choummaly <br /> Sayasone đã khẳng định:  Đẩy mạnh hơn nữa quan hệ  hợp tác toàn diện Việt  <br /> Nam ­ Lào trên cơ  sở  phát huy tinh thần độc lập, tự  chủ  và ý chí tự  lực, tự  <br /> cường, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất đặc biệt  <br /> của quan hệ  Việt Nam ­ Lào với thông lệ  quốc tế, vì sự  phát triển phồn vinh  <br /> của mỗi nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Đông Nam Á và trên  <br /> thế giới. <br /> Lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước thường xuyên trao đổi một số biện pháp <br /> nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả  các thỏa thuận cấp cao hai Đảng, hai  <br /> nước. Trong đó đặc biệt chú ý việc Chính phủ hai nước cần tích cực chỉ đạo các <br /> Bộ, Ngành,địa phương triển khai thực hiện Hiệp định hợp tác 5 năm 2011 ­ 2015 <br /> và Chiến lược hợp tác 10 năm 2011 ­ 2020; <br /> Tăng cường quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các địa phương của hai <br /> nước, nhất là các địa phương có chung biên giới; sớm kiện toàn tổ chức bộ máy,  <br /> đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Liên Chính phủ và  <br /> bộ phận thường trực Phân ban hợp tác Việt Nam  –  Lào, Lào  –  Việt Nam. <br /> Tiếp tục đi sâu trao đổi thông tin, kinh nghiệm, nhất là những vấn đề  lý <br /> luận và thực tiễn về  xây dựng Đảng, về  công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phối  <br /> hợp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ <br /> trẻ về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam ­ Lào trong giai đoạn mới, trong đó đặc  <br /> biệt quan tâm việc tuyên truyền, giáo dục dưới nhiều hình thức về  công trình <br /> Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam  –  Lào, Lào  –  Việt Nam. <br /> Chủ  động chuẩn bị  kỹ, trao đổi thống nhất và phối hợp chặt chẽ  về  nội  <br /> dung, chương trình hoạt động của “Năm đoàn kết hữu nghị 2012” trong đó có <br /> việc Lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước thăm chính thức lẫn nhau để cùng tổ <br /> chức “Năm đoàn kết hữu nghị  2012,” thành công rực rỡ, tổ  chức khởi công <br /> hoặc khánh thành một số công trình trọng điểm tạo dấu ấn về quan hệ đoàn kết  <br /> đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt ­ Lào <br /> Cần có sự  phối hợp và sự  hợp tác chặt chẽ  giữa hai nước trong việc thực  <br /> hiện chiến lược phát triển; đẩy mạnh hợp tác về  quốc phòng, an ninh, đối  <br /> ngoại, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực... dù trong hoàn cảnh nào hai Đảng  <br /> và nhân dân hai nước cũng làm hết sức mình để  giữ  gìn và vun đắp cho mối <br /> quan hệ đặc biệt Việt Nam ­ Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, truyền  <br /> mãi cho các thế hệ mai sau; không ngừng phát triển quan hệ hai nước ngày càng <br /> đi vào chiều sâu, hiệu quả  và thiết thực, vì sự  phát triển phồn vinh của mỗi  <br /> nước, vì hòa bình ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. <br /> Phối hợp tổ  chức các hoạt động kỷ  niệm 50 năm thiết lập quan hệ  ngoại  <br /> giao (1962 ­ 2012) và 35 năm ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam ­ Lào  <br /> (1977 ­2012). Phối hợp chặt chẽ để  thực hiện thắng lợi thoả thuận chiến lược  <br /> về  hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học ­ kỹ  thuật giữa hai nước giai  <br /> đoạn 2011 ­ 2020, Hiệp định hợp tác giai đoạn 2011 ­ 2015 và Hiệp định hợp tác  <br /> năm 2011; tập trung hợp tác xây dựng một số  công trình kinh tế  có vai trò kết <br /> nối nền kinh tế hai nước và kết nối với khu vực và thế giới. <br /> Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; hoàn thành dự  án <br /> tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới vào năm 2014 và tiếp tục xây dựng <br /> tuyến biên giới Việt Nam ­ Lào. Khẳng định mong muốn cùng các bên liên quan  <br /> giải quyết vấn đề  biển Đông bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp  <br /> quốc tế, Công ước của Liên hợp quốc về  Luật biển năm 1982 và Tuyên bố  về <br /> cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), nhằm giữ gìn hòa bình, ổn định và <br /> hợp tác  ở  khu vực. Hai Đảng luôn duy trì, giữ  vững và giúp đỡ  lẫn nhau một  <br /> cách chí tình và vô tư, trong sáng để  cùng phát triển, đồng thời giữ  vững các <br /> mục tiêu cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước. <br /> Thay lời kết, tôi xin kể câu chuyện về cặp song sinh tên bằng tiếng Việt ở <br /> Lào.  Có chiều dài hơn 172km đường biên giới gắn kết 2 tỉnh Quảng Nam và <br /> Xê­kông, trong nhiều năm qua,  phát huy truyền thống kết nghĩa từ lâu đời, tỉnh <br /> Quảng Nam luôn có nhiều hoạt động giúp đỡ tỉnh Xê­kông trong công tác hỗ trợ <br /> phát triển kinh tế, cùng nhau bảo vệ  bình yên trên toàn tuyến biên giới và đặc  <br /> biệt là chăm sóc sức khỏe nhân dân.<br /> <br /> <br /> <br /> Một buổi sáng tháng 10 năm 2012, tại thị  trấn Thành Mỹ, Trung tâm Y tế <br /> huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam diễn ra một sự  kiện khá đặc biệt, hai trẻ <br /> song sinh của một cặp vợ chồng đến từ nước bạn Lào đã được các y bác sỹ đỡ <br /> đẻ thành công trong một ca sinh khó.<br /> Tại làng Đăk Tà OỌc Nọi, huyện Đăk Chưng, tỉnh Xê­kông, theo thời gian, <br /> hai đứa trẻ  có cái tên thuần Việt “Thành” và “Mỹ” đã lớn lên ­ như  một bằng <br /> chứng sống và là biểu tượng cho tình hữu nghị Việt – Lào được xây dựng từ bao <br /> đời nay.<br /> Anh Xen Na Vông Kẹo Khăm Xe, kể lại: Khi vợ tôi sinh con tại Thành Mỹ­<br /> Nam Giang­Quảng Nam, tôi rất vui mừng, hạnh phúc, nhất là sự  tận tâm chu  <br /> đáo của các bác sĩ Việt Nam. Tôi nghĩ nếu không có các bác sĩ thì vợ  tôi không  <br /> thể sinh con mạnh khỏe. Để thể hiện lòng biết ơn đó, vợ chồng tôi  quyết định  <br /> đặt tên con trai là Thành, con gái là Mỹ, để biết ơn các bác sĩ, ghi nhớ vùng đất  <br /> mà con chúng tôi ra đời.<br /> Đã hơn 25 năm trong nghề  chữa bệnh cứu người, song với bác sĩ Tơ Ngol <br /> Vui ­ Phó Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Nam Giang, chưa bao giờ ông có thể <br /> quên được hình  ảnh vui mừng, ánh mắt đầy biết  ơn của đôi vợ  chồng người  <br /> Lào với những bác sĩ Việt Nam. Năm đó, chính bác sĩ Vui là người đã đỡ   đẻ <br /> thành công hai đứa con của đôi vợ  chồng người Lào tại Trung tâm Y tế  huyện <br /> Nam Giang, đây thật sự là niềm hạnh phúc. <br /> Ông Tơ  Ngol Vui, cho biết: Tiếp nhận và tiếp đón những bệnh nhân  ở  <br /> nước bạn Lào qua đây điều trị, trong đó có nhiều ca cấp cứu như mổ ruột thừa  <br /> viêm. Sau khi phẫu thuật xong họ  rất quý, rất tin tưởng bác sĩ Việt Nam, đặc  <br /> biệt là trung tâm y tế Nam Giang, từ đó tăng cường thêm mối quan hệ đoàn kết  <br /> giữa hai nhân dân, hai Đảng, hai Nhà nước giữa biên giới này<br /> Bây giờ  thì người dân huyện Đăk Chưng sẽ  không cần phải sang Việt  <br /> Nam, hay phải vượt hàng trăm km để về đến bệnh viện tỉnh Xê­kông như trước  <br /> nữa khi công trình Trung tâm Y tế huyện Đăk Chưng, được tỉnh Quảng Nam hỗ <br /> trợ  100% kinh phí, với hơn 3,5 tỷ  đồng để  phục vụ  khám chữa bệnh cho nhân  <br /> dân các bộ tộc Lào.<br /> Đặc biệt, Quảng Nam còn nhận đào tạo dài hạn các y, bác sĩ cho huyện <br /> bạn. Y tá Kế  Lạ  Khăm là một trường hợp như  thế. Năm 2009, Kế  Lạ  Khăm  <br /> được về học chuyên môn tại trường cao đẳng y tế Quảng Nam. 3 năm học, Kế <br /> Lạ  Khăm hoàn thành xuất sắc khóa học và giờ  đây những kiến thức đó đã và <br /> đang được em áp dụng để chữa bệnh cứu người tại huyện Đăk Chưng.<br /> Y tá Kế  Lạ  Khăm, Trung tâm Y tế  huyện Đăk Chưng, Xê­kông, Lào cho  <br /> biết: Nếu không có bạn bè Việt Nam giúp đỡ  thì em không học được. Giờ  về  <br /> công tác  ở  đây, em đem hết kiến thức đã học để  khám chữa bệnh cho bà con  <br /> Lào, khi có bệnh nhân người Việt Nam em cũng giúp đỡ  hết mình. Em mong  <br /> muốn sau này được học đại học, thạc sĩ ở Việt Nam.<br /> Trong bối cảnh tình hình mới hiện nay, trước những thời cơ và thách thức  <br /> đối với cả  hai nước Việt Nam ­ Lào, hơn bao giờ  hết, những hoạt động nghĩa  <br /> tình trên lại càng cần phải tăng cường và phát huy hơn nữa. <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0