intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Kinh tế vi mô (Dành cho sinh viên chuyên ngành Quản trị kinh doanh)

Chia sẻ: Dương Hàn Thiên Băng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:61

28
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Kinh tế vi mô (Dành cho sinh viên chuyên ngành Quản trị kinh doanh) cung cấp cho học viên những nội dung về: kinh tế vi mô và những vấn đề cơ bản của doanh nghiệp; cung – cầu và thị trường hàng hóa; lý thuyết về hành vi người tiêu dùng;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Kinh tế vi mô (Dành cho sinh viên chuyên ngành Quản trị kinh doanh)

  1. BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP QUẢNG NINH BỘ MÔN QUẢN TRỊ KINH DOANH - KHOA KINH TẾ BÀI GIẢNG KINH TẾ VI MÔ (Bài giảng Đại học chuyên ngành Quản trị kinh doanh) (LƯU HÀNH NỘI BỘ) Quảng Ninh tháng 8/2019
  2. Chương 1 KINH TẾ VI MÔ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. Những vấn đề chung 1.1.1. Một số khái niệm a. Khái niệm kinh tế học Kinh tế học là môn khoa học mới xuất hiện và phát triển hơn hai thế kỷ. Cuốn sách “Của cải của các dân tộc” của Adam Smith xuất bản năm 1776 được coi là tác phẩm mở đầu. Kinh tế học đã qua nhiều giai đoạn phát triển và sẽ phát triển hơn nữa. Đối với xã hội, vấn đề trung tâm của kinh tế là làm thế nào để dung hoà mâu thuẫn giữa sự ham muốn hầu như vô hạn của con người đối với hàng hoá, dịch vụ và sự khan hiếm của các nguồn lực cần thiết để sản xuất ra các hàng hoá, dịch vụ đó. Kinh tế học nghiên cứu cách thức xã hội giải quyết ba vấn đề cơ bản: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Khi trả lời các câu hỏi đó, kinh tế học giải thích cách phân bố các nguồn lực khan hiếm giữa các yêu cầu cạnh tranh về sử dụng các nguồn lực ấy. Ngày nay, các nhà kinh tế học thống nhất với nhau về một khái niệm chung như sau : Kinh tế học là việc nghiên cứu vấn đề con người và xã hội lựa chọn như thế nào để sử dụng những nguồn tài nguyên hiếm hoi có thể được sử dụng một cách khác nhau, nhằm sản xuất ra các hàng hoá và phân phối cho tiêu dùng hiện nay hoặc trong tương lai của những người và nhóm người trong xã hội. b. Kinh tế học vi mô Kinh tế học vi mô là môn khoa học nghiên cứu, phân tích và lựa chọn các vấn đề kinh tế cụ thể của các tế bào kinh tế trong một nền kinh tế. Kinh tế vi mô nghiên cứu các hành vi cụ thể của từng cá nhân, từng doanh nghiệp trong việc lựa chọn và quyết định ba vấn đề kinh tế cơ bản, để có thể đứng vững và phát triển trong cạnh tranh trên thị trường. Nói cách khác, kinh tế vi mô nghiên cứu xem họ đạt được mục đích của họ với nguồn lực hạn chế bằng cách nào và sự tác động của họ đến nền kinh tế quốc dân ra sao. Ví dụ: Kinh tế vi mô có thể nghiên cứu tại sao các gia đình lại thích dùng xe máy hơn ô tô và người sản xuất quyết định như thế nào trong việc lựa chọn sản xuất xe máy hay ô tô. c. Kinh tế học vĩ mô Kinh tế học vĩ mô là môn khoa học nghiên cứu, phân tích và lựa chọn của mỗi quốc gia trước những vấn đề kinh tế xã hội tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế. Kinh tế vĩ mô quan tâm đến các mục tiêu kinh tế chung của một quốc gia như: Tổng giá trị sản xuất, tổng sản phẩm quốc dân, việc làm, lạm phát, thất nghiệp, ... chứ không quan tâm đến các vấn đề chi tiết cho từng doanh nghiệp, từng nhóm người cụ thể. Ví dụ: - 1 -
  3. Kinh tế vĩ mô thường không quan tâm đến từng loại hàng hoá tiêu dùng, như: xe đạp, xe máy, ti vi, tủ lạnh,... mà nghiên cứu dưới dạng một nhóm gọi là hàng tiêu dùng, vì kinh tế vĩ mô quan tâm đến sự tương tác giữa quyết định mua hàng tiêu dùng của các gia đình và quyết định đầu tư mua thiết bị sản xuất, nhà xưởng, … của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. 1.1.2. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc d. Kinh tế học thực chứng Kinh tế học thực chứng mô tả các sự kiện, các hoàn cảnh và các mối quan hệ trong nền kinh tế một cách khách quan. Kinh tế học thực chứng giải thích tại sao nền kinh tế lại hoạt động như nó đang hoạt động, và dự đoán nền kinh tế sẽ phản ứng như thế nào với những thay đổi của hoàn cảnh. Ví dụ: - Hiện tại tỷ lệ thất nghiệp là bao nhiêu? Mức thất nghiệp cao hơn sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào? - Thuế xăng dầu tăng ảnh hưởng đến việc sử dụng xăng dầu như thế nào? Đó là những vấn đề chỉ có thể giải quyết được bằng cách đối chiếu với thực tế. e. Kinh tế học chuẩn tắc Kinh tế học chuẩn tắc đưa ra các chỉ dẫn hoặc khuyến nghị liên quan đến dạo lý và đánh giá về giá trị, như: - Lạm phát cao đến mức nào thì có thể chấp nhận được? - Chi tiêu cho quốc phòng có nên tăng 10%, hay 15%, một năm không? Những vấn đề này thường được giải quyết bằng sự lựa chọn chính trị. Xét theo khía cạnh khoa học thì Kinh tế học là thực chứng, nó trả lời câu hỏi: “Thực tế như thế nào?” Thế nhưng những vấn đề chuẩn tắc trong đời sống chính trị thường đặt ra câu hỏi: “Phải làm cái gì?” càng đòi hỏi sự phân tích kinh tế. Với mục tiêu xã hội cho trước, các nhà kinh tế có thể sử dụng kiến thức để phân tích vấn đề và khuyến nghị cách thức cần phải làm để đạt được mục tiêu đó. 1.1.2. Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu Kinh tế vi mô là một môn khoa học kinh tế, một môn khoa học cơ bản, cung cấp kiến thức lí luận và phương pháp kinh tế cho các môn quản lí doanh nghiệp trong các ngành của nền kinh tế quốc dân. Nó là khoa học về sự lựa chọn hoạt động kinh tế vi mô trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế vi mô là nghiên cứu các vấn đề kinh tế cơ bản của từng đơn vị kinh tế, nghiên cứu tính qui luật và xu hướng vận động tất yếu của các - 2 -
  4. hoạt động kinh tế vi mô, những khuyết tật của nền kinh tế thị trường và vai trò của Chính phủ. b. Nội dung nghiên cứu Kinh tế vi mô sẽ nghiên cứu tập trung vào một số nội dung quan trọng nhất như những vấn đề kinh tế cơ bản về thị trường, sản xuất và chi phí, lợi nhuận và quyết định cung cấp thị trường các yếu tố đầu vào, hạn chế của kinh tế thị trường và sự can thiệp của chính phủ. Để có cơ sở nghiên cứu cụ thể về những vấn đề nêu trên, kinh tế vi mô trình bày những nội dung chủ yếu sau đây: - Kinh tế vi mô và những vấn đề cơ bản của doanh nghiệp - Cung cầu hàng hóa - Lí thuyết hành vi người tiêu dùng - Lí thuyết về doanh nghiệp - Cạnh tranh và độc quyền - Thị trường và các yếu tố sản xuất - Những hạn chế của kinh tế thị trường và sự can thiệp của chính phủ c. Phương pháp nghiên cứu kinh tế vi mô - Sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chung của khoa học kinh tế để nắm vững những vấn đề lí luận, phương pháp luận và phương pháp lựa chọn kinh tế tối ưu trong các hoạt động kinh tế vi mô. Đây là phương pháp cơ bản, xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu của kinh tế vi mô. - Gắn chặt việc nghiên cứu lí luận, phương pháp luận với thực hành trong quá trình học tập để củng cố, nâng cao những nhận thức về lí luận, tập vận dụng lí luận, phương pháp luận để giải quyết những vấn đề cụ thể, các tình huống cụ thể trong hoạt động kinh tế vi mô. - Gắn việc nghiên cứu lí luận với thực tiễn sinh động của các doanh nghiệp ở Việt Nam và các nước khác trên thế giới. Ngoài các phương pháp chung đã được vận dụng đối với môn học, chúng tá cần áp dụng các phương pháp riêng như sau: - Phải đơn giản hóa việc nghiên cứu các mối quan hệ phức tạp. - Áp dụng phương pháp cân bằng nội bộ, bộ phận, xem xét từng đơn vị vi mô, không xem xét sự tác động đến các vấn đề khác; xem xét một yếu tố thay đổi, tác động trong các điều kiện yếu tố khác không thay đổi. - Cần sử dụng mô hình hóa như công cụ toán học và phương trình vi phân để lượng hóa các quan hệ kinh tế. 1.2. Doanh nghiệp và những vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp 1.2.1 Doanh nghiệp và chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp - 3 -
  5. Theo Luật doanh nghiệp: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá rình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Như vậy, doanh nghiệp là một đơn vị độc lập, thực hiện hoạt dộng sản xuất kinh doanh với mục đích chính là lợi nhuận của doanh nghiệp và lợi nhuận quyết định sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Quy mô sản xuất của doanh nghiệp nói lên vị thế, tầm quan trọng của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nói cách khác, doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế cơ sở của hệ thống kinh tế, có quyền tự chủ trong việc ra các quyết định về sản xuất, giá cả, phân phối trong phạm vi pháp luật và chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. 1.2.2. Những vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp a. Quyết định sản xuất cái gì Sản xuất hàng hoá dịch gì, với số lượng bao nhiêu? Cần lựa chọn trong vô số các hàng hoá và dịch vụ có thể sản xuất được trong điều kiện nguồn lực khan hiếm và sản xuất chúng vào thời điểm nào để mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ví dụ: Việt Nam nên sản xuất nhiều lương thực hay sản xuất nhiều hải sản? Bao giờ thì đầu tư phát trển ngành chế biến lương thực, hoa quả?… b. Quyết định sản xuất như thế nào Quyết định sản xuất như thế nào nghĩa là do ai sản xuất với công nghệ sản xuất nào, kỹ thuật sản xuất nào, sử dụng nguồn tài nguyên nào để sản xuất. Ví dụ: Sản xuất điện bằng than hay bằng sức nước? Các Công ty quốc doanh hay các Công ty tư nhân sản xuất? Sản xuất nhỏ lẻ hay sản xuất với công nghệ hiện đại?… c. Quyết định sản xuất cho ai Quyết định sản xuất cho ai đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ được hưởng và được lợi từ những hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế. Nói cách khác, sản phẩm quốc dân được phân chia cho các tác nhân trong nền kinh tế như thế nào. Ba vấn đề kinh tế cơ bản trên cần được giải quyết trong mọi xã hội, mọi nền kinh tế, dù là một Nhà nước Xã hội chủ nghĩa hay một Nhà nước Tư bản, một công xã, một bộ tộc, một địa phương, một ngành sản xuất hay một doanh nghiệp. Nhưng các hệ thống kinh tế khác nhau có những cách giải quyết khác nhau. Đây là những vấn đề kinh tế cốt yếu từ thuở khai nguyên nền văn minh nhân loại cho tới ngày nay. 1.3. Lựa chọn kinh tế tối ưu của doanh nghiệp 1.3.1. Lý thuyết về sự lựa chọn Lý thuyết về sự lựa chọn tìm cách lý giải cách thức mà những nhân vật khác nhau đưa ra quyết định của mình. - 4 -
  6. Khái niệm hữu hiệu nhất được sử dụng trong lý thuyết lựa chọn là khái niệm chi phí cơ hội 1.3.2. Bản chất và phương pháp lựa chọn kinh tế tối ưu Bản chất của sự lựa chọn kinh tế là căn cứ vào nhu cầu vô hạn của con người, của xã hội, của thị trường để ra quyết định tối ưu về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có. Phương pháp tiến hành lựa chọn kinh tế: thông thường sử dụng mô hình toán với các bài toán tối ưu, ràng buộc quan trọng nhất là giới hạn của đường năng lực sản xuất. 1.4. Ảnh hưởng của một số quy luật kinh tế đến lựa chọn kinh tế 1.4.1. Quy luật khan hiếm Mọi hoạt động của con người, trong đó có hoạt động kinh tế đều sử dụng các nguồn lực. Các nguồn lực đều khan hiếm, có giới hạn đặc biệt là nguồn lực tự nhiên khó hoặc không thể tái sinh. Sự khan hiếm các nguồn lực ngày càng tăng có thể do: - Dân số ngày càng tăng dẫn tới nhu cầu sử dụng các nguồn lực ngày càng tăng. - Vật chất có hạn, nhất là các nguồn tài nguyên không tái tạo ngày càng cạn kiệt do nhu cầu sử dụng của con người ngày càng tăng. 1.4.2. Quy luật lợi suất giảm dần Khi ta liên tiếp bỏ thêm những đơn vị bằng nhau của một đầu vào cùng với một đầu vào khác cố định, thì khối lượng đầu ra có thêm ngày càng giảm dần. Đây là quy luật phản ánh mối quan hệ giữa các đầu vào của quá trình sản xuất với đầu ra mà nó góp phần tạo ra. Cần phân biệt quy luật này với hai trường hợp sau: - Lợi suất không đổi theo quy mô: Khi tất cả các đầu vào đều tăng theo cùng một tỷ lệ và cùng một lúc thì đầu ra sẽ tăng theo tỷ lệ đó. - Lợi suất tăng theo quy mô: Khi tất cả các đầu vào đều tăng theo cùng một tỷ lệ và cùng một lúc thì đầu ra có thể tăng với tỷ lệ lớn hơn tỷ lệ tăng đầu vào, do hoạt động sản xuất có hiệu quả hơn. 1.4.3. Quy luật chi phí cơ hội ngày một tăng a. Khái niệm chi phí cơ hội Chi phí cơ hội là lợi ích lớn nhất phải hy sinh khi lựa chọn quyết định thực hiện một việc gì đó. Nói cách khác: Khi ta quyết định lựa chọn thực hiện một việc gì đó sẽ phải hy sinh các cơ hội làm những việc khác, khả năng khác bị mất đi đó được gọi là chi phí cơ hội. Ví dụ 1: Khi ta quyết định đi học đại học tại Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh, ta phải bỏ qua cơ hội đi học các trường khác, ta phải hy sinh cơ hội đi làm việc gì đó mang lại thu nhập. Ví dụ 2: - 5 -
  7. Trên thế giới có những vận động viên nổi tiếng ở lứa tuổi học đại học, họ có thể kiếm được hàng triệu Dolar Mỹ nếu họ bỏ học và chơi các môn thể thao nhà nghề, chi phí cơ hội của việc đến giảng đường đại học của họ rất cao. Ví dụ 3: Chi phí cơ hội của việc đi học Bạn quyết định không đi làm mà đi học Đại học, chẳng hạn tổng chi phí gồm tiền học phí, sách vở, đi lại, phòng ở,... là 18 triệu đồng một năm. Giả sử nếu bạn không đi học mà đi làm thì bạn có thể thu nhập 32 triệu đồng một năm. Cộng cả chi phí thực tế đi học và thu nhập không thể thu được do đi học là 50 triệu đồng một năm năm. Như vậy chi phí cơ hội của việc bạn đi học Đại học là 50 triệu đồng một năm. b. Quy luật chi phí cơ hội ngày một tăng “Để có thêm một số lượng băng nhau về một mặt hàng, xã hội phải hy sinh ngày càng nhiều số lượng mặt hàng khác”. Điều kiện tồn tại quy luật này là tỷ lệ sử dụng đầu vào của hai hàng hoá phải khác nhau. Quy luật này chỉ đúng khi nguồn lực được sử dụng hết và có hiệu quả, nghĩa là nền kinh tế nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất. Đường giới hạn khả năng sản xuất – PPF, mô tả mức sản xuất tối đa mà một nền kinh tế có thể đạt được với số lượng đầu vào và công nghệ hiện có. Nó cho biết các khả năng sản xuất khác nhau mà một nền kinh tế có thể lựa chọn. Đường giới hạn khả năng sản xuất chỉ ra sự đánh đổi mà xã hội phải đối mặt. Một khi một quốc gia sử dụng nguồn lực đạt hiệu quả, thì cách duy nhất để tăng quy mô sản xuất một hàng hoá nào đó sẽ phải giảm quy mô sản xuất hàng hoá khác, có nghĩa là phải chuyển lao động, vốn, đất đai,… từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác, cũng có nghĩa là chuyển nguồn lực sản xuất của nền kinh tế từ cách sử dụng này sang cách sử dụng khác. Ví dụ: Ta đơn giản hoá một Quốc gia có 02 ngành sản xuất sản phảm A và sản phảm B, các khả năng sản xuất khác nhau ở bảng 1-1. Các khả năng sản xuất khác nhau Bảng 1-1 Khả năng sản xuất Sản phẩm A (triệu sp) Sản phẩm B (triệu sp) 1 1.050 0 2 1.000 100 3 900 200 4 750 300 5 550 400 6 300 500 7 0 600 - 6 -
  8. Từ số liệu bảng 1-1, ta có đường giới hạn khả năng sản xuất hình 1-1. Chẳng hạn, khi nền kinh tế chuyển từ điểm E đến điểm D, nếu sản xuất thêm sản phẩm B xã hội phải giảm sản xuất sản phẩm A nhiều hơn. SP B C 600 D 500 E 400 F 300 200 N M 100 O 0 SP B 300 550 750 900 1.00 1.05 0 0 Hình 1-1: Đường giới hạn khả năng sản xuất 1.4.4. Hiệu quả kinh tế - Hiệu quả kinh tế có quan hệ chặt chẽ với việc sử dụng năng lực sản xuất hiện có, nghĩa là có quan hệ chặt chẽ với sử dụng nguồn lực khan hiếm. Vì vậy khi xem xét hiệu quả thường dựa vào đường giới hạn sản xuất; mức sản xuất hiệu quả phải nằm trên đường PPF, nhưng điểm có hiệu quả nhất là điểm thoả mãn hai điều kiện: + Sản xuất tối đa các hàng hoá theo nhu cầu thị trường + Sử dụng đầy đủ năng lực sản xuất hiện có - Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế. - Hiệu quả kinh tế theo quan điểm kinh tế học là: + Tất cả những quyết định sản xuất cái gì trên đường giới hạn khả năng sản xuất là có hiệu quả vì nó tận dụng hết nguồn lực hiện có. + Số lượng hàng hoá đạt trên đường PPF càng lớn càng có hiệu quả. + Sự thoả mãn tối đa hàng hoá theo nhu cầu thị trường trên đường giới hạn khả năng sản xuất cho ta đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. + Chi phí trên một đơn vị kết quả càng nhỏ thì hiệu quả kinh tế càng cao. 1.5. Ảnh hưởng của mô hình kinh tế đến việc lựa chọn các vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp 1.5.1. Các hình thức tổ chức nền kinh tế Có nhiều cách phân loại nền kinh tế (các hình thức tổ chức nền kinh tế), kinh tế học phân loại nền kinh tế căn cứ cách tổ chức thực hiện ba chức năng cơ bản: - Sản xuất cài gì? - 7 -
  9. - Sản xuất như thế nào? - Sản xuất cho ai? a. Nền kinh tế tập quán truyền thống Ba vấn đề trên giải quyết theo tập quán truyền thống dân tộc, dòng họ, làng nghề,… được truyền từ thế hệ trước sang thế hệ sau. b. Nền kinh tế chỉ huy Ba vấn đề trên do Chính phủ quyết định thông qua kế hoạch của Nhà nước. Chính phủ ra mọi quyết định về sản xuất và phân phối hàng hoá dịch vụ. Chính phủ giải đáp các vấn đề kinh tế chủ yếu thông qua quyền sở hữu của Nhà nước đối với các nguồn lực. c. Nền kinh tế thị trường Ba vấn đề trên thực hiện qua cơ chế thị trường, đó là: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông hàng hoá tiền tệ. Các doanh nghiệp sản xuất tiết kiệm chi phí nhất, sản xuất cái mang lại lợi nhuận cao nhất, sản xuất cho người tuỳ thuộc thu nhập của họ. Nền kinh tế thị trường xuất hiện ở nhiều quốc gia đầu thế kỷ XX. Nền kinh tế thị trường như “Bàn tay vô hình” Adam Smith nói, hiệu quả không đạt như mong muốn và “Bàn tay vô hình” không điều tiết hoàn chỉnh. d. Nền kinh tế hỗn hợp Có sự kết hợp ở mức độ nào đó cả 3 loại nền kinh tế nói trên. Với kiểu tổ chức này các yếu tố thị trường, chỉ huy, truyền thống của nền kinh tế cùng tham gia quyết định các vấn đề kinh tế. Trong nền kinh tế hỗn hợp các thể chế công cộng và tư nhân đều kiểm soát nền kinh tế. Thể chế tư nhân kiểm soát thông qua “Bàn tay vô hình” của cơ chế thị trường; và các quy định của tập quán truyền thống. Thể chế công cộng kiểm soát bằng những chính sách của Chính phủ nhằm hướng nền kinh tế phát triển theo những mục tiêu đã định. Xu hướng chung trên thế giới hiện nay là hình thức tổ chức nền kinh tế theo mô hình nền kinh tế hỗn hợp. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, Chương II-Chế độ kinh tế-Trang 141, Điều 15: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.” Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hỗn hợp coi trọng những định hướng xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu quản lý nền kinh tế. 1.5.2. Vai trò kinh tế của Chính phủ trong nền kinh tế Vai trò của Chính phủ là tác động vào nền kinh tế bằng hệ thống luật lệ điều chỉnh và hướng cho nền kinh tế đạt được các mục tiêu đã định a. Nâng cao hiệu quả của nền kinh tế - 8 -
  10. Thực tế nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp có thể có lãi bằng cách giữ giá bán hàng hoá cao, hoặc giữ mức sản lượng cao, nhưng lại làm ô nhiễm môi trường, khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản một cách lãng phí, trong sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp có yếu tố gây độc hại đến người tiêu dùng,… làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế chung của xã hội. Trong mỗi trường hợp này đều dẫn đến sản xuất không hiệu quả hoặc tiêu dùng không hiệu quả, Chính phủ có thể đóng vai trò chữa bệnh bằng hệ thống luật lệ. Sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường nâng cao hiệu quả kinh tế, thể hiện là: - Tạo điều kiện sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp phát triển - Ngăn chặn các doanh nghiệp thải chất độc hại ra môi trường - Lựa chọn và quyết dịnh những dự án sử dụng nguồn lực tiết kiệm và hiệu quả nhất. b. Công bằng xã hội Cơ chế thị trường hoạt động càng hiệu quả thì phân hoá giàu nghèo càng tăng. Khi thị trường càng cạnh tranh mạnh thì sự phân phối thu nhập trong xã hội càng phân biệt một cách ngẫu nhiên. Để giảm bớt sự bất bình đẳng đó Chính phủ sử dụng các loại thuế nhằm phân phối lại thu nhập. Mặt khác, Chính phủ có các chính sách hỗ trợ, trợ cấp người có thu nhập thấp, người trong diện chính sách (gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh,…). Sản xuất kinh doanh độc quyền cũng là nguyên nhân gây nên mất công bằng xã hội, Chính phủ ban hành các luật chống độc quyền để công bằng xã hội. c. Ổn định Chính phủ sử dụng các chính sách tác động đến mức sản lượng, việc làm, thu nhập và giá cả của một nền kinh tế: - Hạn chế “Phát triển nóng”, đầu tư dự án “Phát triển bền vững” - Kiểm soát mức cung tiền, ổn định giá cả, ổn định tỷ giá hối đoái. - Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát. - Tạo được nhiều việc làm tốt. Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp (duy trì ổn định ở mức thất nghiệp tự nhiên). - 9 -
  11. Chương 2 CUNG – CẦU VÀ THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ 2.1. Cầu 2.1.1. Một số khái niệm Cầu (D – Demand) là số lượng hàng hoá mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua ứng với mỗi mức giá cả nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác: Cầu là lượng một mặt hàng mà người mua sẵn sàng mua ở mỗi mức giá chấp nhận được và trong khoảng thời gian nhất định. Như vậy, lượng cầu chỉ được xác định cụ thể ở mức giá cụ thể. Cầu thị trường là tổng hợp cầu của các tác nhân trong nền kinh tế. 2.1.2. Luật cầu Khi các biến số kinh tế khác không đổi, trong khoảng thời gian nhất định, nếu giá cả hàng hoá nào đó giảm thì cầu hàng hoá đó tăng lên. P P1 P2 D Q Q1 Q2 Hình 2-2. Đồ thị cầu hàng hóa * Cầu hàng hoá đặc biệt: - Hàng hoá theo mốt: Trong thời gian thịnh hành mốt, giá cao thì lượng cầu cao; hết mốt giá giảm lượng cầu giảm. - Hàng hoá xa xỉ: Thu nhập người tiêu dùng tăng, giá cao, người tiêu dùng mua nhiều. - Hàng hoá cấp thấp: Thu nhập người tiêu dùng tăng, giá rẻ, người tiêu dùng mua ít. 2.1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến cầu Các nhân tố chính ảnh hưởng đến lượng cầu một loại hàng hoá nào đó, gồm: - Giá cả bản thân hàng hoá đó - Giá cả các hàng hoá bổ sung - Giá cả các hàng hoá có thể dùng thay thế - Thu thập của người tiêu dùng - 10 -
  12. - Số lượng người tiêu dùng, thị hiếu người tiêu dùng - Kỳ vọng vào tương lai - Các yếu tố chính sách của Chính phủ, chính sách của địa phương đối với các loại hàng hoá. 2.1.4. Sự vận động dọc theo đường cầu và sự dịch chuyển đường cầu - Các nhân tố chính làm đường cầu một loại hàng hoá nào đó dịch chuyển, gồm: + Giá cả các hàng hoá bổ sung + Giá cả các hàng hoá có thể dùng thay thế + Thu thập của người tiêu dùng + Số lượng người tiêu dùng, thị hiếu người tiêu dùng + Kỳ vọng vào tương lai + Các yếu tố chính sách của Chính phủ, chính sách của địa phương đối với các loại hàng hoá - Chẳng hạn, khi thu nhập của người tiêu dùng tăng, người tiêu dùng sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn cho việc mua hàng hoá: Có thể sẵn sàng trả giá cao hơn, Có thể sẵn sàng mua nhiều hàng hoá hơn; cả hai tác động này đều làm cho đường cầu hàng hoá dịch chuyển sang phải, Hình 2-7 thể hiện điều này. P P1 D2 D1 QD 1 QD 2 Q Hình 2-7: Sự dịch chuyển của đường cầu hàng hóa - Khi đường cầu một loại hàng hoá dịch chuyển sang phải, đường cung hàng hoá đó giữ nguyên, sẽ làm cho giá cả hàng hoá đó tăng; điểm cân bằng mới trên thị trường hàng hoá đó xuất hiện. Hình 2-8 thể hiện điều này. P E2 P2 P1 E1 D1 D2 - 11 - Q1 Q2 QD 2 Q
  13. Hình 2-8: Đường cầu dịch chuyển làm dịch chuyển điểm cân bằng Dựa vào kiến thức đã học, sinh viên giải thích Q2 < QD2 2.2. Cung 2.2.1. Một số khái niệm Cung (S – Supply) là số lượng hàng hoá mà các cá nhân, các doanh nghiệp (người kinh doanh, hãng kinh doanh) sẵn sàng sản xuất và bán ứng với mỗi mức giá cả nhất định và trong khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác: Cung là lượng một mặt hàng mà người bán muốn bán ở mỗi mức giá chấp nhận được và trong khoảng thời gian nhất định. Như vậy, lượng cung chỉ được xác định cụ thể ở mức giá cụ thể. Cung thị trường là tổng hợp cung của các tác nhân trong nền kinh tế. 2.2.2. Luật cung Khi các biến số kinh tế khác không đổi, trong khoảng thời gian nhất định, nếu giá cả hàng hoá nào đó tăng thì cung hàng hoá đó tăng lên. P S P2 P1 Q1 Q2 Q Hình 2-1. Đồ thị cung hàng hóa 2.2.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến cung Các nhân tố chính ảnh hưởng đến lượng cung một loại hàng hoá nào đó, gồm: - Giá cả các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp - Giá cả hàng hoá đầu ra của doanh nghiệp - Kỳ vọng vào tương lai kinh doanh. - Số lượng nhà cung cấp hàng hoá - Các yếu tố chính sách của Chính phủ, chính sách của địa phương đối với các hàng hoá của doanh nghiệp’. 2.2.4. Sự vận động dọc theo đường cung và sự dịch chuyển đường cung - 12 -
  14. - Các nhân tố chính làm đường cung một loại hàng hoá nào đó dịch chuyển, gồm: + Giá cả các yếu tố đầu vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp + Kỳ vọng vào tương lai kinh doanh. + Số lượng nhà cung cấp hàng hoá. + Các yếu tố chính sách của Chính phủ, chính sách của địa phương đối với các hàng hoá của doanh nghiệp. - Chẳng hạn, khi giá cả yếu tố đầu vào của sản xuất giảm (giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, động lực giảm. Tổ chức sản xuất kinh doanh tốt hơn. Công nghệ, kỹ thuật tiến tiến hơn; … ), khuyến khích các Công ty đang sản xuất mở rộng sản xuất và đồng thời làm cho các Công ty mới bước vào thị trường sản xuất. Nếu giá cả hàng hoá đầu ra giữ nguyên thì cung hàng hoá vẫn lớn hơn trước đây. Hình 2-5 cho thấy: Khi giá cả yếu tố đầu vào của sản xuất giảm, giá cả hàng hoá đầu ra không đổi, lượng cung tăng, đường cung dịch sang phải. P S1 S2 P 1 Qs1 Qs2 Q Hình 2-5: Sự dịch chuyển của đường cung hàng hoá - Khi đường cung một loại hàng hoá dịch chuyển sang phải, đường cầu hàng hoá đó giữ nguyên, sẽ làm cho giá cả hàng hoá đó giảm; điểm cân bằng mới trên thị trường hàng hoá đó xuất hiện. Hình 2-6 thể hiện điều này. S1 P S2 E1 P1 E2 P1 D Q1 Q Q2 Qs 2 - 13 -
  15. Hình 2-6: Đường cung dịch chuyển làm dịch chuyển điểm cân bằng Dựa vào kiến thức đã học, sinh viên giải thích Q2 < QS2 (Hình 2-6) 2.3. Cân bằng cung cầu hàng hoá trên thị trường 2.3.1. Trạng thái cân bằng cung cầu Ta ghép đường cung và đường cầu về cùng một hệ trục toạ độ: Trục tung là mức giá cả hàng hoá, trục hoành là số lượng hàng hoá. Hai đường cung và cầu cắt nhau tại tại một điểm gọi là điểm cân bằng cung cầu hàng hoá đó trên thị trường. Tại điểm cân bằng thị trường hàng hoá, khối lượng hàng hoá các doanh nghiệp sản xuất ra được bán hết, nhu cầu hàng hoá của người tiêu dùng được đáp ứng đầy đủ. Ví dụ: Xét một loại hàng hóa thông thường X trên thị trường. Trục tung là giá hàng hóa X (đồng/sp), trục hoành là lượng hàng hóa X (sp). Cung hàng hóa X được biểu thị bởi đường S, cầu hàng hóa X là đường D. Đường cung và cầu hàng hóa X cắt nhau tại điểm E gọi là điểm cân bằng hàng hóa X. Tại mức giá PE, khối lượng hàng hoá X các doanh nghiệp sản xuất ra là QS bằng khối lượng hàng hoá X mà người tiêu dùng sẵn sàng mua QD, có nghĩa là QS = QD = QE. P S E PE D QE Q Hình 2-3. Đồ thị cân bằng cung cầu hàng hóa trên thị trường 2.3.2. Sự thay đổi của trạng thái cân bằng Lượng cung và lượng cầu không phải lúc nào cũng bằng nhau, - Khi giá trên thị trường khác với giá cân bằng của thi trường PE xuất hiện dư thừa hoặc thiếu hụt sản lượng. + Nếu giá bán cao hơn mức giá cân bằng của thị trường hàng hoá (P1 > PE), thì lượng hàng hoá cung ra thị trường lớn hơn lượng hàng hoá mà thị trường cầu (QS1 > QD1) dẫn đến dư thừa hàng hoá, xuất hiện sức ép giảm giá bán hàng hoá. - 14 -
  16. + Nếu giá bán thấp hơn mức giá cân bằng của thị trường hàng hoá (P2 < PE ) thì lượng hàng hoá cung ra thị trường nhỏ hơn lượng hàng hoá mà thị trường cầu (QS2 < QD2) dẫn đến thiếu hụt hàng hoá, xuất hiện sức ép tăng giá bán hàng hoá. Hai trường hợp trên đều có xu hướng trở về mức giá cân bằng (P E) lượng giao dịch trên thị trường trở về lượng cân bằng (QE). Ví dụ: Cung và cầu về gạo của một thị trường năm N Lượng cầu Lượng cung Giá (đ/kg) Sức ép đối với giá cả (106 kg/tháng) (106 kg/tháng) 15000 9 18 Giảm 14000 10 16 Giảm 13000 12 12 Cân bằng 12000 15 9 Tăng 11000 20 6 Tăng P (đ/Kg Thừa sản ) P1=1500 lượng S 0 E PE=1300 0 D P5=1100 0 Thiếu SL QE=12 Q (TrKg/thán Hình 2-4: Dư thừa và thiếu hụt sản lượng trên thị trường g) thái cân bằng 2.3.3. Thặng dư sản xuất, thặng dư tiêu dùng ở trạng - Thặng dư người tiêu dùng là sự khác biệt giữa mức độ sẵn sàng trả của người tiêu dùng đối với hàng hóa và giá thực tế mà họ trả hoặc giá cân bằng. Người tiêu dùng thực hiện một giao dịch mua bán khi mà họ cảm thấy họ đã trở nên khấm khá hơn (hoặc ít nhất không nghèo hơn). Nói chung, lợi ích toàn bộ nhận được từ việc mua bán một hàng hoá được dự tính vượt quá chi phí cơ hội (opportunity cost). Điều này sẽ mang lại cho người tiêu dùng một lợi ích ròng từ việc mua bán này. - Thặng dư sản xuất (PS) là sự khác biệt giữa số tiền mà nhà sản xuất sẵn sàng cung cấp hàng hóa và số tiền thực tế mà nhà sản xuất nhận được khi thực hiện giao dịch. Nó chính là thước đo phúc lợi của nhà sản xuất. 2.3.4 Ảnh hưởng của thuế - 15 -
  17. Các chính sách của chính phủ như chính sách pháp luật, chính sách thuế và chính sách trợ cấp đều có tác động mạnh mẽ đến lượng cung. Khi chính sách của chính phủ mang lại sự thuận lợi cho người sản xuất, người sản xuất được khuyến khích sản xuất khiến lượng cung tăng và đường cung dịch chuyển sang phải và ngược lại. 2.3.5. Kiểm soát giá Kiểm soát giá là một hình thức can thiệp kinh tế do chính phủ ủy quyền. Chúng nhằm mục đích làm cho mọi thứ trở nên hợp lý hơn cho người tiêu dùng và cũng thường được sử dụng để giúp điều hành nền kinh tế theo một hướng nhất định. Ví dụ, những hạn chế này có thể được coi là cần thiết để kiềm chế lạm phát. Kiểm soát giá trái ngược với giá do các lực lượng thị trường ấn định, được xác định bởi người sản xuất vì cung và cầu. Kiểm soát giá thường được áp dụng đối với mặt hàng chủ lực của người tiêu dùng. Đây là những mặt hàng thiết yếu, chẳng hạn như thực phẩm hoặc các sản phẩm năng lượng. Các biện pháp kiểm soát do chính phủ đặt ra có thể áp đặt mức tối thiểu hoặc tối đa. Giới hạn giá được gọi là giá trần trong khi giá tối thiểu được gọi là giá sàn. Trong nhiều trường hợp, khi giá cân bằng được hình thành từ quan hệ cung cầu trên thị trường tự do, mức giá có thể quá thấp đối với nhà sản xuất hàng hóa hoặc quá cao cho người tiêu dùng. Khi đó, chính phủ sẽ can thiệp vào thị trường bằng việc quy định giá trần hoặc giá sàn để bảo vệ quyền lợi của người sản xuất hoặc người tiêu dùng. Có hai loại giá chính phủ đưa ra là giá trần và giá sàn. Giá sàn Giá sàn là mức giá thấp nhất được phép lưu hành trên thị trường. Chính phủ sẽ quy định mọi mức giá thấp hơn giá sàn là bất hợp pháp (thường được gọi là bán phá giá). – Để giá sàn có hiệu lực thì giá sàn phải lớn hơn mức giá cân bằng trên thị trường. – Mục đích của việc đặt giá sàn của chính phủ là bảo vệ người sản xuất. – Giá sàn gây ra tình trạng dư thừa trên thị trường. Biện pháp khắc phục tình trạng này là chính phủ mua vào toàn bộ lượng dư thừa. Khi định ra giá sàn về một loại hàng hoá, nhà nước muốn bảo vệ lợi ích của những người cung ứng hàng hoá. Khi nhà nước cho rằng mức giá cân bằng trên thị trường là thấp, nhà nước có thể quy định một mức giá sàn – với tính cách là một mức giá tối thiểu mà các bên giao dịch phải tuân thủ – cao hơn. Khi không được mua, bán hàng hoá với mức giá thấp hơn giá sàn, trong trường hợp này, những người bán hàng hoá dường như sẽ có lợi. Nhờ việc kiếm soát giá của nhà nước, họ có khả năng bán hàng hoá với mức giá cao hơn giá cân bằng thị trường. Một biểu hiện của việc định giá - 16 -
  18. sàn là chính sách tiền lương tối thiểu. Khi quy định mức lương tối thiểu cao hơn mức lương cân bằng trên thị trường (và chỉ trong trường hợp này, chính sách giá sàn mới có ý nghĩa), nhà nước kỳ vọng rằng những người lao động sẽ khấm khá hơn, nhờ có được mức lương cao hơn. Giá trần Giá trần là mức giá cao nhất được phép lưu hành trên thị trường. Chính phủ quy định mọi mức giá cao hơn giá trần là bất hợp pháp. – Để giá trần có hiệu lực thì giá trần nhỏ hơn mức giá cân bằng trên thị trường. – Mục đích của việc đặt giá trần của chính phủ: để bảo vệ người tiêu dùng. Khi đặt mức giá trần, người sản xuất không được đặt giá cao hơn mức giá trần đó. – Giá trần gây ra tình trạng thiếu hụt trên thị trường. Biện pháp để khắc phục tình trạng này là chính phủ cung cấp toàn bộ lượng thiếu hụt của thị trường. Khi thiết lập mức giá trần, mục tiêu của nhà nước là bảo vệ những người tiêu dùng. Khi mức giá cân bằng trên thị trường được xem là quá cao, bằng việc đưa ra mức giá trần thấp hơn, nhà nước hy vọng rằng, những người tiêu dùng có khả năng mua được hàng hoá với giá thấp và điều này được coi là có ý nghĩa xã hội to lớn khi những người có thu nhập thấp vẫn có khả năng tiếp cận được các hàng hoá quan trọng. Chính sách giá trần thường được áp dụng trên một số thị trường như thị trường nhà ở, thị trường vốn… 2.3.6. Thặng dư sản xuất, thặng dư tiêu dùng khi có giá trần, giá sàn Tác động của giá trần vào thặng dư của người tiêu dùng (CS) Thặng dư tiêu dùng (CS) trong đồ thị là phần diện tích dưới đường cầu và trên đường giá. Tác động của giá trần vào thặng dư của người sản xuất (PS) Thặng dư sản xuất (PS) trong đồ thị là phần diện tích dưới đường giá và trên đường cung. 2.4. Sự co dãn của cung và cầu a. Khái niệm độ co dãn Độ co dãn là số đo tính nhạy cảm của một biến số này đói với một biến số khác. Đây là con số cho ta biết biến số này sẽ thay đổi bao nhiêu phần trăm (%) khi biến số khác thay đổi 1%. b. Độ co dãn của cầu hàng hoá * Độ co dãn của cầu hàng hoá theo giá của hàng hoá đó - Độ co dãn của cầu theo giá là phần trăm biến đổi của lượng cầu với 1% biến đổi của giá. Nghĩa là: Giá tăng hoặc giảm 1% thì lượng cầu thay đổi bao nhiêu phần trăm. - Hệ số co dãn của cầu hàng hoá theo giá bản thân hàng hoá đó (EP) - 17 -
  19. EP > 1: Cầu rất co dãn, EP < 1: Cầu ít co dãn EP = 1: Cầu co dãn đơn vị EP = : Cầu co dãn hoàn toàn EP = 0: Cầu hoàn toàn không co dãn (dù giá tăng hay giảm lượng cầu vẫn không thay đổi). - Có 2 loại co dãn: Co dãn điểm (điểm cầu), co dãn khoảng (đoạn cầu). Với giả thiết các biến số kinh tế khác (PY, I,…) không thay đổi + Co dãn điểm cầu: Co dãn điểm cầu được xác định băng công thức (2-1): dQ P P EP   hoặc EP = Q'P  (2-1) dP Q Q Trong đó: EP: Độ co dãn của điểm cầu theo giá P: Giá cả hàng hoá X tại một điểm, đ/sp Q: Lượng cầu hàng hoá X tại mức giá P, sp + Co dãn khoảng cầu (đoạn cầu): Co dãn khoảng cầu được xác định bằng công thức (2-2): %Q EP  = (Q/P)(P/Q) (2-2) %P Trong đó: EP: Độ co dãn của khoảng cầu theo giá %Q: Mức phần trăm thay đổi của lượng cầu %P: Mức phần trăm thay đổi của giá cả hàng hoá Q2  Q1 %Q = Q/ Q = Q2  Q1 2 P2  P1 %P = P/ P = P2  P1 2 Ví dụ: Tính hệ số co dãn của cầu đối với giá cả của hàng hoá X. Biết rằng giá bán ban đầu là 4.200 đ/sp thì bán được 995.000 sp. Khi hạ giá 400 đ/sp thì bán thêm được 10.000 sp. Hãy xác định độ co dãn của cầu theo giá khi giá giảm từ 4.200 xuống 3.800 đ/sp? Giải: - Độ thay đổi của sản lượng tiêu thụ: Q = 10.000 sp - Độ thay đổi của giá: P = 400 đ/sp - 18 -
  20. - Mức giá trung bình: 4.200  3.800 P=  4.000 đ/sp 2 - Sản lượng tiêu thụ trung bình: 995.000  1.005.000 Q=  1.000.000 2 - Độ co giãn của cầu theo giá khi giá giảm từ 4.200 xuống 3.800 đ/sp : 10.000 4.000 EP =   0,1 400 1.000.000 EP = 0,1 nghĩa là giá bán hàng hoá X giảm đi 1% thì lượng cầu hàng hoá X tăng 0,1% * Độ co dãn chéo của cầu hàng hoá - Độ co dãn chéo của cầu là % biến đổi của lượng cầu so với 1% biến đổi của giá hàng hoá liên quan. Với giả thiết các biến số kinh tế khác (PX, I,…)không thay đổi. - Hệ số co dãn chéo của cầu EP(XY) EP(XY) > 0: X và Y là hai hàng hoá thay thế EP(XY) < 0: X và Y là hai hàng hoá bổ sung EP(XY) = 0: X và Y không có quan hệ gì với nhau - Hệ số co dãn chéo của cầu được xác định bằng công thức (2.3): QX PY EP (XY) =  (2-3) PY QX Trong đó: EP (XY: Hệ số co dãn chéo của cầu X,Y: Là hai loại hàng hoá PY: Là giá cả hàng hoá Y QX: Là lượng cầu hàng hoá X Ví dụ: Giá hàng hoá Y là PY và lượng cầu về hàng hoá X là QX như sau: Giá hàng hóa Y (PY), đ/kg Lượng cầu hàng hóa X (QX) , 1.000 Tấn 16.000 20 17.000 24 Giải - Độ thay đổi của cầu hàng hóa X: QX = 24 – 20 = 4 (1.000 tấn) - 19 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0