intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Kinh tế vĩ mô: Phần 2 - Trường ĐH Thăng Long

Chia sẻ: Banhbeodethuong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

62
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Kinh tế vĩ mô trang bị cho sinh viên hệ thống các khái niệm, thuật ngữ trong kinh tế học vĩ mô. Cung cấp hệ thống kiến thức về các lý thuyết và mô hình vĩ mô cơ bản như lý thuyết ưa thích thanh khoản, mô hình giao điểm Keynes, mô hình tổng cungtổng cầu, mô hình IS-LM.Trang bị cho sinh viên khung phân tích lý thuyết về cơ chế tác động và vai trò của chính sách vĩ mô (chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa). Mời các bạn cùng tham khảo nội dung phần 2 sau đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Kinh tế vĩ mô: Phần 2 - Trường ĐH Thăng Long

  1. Chương IV TỔNG CẦU VÀ TỔNG CUNG (6 tiết lý thuyết, 3 tiết bài tập + thảo luận) GIỚI THIỆU Trong chương này, chúng ta sẽ tập hợp tất cả những yếu tố đã nghiên cứu trong các chương trước của môn học này và trong môn học “Kinh tế học đại cương” vào một khung khổ thống nhất để đảm bảo sự tương thích và khớp nhau. Khung khổ tổng hợp theo nguyên tắc cân đối tổng cầu và tổng cung này sẽ cho phép chúng ta nghiên cứu các biến động ngắn hạn và xu hướng dài hạn của hiện tượng tăng trưởng kinh tế cũng như vai trò, tác động của các chính sách ngắn hạn. 4.1. BA ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VỀ BIẾN ĐỘNG KINH TẾ Hoạt động kinh tế biến động từ năm này qua năm khác. Nhìn chung, sản lượng hàng hoá và dịch vụ liên tục tăng lên theo thời gian do có sự gia tăng của lực lượng lao động, tư bản và tiến bộ công nghệ. Sự tăng trưởng này cho phép mọi người hưởng thụ mức sống cao hơn. Tuy nhiên, trong một số năm, sự tăng trưởng trung bình, đều đặn thường không xảy ra. Có một số giai đoạn trong đó các doanh nghiệp không bán được hết số hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra nên phải quyết định cắt giảm mức sản xuất. Nhiều công nhân bị sa thải, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và nhiều nhà máy bị bỏ không. Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá và dịch vụ ít hơn, GDP thực tế và các đại lượng phản ánh thu nhập khác giảm đi. Những thời kỳ thu nhập giảm trong khi thất nghiệp tăng cao được gọi là suy thoái nếu tình hình không nghiêm trọng, và được gọi là khủng hoảng nếu vấn đề thực sự nghiêm trọng. Những biến động trong ngắn hạn của các hoạt động kinh tế đã và đang diễn ra ở tất cả các nước và mọi thời đại trong suốt chiều dài lịch sử. Những biến động đó là gì ? Điều gì đã gây ra biến động của hoạt động kinh tế trong ngắn hạn? Các chính sách công cộng có thể làm gì để ngăn chặn các thời kỳ thu nhập giảm và thất nghiệp tăng cao? Khi kinh tế suy giảm hoặc suy thoái xảy ra, các nhà hoạch định chính sách có thể làm gì để giảm bớt độ dài và mức độ trầm trọng của chúng? Đây là những câu hỏi mà chúng ta sẽ xem xét trong các bài tiếp theo của môn học này. Tuy nhiên, để có điểm khởi đầu cho việc tìm hiểu những biến động từ năm này sang năm khác, chúng ta hãy trình bày một vài tính chất quan trọng nhất của chúng. 4.1.1. Đặc điểm thứ nhất: Các biến động kinh tế diễn ra bất thường và không thể dự báo a) Biến động thất thường và không thể dự báo Biến động của nền KT (đại diện là biến động của GDP thực tế) thường được gọi là chu kỳ kinh tế hay chu kỳ kinh doanh, tức là gắn liền với những thay đổi trong điều kiện kinh doanh. Khi GDP tăng trưởng nhanh, hoạt động kinh doanh phát đạt. Các doanh nghiệp có nhiều khách hàng và lợi nhuận ngày càng tăng. Ngược lại, khi GDP thực tế giảm, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ hoạt động kinh tế suy giảm, hầu hết các doanh nghiệp bán được ít hàng hơn và kiếm được ít lợi nhuận hơn. Tuy nhiên, thuật ngữ chu kỳ kinh doanh có thể dẫn tới sự hiểu lầm, vì nó có vẻ hàm ý rằng biến động kinh tế diễn ra theo một quy luật và 51
  2. có thể dự báo được. Trên thực tế, chu kỳ kinh doanh không hề có tính chất định kỳ và không thể dự báo với độ chính xác cao. Phần (a) của hình 4.2 biểu thị GDP của Mỹ từ năm 1965. Phần có mầu tối chỉ ra những thời kỳ suy thoái. Như Hình này cho thấy, các đợt suy thoái không diễn ra đều đặn theo thời gian. Đôi khi các đợt suy thoái diễn ra gần nhau như trong năm 1980 và 1982. Song trong nhiều năm khác, nền kinh tế lại không trải qua đợt suy thoái nào. Quan sát biến động kinh tế ngắn hạn. Hình này biểu thị GDP thực tế trong phần (a), chi tiêu cho đầu tư trong phần (b), và tỷ lệ thất nghiệp trong phần (c) của nền kinh tế Mỹ với số liệu quý từ năm 1965. Các cuộc suy thoái được đánh dấu bởi các vùng màu tối. Hãy chú ý rằng, GDP thực tế và chi tiêu cho đầu tư giảm trong thời kỳ suy thoái, trong khi thất nghiệp tăng. Hình 4.1. Biến động kinh tế ngắn hạn của nền kinh tế Mỹ 52
  3. Nguồn: Bộ Thương mại Mỹ, Bộ lao động Mỹ. b) Chu kỳ kinh tế Thời Các Mác, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh của GDP thực tế; hoặc là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa nền kinh tế trở nên tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v… hiếm khi xảy ra do những biện pháp can thiệp của chính phủ  Rút lại chỉ 3 pha là suy thoái-phục hồi-hưng thịnh (bùng nổ). Có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái (thu hẹp) và hưng thịnh (hay mở rộng) Toàn bộ giai đoạn GDP giảm (thu hẹp), được gọi duy nhất là suy thoái. - Các giai đoạn trong một chu kỳ • Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì được gọi là giai đoạn suy thoái. • Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại đúng bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế. • Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế. 53
  4. Hình 4.2. Các giai đoạn trong một chu kỳ kinh tế - Nói chu kỳ kinh doanh không có nghĩa là các biến động kinh tế tuân theo 1 quy luật có tính định kỳ và có thể dự báo trước. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái, sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn... thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội. - Có nhiều loại chu kỳ Hình nền kinh tế Mỹ: Mầu tối là thời kỳ suy thoái, diễn ra không đều đặn. Nhận xét: GDP thực và chi tiêu cho đầu tư giảm trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng lên trong các thời kỳ suy thoái. 54
  5. Hình 4.3. Sản lượng ngắn hạn dao động quanh sản lượng dài hạn Trường hợp nền kinh tế Mỹ giai đoạn 1871-2009 Hình 4.4. Tỷ lệ thất nghiệp năm dao động quanh tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên Trường hợp nền kinh tế Mỹ giai đoạn 1890-2009 Bất lợi của hiện tượng chu kỳ Chu kỳ kinh tế (không ổn định của nền kinh tế) khiến cho kế hoạch kinh doanh vi mô của khu vực tư nhân và kế hoạch kinh tế vĩ mô của nhà nước gặp khó khăn. 55
  6. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ. Vì thế, chống chu kỳ là nhiệm vụ được tất cả các nhà nước đặt ra. Nguyên nhân Nguyên nhân khác nhau giữa các trường phái kinh tế học vĩ mô nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau. • Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo, khiến cho tổng cầu biến động gây ra.  Biện pháp chống chu kỳ là sử dụng chính sách quản lý tổng cầu.  Cụ thể:  Khi nền kinh tế thu hẹp, Chính phủ sử dụng các chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nới lỏng.  Khi nền kinh tế bùng nổ, Chính phủ dùng các chính sách thắt chặt. Minh họa một sự suy thoái do tổng cầu giảm: Hình 4.5 minh họa trường hợp một sự suy thoái do tổng cầu giảm. Tổng cầu dịch chuyển từ AD sang AD' khiến cho sản lượng giảm từ Q xuống Q' và giá cả giảm từ P đến P' (thiểu phát). Hình 4.5. Một sự suy thoái do tổng cầu giảm • Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do sự can thiệp (sai lầm) của chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự tính. Vì thế, để không xảy ra chu kỳ hoặc để nền kinh tế nhanh chóng tự điều chỉnh sau các cú sốc cung, chính phủ không nên can thiệp gì cả. Minh họa một trường hợp suy thoái do tổng cung giảm. 56
  7. Hình 4.6 mô tả trường hợp suy thoái do tổng cung giảm vì lý do nào đó (ví dụ giá đầu vào tăng đột biến). Khi đó tổng cung giảm từ AS xuống AS' khiến cho sản lượng giảm từ Q xuống Q' nhưng giá cả lại tăng từ P lên P' (lạm phát tăng). Hình 4.6. Một sự suy thoái do tổng cung giảm c) Suy thoái kinh tế Suy thoái kinh tế (recession / economic downturn) được định nghĩa trong Kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm của GDP thực trong thời gian hai hoặc hơn hai quý liên tiếp (nói cách khác, tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tục trong hai quý). Tuy nhiên, định nghĩa này từ nửa thế kỷ gần đây đã không còn được chấp nhận rộng rãi. Định nghĩa khác: Suy thoái bắt đầu xảy ra khi nền kinh tế hoạt động dưới tiềm năng trong 2 quý liên tiếp. Cơ quan nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) của Hoa Kỳ đưa ra định nghĩa về suy thoái kinh tế còn mập mờ hơn "là sự tụt giảm hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng". Suy thoái kinh tế có thể liên quan sự suy giảm đồng thời của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm, đầu tư, lợi nhuận doanh nghiệp. Các thời kỳ suy thoái có thể đi liền với giảm giá cả, hoặc ngược lại tăng nhanh giá cả trong thời kì trì trệ - lạm phát. Một sự suy thoái trầm trọng và kéo dài được gọi là khủng hoảng. Sự tan vỡ tàn phá nền kinh tế là suy sụp/đổ vỡ kinh tế. Các nền kinh tế theo định hướng thị trường có đặc điểm là tăng giảm theo chu kỳ kinh tế, nhưng sự suy giảm thực tế (suy giảm các hoạt động kinh tế, tăng trưởng âm) thường không xảy ra trong thời đại ngày nay.  Khó nói là suy thoái kinh tế. 57
  8. Suy thoái gây hậu quả kinh tế rất lớn, ở Mỹ trung bình tổn thất tới 6% GDP do giảm sản lượng và do mất việc. Sau các đợt suy thoái, nền kinh tế thường quay lại giai đoạn tăng trưởng nhanh, thậm chí bùng nổ, nhưng phải mất nhiều năm mới bù lại được tổn thất do suy thoái. Chính vì vậy mà các nước đều muốn phát triển theo đúng tiềm năng, tránh khủng hoảng, suy thoái. Những nguyên nhân đích thực của suy thoái kinh tế: Sự kết hợp của các yếu tố bên trong (nội sinh) theo chu kỳ và các cú sốc từ bên ngoài (ngoại sinh). - Các yếu tố ngoại sinh như giá dầu, thời tiết, hay chiến tranh có thể tự chúng gây ra suy thoái kinh tế nhất thời, hoặc ngược lại. - Nguyên nhân bên trong rất đa dạng (chính sách sai lầm là ví dụ điển hình) Trường phái kinh tế học Áo cho rằng lạm phát bởi cung tiền tệ gây ra suy thoái kinh tế ngày nay và các thời kỳ suy thoái đó là động lực tích cực theo nghĩa chúng là cơ chế tự nhiên của thị trường điều chỉnh lại những nguồn lực bị sử dụng không hiệu quả trong giai đoạn "tăng trưởng" hoặc lạm phát.  Suy thoái là cần thiết. Thuyết trọng tiền tin rằng những thay đổi triệt để về cơ cấu kinh tế không phải là nguyên nhân chủ yếu; nguyên nhân của các thời kỳ suy thoái ở Mỹ là bởi quản lý tiền tệ yếu kém. Các kiểu suy thoái kinh tế: Mô tả kiểu suy thoái kinh tế theo hình dáng của Hình tăng trưởng theo quý. Suy thoái hình chữ V: Đây là kiểu suy thoái mà pha suy thoái ngắn, tốc độ suy thoái lớn; đồng thời, pha phục phồi cũng ngắn và tốc độ phục hồi nhanh; điểm đổi chiều giữa hai pha này rõ ràng. Đây là kiểu suy thoái thường thấy. Ví dụ trường hợp suy thoái hình chữ V ở Hoa Kỳ vào năm 1953-1954. Hình 4.7: Suy thoái kinh tế hình chữ V Suy thoái hình chữ U: Đây là kiểu suy thoái mà pha phục hồi xuất hiện rất chậm. Nền kinh tế sau một thời kỳ suy thoái mạnh tiến sang thời kỳ vất vả để thoát khỏi suy thoái. Trong 58
  9. thời kỳ thoát khỏi suy thoái, có thể có các quý tăng trưởng dương và tăng trưởng âm xen kẽ nhau. Suy thoái hình chữ U ở Hoa Kỳ trong các năm 1973-1975 trong hình 4.8. Hình 4.8: Suy thoái kinh tế hình chữ U Suy thoái hình chữ W: Đây là kiểu suy thoái liên tiếp. Nền kinh tế vừa thoát khỏi suy thoái được một thời gian ngắn lại tiếp tục rơi ngay vào suy thoái. Suy thoái hình chữ W ở Hoa Kỳ đầu thập niên 1980. Hình 4.9: Suy thoái kinh tế hình chữ W 59
  10. Suy thoái hình chữ L: Nền kinh tế rơi vào suy thoái nghiêm trọng rồi suốt một thời gian dài không thoát khỏi suy thoái. Một số nhà kinh tế gọi tình trạng suy thoái không lối thoát này là khủng hoảng kinh tế. Hình 4.10 minh họa suy thoái kinh tế hình chữ L ở Nhật Bản những năm 1990, được gọi là Thập kỷ mất mát của người Nhật. Hình 4.10: Suy thoái kinh tế hình chữ L 4.1.2. Hầu hết các đại lượng kinh tế vĩ mô biến động cùng nhau GDP thực tế là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất để theo dõi những thay đổi trong ngắn hạn của nền kinh tế vì nó là chỉ tiêu phản ánh toàn diện nhất các hoạt động của cả nền kinh tế. GDP không chỉ phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn phản ánh cả tổng thu nhập (đã loại trừ lạm phát) của mọi chủ thể trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế khi theo dõi biến động kinh tế ngắn hạn, việc sử dụng chỉ tiêu nào để phản ánh hoạt động kinh tế thường không quan trọng vì phần lớn các biến số kinh tế vĩ mô đo lường thu nhập, chi tiêu hay mức sản xuất, cùng biến động cùng nhau. Các chỉ tiêu này có xu hướng cùng tăng hay cùng giảm, hoặc có xu hướng biến động ngược chiều nhau. Khi GDP giảm trong thời kỳ suy thoái, thì thu nhập cá nhân, lợi nhuận công ty, tiêu dùng, đầu tư, sản lượng công nghiệp, doanh số bán lẻ, quy mô mua bán nhà cửa và ô tô cũng giảm xuống. Do suy thoái là một hiện tượng xảy ra trong toàn nền kinh tế, nên nó biểu thị trong nhiều nguồn số liệu vĩ mô khác nhau. Mặc dù các biến số kinh tế vĩ mô cùng biến động, song chúng thường biến động với quy mô, độ lớn khác nhau. Cụ thể, như trong phần (b) của Hình… cho thấy, đầu tư biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Mặc dù đầu tư chỉ bằng khoảng một phần bảy GDP, nhưng sự suy giảm trong đầu tư đóng góp vào hai phần ba mức suy giảm GDP trong thời kỳ suy thoái. Nói cách khác, khi các điều kiện kinh tế xấu đi, phần lớn mức suy giảm đều bắt nguồn từ sự giảm sút chi tiêu để xây dựng nhà máy, nhà ở và bổ sung thêm hàng tồn kho mới. - Các hiện tượng kinh tế ngắn hạn khác với các hiện tượng kinh tế dài hạn Dài hạn: Các chỉ tiêu chuyển động cùng hướng 60
  11. Ngắn hạn: Chưa chắc đã đồng chuyển động: Trễ, J, U, W… Hình 4.11. Quan hệ đồng biến GDP, tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ thất nghiệp Một ví dụ khác là hiện tượng Đồng chuyển động của các chỉ tiêu trong thành phần tính GDP ở Mỹ. Theo các số liệu trong bảng …, tiêu dùng (C) chiếm tỷ trọng trong GDP là 55,8%; đầu tư (I) trong GDP là 24,4%. 61
  12. Tuy nhiên trong giai đoạn suy thoái, khoảng 20% giảm sút của GDP là do tiêu dùng, trong khi 91% giảm sút là do đầu tư. Cả hai biến trên đều “theo chu kỳ”, tức là biến động cùng hướng với GDP, nhưng đầu tư có tính chu kỳ mạnh hơn nhiều (chiếm tới 91%) so với tiêu dùng. Bảng 4.1. Đồng chuyển động của các chỉ tiêu tính GDP ở Mỹ Các thành phần của Tỷ trọng trung bình dài Tỷ trọng biến động trung bình GDP hạn trong GDP (%) trong ∆GDP giai đoạn suy thoái (%) Tiêu dùng 55,8 20,6 Hàng hóa ngắn hạn 20,6 9,7 Dịch vụ 35,2 10,9 Đầu tư 24,4 90,9 Hàng hóa dài hạn 8,9 14,6 Nhà ở 4,7 10,5 TSCĐ không nhà ở 10,2 21 Thay đổi hàng tồn kho 0,6 44,8 Xuất khẩu ròng (NX) -1 -12,7 Chi tiêu Chính phủ 20,2 1,3 Ngược lại, xuất khẩu ròng có tính “phản chu kỳ” (countercyclical), tức là nó chuyển động theo hướng ngược với GDP: Xuất tăng nhanh (do giá trong nước giảm), Nhập tăng chậm hoặc giảm. Chi tiêu chính phủ trung tính (acyclical), tức là nó không bám theo chu kỳ của GDP cũng như không phản chu kỳ với GDP. Như vậy, tiêu dùng và đầu tư có những ảnh hưởng rất khác nhau tới chu kỳ kinh doanh - Thuận lợi khi nghiên cứu nhân quả, dự báo định lượng do các đại lượng kinh tế vĩ mô biến động cùng nhau 4.1.3. Khi sản lượng giảm thì thất nghiệp tăng a) Quan hệ lý thuyết giữa sản lượng và thất nghiệp Đặc điểm này cho rằng những thay đổi trong sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế gắn chặt với những thay đổi trong việc sử dụng lực lượng lao động của nền kinh tế. Nói cách khác, khi GDP thực tế giảm thì tỷ lệ thất nghiệp tăng. 62
  13. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì sản xuất luôn luôn gắn liền với sử dụng lao động. Khi cầu giảm, các doanh nghiệp sản xuất ít hàng hoá và dịch vụ hơn, họ phải sa thải bớt công nhân và số người thất nghiệp tăng. Phần (c) trong hình 1 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế Mỹ từ năm 1965. Một lần nữa, các thời kỳ suy thoái được đánh dấu bằng các vùng màu tối. Biểu đồ cho thấy tác động rõ rệt của suy thoái lên thất nghiệp. Trong mỗi đợt suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên rất cao. Khi suy thoái kết thúc và sản lượng bắt đầu tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm dần. Tỷ lệ thất nghiệp không bao giờ giảm xuống bằng không, mà thường biến động xung quanh tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên bằng khoảng 5 phần trăm. b) Luật OKUN Luật Okun (đặt theo tên của nhà kinh tế Arthur Melvin Okun, người đề xuất định luật này vào năm 1962) cho biết mối quan hệ thống kê âm giữa tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, được đúc kết từ quan sát thực nghiệm. "Phiên bản gap" cho biết với mỗi 1% tăng lên của tỷ lệ thất nghiệp, GDP sẽ giảm tương đương 2% so với GDP tiềm năng. "Phiên bản sai phân" mô tả mối quan hệ âm giữa mức thay đổi của tỷ lệ thất nghiệp so với GDP thực trên cơ sở dữ liệu quý. Hình 4.12: Luật OKUN về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp Trên thực tế, luật OKUN đối với nền kinh tế Mỹ cho biết nếu tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tăng thêm 2% thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm 1%, và ngược lại. Thông qua so sánh giữa dữ liệu thực tế và dự báo lý thuyết, Định luật Okun được xem là một công cụ đáng giá trong dự báo xu hướng giữa tỷ lệ thất nghiệp và sản lượng GDP thực. Tuy nhiên, luật Okun nói chung là chấp nhận được với các nhà dự báo kinh tế như là một công cụ phân tích xu hướng ngắn hạn hơn là cho các phân tích dài hạn hay các tính toán đòi hỏi sự chính xác vì trong dài hạn các điều kiện thị trường không lường trước có thể ảnh hưởng lên 63
  14. các tham số của Okun. Mặt khác, bên cạnh tỷ lệ thất nghiệp còn có nhiều nhân tố khác tác động tới tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, theo đà tăng lên của quy mô sản xuất, dường như tỷ lệ tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm dần theo thời gian. 4.2. GIẢI THÍCH BIẾN ĐỘNG KINH TẾ NGẮN HẠN: MÔ HÌNH TỔNG CUNG – TỔNG CẦU (AD-AS) 4.2.1. Ba tiền đề của mô hình ngắn hạn Mô hình ngắn hạn được xây dựng dựa trên ba tiền đề: (i) Nền kinh tế thường bị tác động bởi các sốc kinh tế như thay đổi giá dầu hoặc giá đầu vào, đầu ra quan trọng, thiên tai, dịch bệnh và địch họa… Nếu không có sốc thì không có hiện tượng biến động ngắn hạn. (ii) Các chính sách tài khóa, tiền tệ có tác động tới kết quả sản xuất. Điều này khác với tiền đề của kinh tế học cổ điển, theo đó các chính sách tài khóa, tiền tệ không tác động tới kết quả sản xuất mà chỉ tác động tới các chỉ tiêu trong khu vực tài chính, gồm tiền tệ, thu chi ngân sách, giá cả, lạm phát, lãi suất…, qua đó tác động tới các biến danh nghĩa. Điều này cũng có nghĩa là về nguyên tắc các nhà hoạch định chính sách có thể can thiệp làm trung hòa các sốc kinh tế. Trung hòa tức là tạo ra các đối trọng tương xứng để xóa bỏ các tác động của các sốc. (iii) Có sự đánh đổi động ngắn hạn giữa tăng trưởng sản xuất và tỷ lệ lạm phát vì khi sản xuất vượt quá tiềm năng, sẽ làm tăng tỷ lệ lạm phát và ngược lại. Sự đánh đổi này được thể hiện qua đường cong Phillips nổi tiếng. Tiền đề này cũng là một trong 10 nguyên lý xuất phát điểm của khoa học kinh tế học. Hình 4.13: Đường cong Philips về quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế 64
  15. 4.2.2. Mô hình tổng cung (AS) – tổng cầu (AD) a) Bác bỏ nguyên lý phân đôi cổ điển và sự trung lập của tiền tệ ở tầm ngắn hạn của lý thuyết cổ điển Mô hình tổng cung – tổng cầu được xây dựng theo quan điểm của lý thuyết Keynes để giải thích các biến động kinh tế ngắn hạn, tập trung vào hành vi của hai biến số. Biến thứ nhất là sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế tính bằng GDP thực tế. Biến thứ hai là mức giá chung tính bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hoặc chỉ số điều chỉnh GDP (Deflator of GDP). Rõ ràng sản lượng là biến thực tế trong khi mức giá là biến danh nghĩa, nên khi nghiên cứu mối quan hệ ngắn hạn giữa Sản lượng và Mặt bằng giá, chúng ta đã thừa nhận không có sự phân đôi cổ điển và sự trung lập của tiền tệ ở tầm ngắn hạn. Đây là cơ sở khoa học của lý thuyết Keynes. Hình 4.15. Tổng cầu và tổng cung Các nhà kinh tế sử dụng mô hình tổng cầu và tổng cung để phân tích các biến động của cả nền kinh tế với tư cách một tổng thể. Mô hình tổng cầu và tổng cung được minh họa trong hình 2. Trên trục tung là mức giá chung trong nền kinh tế. Trên trục hoành là tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ được nền kinh tế sản xuất ra. Đường tổng cầu cho biết lượng hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ muốn mua tại mỗi mức giá. Đường tổng cung cho biết lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp muốn bán ra tại mỗi mức giá. Theo mô hình này, mức giá và sản lượng điều chỉnh để cân bằng tổng cầu và tổng cung. b) Khác nhau giữa Mô hình tổng cầu – tổng cung và Mô hình cân bằng cầu – cung trong kinh tế vi mô: Chúng ta có thể muốn coi mô hình này là hình ảnh phóng to của mô hình cung và cầu đối với từng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường đã được đề cập trong kinh tế học vi mô. Tuy nhiên trên thực tế, mô hình này khác hẳn. Khi chúng ta xem xét cung và cầu trên một thị trường cụ thể, chẳng hạn thị trường kem, hành vi của người mua và bán phụ thuộc vào khả năng di chuyển nguồn lực từ thị trường này qua thị trường khác. Khi giá kem tăng lên, lượng cầu giảm đi vì người tiêu dùng chuyển sang mua sản phẩm khác. Tương tự như vậy, khi giá kem tăng, lượng cung tăng do các nhà sản xuất có thể tăng sản lượng bằng cách thuê thêm lao động từ các bộ phận khác của nền kinh tế. 65
  16. Như vậy, trong mô hình cung - cầu vi mô cân bằng trên 1 thị trường cụ thể, hành vi của người bán và người mua thể hiện bằng việc di chuyển nguồn lực từ thị trường này sang thị trường khác, từ sản phẩm có nhu cầu thấp (giá giảm) sang sản phẩm có nhu cầu cao (giá tăng), chỉ tạo ra hiện tượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chứ không làm thay đổi tổng thể nền kinh tế vì tất cả các thị trường này đều nằm trong tổng thể kinh tế vĩ mô. Sự thay thế mang tính kinh tế vi mô từ thị trường này sang thị trường kia không có ý nghĩa khi chúng ta phân tích cho cả nền kinh tế vĩ mô. Xét cho cùng, lượng hàng mà mô hình của chúng ta tìm cách lý giải - GDP thực tế - phản ánh tổng lượng hàng hoá sản xuất trên tất cả các thị trường. Cũng như kinh tế vi mô, có luật cung, luật cầu trong kinh tế vĩ mô: Đường tổng cầu dốc xuống và đường tổng cung dốc lên. Để hiểu tại sao đường tổng cầu dốc xuống và đường tổng cung dốc lên, chúng ta cần có lý giải của lý thuyết kinh tế vĩ mô làm cơ sở khoa học. Nhiệm vụ tiếp theo của chúng ta là xây dựng một lý thuyết như vậy. 4.2.3. Đường tổng cầu dốc xuống và sự chuyển dịch của đường tổng cầu a) Đường tổng cầu dốc xuống Đường tổng cầu cho biết tổng lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế tại mỗi mức giá bất kỳ cho trước. Hình 4.16 cho thấy đường tổng cầu dốc xuống. Điều này có nghĩa là nếu những nhân tố khác ảnh hưởng tới tổng cầu không thay đổi, chỉ có giá thay đổi; khi đó sự giảm sút mức giá chung của nền kinh tế, ví dụ từ P1 xuống P2, có xu hướng làm cho lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng lên, chẳng hạn từ Y1 lên Y2. Vậy tại sao đường tổng cầu dốc xuống ? Hình 4.16: Đường tổng cầu dốc xuống Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy nhớ lại rằng GDP thực tế (Y) bằng tổng của tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu chính phủ (G) và xuất khẩu ròng (NX): 66
  17. Y = C + I + G + NX Các thành tố này đều đóng góp vào tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Tiếp theo, chúng ta giả định hợp lý rằng, chi tiêu của chính phủ được cố định bởi chính sách, tức là theo quyết định tùy ý của chính phủ. Khi đó, ba thành tố còn lại của tổng cầu gồm tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng đều phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, cụ thể là mức giá chung. Bởi vậy, để hiểu tại sao đường tổng cầu dốc xuống, chúng ta phải xem mức giá ảnh hưởng đến lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ cho tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng như thế nào. (i) Quan hệ giữa mức giá và tiêu dùng hay là Hiệu ứng của cải Người tiêu dùng luôn luôn sở hữu tiền. Giá trị danh nghĩa của những khoản tiền này cố định song giá trị thực hay sức mua của chúng thì không. Khi mức giá giảm, những số tiền này có giá hơn vì chúng có thể mua được nhiều hàng hoá hơn. Như vậy, sự giảm sút mức giá làm cho người tiêu dùng cảm thấy mình có nhiều của cải hơn và điều này khuyến khích họ mua sắm hay tiêu dùng nhiều hơn. Chi cho tiêu dùng tăng lên có nghĩa là lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn hơn. Như vậy, giá giảm làm tăng tiêu dùng, thành phần thứ nhất của tổng cầu, qua đó làm tổng cầu và sản xuất tăng lên. Quan hệ giữa mức giá và tiêu dùng trong trường hợp này được gọi là Hiệu ứng của cải. (ii) Quan hệ giữa mức giá và đầu tư: Hiệu ứng lãi suất. Theo lý thuyết ưa thích thanh khoản của Keynes (xem trong bài tiền tệ), mức giá là một trong những yếu tố quyết định của lượng cầu về tiền. Khi mức giá thấp hơn, người dân sẽ cần ít tiền hơn cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Như vậy khi mức giá giảm, các hộ gia đình sẽ giảm lượng tiền nắm giữ bằng. Số tiền dư thừa sẽ được người dân đem cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ, một hộ gia đình nào đó có thể dùng số tiền dôi ra của mình để mua trái phiếu có lãi. Hoặc họ có thể gửi vào tài khoản tiết kiệm và ngân hàng lại dùng khoản tiền này để cho vay. Trong những trường hợp như thế này, do các hộ gia đình chuyển một phần số tiền nắm giữ thành các tài sản sinh lãi, họ sẽ làm cho lãi suất giảm xuống. Lãi suất giảm đến lượt nó lại kích thích các doanh nghiệp đầu tư vào nhà xưởng và thiết bị mới hoặc các hộ gia đình mua nhà ở mới. Do vậy, mức giá thấp hơn làm giảm lãi suất, khuyến khích chi tiêu mua hàng đầu tư và qua đó làm tăng lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ. Như vậy, giá giảm làm lãi suất giảm xuống và đầu tư (thành phần thứ hai của tổng cầu) tăng lên, qua đó làm tổng cầu và sản xuất tăng lên. Quan hệ giữa mức giá và đầu tư trong trường hợp này được gọi là Hiệu ứng lãi suất. (iii) Quan hệ giữa mức giá và xuất khẩu ròng: Hiệu ứng TGHĐ. Như chúng ta đã học về thị trường tài chính quốc tế trong bài tỷ giá, đối với các nền kinh tế mở có tự do lưu chuyển vốn quốc tế, lãi suất của những khoản đầu tư có độ rủi ro như nhau thì phải bằng nhau. Nếu có chênh lệch lãi suất, lập tức sẽ có hiện tượng di chuyển vốn từ nơi có lãi suất thấp đến nơi có lãi suất cao. 67
  18. Giả sử VN là nền kinh tế có tự do lưu chuyển vốn quốc tế. Nếu mức giá ở VN thấp hơn ở Mỹ, theo theo quy tắc Fischer (i = r + π), lãi suất ở VN sẽ phải thấp hơn lãi suất ở Mỹ. Điều này làm cho một số nhà đầu tư VN muốn chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để có lãi suất cao hơn. Ví dụ, khi lãi suất trái phiếu chính phủ VN giảm (do giá giảm), một quỹ hỗ tương bán trái phiếu chính phủ VN để mua trái phiếu chính phủ Mỹ. Khi quỹ hỗ tương chuyển tài sản ra nước ngoài, nó làm tăng cung về tiền Việt và tăng cầu về đô la trên thị trường ngoại tệ. Sự tăng cung về tiền Việt sẽ làm cho VN đồng giảm giá so với các đồng tiền khác. Vì một đồng tiền Việt giờ đây mua được ít đơn vị ngoại tệ hơn, hàng hoá nước ngoài trở nên đắt hơn hàng hoá và dịch vụ ở VN. Sự thay đổi này trong TGHĐ thực tế (giá tương đối của hàng nội so với hàng ngoại) làm tăng xuất khẩu và làm giảm nhập khẩu. Xuất khẩu ròng (bằng xuất khẩu trừ nhập khẩu) sẽ tăng lên. Tỷ giá thực tế giảm, dẫn đến xuất khẩu ròng tăng và qua đó làm tăng lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Như vậy, giá giảm làm nội tệ mất giá so với ngoại, qua đó làm tăng xuất khẩu và làm giảm nhập khẩu, từ đó làm xuất khẩu ròng (thành phần thứ ba của tổng cầu) tăng lên; kết quả là tổng cầu và sản xuất tăng lên. Quan hệ giữa mức giá và xuất khẩu ròng trong trường hợp này được gọi là Hiệu ứng TGHĐ. Tóm lại, có ba lý do lý giải tại sao khi mức giá giảm, lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng: (1) Người tiêu dùng cảm thấy mình có nhiều tài sản hơn nên tăng cầu về hàng tiêu dùng. (2) Lãi suất giảm và điều này kích thích cầu về hàng hoá đầu tư. (3) TGHĐ thực tế giảm, kích thích nhu cầu về xuất khẩu ròng. Vì cả ba lý do này mà đường tổng cầu dốc xuống. Điều quan trọng là cần nhớ rằng, đường tổng cầu cũng giống như các đường cầu khác được xác định khi giữ cho “các yếu tố khác không đổi”. Đặc biệt, cả ba cách lý giải của chúng ta về đường tổng cầu dốc xuống đều giả định rằng cung ứng tiền tệ không thay đổi. Nghĩa là chúng ta đang xét xem sự thay đổi của mức giá ảnh hưởng như thế nào đến nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ trong khi giữ cho lượng tiền trong nền kinh tế không thay đổi. Như chúng ta sẽ thấy, sự thay đổi trong lượng tiền sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu. Hiện tại hãy nhớ rằng đường tổng cầu được vẽ cho một lượng tiền nhất định. Lưu ý các giả thiết: Khi xây dựng đường cầu nói trên, chúng ta chỉ quan tâm tới quan hệ giữa tổng cầu và mức giá, trong khi trên thực tế, ngoài mức giá, tổng cầu còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác. Do đó, để quan hệ trên tồn tại và ổn định, cần phải có những giả thiết nhất định. Hai giả thiết thường được nói tới đầu tiên là - Các nhân tố khác ảnh hưởng tới tổng cầu không đổi. - Tổng cung tiền tệ không đổi. Nếu hai điều kiện trên không được đảm bảo, sẽ có hiện tượng dịch chuyển đường cầu. Lưu ý các kết luận: - Không nên coi 3 hiệu ứng trên là các lý thuyết kinh tế khác nhau - Chúng xuất hiện đồng thời mỗi khi giá biến động để làm tăng tổng cầu khi mức giá giảm và ngược lại. 68
  19. b) Sự chuyển dịch của đường tổng cầu Tại sao đường tổng cầu có thể dịch chuyển ? Sự dốc xuống của đường tổng cầu cho biết rằng sự suy giảm mức giá làm tăng lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ và ngược lại. Tuy nhiên, còn có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ tại một mức giá cho trước. Khi một trong những yếu tố này thay đổi, đường tổng cầu sẽ dịch chuyển. Chúng ta hãy xem xét một vài ví dụ về những biến cố làm dịch chuyển đường tổng cầu. Chúng ta có thể phân loại chúng theo thành tố chi tiêu trực tiếp bị ảnh hưởng nhiều nhất. (i) Sự dịch chuyển phát sinh từ tiêu dùng. Giả sử người Việt đột nhiên trở nên quan tâm nhiều hơn đến tiết kiệm cho khi nghỉ hưu, và kết quả là họ giảm mức chi tiêu hiện tại. Do lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ tại mỗi mức giá thấp hơn, nên đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Ngược lại, hãy tưởng tượng rằng sự bùng nổ của thị trường chứng khoán làm cho người ta trở nên giàu có và ít quan tâm đến tiết kiệm hơn. Việc chi tiêu cho tiêu dùng tăng lên phát sinh từ đó có nghĩa là lượng cầu lớn hơn tại mỗi mức giá, do vậy đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải. Vì vậy, bất cứ sự kiện nào làm thay đổi tiêu dùng tại một mức giá nhất định cũng làm dịch chuyển đường tổng cầu. Một biến chính sách có ảnh hưởng như vậy là mức thuế. Khi chính phủ cắt giảm thuế thì điều đó đã khuyến khích mọi người tiêu dùng nhiều hơn, do đó đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Khi chính phủ tăng thuế, mọi người tiêu dùng ít hơn, và đường tổng cầu dịch chuyển sang bên trái. (ii) Sự dịch chuyển phát sinh từ đầu tư. Bất cứ sự kiện nào làm thay đổi đầu tư của cácdoanh nghiệp tại một mức giá nhất định cũng làm dịch chuyển đường tổng cầu. Ví dụ, ngành sản xuất máy tính cho ra mắt một dòng máy có tốc độ cao hơn và nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư vào các hệ thống máy tính mới này. Do lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ tại mỗi mức giá cao hơn, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải. Ngược lại, nếu các hãng bi quan về điều kiện kinh doanh trong tương lai thì họ có thể cắt giảm chi tiêu đầu tư và điều này làm đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Chính sách thuế cũng có thể ảnh hưởng tới tổng cầu thông qua đầu tư. Như chúng ta đã thấy trong bài 3, chính sách giảm thuế đầu tư (tức là chính phủ giảm thuế khi các doanh nghiệp chi tiêu cho đầu tư) làm tăng lượng cầu về hàng đầu tư của các doanh nghiệp tại bất kỳ mức giá nào. Bởi vậy, nó làm dịch chuyển đường tổng cầu sang phải. Việc huỷ bỏ chính sách giảm thuế đầu tư làm giảm đầu tư và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Một biến chính sách khác có thể ảnh hưởng đến đầu tư và tổng cầu là cung ứng tiền tệ. Như chúng ta sẽ thảo luận đầy đủ hơn trong chương sau, sự gia tăng cung ứng tiền tệ làm cho lãi suất giảm trong ngắn hạn. Điều này làm cho khoản vay trở nên ít tốn kém hơn, nó kích thích chi đầu tư và do đó đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải. Trái lại, khi cung ứng tiền tệ giảm, lãi suất tăng lên, làm cho nhu cầu đầu tư giảm xuống và đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Nhiều nhà kinh tế tin rằng trong suốt lịch sử nước Mỹ, thay đổi trong chính sách tiền tệ là một nguyên nhân quan trọng gây ra sự dịch chuyển trong tổng cầu. 69
  20. (iii) Sự dịch chuyển phát sinh từ chi tiêu của chính phủ. Một trong những cách trực tiếp mà các nhà hoạch định chính sách có thể làm dịch chuyển đường tổng cầu là thông qua chi tiêu chính phủ. Ví dụ như quốc hội quyết định giảm mua sắm các hệ thống vũ khí mới. Do lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ thấp hơn tại mọi mức giá, nên đường tổng cầu dịch chuyển sang bên trái. Ngược lại, nếu các chính quyền bang khởi công xây dựng nhiều đường cao tốc hơn, kết quả là lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ cao hơn tại mọi mức giá và đường tổng cầu dịch chuyển sang bên phải. (iv) Sự dịch chuyển phát sinh từ xuất khẩu ròng. Bất cứ biến cố nào làm thay đổi xuất khẩu ròng tại một mức giá nhất định đều làm cho đường tổng cầu dịch chuyển. Ví dụ khi châu Âu bước vào thời kỳ suy thoái, nó mua ít hàng hoá hơn từ Việt Nam. Điều này làm giảm xuất khẩu ròng của Việt Nam và dịch chuyển đường tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam sang bên trái. Khi nền kinh tế châu Âu hồi phục và lại mua hàng hoá của Việt Nam, nó sẽ làm dịch chuyển đường tổng cầu sang bên phải. Xuất khẩu ròng nhiều khi cũng thay đổi do những biến động trong TGHĐ. Giả sử các nhà đầu cơ quốc tế đẩy giá trị đồng đô la lên trên thị trường ngoại tệ. Sự lên giá này của đồng đô la làm cho hàng hoá của Việt Nam đắt đỏ hơn so với hàng ngoại. Điều đó kìm hãm xuất khẩu, khiến đường tổng cầu dịch chuyển sang trái. Ngược lại, sự mất giá của đồng tiền Việt sẽ thúc đẩy xuất khẩu ròng và dịch chuyển đường tổng cầu về bên phải. 4.2.4. Đường tổng cung dài hạn thẳng đứng và sự chuyển dịch của đường tổng cung dài hạn Đường tổng cung cho biết tổng lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp sản xuất ra và muốn bán tại mỗi mức giá cho trước bất kỳ. Không giống như đường tổng cầu lúc nào cũng dốc xuống, đường tổng cung phụ thuộc vào khoảng thời gian nghiên cứu. Trong dài hạn, đường tổng cung thẳng đứng, tức là tổng cung dài hạn độc lập với mức giá. Trái lại, trong ngắn hạn, đường tổng cung dốc lên, tức là tổng cung ngắn hạn có quan hệ đồng biến với mức giá. Để giải thích tại sao có những biến động kinh tế ngắn hạn và nền kinh tế trong ngắn hạn thường chệch ra khỏi vị trí dài hạn, chúng ta cần nghiên cứu cả hai trường hợp đường tổng cung dài hạn và đường tổng cung ngắn hạn. a) Đường tổng cung thẳng đứng trong dài hạn (i) Lý thuyết kinh tế vĩ mô cổ điển dựa trên giả định cho rằng các biến thực tế không phụ thuộc vào các biến danh nghĩa. Cụ thể, theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế cổ điển, sản lượng hàng hoá và dịch vụ của một nền kinh tế (GDP thực tế của nó) phụ thuộc vào 3 nhân tố chính gồm nguồn cung về lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên dùng để chuyển các yếu tố sản suất này thành các hàng hoá và dịch vụ. Đường tổng cung thẳng đứng phù hợp với tư tưởng này, vì nó hàm ý rằng sản lượng (biến thực tế) không phụ thuộc vào mức giá (biến danh nghĩa). Theo quan điểm cổ điển thì đường tổng cung thẳng đứng đúng cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn Trong thập niên 1950, lý thuyết tân cổ điển với mô hình Solow đã bổ sung thêm nhân tố có tính chất quyết định tạo ra tăng trưởng dài hạn là tiến bộ công nghệ. Tiếp theo trong những thập kỷ 1970-1980 của thế kỷ trước, các nhà kinh tế tân cổ điển lại bổ sung nhân tố trình độ 70
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1