Bài giảng Phương pháp làm quen văn học - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
lượt xem 3
download
Bài giảng Phương pháp làm quen văn học được biên soạn gồm các nội dung chính sau: các phương pháp cho trẻ làm quen với thơ, truyện; tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với thơ truyện; sử dụng thơ, truyện trong tổ chức hoạt động giáo dục tích hợp ở trường mầm non;... Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Phương pháp làm quen văn học - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
- CHƯƠNG TRÌNH TRÌNH ĐỘ CAO ĐẲNG NGÀNH ĐÀO TẠO: GIÁO DỤC MẦM NON (Preschool education) BÀI GIẢNG 1. Tên học phần: PP. LÀM QUEN VĂN HỌC (Acquainted literature method) 2. Mã số: 1718662 3. Số TC: 02 4. Trình độ: Dành cho sinh viên năm thứ 2 5. Người lập: Nguyễn Thị Bích Ngọc Kontum, tháng 9 năm 2018 1
- Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I. Đặc điểm của thơ, truyện viết cho trẻ MN 1. Sự hồn nhiên, ngây thơ Hồn nhiên và ngây thơ vốn là bản tính của trẻ thơ, vì thế, yêu cầu đầu tiên của văn học viết cho các em cũng chính là sự hồn nhiên, ngây thơ. Những sáng của các em thực sự cuốn hút người đọc bởi sự hồn nhiên, ngây thơ, trong trẻo: Hôm nay trời nắng chang chang Mèo con đi học chẳng mang thứ gì Chỉ mang một cái bút chì Và mang một mẫu bánh mì con con (Phan Thị Vàng Anh) Người lớn muốn viết cho các em phải học được sự hồn nhiên, ngây thơ ấy thì tác phẩm mới hy vọng đem lại sự thành công. Tất nhiên, không phải là sự hồn nhiên theo kiểu “cưa sừng làm nghé”, kiểu cố tình làm ra vẻ ngây thơ (trở thành ngây ngô) mà phải thực sự cảm hiểu để có thể hóa thân cùng với con trẻ. Tiêu biểu cho các nhà thơ người lớn viết cho trẻ như Phạm Hổ, Phan Thị Vàng Anh… 2. Sự ngắn gọn, rõ ràng Sự ngắn gọn không chỉ thể hiện ở dung lượng tác phẩm mà còn thể hiện trong cả câu văn, câu thơ. Văn xuôi thường thể hiện bằng câu đơn, ngắn, ít khi dùng câu phức hợp. Nhan đề của tác phẩm bao giờ cũng cụ thể, thường đúc kết ngay ý nghĩa giáo dục, có khi là tên nhân vật chính, hoặc một câu hỏi mang tính định hướng. VD: Bó hoa tặng cô, Ai đáng khen nhiều hơn, Bài học tốt… Truyện thường có kết cấu theo kiểu đối lập, tương phản rất rõ ràng, giúp trẻ dễ nắm bắt cốt truyện, dễ hiểu nội dung, ý nghĩa của câu chuyện và có thể kể lại một cách dễ dàng. VD: Chú Dê Đen, Ba cô gái, Bác Gấu Đen và hai chú thỏ… Dạng phổ biến của thơ viết cho các em là thể thơ 3 chữ, 4 chữ, 5 chữ, rất gần với đồng dao, một thể lọa dân gian phù hợp với trẻ thơ, câu thơ ngắn, vui nhộn; các em vừa đọc, vừa chơi, dễ thuộc, dễ nhớ. VD: Cây dây leo Bé tí teo Ở trong nhà Lại bò ra Ngoài cửa sổ Và nghểnh cổ 2
- Lên trời cao Hởi: “Vì sao”? Cây trả lời Ra ngoài trời, Cho dễ thở… (Cây dây leo – Xuân Tửu) Sự rõ ràng của văn học viết cho trẻ em lứa tuổi MN còn được thể hiện ở ý nghĩa của từ vựng. Từ ngữ thường mang nghĩa đen, với lối miêu tả cụ thể, dễ hiểu. VD: Vàng tươi hoa cúc áo Đỏ rực nụ dong riềng Tim tím hoa bìm bìm Dây tơ hồng em quấn Thành một bó vừa xinh. (Ngô Quân Miện – Bó hoa tặng cô) Với cách miêu tả trực tiếp như vậy, trẻ có thể dễ dàng hình dung ra và hiểu rõ các sự vật, hiện tượng được thể hiện trong tác phẩm. Bên cạnh đó, truyện thường có kết cấu đối lập tương phản với hai loại nhân vật thiện –ác, tốt –xấu phù hợp với lối tư duy cụ thể của trẻ, giúp trẻ dễ nắm được cốt truyện, dễ hiểu nội dung, ý nghĩa của câu chuyện và có thể kể lại một cách dễ dàng. VD: Ba cô gái, Ai đáng khen nhiều hơn… 3. Giàu hình ảnh, vần điệu, nhạc điệu Những hình ảnh đẹp, rự rỡ cùng với vần điệu và nhạc điệu vui tươi làm cho tác phẩm thêm sinh động, có sức hấp dẫn và lôi cuốn sự chú ý của các em. Có thể nói, vần là một yếu tố không thể thiếu trong thơ viết cho trẻ em (điều này rất khác với thơ người lớn, nhiều khi vần không phải là yếu tố thật quan trọng). Thơ không chỉ có vần mà còn phải có cách gieo vần thật phù hợp với sự tiếp nhận của các em. VD: Bắp cải xanh Xanh mát mắt Lá cải sắp Sắp vòng tròn Búp cải non Nằm ngủ giữa. (Phạm Hổ Bắp cải xanh) 4. Ngôn ngữ chọn lọc, trong sáng và dễ hiểu Ngôn ngữ trong thơ, truyện viết cho trẻ em có nhiều từ tượng hình, từ tượng thanh, nhiều động từ, nhiều tính từ miêu tả, tính từ chỉ màu sắc…tạo nên sắc thái vui tươi, vừa khêu gợi, khích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ, vừa tác động mạnh đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của trẻ. VD: Hoa cà tim tím Hoa mướp vàng vàng Hoa lựu chói chang Đỏ như đốm lửa 3
- Hoa vừng nho nhỏ Hoa đỗ xinh xinh Hoa mận trắng tinh Rung rinh trước gió… (Thu Hà – Hoa kết trái) Nhờ hàng loạt tính từ miêu tả (chói chang, nho nhỏ, xinh xinh), các từ tượng hình (đốm lửa, rung rinh…) và các tính từ chỉ màu sắc (tim tím, vàng vàng, đỏ, trắng tinh), bài thơ đã vẽ lên một bức tranh thật sinh động về mảnh vườn, giúp trẻ có thể hình dung về các loài hoa với những sắc màu lung linh và hình dáng rất cụ thể, cuốn hút các em. 5. Yếu tố truyện trong thơ và yếu tố thơ trong truyện Đây cũng là một đặc điểm nổi bật trong sáng tác cho trẻ em lứa tuổi MN. Khác với thơ viết cho người lớn, thơ tâm trạng, bao gồm những nỗi niềm, suy tưởng…, thơ cho các em còn có thể “kể” lại được. Ngoài những truyện thơ như Mèo đi câu cá, Nàng tiên ốc, Bồ câu và ngan… , những bài thơ ngắn cũng đều kể lại một sự việc, một hiện tượng, ví dụ: Chú bò tìm bạn, Xe chữa cháy, Bướm em hỏi chị, Mời vào… Mặt trời rúc bụi tre Buổi chiều về nghe mát Bò ra sông uống nước Thấy bóng mình ngỡ ai. Bò chào: “Kìa anh bạn Lại gặp anh ở đây!” Nước đang nằm nhìn mây Nghe bò cười toét miệng Bóng bò chợt tan biến Bò tưởng bạn đi đâu Cứ ngoái trước nhìn sau “Ậm ò” tìm gọi mãi… (Phạm Hổ Chú bò tìm bạn) Bài thơ là một câu chuện nhỏ. Câu chuyện kể rằng có một chú bò ra sông uống nước vào một buổi chiều tà mát mẻ, thấy bón của mình in dưới dòng nước trong xanh hiền hòa đã nhầm tưởng là người khác (một bạn nhỏ) cũng ra sông uống nước như mình. Bò cất tiếng chào, mặt nước rung rinh chao động vì không nhịn được cười làm bóng bò tan biến. Bò ngạc nhiên không hiểu người bạn mới gặp đã đi đâu nên ậm ò gọi mãi… 6. Ý ngĩa giáo dục nhẹ nhàng mà sâu lắng Một trong những chức năng cơ bản của văn học là chức năng giáo dục. Đối với văn học viết cho trẻ em thì chức năng này đặc biệt quan trọng. Bởi không chỉ là nhà văn, nhà thơ mà còn là một nhà giáo. Là một loại hình nghệ thuật ngôn từ, văn học có khả năng tác động mạnh mẽ đến tâm hồn nhận thức con người. Nhất là lứa tuổi MN. Tuy nhiên, lứa tuổi này chỉ có thể “đọc” tác phẩm văn học một cách gián tiếp, tư duy loogic lại chưa phát triển nên hầu như chưa có khả năng suy luận, phán đoán. Chính vì thế, mỗi một tác phẩm phải đem đến cho trẻ một ý nghĩa giáo dục rõ ràng, cụ thể. 4
- II. Vai trò của văn học đối với sự phát triển của trẻ thơ 1. Vai trò của văn học đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ lứa tuổi MN Những TPVH thiếu nhi có ảnh hưởng lớn đến giáo dục thẩm mỹ cho các em. V.G Biêlinxki gọi tình cảm thẩm mỹ là “cội nguồn của mọi cái đẹp, mọi cái vĩ đại” Trẻ em rất hồn nhiên, trong sáng. Sự nhận thức thường thông qua con đường cụ thể, trực tiếp, cảm tính, gắn liền với những xúc cảm, tình cảm, nhất là những xúc cảm về cái đẹp. Vì thế, có thể thông qua giáo dục thẩm mỹ mà giáo dục các mặt khác, đặc biệt là giáo dục đạo đức cho trẻ. Bởi đối với trẻ MN thì cái đẹp và cái tốt chỉ là một, khó có thể chia cắt rạch ròi. Đặc biệt ở tuổi mẫu giáo, là thời kỳ phát cảm của những cảm xúc thẩm mỹ, tức là xúc cảm tích cực, được nảy sinh khi trẻ tiếp xúc trự tiếp với các đẹp khiến trẻ thấy gắn bó tha thiết với con người và cảnh vật xung quanh. Chính vì thế, đây là thời điểm vô cùng thuận lợi cho việc giáo dục thẩm mỹ, và chính việc giáo dục thẩm mỹ lại có thể mang đến một hiệu quả to lớn đối với sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ. Về phương diện này,văn học, đặc biệt văn học cho trẻ em lứa tuổi MN có khả năng chiếm ưu thế. Văn học luôn đem đến cho các em những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng; gợi mở trong các em những xúc cảm thẩm mỹ và hình thành thị hiếu thẩm mỹ. Tiếp xúc với TPVH là các em được tiếp xúc với cả một thế giới bao la đầy âm thanh và màu sắc với những hình ảnh đẹp đẽ, sống động, muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên và cuộc sống. Trẻ em lứa tuổi MN, với tâm hồn ngây thơ, chưa có những trải nghiệm cá nhân, sự nhận thức về thế giới xung quanh mới ở mức cảm tính, gắn với những cái cụ thể, trước mắt. Vẻ đẹp lấp lánh của ngôn từ nghệ thuật và sự tưởng tượng phong phú trong tác phẩm văn học gặp trí tưởng tượng ngây thơ sẽ là cơ sở để các em có thể rung động và cảm nhận được những vẻ đẹp trong TP này. Trăng ơi… từ đâu đến? Hay từ cánh rừng xa Trăng hồng như quả chín Lửng lơ lên trước nhà. Trăng ơi… từ đâu đến? Hay biển xanh diệu kì Trăng tròn như mắt cá Chẳng bao giờ chớp mi. Trăng ơi… từ đâu đến? Hay từ một sân chới Trăng bay như quả bóng Đứa nào đá lên trời… (Trần Đăng Khoa, Trăng ơi… từ đâu đến?) Những hình ảnh được miêu tả trong thơ thường rất sinh động, trong trẻo, giúp các em không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn thêm yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Có thể nói, tình yêu thiên nhiên là khởi điểm của lòng yêu nước. Trong tác phẩm văn xuôi, các em càng thích thú khi được gặp những yếu tố thần kỳ của truyện cổ tích, lối nhân hóa và sự tưởng tượng phong phú của truyện đồng thoại. 5
- Những hình tượng văn chương tốt đẹp đầy lòng nhân ái sẽ giúp các em tự rút ra các khái niệm về thẩm mỹ, tự phân biệt được cái đẹp, cái xấu, cái đáng yêu không đáng yêu… Không chỉ cung cấp cho các em những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng, văn học cho trẻ lứa tuổi MN còn giúp các em phát huy trí tưởng tượng phong phú, bay bổng để tự tạo ra cái đẹp hoặc tìm đến và thưởng thức cái đẹp. Trẻ em lứa tuổi MN, nhờ tiếp xúc với TPVH, tâm hồn cũng trở nên nhạy cảm hơn, có khả năng cảm thụ tác phẩm tốt hơn để có thể nhận ra các hay, cái đẹp của TP, biết khám phá ra cái đẹp của thế giới xung quanh và cũng vì thế có thể cảm nhận cuộc sống một cách nhạy cảm, tinh tế hơn. Khi được thường xuyên thưởng thức TPVH và say mê, thích thú với tác phẩm đó, trẻ em lưa tuổi MN còn có thể biết tự mình sáng tạo ra cái đẹp. Sự sáng tạo này rất phong phú, vì vậy, các cô giáo MN cần động viên và gợi ý để trẻ có thể phát huy được hết thế mạnh của mình. 2. Vai trò của văn học đối với việc giáo dục lòng nhân ái cho trẻ thơ Lòng nhân ái là một truyền thống quý báu của người Việt Nam. Tình yêu thương ruột thịt, tình làng nghĩa xóm, tình người trong cùng một quốc gia… Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng… Ngày nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, nhân loại ngày càng xích lại gần nhau thì lòng nhân ái càng là tình cảm vô cùng quan trọng, không thể thiếu ở mỗi cá nhân, mỗi dân tộc. Sang thế kỷ XXI, đất nước ta không ngừng đổi mới và phát triển, sức mạnh của đồng tiền ngày càng tăng, đạo đức của con người có nguy cơ xuống cấp, tình yêu, tình thương cũng bị cuốn theo cơn lốc thị trường. Điều này thật nguy hiểm, bởi lẽ “người có tài mà không có đức cũng là người vô dụng” (Bác Hồ). Chính vì vậy, chúng ta cần giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông, cần giáo dục lòng nhân ái cho con người ngay từ lứa tuổi MN. Với quan điểm như vậy, việc giáo dục lòng nhân ái cho trẻ em lứa tuổi MN là vấn đề hết sức quan trọng. Theo các công trình nghiên cứu tâm lý học, tình cảm của trẻ em lứa tuổi MN phát triển mãnh liệt, đặc biệt là tính đồng cảm, dễ xúc cảm với con người và vạn vật xung quanh. Đây là một đặc điểm rất thuận lợi và là thời cơ tốt nhất để giáo dục lòng nhân ái cho mỗi con người. Thực tế đã chứng minh rằng những đứa trẻ sống trong hoàn cảnh bất lợi, lại chịu ảnh hưởng lối giáo dục sai lầm thì cũng dễ nảy sinh tính ích kỷ, tham lam, độc ác. Trong thời điểm nhân cách mới hình thành thì những dấu ấn không tốt đẹp có thể để lại những di chứng cho các giai đoạn phát triển sau này. Hình thành, phát triển và giáo dục những tình cảm đạo đức cho trẻ MN là điều hết sức quan trọng. Giáo dục lòng nhân ái cho trẻ MN sẽ giúp chúng dễ hòa nhập vào cuộc sống và dễ dàng tiếp thu sự giáo dục của người lớn, đón nhận những ảnh hưởng tốt đẹp của môi trường để phát triển nhân cách một cách tích cực. Để thực hiện tốt điều này, văn học được coi là phương tiện hữu hiệu nhất. 6
- Văn học cho trẻ lứ tuổi MN thể hiện rõ nét lòng nhân ái mà người viết muốn gửi gắm đến các em. Lòng nhân ái được thể hiện trong những tác phẩm này không phải là những gì quá cao siêu mà được biểu hiện rất cụ thể, rất đời thường, gần gũi với trẻ thơ. Đó là tình cảm yêu thương giữa con người với con người, con người với thiên nhiên. VD: Trăng ơi… từ đâu đến? Hay biển xanh diệu kì Trăng tròn như mắt cá Chẳng bao giờ chớp mi. (Trần Đăng Khoa, Trăng ơi…từ đâu đến?) Làm anh khó đấy Phải đâu chuyện đùa Với em bé gái Phải người lớn cơ Khi em bé khóc Anh phải dỗ dành Mẹ cho quà bánh Chia em phần hơn… (Làm anh) Có thể nói, bằng TPVH,các tác giả đã giúp các em hiểu được sự biểu hiện cụ thể (bằng thái độ, hành động, cách ứng xử…) của lòng nhân ái. Đây là thứ tình cảm hết sức cần thiết, đặc biệt đối với trẻ em – những tâm hồn ngây thơ dễ rung cảm, dễ xúc động. Đó chính là cơ sở, là ngọn nguồn, là cái gốc đạo đức của con người. 3. Vai trò của văn học đối với việc mở rộng và nâng cao nhận thức cho trẻ em lứa tuổi MN. Mở rộng và nâng cao nhận thức cho trẻ MN được diễn ra trong nhiều hoạt động khác nhau, và văn học là phương tiện hữu hiệu giúp trẻ mở rộng và nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh. Những bài thơ, những câu chuyện đã giúp các em mở rộng tầm nhìn và sự hiểu biết về thế giới tự nhiên, thế giới loài vật, thế giới đồ vật…, giúp trẻ biết được tên gọi, những đặc tính, những quan hệ và ý nghĩa của chúng đối với con người…Có thể nói, với chức năng phản ánh cuộc sống, văn học thiếu nhi như “những cuốn sách giáo khoa” đầu tiên giúp cho trẻ nhận thức và hiểu biết về thế giới xung quanh. Bằng những hình tượng văn học sinh động, những “bài học” ấy trở nên hết sức nhẹ nhàng mà không kém phần sâu sắc. Đây là một cơ mưa rào mùa hạ được Trần Đăng Khoa thể hiện hết sức sống động: Lộp độp Lộp độp Rơi Đất trời Mù trắng nước (Trần Đăng Khoa, Mưa) Khác hẳn với cơn mưa xuân nhè nhẹ, êm êm, như sương… Mưa rơi nhè nhẹ 7
- Trên mái tóc em Mát như sương đêm Tươi cành xanh lá Nghiêng nghiêng đôi má Cười đón mưa rơi Em ngẩng nhìn trời Xuân sng đẹp quá. Giọt nước tí xíu là một câu chuyện thú vị về cuộc phiêu lưu kỳ thú của giọt nước từ biển xanh tới rừng già, về suối, về sông rồi lại ra bển cả. Nhưng đồng thời, câu chuyện cũng là một bài học sinh động giúp trẻ nhận biết hiện tượng bốc hơi của nước và quá trình hình thành mây, mưa… Mười quả trứng tròn, Mẹ gà ấp ủ, Hôm nay ra đủ Mười chú gà con Lòng trắng, lòng đỏ, Thành mỏ, thành chân. Cái mỏ tí hon, Cái chân bé xíu, Lông vàng mát dịu Mắt đen sáng ngời… (Phạm Hổ, Đàn gà con) Quá trình sinh trưởng của con gà được tác giả giải thích thú vị bằng những hình tượng văn học sống động, khác hẳn với những bài học sinh vật khô cứng mà vẫn đảm bảo sự chính xác. 4. Vai trò của văn học đối với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi MN Phát triển ngôn ngữ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong GDMN, đặc biệt là giáo dục trẻ mẫu giáo. Bởi lẽ, ngôn ngữ gắn liền với tư duy. Nếu trẻ không được trang bị vốn ngôn ngữ nhất định, trẻ sẽ không thể đến trường phổ thông để lĩnh hội ti thức và nền văn hóa nhân loại. Hiện nay, ở trường MN, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đang được thực hiện trong tất cả các hoạt động chơi và học của trẻ. Với nhiệm vụ này, các TPVH có vai trò đặc biệt quan trọng là: Văn học giúp trẻ mở rộng vốn từ, đặc biệt là từ ngữ nghệ thuật. Văn học giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc, nâng cao khả năng biểu đạt (diễn đạt một vấn đề nào đó có hình ảnh, giàu tính tạo hình và tính biểu cảm). Văn học là “cuốn sách giáo khoa” đầu tiên giúp trẻ nhận biết môi trường xung quanh: các hiện tượng tự nhiên, thế giới thiên nhiên, loài vật, cây cỏ, đồ vật hoặc các mối quan hệ trong xã hội. Như vậy, một logic ta dễ nhận thấy là việc mở rộng nhận thức bao giờ cũng gắn chặt với mở rộng vốn từ. Trẻ tiếp nhận những khái niệm mới cũng chính là tiếp nhận những từ ngữ mới. Đồng thời với việc giúp trẻ mở rộng nhận thức và hiểu biết về thế giới xung quanh thì văn học cũng cung cấp cho trẻ một vốn từ khổng lồ, đặc biệt là những từ ngữ nghệ thuật. Đó chính là vốn từ từ ngữ được chọn lọc, tinh luyện và sáng tạo của các 8
- tác giả. Những trẻ thường xuyên tiếp xúc với tác phẩm văn học thì vốn từ của chúng thường phong phú và sống động. Đồng thời có khả năng diễn đạt các vấn đề một cách mạch lạc, giàu hình ảnh và biểu cảm. Quá trình trẻ tiếp xúc với TPVH cũng là quá trình trẻ học tiếng nói của các tác phẩm văn học. Lời nói nghệ thuật không chỉ giúp trẻ cảm nhận được cái đẹp của ngôn từ nói chung mà thực sự là cảm nhận cái đẹp của tiếng nói mẹ đẻ. Đây lại chính là phương tiện vô cùng quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Một con người không thể hoàn thiện về nhân cách nếu như không hiểu và yêu ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Trẻ có thể tìm thấy trong TPVH những từ ngữ trong sáng, chính xác, nhiều màu sắc, có tính tạo hình, gợi tả và biểu hiện, biểu cảm rất cao. Đó là cái đẹp của lối ví von so sánh: “Hoa lựu chói chang/ Đỏ như đốm lửa”, “Những hôm nào trăng khuyết/Trông giống con thuyền trôi”; hay những cái đẹp của câu hỏi tu từ: “Trăng ơi…từ đâu đến?” Tóm lại, vai trò của văn học đối với việc giáo dục trẻ em lứa tuổi MN là rất to lớn. Văn học góp phần giúp cho trẻ phát triển nhân cách toàn diện. Sẽ là rất thiệt thòi cho những đứa trẻ không thường xuyên tiếp xúc với TPVH. Chính vì vậy cần đưa văn học đến với trẻ từ rất sớm. Cô giáo MN cầ trau dồi những kiến thức cơ bản để cảm thụ thật tốt các TPVH thì mới có thể truyền dạy ch trẻ được hết những cái hay, cái đẹp của TP. Với sự hướng dãn của cô giáo, trẻ dduwwocj nghe, được học các TPVH, đó là những bài học làm người đầu tiên, và những bài học đó sẽ cùng trẻ lớn dần theo năm tháng, trong suốt cả cuộc đời. III. Một số đặc điểm tâm lý của trẻ em lứa tuổi MN liên quan đến việc tiếp nhận TPVH 1. Trẻ em lứa tuổi Mn giàu xúc cảm và tình cảm Giàu xúc cảm, tình cảm là nét tâm lý nổi bật ở trẻ thơ, đặc biệt là trẻ lứa tuổi MN. Nhìn chung, ở lứa tuổi này, tình cảm thống trị tất cả các mặt trong hoạt động tâm lý của trẻ. Chính vì vậy mà nhận thức của trẻ cũng mang đậm màu sắc cảm xúc. Trẻ luôn có nhu cầu được người khác quan tâm và cũng luôn bày tỏ tình cảm của mình đối với mọi người xung quanh. Lứa tuổi này đặc biệt nhạy cảm trước sự đổi thay của thế giới xung quanh và xúc dộng, ngỡ ngàng trước những điều tưởng chừng như rất đơn giản. Chính những đặc điểm này làm cho trẻ khi nghe kể chuyện, đọc thơ có thể dễ dàng hóa thân vào nhân vật trong tác phẩm. Trẻ thường có những phản ứng trực tiếp, ngay tức thì khi tiếp xúc với TP. Trẻ có thể cười, có thể khóc, sung sướng hay tức giận trước những chi tiết, sự kiện của TP, những tình huống mà nhân vật gặp phải. Đó là phản ứng hết sức tự nhiên, biểu hiện trạng thái tâm lý chưa ổn định, dễ dao động trước những tác động của bên ngoài. Chính vì vậy, ngông ngữ, giọng điệu, ngữ điệu hoặc những cử chỉ, điệu bộ của người đọc, kể tác phẩm văn học cho trẻ nghe là vấn đề hết sức quan trọng. Việc cho trẻ tiếp caanh với TPVH, ngoài kiến thức, còn tạo cho trẻ một năng lực cảm nhận cái đẹp, một thái độ để cảm nhận cuộc sống – một cách phong phú. Riêng với TPVH, trẻ tiếp nhận bằng cả tâm hồn, trái tim và những tình cảm hết sức hồn nhiên, ngây thơ của mình. Có thể nói, trẻ em có lợi thế tiếp nhận cái đẹp trong VHNT. Chỉ cần một chồi non hé mở chiếc mầm xinh xắn cũng có thể gây cho trẻ niềm vui và sự hứng thú. 9
- Mầm non mắt lim dim Cố nhìn qua kẽ lá Thấy mây bay hối hả Thấy lất phất mưa phùn… Võ Quảng, Mầm non) Trong việc tiếp nhận TPVH của trẻ em MN, vấn đè tri thức và kinh nghiệm rất cần, nhưng quan trọng hơn vẫn là cảm xúc. Đó là năng lực hóa thân của các em với cái nhìn ngây thơ, giản đơn về sự giống nhau giữa tác phẩm và cuộc sống. Trẻ luôn cho rằng thế giới nghệ thuật trong TPVH cũng là hiện thực ngoài đời nên dễ dàng muốn chia sẻ. 2. Trí tưởng tượng phong phú, bay bổng Nét nổi bật trong tâm lý trẻ em lứa tuổi MN là sự phong phú về trí tưởng tượng. Sức tưởng tượng của các em dường như vô bờ bến, không biết đau là cùng. Chúng dùng tưởng tượng để khám phá thế giới và tự thỏa mãn nhu cầu nhận thức của mình. Trí tưởng tượng là một phần quan trọng của quá trình tâm lý, nó góp phần tích cực vào hoạt động tư duy và nhận thức của trẻ. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, tưởng tượng của trẻ em lứa tuổi MN đã bắt đầu mang tính chất sáng tạo. Tưởng tượng của trẻ gắn chặt với cảm xúc. Đó là quan hệ hai chiều. Tưởng tượng phụ thuộc vào sự phát triển của cảm xúc, cảm xúc càng sâu sắc thì tưởng tượng càng phát triển để phù hợp với cảm xúc đó, và ngược lại , tưởng tượng cũng giữ vai trò quan trọng trong việc làm giàu thêm những kinh nghiệm cảm xúc ở trẻ. Trẻ thơ rất cần trí tưởng tượng, và vì vậy, việc nuôi dưỡng trí tưởng tượng cho trẻ là một tong những nhiệm vụ quan trọng của GDMN. Tính hoang đường là đặc trưng cơ bản về tưởng tượng của trẻ MN. Đặc điểm của nó là thiên về những điều kỳ diệu khác thường. Đó là thế giới thần tiên của truyện cổ tích, trong đó có những ông Bụt, bà Tiên tốt bụng, những phép biến hóa thần kỳ…Vì vậy, các nhà sáng tác văn học phải đặc biệt quan tâm đến đặc tưng tâm lý này. Trẻ em tiếp nhận tác phẩm bằng chính trực giác và tưởng tượng thiên bẩm của tuổi thơ. Có thể nói, tưởng tượng là một năng lực không thể thiếu để cảm thụ và sống với TPVH. Trẻ thơ đã sẵn có trong đầu trí tưởng tượng phong phú, bay bổng nên gặp những hình ảnh đẹp đẽ, kỳ ảo của TPVH thì trí tưởng tượng của trẻ sẽ càng được thăng hoa. Như vậy, trí tưởng tượng phong phú của trẻ chính là tiền đề để chúng ta thực hiện việc đưa TPVH đến với trẻ. Trẻ sử dụng trí tưởng tượng của mình để tiếp thu sáng tạo nghệ thuật, và ngược lại, trí tưởng tượng phong phú, bay bổng trong TPVH cũng sẽ chắp cánh cho những ước mơ, hoài bão và sự sáng tạo ở trẻ. Cô giáo MN cần có sự hiểu biết và những kỹ năng cảm thụ TPVH để tìm ra con đường tốt nhất giúp trẻ tiếp nhận TP một cách có hiệu quả. 3. Tư duy trực quan hình tượng Tư duy là một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tiếp nhận văn học của trẻ. Với sự tung hoành của trí tưởng tượng cùng với tính duy kỉ rất cao, trẻ em lưa tuổi MN, đặc biệt từ 3 đến 6 tuổi luôn lấy mình làm trung tâm để nhìn nhận thế giới xung quanh. Với cách nhìn “vật ngã đồng nhất” và trí tưởng tượng phong phú, vạn vật trong thế giới qua con mắt trẻ thơ đều trở nên sinh đọng và có hồn. 10
- Chỉ có nhà thơ và trẻ em mới có thể nhìn vạn vật ra con người, nhìn thiên nhiên có linh hồn và tâm trạng. chính khả năng đồng hóa ấy khiến trẻ có thể giao cảm với thế giới nghệ thuật trong TP, để có thể hiểu về thế giới bằng tâm hồn và ngôn ngữ rất thơ của mình. Trẻ em lứa tuổi mầm non tư duy một cách cụ thể, gắn liền với những hình ảnh, màu sắc và âm thanh, vì vậy, tính cụ thể của ngôn ngữ trong TP có liên quan mật thiết với sự tiếp nhận VH của trẻ. Điều đó cũng giải thích vì sao ngôn ngữ trong TPVH dành cho trẻ lứa tuổi MN cần cụ thể, chính xác và giàu âm thanh, màu sắc. Tóm lại, lứa tuổi MN là lứa tuổi rất nhạy cảm với cái đẹp và luôn khao khát được tiếp xúc, khám phá cái đẹp. TPVh có thể thỏa mãn nhu cầu tìm đến với cái đẹp của trẻ. Tuy nhiên, khác với người lớn, trẻ em lứa tuổi này chỉ có thể “đọc” TP một cách gián tiếp. Chính vì vậy, cả người sáng tác và các cô giáo MN cần phải hiểu những tâm lý rất cơ bản của trẻ, có như thế mới có thể phát huy được sức mạnh của VH trong việc giáo dục trẻ thơ. Câu hỏi ôn tập: 1. Hãy phân tích những đặc trưng văn học dành cho trẻ MN. 2. Hãy phân tích ý nghĩa của văn học đối với giáo dục thẩm mỹ cho trẻ lứa tuổi MN. 3. Hãy lựa chọn một TPVH thiếu nhi và phân tích ý nghĩa của TP này đối với giáo dục thẩm mỹ cho trẻ lứ tuổi MN. 4. Hãy lựa chọn một TPVH thiếu nhi và phân tích ý nghĩa của TP này đối với giáo dục lòng nhân ái cho trẻ lứa tuổi MN. 5. Hãy lựa chọn một TPVH thiếu nhi và phân tích ý nghĩa của TP này trong việc giúp trẻ mở rộng nhận thức về thế giới xung quanh. 6. Hãy lựa chọn một TPVH thiếu nhi và phân tích ý nghĩa của TP này trong việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Chương 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI THƠ, TRUYỆN I. Nghệ thuật đọc và kể chuyện diễn cảm Đọc, kể tác phẩm văn học một cách có nghệ thuật là người đọc, người kể sử dụng mọi sắc thái của giọng để trình bày tác phẩm, giúp cho người nghe có thể "nhìn" thấy những cái đã được nghe và khơi gợi lên những rung động, những cảm xúc ở họ. Muốn thực 11
- hiện tốt việc đọc, kể diễn cảm TPVH thì trước hết cô giáo phải rèn luyện để đọc đúng tác phẩm. Có thể nói, rèn luyện kỹ năng đọc , kể các câu chuyện, bài thơ một cách có nghệ thuật là nhiệm vụ rất quan trọng và không phải dễ dàng đối với người giáo viên. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này giáo viên phải nghiên cứu kỹ các câu chuyện, bài thơ, nắm được nội dung và hiểu được tư tưởng chủ đề của tác phẩm, tiến hành phân tích tác phẩm về mặt ngữ điệu...; từ đó xác định giọng điệu chính để trình bày tác phẩm cho phù hợp; xác định giọng điệu cụ thể của từng đoạn, từng phần, từng nhân vật và các lời bình...Việc chuẩn bị này đòi hỏi GV không chỉ có trình độ, có kỹ năng mà còn phải có trí tưởng tượng nghệ thuật, thực sự xâm nhập vào tác phẩm. Bản thân người đọc, người kể có "nhìn" thấy được những điều mình đọc, mình kể thì mới có thể giúp người nghe "nhìn" được những điều họ nghe. 1. Xác định giọng điệu cơ bản: Giọng điệu cơ bản là tính chất chung của giọng đọc, kể khi trình bày tác phẩm.Việc xác định giọng điệu cơ bản phụ thuộc vào thể loại, nội dung tư tưởng và phong cách ngôn ngữ của tác phẩm. Việc thể hiện giọng điệu cơ bản có ý nghĩa quan trọng giúp người nghe có thể cảm nhận được giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ, câu chuyện. nếu người đọc xác định sai giọng điệu cơ bản, rất có thể người nghe sẽ hiểu sai hoặc hiểu không đầy đủ tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Truyện cười thường được kể với giọng điệu dí dỏm, hài hước và có khi châm biếm; truyện ngụ ngôn thường có các nhân vật rất rõ ràng nên giọng phải thể hiện được tính cách của từng nhân vật, câu kết thúc truyện bao giờ cũng đúc kết kinh nghiệm, thường thể hiện bằng giọng triết lý, hóm hỉnh; truyện cổ tích chủ yếu kể với giọng thủ thỉ, tâm tình phù hợp với không gian kỳ bí, huyền ảo... (SV xem ví dụ trong giáo trình) 2. Xác định ngữ điệu: Ngữ điệu là tổng hợp phức tạp các phương tiện biểu cảm ngữ âm bao gồm: giai điệu, nhịp điệu, cường độ, trọng âm, âm sắc...Ngữ điệu là những biến đổi về độ cao của giọng khi nói, khi đọc, có liên quan đến cả một ngữ đoạn và có thể dùng để biểu thị một số ý nghĩa bổ sung. Nhờ đó mà người đọc, người kể có thể miêu tả lại được cá tính, tâm trạng, hành động của các nhân vật, đồng thời bộc lộ được thái độ của mình trước nhân vật đó. Thông qua ngữ điệu, cô giáo có thể tác động mạnh đến cảm xúc của trẻ. Xác định đúng ngữ điệu khi đọc, kể diễn cảm liên quan đến nhiều yếu tố: đọc chính âm, ngừng giọng, nhịp độ và cường độ. VD: Thương mẹ/, thương mẹ/ mà lại còn cọ chậu đã/ rồi mới về thăm mẹ/. Thôi/ cứ ở nhà mà cọ chậu/.(truyện Ba cô gái) Sự ngắt giọng này thể hiện tâm trạng giận dữ của sóc. Trong truyện Cáo, Thỏ và Gà Trống, lời đối thoại giữa Chó, Gấu với Cáo ở đoạn sau lại to, mạnh. Đặc biệt, là lời của Gà Trống với Cáo càng to, dõng dạc với tốc độ nhanh hơn: Cúc cù cu Ta vác hái trên vai Đi tìm Cáo gian ác Cáo ở đâu ra ngay, ra ngay! 12
- 3. Tư thế, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ 3.1.Tư thế: Tư thế là vị trí cơ thể người đọc, người kể trong lúc trình bày tác phẩm. Yêu cầu chung là tư thế phải tự nhiên, đẹp và thỏa mái. Người đọc, kể phải hướng về người nghe, có thể đứng hoặc ngồi nhưng không đi lại trước mặt trẻ. Trong trường hợp trang trọng, nên đứng chứ không được ngồi để đọc, kể. 3.2.Nét mặt: Trong hoạt động giao tiếp trực tiếp, nét mặt thể hiện rõ nhất sự giao lưu giữa người nói và người nghe. Đây chính là "linh hồn" để những con người giao tiếp với nhau có thể tạo ra được một kết quả nhất định(truyền đạt thông tin, chia sẻ tâm tình...) Trẻ em giao tiếp với người lớn, cho dù là giao tiếp trực tiếp, giao tiếp "công việc", hay giao tiếp nhận thức...thì trẻ cũng cần ở người lớn một thái độ ân cần, một sự an toàn tin cậy. Chính vì thế, khi vào lớp, cô cần có nét mặt tươi vui, cởi mở. Sự tươi vui, cởi mở của cô sẽ tạo sự gần gũi với trẻ. Đây là một nửa của sự thành công trong giờ học. Khi đọc, kể tác TPVH, nét mặt của cô giáo phải thể hiện được cảm xúc, thái độ của người đọc, người kể và nói chung là phải phù hợp với nội dung của tác phẩm góp phần bộc lộ tác phẩm. 3.3. Cử chỉ, điệu bộ: Cử chỉ, điệu bộ của người đọc, kể là sự bổ sung cho ngữ điệu và làm sống dậy hình tượng của tác phẩm, được dùng để biểu lộ thái độ với các nhân vật, các sự kiện được miêu tả trong tác phẩm, làm tăng thêm sức biểu cảm cho lời nói, và đặc biệt là giúp cho người nghe có thể cảm nhận bằng trực cảm. Cử chỉ phải phù hợp với sự xúc động trong tâm hồn người đọc, kể và phù hợp với nội dung tác phẩm. Những cử chỉ đơn giản, chân thực sẽ góp phần thể hiện sâu sắc nội dung tác phẩm; trái lại, những cử chỉ cường điệu, máy móc sẽ làm cho việc thể hiện tác phẩm kém hiệu quả. II. Sử dụng các phương tiện trực quan trong việc kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe Khái niệm: Là việc cô giáo sử dụng các loại tranh ảnh, đồ chơi, vật thật có nội dung phù hợp với nội dung tác phẩm nhằm hỗ trợ tích cực giúp trẻ hình dung các hình ảnh, chi tiết được phản ánh trong tác phẩm. Từ đó giúp trẻ hiểu đúng về giá trị của tác phẩm được làm quen. 1. Sử dụng vật thật Dùng các vật thật (hoa, quả…), cho trẻ quan sát, sờ nắn, ngửi, nếm…trước hoặc sau khi kể chuyện, đọc thơ. Ví dụ: Khi dạy trẻ đọc bài thơ Hồ sen, cô mang đến lớp một bông hoa và lá sen cho các cháu quan sát, thậm chí cô có thể dùng vài giọt nước trên lá sen để các cháu dễ dàng hình dung Lá sen xanh mát Đọng hạt sương đêm Gió rung êm đềm Sương long lanh chạy… Vật thật còn được hiểu là hiện tượng trong thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp, sông núi…Trước hoặc sau hoạt động chung cho trẻ làm quen với TPVH, cô có thể cho các cháu 13
- đi tham quan, cô phải chú ý hướng trẻ đến cái trọng tâm, không để những hiện tượng bên lề làm lạc hướng hoặc phân tán sự chú ý của trẻ. 2. Sử dụng đồ dùng trực quan Mô phỏng lại các sự vật hiện tượng như tranh vẽ, con rối, mô hình, sa bàn… Loại trực quan này rất phong phú và đa dạng, dễ kiếm, dễ bảo quản và có thể dùng lâu hơn là vật thật. Nên sử dụng những đồ dùng tự tạo do cô và trẻ cùng kết hợp làm. Những đồ dùng này được làm tận dụng từ nguyên liệu có sẵn như phế liệu (giấy, vỏ hộp…) hoặc những chất liệu có sẵn trong thiên nhiên như vỏ cây, lá khô, vỏ sò, ốc…Tuy nhiên, cũng không nên quan niệm “tiết kiệm” một cách thô thiển hoặc quá đề cao vốn “tự tạo” để ép các cô làm đồ dùng mà không chú ý đến hình thức và tính sát thực của sản phẩm. Những đồ dùng trực quan này khi đem ra kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe đã không còn đơn thuần là vật vô tri vô giác nữa mà thực sự đã được cô giáo thổi hồn vào đó, trở thành những người bạn của trẻ thơ. 3. Các phương tiện nghe nhìn hiện đại Loại phương tiện hiện đại không phải nơi nào, trường nào cũng có và không phải giáo viên nào cũng biết sử dụng, mặt khác việc giữ gìn bảo quản cũng phức tạp và tốn kém, vì thế không phải là loại trực quan phổ dụng. Tuy nhiên, hiện nay một số người có tâm lý thích dùng loại trực quan này,coi đó là tiêu chí để đánh giá trình độ của giáo viên và chất lượng học của cháu. Điều đó là không hợp lý, càng không phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta. Các phương tiện hiện đại chỉ được coi là hỗ trợ thêm nhằm cung cấp thông tin cho trẻ, vì thế, việc sử dụng cần có thời lượng nhất định để không làm ảnh hưởng đến trí tưởng tượng và tư duy của trẻ; đặc biệt là không làm trẻ bị mất tập trung vào nội dung tác phẩm. 4. Những ký hiệu quy ước Một loại trực quan rất cần phải nhắc đến trong việc kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe, đó là ngôn ngữ, nét mặt và cử chỉ, điệu bộ của giáo viên. Hơn bất cứ loại trực qaun nào, cô giáo chính là “trực quan” sống động nhất, gần gũi nhất đối với trẻ. Khả năng rung cảm, sự hiểu biết tác phẩm của cô sẽ được bộc lộ qua ngôn ngữ, qua ánh mắt, nét mặt, điệu bộ…và qua đó, cô sẽ làm sống dậy các hình tượng trong tác phẩm, thu hút sự chú ý và giúp trẻ cảm nhận TP một cách sâu sắc nhất. Nếu giọng kể, đọc của cô rời rạc, thiếu diễn cảm; gương mặt cô thò ơ, không bộc lộ cảm xúc thì dù các loại trực quan cô sử dụng có phong phú đến đâu, đẹp đến đâu, hiện đại đến đâu, thì câu chuyện cũng khó có thể gây được hấp dẫn với trẻ. Nhìn chung, sử dụng trực quan trong kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe sẽ gợi cho trẻ những xúc cảm nghệ thuật sâu sắc, từ đó trẻ có thể tiếp thu được một vốn từ ngữ giàu hình tượng và ghi nhớ tác phẩm nhanh hơn. Trực quan chẳng những cung cấp cho trẻ những kiến thức chính xác, bền vững mà còn có thể giúp trẻ kiểm tra lại tính đúng đắn của lý thuyết, những biểu tượng đã được hình thành trong óc trẻ. Trực quan giúp trẻ hoạt động hứng thú hơn, tăng cường sức chú ý hơn, và vì thế cũng nắm dduwwocj tác phẩm sâu sắc hơn. Có ba hình thức cơ bản sử dụng trực quan 14
- Dùng trực qaun để giới thiệu tác phẩm, nhằm tạo tình huống, gây sự hứng thú ở trẻ. Ví dụ: Dạy bài thơ ‘’ Hoa kết trái’’ Mẫu giáo nhỡ + Cho trẻ quan sát tranh vẽ các loại hoa + Đàm thoại: Trong tranh vẽ gì? Đây là các loại hoa trong thiên nhiên=>giúp cho thiên nhiên thêm tươi đẹp, nhiều sắc màu... Dùng trực quan để giúp trẻ hiểu tác phẩm (minh họa các chi tiết, hình ảnh…). Ví dụ: Kể chuyện ‘’ Ba cô gái’’ Cô dùng 6 bức tranh tương ứng với 3 đoạn trong truyện Đoạn 1: Tranh vẽ bà mẹ và ba cô gái(1) Tranh vẽ bà mẹ và sóc(2) Đoạn 2: Tranh vẽ cô chị cả đang cọ chậu(3) Tranh vẽ cô chị hai đang xe chỉ(4) Tranh vẽ cô út đang nhào bột(5) Đoạn 3: Tranh vẽ cô út về thăm mẹ(6) Dùng trực quan để củng cố tác phẩm (hoặc tái hiện lại tác phẩm), giúp trẻ củng cố, khắc sâu những biểu tượng mới mới được hình thành qua ngôn ngữ đọc, kể. * Yêu cầu của việc sử dụng trực quan Các phương tiện trực quan phải đảm bảo thẩm mỹ về hình dáng, màu sắc, và phù hợp với nội dung của tác phẩm. Kích thước phải hợp lý trong tương quan với các sự vật khác và phù hợp với không gian lớp học. Ví dụ: Làm mô hình trong câu chuyện Bác gấu đen và hai chú thỏ thì hình gấu không thể to hơn ngôi nhà. Không trang trí quá nhiều vào trực quan gây rối rắm làm trẻ bị phân tán, không tập trung vào nội dung chính tác phẩm( những phần phụ như mây trờ, hoa lá…) Khi sử dụng trực quan phải biết kết hợp nhuần nhuyễn, tự nhiên với dùng lời. Tùy từng thời điểm và mục đích mà dùng trực quan cho phù hợp và hướng dẫn trẻ tri giác trực quan, đảm bảo tính hệ thống và sự logic của tác phẩm. GV phải tập sử dụng trực quan cho thành thạo truwocs khi sử dụng trực qaun để kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe. III. Giảng giải, đàm thoại trong kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe 1. Phương pháp giảng giải Khái niệm: Là phương pháp dùng lời nói để giảng giải cho trẻ hiểu các từ khó các chi tiết khó tưởng tượng có trong tác phẩm, mô tả trạng thái tâm lý nhân vật, các chi tiết được nêu trong tác phẩm, giảng giải nôi dung giúp trẻ hiểu nội dung tác phẩm. Ý nghĩa: + Giúp trẻ hiểu nội dung tác phẩm sâu hơn, đầy đủ hơn, hệ thống hơn. + Khơi dậy, nuôi dưỡng ở trẻ những rung động, xúc cảm thẩm mỹ và khát vọng vươn tới cái đẹp, cái thiện, đồng thời góp phần làm phong phú thêm vốn từ, làm giàu vốn sống, vốn hiểu biết cho trẻ. 15
- Những nội dung cần giảng giải Từ khó( dùng lời giảng giải): + Từ địa phương Ví dụ: ‘’ Ăn mau chóng nậy’’... ‘’Ăn mau chóng lớn’’ + Từ láy mang tính tượng thanh, tượng hình Ví dụ: ‘’ Long lanh, lộp độp + Từ mang ý nghĩa trừu tượng Ví dụ: Nhanh trí, dũng cảm, gian ác... Chi tiết khó: Chi tiết miêu tả các hình ảnh không gần với vốn sống của trẻ, khó tưởng tượng. Ví dụ: Chi tiết Nhà Cáo làm bằng băng. Mùa xuân đến nhà Cáo tan ra thành nước(Truyện ‘’ Cáo, Thỏ và Gà trống’’). Để giúp trẻ hiểu giáo viên giải thích cho trẻ hiện tượng đóng băng, băng tan là như thế nào. Nội dung tác phẩm( Dùng hình ảnh giảng giải) Thời điểm tiến hành giảng giải: + Trước khi tiến hành cho trẻ LQTPVH + Trong quá trình cho trẻ LQTPVH +Trong quá trình đọc(kể) TPVH cho trẻ nghe + Sau khi đọc(kể)TPVH cho trẻ nghe Yêu cầu đối với giáo viên khi sử dụng phương pháp giảng giải +Khi giảng giải cần kết hợp với phương pháp đàm thoại và lời bình giảng cần ngắn gọn, dễ hiểu, hấp dẫn. + Tiến hành giảng giải về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm sau khi đã đọc(kể) tác phẩm cho trẻ nghe +Dùng phương pháp giảng giải để giảng từ mới, từ khó có thể tiến hành trước hoặc sau khi đọc tác phẩm Lưu ý: Không giảng nhiều từ trong một giờ học, không phải bất cứ từ mới, từ khó nào cũng giảng 2. Phương pháp đàm thoại Khái niệm: Là cuộc trò chuyện giữa cô và trẻ được tiến hành thông qua một hệ thống câu hỏi có mục đích của cô giáo để hỏi trẻ hoặc ngược lại nhằm giúp trẻ hiểu đúng giá trị TPVH đựợc làm quen Ý nghĩa + Giúp trẻ hiểu giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Đồng thời, qua đó góp phần rèn cho trẻ một số kỹ năng như: tập trung nghe, nhớ tác phẩm, suy nghĩ trả lời... + Việc cho trẻ tiếp xúc với văn học, đặt câu hỏi yêu cầu trẻ phát hiện, mô tả lại các hình tượng trong tác phẩm là cách thức trẻ rèn khả năng tự cảm nhận hình tượng văn học Yêu cầu + Khi tiến hành đàm thoại phải dựa vào đặc điểm lứa tuổi của trẻ để xác định nội dung đàm thoại, thời gian kéo dài, câu hỏi cụ thể + Khi tiến hành đàm thoại đầu tiên ta đặt câu hỏi để trẻ nhớ lại các ấn tượng, các kiến thức và tạo ra sự thích thú với các đề taì đàm thoại. Nên để trẻ nói theo tư duy của trẻ 16
- + Đối với trẻ nhút nhát, ít nói nên đặt câu hỏi dễ> khó hơn và không nên đặt quá nhiều câu hỏi cùng một lúc *Yêu cầu đối với câu hỏi đàm thoại + Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng + Câu hỏi phải được sắp xếp theo trình tự tác phẩm giúp trẻ năm bắt có hệ thống + Câu hỏi được đưa ra để trẻ độc lập suy nghĩ, không gơi ý trước Cách thực hiện: được tiến hành theo 3 cách + Đàm thoại dể giới thiệu tác phẩm Được tiến hành trong vài phút trước khi đọc(kể) tác phẩm, cô giáo đặt câu hỏi để hướng trẻ tập trung chú ý vào truyện kể, các tình tiết trong truyện... + Đàm thoại để hiểu tác phẩm Đàm thoại kết hợp giảng giải giúp trẻ hiểu nọi dung chính của tác phẩm. + Đàm thoại để tái hiện tác phẩm Đàm thoại để giúp trẻ nhớ lại trình tự câu chuyện, tình tiết nào xảy ra trước, xảy ra sau... IV. Tập cho trẻ kể lại truyện và đọc thơ 1. Phương pháp tập cho trẻ kể lại truyện Việc dạy trẻ kể lại truyện phải được bắt đầu bằng việc cô kể diễn cảm nhiều lần câu chuyện. Sau đó, cô dùng hệ thống các câu hỏi nhằm giúp trẻ nhớ lại nội dung câu chuyện. Câu hỏi cần tăng dần mức độ chi tiết. Chỉ khi nào trẻ hiểu và nhớ được nội dung câu chuyện, cô mới cho trẻ tập kể lại. * Yêu cầu đối với giáo viên trước khi dạy trẻ kể chuyện Đọc kĩ tác phẩm Phân tích kĩ để xác định rõ nội dung của tác phẩm Tìm hiểu những nhiệm vụ giáo dục Tìm ra kết cấu, ngôn ngữ của tác phẩm 1.1. Kể chuyện theo sự kiện Đây là hình thức kể chuyện theo tri giác và trí nhớ. Trong hình thức kể này, cảm giác, tri giác và trí nhớ đóng vai trò quan trọng trong sự nhận thức môi trường xung qaunh. Cô giáo có thể hướng dẫn trẻ kể chuyện theo đồ chơi hặc theo tranh. Kể chuyện theo đồ chơi: là hình thức quan trọng giúp trẻ phát triển trí tuệ, tình cảm và ngôn ngữ. Kể chuyện theo tranh vẽ: Đây là hình thức kể chuyện đem đến cho trẻ niềm vui thích, qua đó, trẻ được phát triển trí tuệ, tình cảm và ngôn ngữ. 1.2. Kể chuyện sáng tạo Sau khi được nghe cô kể chuyện và được cô dạy kể lại truyện, trẻ mẫu giáo, đặc biệt là mẫu giáo lớn đã có thể kể lại những câu chuyện mà trẻ đã được nghe một cách đầy đủ. Những cháu khá khi kể đã có thể tự sáng tạo về từ ngữ, thậm chí sáng tạo cả chi tiết và thể hiện sắc thái tình cảm thông qau đối thoại của các nhân vật. 2. Phương pháp tập cho trẻ học và đọc thuộc thơ Cô giáo dạy trẻ đọc và học thuộc thơ bằng cách truyền khẩu. Cô đọc mẫu bài thơ và trẻ đọc theo cho đến khi thuộc. TPVH là một chỉnh thể nghệ thuật. Thơ có vần điệu, có âm thanh, có kết cấu rất chặt chẽ, vì thế, khi đọc, cô không làm phá vỡ hình thức kết cấu của 17
- bài thơ, phải để cho những âm thanh đó, những tiếng nhạc đó lắng sâu vào trong tâm trí trẻ, để trẻ có thể tưởng tượng, hòa mình vào thế giới mộng mơ của thơ và nhạc; nhờ đó có thể “đọc” ra được phần nào ý nghĩa của bài thơ. Dạy trẻ học thuộc thơ thực hiện trong tiết học được tiến hành theo tình tự sau đây: Gây hứng thú cho trẻ (bằng tranh ảnh, con rối…) để dẫn dắt tới bài thơ, giới thiệu bài thơ và tên tác giả. Cô đọc diễn cảm bài thơ hai, ba lần. Khi đọc, cần truyền đạt đúng tính chất nhịp điệu của bài thơ. Diễn giải về nội dung chính của bài thơ hoặc giải nghĩa từ khó (nếu cần). Cô dạy trẻ theo lối truyền khẩu. Cô đọc trước từng câu, trẻ đọc theo cô, đọc tới hết bài thơ, rồi tiếp tục đọc như thế nhiều lần. Kết thúc giờ học bằng một hình thức vui, thỏa mái (có thể dùng các trò chơi, bài hát có nội dung gần gũi với bài thơ đã học…) Việc dạy trẻ học thuộc thơ có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào quá trình lựa chọn tác phẩm. cần chọn những tác phẩm ngắn, thể thow2,3 chữ, 4 chữ, 5 chữ hoặc thơ lục bát; những TP có nhạc tính, có hình tượng đẹp, có nội dung giáo dục tốt, rõ ràng. Và nói chung là tác phẩm đem đến cho trẻ niềm vui thẩm mỹ, niềm vui được sống lại những tình cảm mà TP gợi ra cho chúng. V. Tập cho trẻ đóng vai theo cốt truyện và nội dung thơ. 1. Trò chơi đóng kịch theo TPVH Đóng kịch theo tác phẩm văn học là một kiểu học mang tính chất trò chơi giúp trẻ tiếp nhận tác phẩm một cách hiệu quả và phát triển nhân cách về nhiều mặt Đóng kịch theo tác phẩm văn học là một hoạt động mang tính nghệ thuật, tuy nhiên đối với trẻ mẫu giáo nó vẫn là một trò chơi vì vậy khi tổ chức cho trẻ chơi cần chú ý đến: + Sự tự nguyện, vui thích, thỏa mãn của trẻ + Trẻ được thỏa thuận khi phân vai, được thể hiện vai diễn một cách tự nhiên + Không biến trò chơi đóng kịch thành một hoạt động mang nặng tính nghệ thuật và biến trẻ thành một “diễn viên” chuyên nghiệp 2. Tiêu chí lựa chọn tác phẩm văn học chuyển thể sang trò chơi đóng kịch Tiêu chí 1: Tác phẩm được lựa chọn chuyển thể cần có một cốt truyện mạch lạc, các tình tiết hấp dẫn mang kịch tính, thu hút sự chú ý của trẻ Tiêu chí 2: Những tác phẩm được lựa chọn phải chứa nhiều mâu thuẫn Tiêu chí 3: Các tác phẩm được lựa chọn phải có tuyến nhân vật rõ ràng Tiêu chí 4: Các tác phẩm được lựa chọn phải có hệ thống ngôn ngữ giản dị, phù hợp 3. Kĩ thuật chuyên thể tác phẩm văn học sang kịch bản Khi chuyển thể tác phẩm sang kịch bản cần chú ý tới ngôn ngữ nhân vật Ngôn ngữ trong kịch cơ bản là ngôn ngữ nhân vật, được tổ chức dưới ba hình thức: + Độc thoại: Lời nhân vật tự nói với mình, chủ yếu dùng để bộc lộ tâm trạng + Đối thoại: Lời của nhân vật nói với nhau + Bàng thoại: Lời nhân vật nói trực tiếp với khán giả Ngôn ngữ nhân vật kịch phải phù hợp với tính cách của từng nhân vật, nhưng nhìn chung có những đặc điểm nổi bật là: 18
- + Tính hành động + Tính khẩu ngữ + Tính tổng thể + Tính hàm súc 4. Các bước tiến hành tổ chức trò chơi đóng kịch Chuẩn bị: + Chuyển thể tác phẩm sang kịch bản + Cho trẻ tiếp xúc với kịch bản Phân vai + Cho trẻ tự nhận vai hoặc gợi ý để trẻ chọn vai + Cô cùng trẻ luyện tập các động tác cho phù hợp với vai của trẻ Sân chơi và đạo cụ hóa: + Sân khấu, cây cảnh, bàn ghế, trang phục, mũ, mặc nạ Câu hỏi ôn tập: 1. Hãy đọc diễn cảm một bài thơ (hoặc truyện) và giải thích vì sao phải đọc như vậy? 2. Thế nào là sử dụng trực quan trong hoạt động kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe? 3. Thế nào là PP giảng giải, đàm thoại trong kể chuyện đọc thơ cho trẻ nghe? 4. Khi đàm thoại với trẻ, cần lưu ý những điều gì? Chương 3: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI THƠ TRUYỆN I. Các hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với thơ, truyện 1. Kể chuyệnđọc thơ cho trẻ nghe ở mọi lúc, mọi nơi Mục đích: Ôn luyện, giúp trẻ nhớ lại những tác phẩm đã học Ví dụ: Trong hoạt động vui chơi cho trẻ đọc bài thơ ‘’ Bạn mới’’ để củng cố bài và giáo dục trẻ đoàn kết trong khi chơi. Trẻ được nghe các tác phẩm mới trong chương trình và các tác phẩm tự chọn ngoài chương trình. Yêu cầu: Giáo viên phải có kế hoạch và hình thức tổ chức cụ thể Tổ chức dưới các hình thức khác nhau để gây hứng thú cho trẻ. 2. Kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe trong các hoạt động LQVH Mục đích: Giúp trẻ làm quen với những tác phẩm và thời gian được quy định trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ ở từng lứa tuổi + Nhà trẻ 1218tháng: 57 phút 1824tháng: 810phút 2436tháng: 1012 phút +Mẫu giáo 34 tuổi: 15 20phút 19
- 45 tuổi: 20 25 phút 56 tuổi: 2530 phút Giúp trẻ hiểu trọn vẹn tác phẩm được làm quen Yêu cầu: Cho trẻ làm quen với vần, nhịp và ngôn ngữ thơ. Hình thành ở trẻ long yêu thơ ( đọc thơ cho trẻ nghe) Cho trẻ làm quen với văn xuôi, cách miêu tả. Hình thành ở trẻ khả năng biết lắng nghe và lòng yêu ngôn ngữ văn học( đọc truyện cho trẻ nghe) Cho trẻ thích nghe truyện, nắm được diễn biến, nội dung, tư tưởng chủ đề của truyện( kể chuyện cho trẻ nghe) Hình thành ở trẻ lòng yêu thơ và biết đọc thơ diễn cảm( dạy trẻ đọc thuộc thơ) Hình thành ở trẻ lòng yêu thích câu chuyện thích kể lại truyện( dạy trẻ kể chuyện) * Các bước tiến hành: Mở đầu: Dẫn dắt trẻ vào tiết học Nội dung của tiết học: Cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học, bao gồm cả hoạt động của cô và trẻ. Kết thúc tiết học: Cô nhạn xét, đánh giá, rồi chuyển sang hoạt động khác. 2.1.Đọc thơ cho trẻ nghe Yêu cầu chính là cho trẻ làm quen với vần, nhịp và ngôn ngữ thơ. Trên cơ sở đó, hình thành ở trẻ lòng yêu thơ. 2.2.Đọc truyện cho trẻ nghe Yêu cầu chính là cho trẻ làm quen với văn xuôi, chủ yếu là cách miêu tả, từ đó hình thành khả năng biết lắng nghe và lòng yêu ngôn ngữ văn học của trẻ. 2.3.Kể chuyện cho trẻ nghe Yêu cầu chính là làm cho trẻ thích nghe truyện, nắm dduwwocj diễn biến nội dung, tư tưởng chủ đề của truyện. 2.4. Dạy trẻ đọc thuộc thơ Yêu cầu chính là hình thành lòng yêu thơ của trẻ và dạy trẻ biết cách đọc diễn cảm bài thơ. 2.5. Dạy trẻ kể lại truyện Yêu cầu chính là làm cho trẻ yêu thích câu chuyện, thích kể lại, nhớ được và biết cách kể lại truyện một cách mạch lạc, diễn cảm. Trên cơ sở đó, trẻ được tích cực hóa vốn từ và phát triển ngôn ngữ. II. Thiết kế hoạt động cho trẻ làm quen với thơ, truyện 1. Mục tiêu yêu cầu Kiến thức Kỹ năng Thái độ 2. Chuẩn bị Xác định giọng điệu cơ bản khi trình bày tác phẩm Chuẩn bị các đồ dùng trực quan (nếu cần) 3. Tiến hành (tiến trình của hoạt động) 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Phân tích chương trình Tin học phổ thông - Nguyễn Tương Tri
123 p | 326 | 64
-
Bài giảng Toán và phương pháp cho trẻ làm quen với Toán - ĐH Phạm Văn Đồng
58 p | 462 | 53
-
Bài giảng Phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm Văn học - ĐH Phạm Văn Đồng
60 p | 466 | 43
-
Rèn luyện kỹ năng sư phạm cho sinh viên khoa Giáo dục mầm non trong quá trình giảng dạy học phần phương pháp làm quen môi trường xung quanh - Đỗ Chiêu Hạnh
13 p | 189 | 22
-
Làm Quen Với Phương Pháp Học Tập Khi Đi Du Học
3 p | 142 | 11
-
Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học: Bài 1 - Nguyễn Hữu Tân
18 p | 108 | 8
-
Bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học: Bài 3 - Nguyễn Hữu Tân
10 p | 126 | 7
-
Bài giảng: Xã hội học - Th.S Nguyễn Đức Thành
51 p | 22 | 7
-
Những cách học hiệu quả khi đi du học
2 p | 73 | 5
-
Xây dựng tiêu chí đánh giá kĩ năng tổ chức hoạt động cho trẻ mầm non làm quen tác phẩm văn học trong dạy học phương pháp chuyên ngành chương trình đào tạo giáo viên mầm non trình độ cao đẳng
5 p | 76 | 5
-
Đổi mới kiểm tra, đánh giá sinh viên trong học phần phương pháp tổ chức hoạt động cho trẻ mầm non làm quen với toán theo hướng tiếp cận năng lực
4 p | 86 | 2
-
Một số biện pháp rèn luyện thao tác tư duy cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua hoạt động làm quen với hình dạng
5 p | 52 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn