intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Xã hội học nghề nghiệp - TS. Trương An Quốc

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:134

190
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Xã hội học nghề nghiệp do TS. Trương An Quốc biên soạn có kết cấu nội dung gồm 3 phần: Phần I - Xã hội học là một bộ môn Khoa học xã hội, Phần II - Một số lý thuyết và khái niệm cơ bản về xã hội học nghề nghiệp, Phần III - Việc làm nghề nghiệp hiện nay và một số vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm giúp sinh viên hiểu rõ các vấn đề lý thuyết cơ bản của Xã hội học cũng như cơ hội việc làm, ứng dụng thực tiễn của môn khoa học này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Xã hội học nghề nghiệp - TS. Trương An Quốc

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn ------------- Bài giảng Xã hội học Nghề nghiệp (Sociology of professions) BỘ MÔN LỊCH SỬ, LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA XÃ HỘI HỌC Hà Nội 06-2010 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn ------------- Bài giảng Xã hội học Nghề nghiệp (SOCIOLOGY OF PROFESSIONS) Người biên soạn: GVC. TS. Trương An Quốc BỘ MÔN LỊCH SỬ, LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA XÃ HỘI HỌC Hà Nội 06-2010 2
  3. MỤC LỤC PHẦN I. Xã hội học nghề nghiệp: một bộ môn khoa học xã hội 5 Chương 1. Xã hội học nghề nghiệp: đối tượng, tiền đề và sự phát triển 5 1. Đối tượng nghiên cứu của XHHNN/1/3 8 2. Khái niệm và thuật ngữ/2 3. Những tiền đề của xã hội học nghề nghiệp 14 4. Những nghiên cứu gần đây 20 5. Quan hệ giữa lịch sử và xã hội học nghề nghiệp PHẦN II. Xã hội học nghề nghiệp: một số lý thuyết và khái niệm cơ bản Chương 2. Xã hội học nghề nghiệp từ tiếp cận chức năng 23 1. Dẫn nhập 23 VD 2. Thuyết chức năng trong XHHNN 25 3. Những đóng góp tiêu biểu Tác giả Carr-Saunder và Wilson (1933): Tác giả Lynn (1963) Tác giả J. S. Mills 4. Phát triển lý luận 32 Những đóng góp của thuyết chức năng Những hạn chế và bất cập Chương 3. Xã hội học nghề nghiệp từ tiếp cận tương tác 34 31. Hughes và khái niệm nhóm việc làm nghề nghiệp 311. Những nguyên tắc chung t53 35 312. Về quan hệ tiểu sử và tương tác 37 VD 32. So sánh/đối chiếu các tiếp cận chức năng và tương tác t80 43 33. Mô hình của Davis Chương 4. Trật tự thương lượng và lý thuyết của BERKER/STRAUSS 44 41. Khái niệm thế giới xã hội t82 45 42. Khái niệm trật tự thương lượng 43. Một số quan điểm khác (tham khảo) 47 50 Chương 5. Tri thức nghề nghiệp 51. Tri thức và tri thức nghề nghiêp 53 52. Đặc tính của tri thức nghề nghiệp 58 53. VD Bài đọc 3
  4. Chương 6. Tổ chức và hoạt động nghề nghiệp. 74 61. Hoạt động nghề nghiệp 62. 63. Bài đọc 79 PHẦN III 103 Việc làm nghề nghiệp hiện nay: một số vấn đề lý luận và thực tiễn 104 Chương 7. Hội nhập việc làm nghề nghiệp 71. Khái niệm chung 106 72. Nghiên cứu trường hợp người tôt nghiệp đại học 107 73. Bài đọc 122 Chương 8. Một số vấn đề về việc làm nghề nghiệp hiện nay 127 81. ?? 82. Một số nghiên cứu trường hợp 4
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT XHHĐC xã hội học đại cương XHHNN xã hội học nghề nghiệp ĐKHC đoàn kết hữu cơ ĐKCG đoàn kết cơ giới TĐTV từ điển tiếng việt PHẦN I. XÃ HỘI HỌC NGHỀ NGHIỆP MỘT BỘ MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI CHƯƠNG I. XÃ HỘI HỌC NGHỀ NGHIỆP: ĐỐI TƯỢNG, TIỀN ĐỀ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN 5
  6. 1. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học nghề nghiệp Xã hội học nghề nghiệp (XHHNN) là một bộ môn khoa học chuyên ngành, do vậy, nó được xây dựng trên cơ sở những đối tượng chung, quen thu ộc c ủa xã hội học đại cương (XHHĐC) và có những đối tượng đặc thù riêng c ủa mình. Về mặt phương pháp luận, XHHNN vẫn cần sử dụng những khuôn khổ lý luận và những phương pháp nghiên cứu chung, phổ biến trong XHHĐC. Tuy nhiên, như một bộ môn khoa học chuyên ngành, nó cần phát tri ển và có đ ược những điều chỉnh sao cho hiệu quả và phù h ợp với các đ ối t ương nghiên c ứu riêng, đặc thù. Khi nói đến đối tượng nghiên cứu của xã hội h ọc ngh ề nghiệp, ta c ần phải quay về với đối tượng nghiên cứu của xã hội học nói chung (hay là XHHĐC). Như vậy, nếu nói xã hội học có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ giữa con người và xã hội, giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với nhóm và giữa các nhóm hay cộng đồng xã hội thì xã h ội học ngh ề nghi ệp s ẽ đặc bi ệt chú ý nghiên cứu cũng chính các quan hệ đó nhưng khi và ch ỉ khi mà chúng được hình thành trong (cùng với hoặc thông qua) nghề nghiệp của họ. Thực tế, quan hệ xã hội và quan hệ đồng nghiệp, quan hệ ‘bạn’ và ‘bạn đồng nghiệp’ tất yếu có nhiều điểm tương đồng, trùng lặp do vế sau chỉ là một trường hợp riêng, chỉ là một yếu tố khả dĩ (có khả năng) cấu thành nên vế trước. Song, điều khiến cho người ta quan tâm trước hết có lẽ lại là những khác biệt, những gì không bị bao trùm hay trùng lặp, ở trong mỗi cặp quan hệ như vậy. Điều này có một ý nghĩa lý luận đáng kể bởi với các cặp phạm trù chung/riêng, tổng thể/bộ phận, đại cương/chuyên biệt/chuyên ngành rất cần và có thể được nhận thức/giải mã thông qua việc mô tả, phân định/nhận dạng và phân loại các (cặp) quan hệ đó trong thực tế đa chiều/đa dạng của đời sống xã hội không ngừng biến đổi. Một mặt, tổng thể bộ máy công cụ, hệ thống khái niệm và lý luận chung đã hình thành và phát triển trong xã hội học (đại cương) cần ph ải đóng vai trò nền tảng và bảo đảm những tiền đề thiết yếu cho việc hình thành, phát tri ển một bộ môn xã hội học nghề nghiệp chuyên biệt. Nh ưng mặt khác, n ếu nh ư không tự phát triển được những khái niệm công cụ và hệ thống lý luận riêng của mình, xã hội học nghề nghiệp cũng sẽ không thể trở thành một bộ môn khoa học (chuyên biệt) được. Nhận thức rõ điều này, xuất phát từ thực tế và nhu cầu xã hội đối với một bộ môn xã hội học chuyên sâu về nghề nghiệp, các nhà xã h ội h ọc trong n ửa sau thế kỷ XX đã đặc biệt tập trung các cố gắng của họ nhằm chiếm lĩnh khu vực trung tâm, thiết yếu cho việc phát triển xã hội học, nói chung, và xã hội 6
  7. học nghề nghiệp, nói riêng như đã được trình bày ở trên. Dưới đây, ta sẽ điểm qua một số những tác giả và tác phẩm kinh điển của giai đoạn này. E. Durkheim Theo tác giả này, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự kiện xã hội. Khi đó, ta có thể nói, xã hội học nghề nghiệp là một bộ môn xã h ội h ọc nghiên cứu về các sự kiện nghề nghiệp xã hội. Hơn nữa, nếu nói xã hội tạo ra con người bằng cách tạo ra và duy trì những giá trị, chuẩn mực và khuôn mẫu hành vi xã hội thì, cũng vậy, ta có th ể nói: m ỗi ngh ề đ ều t ạo ra con người/chủ thể riêng của nó bằng cách tạo ra và duy trì những giá trị, chuẩn mực và hành vi nghề nghiệp riêng, đặc thù. Tuy nhiên, cần phải nh ấn m ạnh: nếu như trong mỗi xã hội đều có những khác biệt giữa các ngành/ngh ề thì, tương tự/hơn nữa, cũng sẽ có rất nhiều khác biệt nếu như ta so sánh những người làm cùng một ngành/nghề nào đó ở trong những xã hội khác nhau1. Từ giác độ lý luận, đóng góp lớn của E. Durkheim là việc ông đã đ ưa ra được những khái niệm công cụ có tính hiệu quả cao như hợp đồng xã h ội, đoàn kết xã hội, việc định nghĩa/phân biệt đoàn kết h ữu cơ (ĐKHC) và đoàn kết cơ giới (ĐKCG). Như vậy, nếu ĐKCG dựa trên sự tương đồng giữa các chủ thể thì ĐKHC lại dựa trên những khác biệt mang tính bổ sung c ủa chúng. Cặp hai khái niệm này không chỉ cho phép mô tả mà còn cung cấp thêm một phương thức lý giải cho sự vận hành của các quan hệ xã hội, nhất là trong các phạm vi việc làm nghề nghiệp xã hội. Một mặt, tương đồng là cơ sở c ủa ĐKCG, tạo nên sự cố kết ở bên trong một nhóm song cũng chính nó làm gia tăng sự khác biệt của nhóm; mặt khác, khác biệt mang tính bổ sung là cơ sở của ĐKHC, lại cho phép gắn kết những nhóm khác biệt, làm gia tăng hi ệu quả hoạt động chung của họ. VD. Nghề thầy thuốc và thầy giáo có những giá trị, chuẩn mực cũng như khuôn mẫu hành vi rất khác biệt so với các ngành ngh ề khác ở Việt Nam, nhưng điều đó không hẳn đã rõ ràng như vậy ở các xã hội ph ương tây. Và, ngay ở Việt Nam, trong khi đi từ một xã hội truyền thống sang hiện đại, những yếu tố này cũng đã có rất nhiều biến chuyển và thay đổi theo hướng đi xích lại gần hơn đối với những ngành nghề khác. Nghề dạy học: có những cụm từ nội hàm/ý nghĩa đã/đang thay đổi rất nhiều như quân sư phụ; nhất tự vi sư, bán tự vi sư hay cô giáo như mẹ hiền. Tương tự, ở nghề y có cụm từ lương y như từ mẫu. M. Weber 1 Do vậy, xã hội học nghề nghiệp, núi riêng, và khoa học xã hội, nói chung, không thể là những lĩnh v ực có thể nhập hàng « cả gói » từ nước ngoài một cách giản đơn thuần túy được. Nên chăng, cần nói tới một qui trình chuyển giao, tương tự như chuyển giao công nghệ, nếu ta kỳ vọng về một bộ môn xã hội học nghề nghiệp trong tương lai có cả tính dân tộc và hiện đại (ở Việt Nam). 7
  8. Xã hội học là khoa học nghiên cứu về hành động xã hội 2. Theo ông, hành động (của con người) tạo ra xã hội. Chính bằng các hoạt động 3 của mình, con người tạo ra xã hội. Nếu theo tác giả xã hội được tạo nên do bởi hành động xã hội thì, tương tự, ta cũng hoàn toàn có thể nói rằng: nghề nghiệp (xã hội) được tạo nên do bởi hành động/hoạt động (nghề nghiệp) xã hội. Và do bởi tuy ệt đ ại đa s ố, ai trong xã hội cũng có một nghề, cho nên, xã hội có thể được xem như là một tổ hợp hay sự tổng hợp của tất cả các ngành nghề hay các nhóm nghề hiện hữu chính ở trong lòng của nó. Hành động được xem là có mục đích/có chủ đích. Một mặt, hành động thường được gắn với những hoạt động tổ chức và mặt khác, tổ ch ức cũng có khi được xem như một dạng hành động riêng, đặc thù 4. VD ở nhà trẻ, trẻ em tham gia trò chơi đi thành vòng tròn với sự h ướng dẫn c ủa cô giáo. Ta có th ể nói về một hình thức tổ chức xã hội, tổ chức này chỉ tồn tại cho tới khi cô giáo nói ‘giải tán’, hoặc khi vòng tròn bất ngờ bị đứt do một đứa trẻ đang đi bị vấp ngã. Thực tế, ở mỗi lĩnh vực hoạt động, như trồng lúa, chăn nuôi hay làm thủ công đều có những qui tắc/qui định riêng giành cho các chủ thể/thành viên của họ, trong quan hệ với nhau in-group cũng như với thành viên của những lĩnh vực hoạt động (nghề nghiệp) khác beetwen-groups. VD. Nghề gia truyền: qui định chỉ được truyền dạy lại cho các thành viên của gia đình/nhằm mục tiêu bảo vệ/duy trì bản quyền/đ ộc quyền sản phẩm của họ. « Truyền nghề trong phạm vi gia đình » hay « gia truyền » là một hành động (nghề nghiệp) xã hội và ta có thể nói : chính nó là một lý do tạo nên « nghề gia truyền ». Nếu hành động đó không còn được tiếp tục thực hiện thì nghề đó cũng sẽ không còn là truyền thống/gia truyền nữa. Như vậy, gia truyền là nghề được và chỉ được truyền dạy trong phạm vi gia đình. Điều này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: « gia truy ền » kéo theo hàng loạt quan hệ xã hội khác : hạn chế hôn nhân, thậm chí chỉ giới hạn trong phạm vi một làng/họ tộc hay dòng họ. Đó là hiện tượng nội hôn và dễ thấy là điều này gắn với một mức độ/buộc phải duy trì một kho ảng cách nhất định giữa bên nội/được phép truyền dạy nghề và bên ngoại/không đ ược phép truyền dạy, dẫn tới kết cục tất yếu là s ự phân bi ệt đối x ử gi ữa con trai và con gái, con dâu và con rể v.v. Tuy nhiên, để có được khoảng tự do cần thiết, người ta có thể tiến hành xây dựng một khái niệm chung về nghề bắt đầu từ ngôn từ/ngôn ng ữ đ ời thường và từng bước sẽ định hình vào những khuôn khổ cần thiết, sao cho 2 Chú ý phân biệt với hành vi : những gì con người biểu hiện ra bên ngoài và có thể quan sát được. 3 Hoạt động [TĐTV, 453] là tiến hành những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm một mục đích nhất định trong xã hội. 4 Xem G. de Terssac [] 8
  9. phù hợp được với những mục tiêu và phương tiện mà người nghiên cứu có trong tay ở những tình huống/thời điểm cụ thể. 2. Khái niệm và thuật ngữ 21. Khái niệm chung Thế nào là nghề, nghiệp? - Nghề nghiệp là gì? Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường gặp những câu như: - Làm đúng ngành, đúng nghề; đúng ngành nghề đào tạo; - Theo nghiệp bố/theo nghề nghiệp gia đình; - Có công danh sự nghiệp, công thành danh toại. Người ta thường kỳ vọng/muốn có: - Việc làm có tiền đồ, có tương lai nghề nghiệp; - VL cho phép phát huy được sở trường, năng lực của mình; có niềm vui và sự say mê nghề nghiệp; /gắn bó, say mê, ham thích - cái nghiệp văn chương nó thế/ Vậy, nghề là gì? Thế nào là một nghề? Theo Từ điển tiếng việt (TĐTV): 1/ công việc chuyên làm; công việc được một người th ực hiện trong một thời gian dài theo sự phân công lao động xã hội ( dài như thế nào), tìm thấy trong các cụm từ: nghề nông, nghề buôn bán nhỏ/tiểu thương. 2/ việc làm được thực hiện một cách thành thạo; th ực hiện với ch ất lượng cao, tìm thấy trong các cụm từ: thành ngh ề, rất ngh ề, di ệu nghệ/kỹ năng, kỹ xảo cũng theo Từ điển tiếng Việt thì nghiệp là: 1/ Nghề làm ăn, sinh sống (nghề chủ yếu) 2/ Cách nói khái quát: nghề nghiệp. Mặt khác, trong tiếng Anh và tiếng Pháp, ta có một số nghĩa để so sánh như sau : 1/ Việc làm: emploi; occupation 2/ Nghề, nghề nghiệp: vocation, profession; beruf 3/ Lao động: work; travail Xét về mặt từ nguyên, một số tác giả cho rằng: bởi vì vocation có hai nghĩa: (a) nghề/nghề nghiệp và (b) thiên hướng (VD có thiên hướng về nhạc, hoạ) cho nên nghề/nghề nghiệp có mối liên quan đến thiên hướng. Tương tự, profession cũng có hai nghĩa: (a) nghề/nghề nghiệp và (b) sự tuyên bố/lời công bố (VD tuyên bố đi theo đạo thiên chúa), do vậy ngh ề/ngh ề nghi ệp có th ể có liên quan đến một sự lựa chọn được công khai tuyên bố. Nếu k ết h ợp các nghĩa đó lại thì, từ trong xuất xứ của nó, nghề/nghề nghiệp dường như có ý bao hàm cả hai khía cạnh “thiên định” và “nhân định”. 9
  10. Do tính quốc tế của (bất kỳ) một bộ môn khoa học (nào), ta cần xem xét kỹ hơn việc vận hành/sử dụng những khái niệm/thuật ngữ này trong phạm vi xã hội học nghề nghiệp ở những ngôn ngữ phổ dụng nh ư tiếng Anh và tiếng Pháp. 211. Khái niệm nghề nghiệp và xã hội học nghề nghiệp ở Pháp5 (1) Tiếng Pháp dùng theo những nghĩa khác nhau: nghề chăm sóc phần hồn (tu sĩ); (làm) nghề tự do so sánh với nghề (làm) công chức; nghề xét theo chuyên môn (thợ hàn, thợ cơ khí); nghề được ghi trong các giấy tờ, văn bản hành chính hay các bản kê khai xu ất nhập cảnh (thường bao gồm các mục như: họ và tên, nghề nghiệp). (2) Xu thế phát triển lý thuyết : ở Pháp là các bộ môn Xhh Lao động và Xhh Tổ chức luôn rất mạnh và thể hiên rõ như vốn có từ trước ; ngược lại, ở Anh-Mỹ Xhh Nghề ngiệp luôn tồn tại như một bộ môn riêng, với những hội thảo, ấn phẩm, lý lu ận và nh ững tranh luận riêng, đặc trưng. Do vậy, ở Pháp, người ta thường nói Xhh ngh ề nghi ệp (kiểu) Anh-Mỹ. (3) Tại các nước anglo-saxon, các văn bản pháp qui thường phân biệt /phân hoá một tổng thể những hoạt động được gọi là nghề nghiệp , những lĩnh vực mà ở đó có mặt những qui tắc (nghề nghiệp) riêng, một mặt cho phép tạo lập nên những hi ệp h ội t ự ch ủ được thừa nhận, đồng thời là việc ngăn cản /cấm đoán/ các hoạt động cùng lo ại đ ối với những người không phải là thành viên ; mặt khác, các hoạt động còn lại đều được gọi là việc làm mà những người thực hiện thì chỉ được quyền tạo lập nên /nghi ệp/ công đoàn (4) các nghiên cứu tiên phong về nhóm nghề nghiệp ở Pháp : trước đó, 1960-70, chỉ có rất ít bài viết nói về xu thế XhhNn Anh-Mỹ, thường phê phán là chủ yếu. Từ gi ữa những năm 1980, với các nghiên cứu tiên phong về nhóm nghề nghiệp, không phân biệt mà bao hàm luôn cả việc làm&nghề nghiệp, chịu nhiều ảnh hưởng của trường phái Chicago (Hughes, Becker, Strauss...). Tiếp theo những bài viêt mang tính t ổng h ợp, v ới “cú hích” là một số đặc biệt của tập san Tổng quan Xã hội học (Review Français de Sociologie, 1986), những nhóm nghề đặc biệt đã xuất hiện ngày một nhiều trong các nghiên cứu : hiện tượng các corporation hiện đại (D. Segrestin, 1984) ; người làm công trong các lĩnh vực buôn bán hải sản (C. Paradeise, 1985), ho ặc v ề người lao đ ộng trong các lĩnh vực giao thông vận tải – 1983. .. các nghiên c ứu nhìn chung đ ều s ử d ụng thu ật ngữ Xhh các nhóm nghề nghiệp, được thể chế hoá bởi được dùng làm tên gọi cho một nhóm nghiên cứu mới xuất hiện trong tổ chức Hi ệp h ội Xhh Quốc tế từ năm 1994. (5) Chú ý những khác biệt về thuật ngữ giữa tiếng Anh và tiếng Pháp. 212. Trong tiếng Anh Ngay trong phạm vi tiếng /ngôn ngữ Anh-Mỹ, thuật ngữ NN đã có sự khác biệt đáng kể, không thống nhát về nội hàm của khái niệm, mang những ý nghĩa đôi khi còn trái ngược nhau. Như vậy, có một số hoạt động như việc làm chuyên gia và kiểm toán trong su ốt một thời gian dài, cho tới trước Đại chiến thế giới II, không hề được xem là m ột nghề. 5 Xem C. Dubar và N. Tripier, Sociologie des professions, Armand Colin, Paris, 1998 10
  11. Chỉ bắt đầu từ sau ĐCTGII, lúc đầu là ở Anh và sau đó m ới là ở M ỹ m ới đ ược xem nh ư một nghề. Một số công việc như việc làm bà đỡ (đỡ đẻ, bà mụ) tuy được thừa nhận ở Anh nhưng lại không được thừa nhận ở Mỹ. Một số việc làm khác, trong một thời gian dài được gọi là nghề và sau đó lại không được gọi như thế nữa. Từ những biến động về không gian và thời gian nh ư v ậy, người ta có thể đặt ra câu hỏi: - Điều gì làm cho một hoạt động lao động nào đó được gọi là nghề? - Điều gì cho phép một nhóm nghề nghiệp (nhóm người cùng làm một công việc occupational group) nhận được cho các thành viên của nhóm những đặc quyền đặc lợi gắn với nghề của họ, vị thế xã hội mà họ có do việc làm, đ ược g ọi là nghề? Điều tất yếu là ý kiến của các nhà xã hội học, từ m ột phía và t ừ phía bên kia, ý kiến của các nhà sử học hay luật học, sẽ khác xa nhau và chính vấn đề nêu đ ịnh nghĩa thế nào là một nghề sẽ nằm ở tâm điểm của sự bất đồng đó. Trong thực tế, dường như đã có một thời gian, ở Mỹ, người ta đã thừa nhận một định nghĩa “chính tắc” với 6 nét đặc trưng chung cho tất cả các nghề (Flexner, 1915; Cogan trích dẫn, 1953) như dưới đây: Định nghĩa của Flexner (1915) bao gồm 6 thành tố : (1) Nghề nghiệp là thực hiện những thao tác trí tuệ gắn với nh ững trách nhiệm lớn của cá nhân; (2) Nền tảng /vật chất của nghề nghiệp được kiến tạo từ khoa h ọc và tri thức lý luận; và nó (3) bao gồm những ứng dụng rất thực tế và hiệu quả và /những cái đó (4) có thể chuyển giao thông qua /quá trình giảng dạy /kiến th ức, k ỹ năng đã đúc kết được; (5) Nghề nghiệp có xu thế hướng tới việc tự mình tổ ch ức thành nh ững hi ệp hội; (6) Các thành viên của họ có cùng một động cơ/mục tiêu chung là ‘ vì kẻ khác’ (vị tha). Chú ý: như vậy, nếu theo tác giả Flexner thì công tác xã hội không phải là m ột nghề do bởi (vào thời của ông) họ không có được một tổ chức nghề nghi ệp riêng c ủa mình. Trở lại ví dụ đã nêu ở trên, trong khi ‘các bà mụ - đỡ đẻ’ được xem là m ột ngh ề ở Anh thì lại không được thừa nhận là một nghề ở Mỹ; làm chuyên gia hay kế toán chỉ được thừa nhận là nghề tự do sau ĐCTGII, đầu tiên ở Anh và sau đó m ới là ở M ỹ. Đi ều này cho thấy có nhiều những tình tiết mang tính địa lý và lịch sử trong các vấn đề /lý luận/ về nghề nghiệp. Từ đó, những câu hỏi được đặt ra: Cái gì làm cho một công vi ệc lao động đ ược thừa nhận là một nghề? Cái gì làm cho một nhóm việc làm trở thành nghề nghiệp, hiểu theo nghĩa là họ có một (khu vực) địa vị cùng với nh ững quyền l ợi và nghĩa v ụ riêng đ ặc thù trong xã hội? Câu trả lời xét từ các giác độ lịch sử, pháp lý hay xã h ội h ọc hẳn là ph ải có sự khác biệt, từ đó rõ ràng cần phải đặt ra vấn đề định nghĩa cho thuật ngữ chuyên môn quan trọng này. 11
  12. Xu thế: ngày nay, quan niệm về nghề nghiệp dựa trên các sự kiện (nghề nghiệp), theo nghĩa mà E. Durkheim đã đưa ra (1902), có vẻ bị lấn lươt b ởi quan ni ệm d ựa trên các chức năng/tương tác (nghề nghiệp), nhất là ở Mỹ. Cần chú ý thêm là, ngay những tác giả viết bằng tiếng Pháp cũng nêu ra vấn đề : do tính đa dạng của thực tiễn việc làm nghề nghiệp (về địa lý, lịch sử hay thiết chế chính trị) mà việc dịch thuật/chuyển đổi một cụm tư/khái niệm giữa các ngôn ngữ tr ở nên r ất ph ức t ạp. Thực tế, người ta thường cũng chỉ biểu hiện/chuyển tải được m ột số ý nghĩa, m ột s ố khía cạnh riêng nhất định của chúng. Như vậy, trong tiếng Pháp có cụm từ nghề tự do, luật và y được xem là hai nghề tiêu biểu cho nghề tự do. Tuy nhiên, trong xã hội Mỹ, các nghề này lại được xem như là những nghề tiêu biểu: dù rằng các thành viên ở các ngh ề này v ẫn ti ếp tục gắn kết trong các hiệp hội của mình nhưng, đã từ rất lâu rồi, họ không còn hành ngh ề một cách ‘tự do’ nữa; và hơn nữa, nhiều nghề ở Mỹ hiện nay thậm chí hoàn toàn ch ỉ bao gồm những người ‘làm công ăn lương’ mà thôi. Trong b ối c ảnh này, có l ẽ là thu ật ng ữ ‘nghề được thiết lập’ hay ‘nghề được tổ chức’ như kiến nghị của Dubar&Lucas, 1994, tỏ ra thích hợp hơn cả mặc dù chúng cũng chỉ phản ánh được m ột số khía c ạnh nào đó nh ất định của nghề nghiệp. Cụm từ nghề trí thức có thể là phù hợp trong một số trường hợp, tuy nhiên, lại có một số lĩnh vực hoạt động trí thức chuyên nghi ệp, VD như trong lĩnh v ực giảng dạy ở Pháp, lại đã không thành công được trong việc hướng tới m ột t ổ ch ức ngh ề nghiệp. Như vậy, cụm từ ‘nghề trí thức và tự do’, như Kramas đã sử dụng (1991), t ỏ ra quá phức tạp mà cũng vẫn không thể loại trừ được những sự mập m ờ, thi ếu chu ẩn xác, tương tự như trong những cụm từ khác được dung như đã nêu ở phần trên. Tuy nhiên, thuật ngữ ‘nghề’ trong các từ điển tiếng Pháp (nh ư Littré, Larousse, Robert), dù cho có những điểm khác biệt, vẫn cho phép ghi nh ận được những sự tương đồng, tập trung xung quanh ba ‘khu vực nghĩa’, có 3 ý nghĩa, 3 phạm vi ngữ nghĩa và có 3 cách dùng: (1) Nghề được hiểu như một điều gì đó được tuyên bố, là một thông báo công khai (trước công chúng) và điều này thường gắn với m ột d ạng ni ềm tin chính trị hay tôn giáo (như việc tuyên thệ, chấp nhận/theo đạo hay việc tham gia một giáo phái nào đó), tương tự như thuật ngữ vocation trong tiếng Anh hay Beruf trong tiếng Đức. (2) Nghề là công việc hay việc làm mang lại (nguồn) thu nhập. Như vậy, người mẹ làm nội trợ trong gia đình thường bị xem là không nghề nghiệp vì họ không được trả công (bằng tiền, hiện vật); người thất nghiệp cũng vậy, bởi vì tìm việc không thể được xem là việc làm, nh ưng ở trường h ợp này người ta có thể nói về nghề “gần nhất” (cho tới trước khi bị th ất nghi ệp) c ủa người đó. (3) Nghề còn có thể được hiểu là một tổng thể, bao gồm t ất c ả nh ững người cùng đang thực hiện một ‘nghề’, một lĩnh vực việc làm nh ất định. Lúc này, ‘nghề’ rất gần với nghĩa là một nhóm xã hội, được xác định theo những dấu hiệu chung, theo tên gọi của ‘nghề’ đó hoặc là theo hệ th ống địa vị ngh ề nghiệp xã hội mà họ cùng chia sẻ (VD Nghề sản xuất gốm s ứ trang trí; kinh 12
  13. doanh vật liệu xây dựng; tổ chức các chủ doanh nghiệp /ngành/ sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng). Dẫu vậy, ta vẫn cần phải nhận ra những thách thức đặt ra cho việc định nghĩa nghề: Dù có liên quan chặt chẽ với xã hội học lao động và xã hội h ọc tổ chức, từ đó có những sự trùng lắp khó tránh, nhưng rất nhiều tác giả vẫn đi đến một mối quan tâm chung là cố gắng trình bày vấn đ ề ngh ề/nghi ệp d ựa trên 3 luận điểm về nhận thức, tình cảm và cống hiến, hoặc là trên 3 ph ương diện kinh tế, chính trị và đạo đức/văn hoá như dưới đây: (1) Nghề nghiệp là một trong những hình thức tổ chức xã hội có bề dày lịch sử. Đó cũng là những hình thức phân loại các hoạt động lao động, chúng có vai trò phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước và người lao động. Kể từ th ời của Durkheim, nghề nghiệp được xã hội học nhìn nhận nh ư nh ững “nhóm trung gian”, có vai trò trung chuyển/kết nối người lao động và Nhà n ước c ủa họ. (2) Nghề nghiệp là những hình thức (cho phép) cá nhân tự hoàn thiện, là những khuôn khổ xã hội, một mặt cho phép định vị nhân thân một cách chủ quan và, mặt khác là để biểu thị các giá trị văn hoá và đạo đức xã h ội. Xuất xứ tôn giáo của thuật ngữ profession ở phương tây (là nghề nghiệp hay sự tuyên thệ) khiến xhh phải đặt câu hỏi về các ý nghĩa ch ủ quan c ủa hoạt đ ộng lao động, về những liên hệ năng động giữa (lối sống) cá nhân và (đời sống) nghề nghiệp mà, kể từ thời của Max Weber, đã trở thành một trong nh ững vấn đề trung tâm của Xhh. (3) Nghề nghiệp còn là những hình thức liên minh (có tính l ịch s ử) mà các tác nhân/chủ thể xã hội sử dụng nhằm để bảo vệ quyền lợi của h ọ, bằng các biện pháp như khép kín thị trường lao động, bảo vệ độc quy ền ho ạt đ ộng (hành nghề), duy trì một khu vực khách hàng cũng như một kiểu loại việc làm ổn định, có thu nhập cao, được xã hội đánh giá và coi trọng. Tuy nhiên, cũng chính những thách thức kinh tế (này) khiến cho Xhh phải đặt ra câu h ỏi v ề s ự phù hợp giữa nghề nghiệp và thị trường, về tương lai của các nghề trong một nền kinh tế thị trường ngày càng duy lý hơn và mang tính toàn cầu nhiều hơn. Từ những thực tế như đã nêu ở trên, xhh nghề nghiệp đặt ra ba mục tiêu nghiên cứu lớn cần hướng tới và để làm được điều này thì c ần ph ải huy động được rất nhiều những nỗ lực chung của nhiều người: (1) nghiên cứu các tổ chức lao động (2) các ý nghĩa mà tác nhân/chủ thể gán cho lao động của mình và (3) các phương thức cơ cấu khác nhau, nhằm kiến t ạo hay tái t ạo (lại) thị trường lao động. Trong số đó, mục tiêu (3) tỏ ra đặc biệt thiết th ực trong bối cảnh chung hiện nay: chẳng hạn, câu hỏi về ảnh h ưởng của việc thả lỏng qui chế đối với các hoạt động kinh tế (tác động như thế nào tới công ăn việc làm, nghề nghiệp), câu hỏi về việc du nhập logic thị trường vào 13
  14. phạm vi các hoạt động nghề nghiệp (vốn dựa trên logic cộng đồng), nh ững câu hỏi về nhân thân nghề nghiệp của nhóm những người “làm công ăn lương” ngày một trở nên đông đảo hơn, một trong những hiện tượng xã hội có xu thế ngày càng trở nên phổ biến, đồng thời cũng trở nên ph ức tạp h ơn, đa dạng hơn và đặc biệt là chúng luôn biến động, dường như ngày một nhanh hơn. 213. Xây dựng khái niệm (working concept) Từ những tiền đề lý luận và thực tiễn được nêu ở trên, ta có th ể đ ưa ra một định nghĩa, ngầm hiểu là nó sẽ còn có thể được điều chỉnh, nhằm nâng cao tính hợp lý cũng như là hiệu quả. Định nghĩa: Nghề là việc làm, được một người chuyên làm trong một thời gian (tương đối) dài, được người đó thực hiện một cách thành th ạo, có chất lượng và có hiệu quả. Thực tế, ở trong định nghĩa này, người ta nhận thây có những y ếu tố còn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, khi trả lời các câu hỏi đ ặt ra nh ư d ưới đây, người ta có thể chuyển từ một định nghĩa theo/bằng giá trị (Dv) sang một định nghĩa (Dn) mang tính chuẩn mực về nghề nghiệp: (Dn1) công việc (chủ yếu/chuyên làm) được thực hiện trong một thời gian dài: - Dài là bao lâu? (Dn2) công việc (chủ yếu/chuyên làm) được thực hiện một cách thành thạo : - Thành thạo như thế nào? (Dn3) công việc (chủ yếu/chuyên làm) được thực hiện một cách có ch ất lượng/hiệu quả: - Chất lượng và hiệu quả đến đâu? Ta chấp nhận định nghĩa Dv với các mức độ đánh giá còn để ngỏ, còn chưa thực sự được làm rõ là nhằm để, một khi cần thiết, khi gặp những đối tượng nghiên cứu cụ thể xác định, chính điều đó sẽ cho ta cơ h ội gắn ngh ề cần mô tả với những khuôn khổ định dạng/thang đo phù h ợp, đ ể đánh giá/nói về mức độ chuyên nghiệp (của một nghề, để đi tới một định nghĩa Dn ) và/hoặc mức độ thành nghề hay mức độ lành nghề của một người nào đó ở trong nghề này. Chú ý: Với định nghĩa này, một mặt, nghề sẽ bao hàm tất cả các đặc tr ưng c ủa vi ệc làm và, hơn nữa, đó còn là những dạng/loại hình việc làm riêng/đặc thù; m ặt khác, quan ni ệm nghề ở đây chủ yếu chỉ đề cập đến phương diện ‘hành nghề’ mà ít đ ề c ập đ ến (quá trình/giai đoạn) học/đào tạo (trước khi hành) nghề. Một số câu hỏi có thể đặt ra là: 14
  15. (a) Mô hình đào tạo (đào tạo nghề thường dựa trên m ột mô hình ngh ề c ụ th ể nào đó, v ới những) sai lệch/tương ứng đến mức độ nào so với nghề thực tế hiện hữu trong xã hội? (b) Ngay cả khi mô hình nghề tỏ ra phù hợp tốt với thực tế xã h ội thì vẫn còn đó câu h ỏi về cách thức đánh giá/xác nhận của (chương trình) đào tạo: Bằng c ấp có ph ản ảnh đ ược một cách khách quan, có phản ánh đúng được ( đúng đến đâu?) mức độ tiếp thu, khối lượng kiến thức và những kỹ năng hành nghề đã tích lũy được của người học? Những câu hỏi rất khó nhưng cũng rất cần phải có được câu trả lời chắc chắn, một khi xuất hiện nhu cầu tuyển dụng (sắp xếp/trả công cho) lao động. Những khía cạnh cần làm sáng tỏ (những vấn đề đặt ra): (1) Nghề là một loại hình việc làm: Nghề là một loại việc làm, một phạm vi (những) việc làm. Như vậy, để mô tả m ột nghề người ta cần phải (a) liệt kê/chỉ ra tất c ả những vi ệc làm hi ện có ở trong ngh ề đó và (b) chứng tỏ rằng những việc làm này tạo nên được một phạm vi đặc thù riêng c ủa ngh ề. Hơn nữa, nếu như muốn nói về (các) nghề nghi ệp (hi ện có trong) xã h ội, ng ười ta c ần phải tiến hành phân loại (tổng thể) các việc làm xã hội, để đưa chúng vào nh ững khu vực/phạm vi riêng và khác biệt với nhau. Những công việc như vậy liệu đã/có thể được tiến hành thực hiện như thế nào? (2) Nghề là một thực thể xã hội Có sự sai lệch đáng kể giữa (hệ thống) nghề nghiệp hi ện hữu trong xã h ội và (h ệ thống) được ghi nhận trong các văn bản chính thức (VD. Tổng cục thống kê, Bộ lao động); giữa cách thức và tiêu chí phân loại, một bên là các cơ quan của Việt Nam và, bên kia là các tổ chức quốc tế ; trong nước/nước ngoài (thường rất phức tạp). Làm thế nào để ghi nhận/phân tích và chỉ rõ được mức độ ảnh hưởng c ủa những sai khác đó. VD việc xây dựng thang/bảng lương trong các doanh nghi ệp có v ốn n ước ngoài dựa trên những tiêu chí gì của việc làm. Nói chung, vấn đề này đòi hỏi phải đề cập tới các chiều cạnh chính trị, kinh tế, văn hoá của việc làm; chú ý đến “các chiều” như không gian, th ời gian hay tính bi ểu t ượng, và cội nguồn lịch sử như một chiều cạnh riêng, đặc thù (bối c ảnh, quá trình hình thành, v ận động và phát triển thông qua nhiều giai đoạn c ủa m ỗi ngành/ngh ề hay vi ệc làm cũng nh ư là những thang/bảng lương được gắn với chúng). (3) Nghề là một thực thể phát triển Câu hỏi: Khi nào một (phạm vi) việc làm (những việc làm loại gì, phát triển đến mức độ nào thì) có thể được xem như một nghề? Bài tập: Mô tả một nghề nào đó và (nhất là) làm rõ các đặc trưng của nghề này so với những ngh ề khác. VD Nghề y/nghề dược, nghề thủ công mỹ nghệ (gia truyền hay truyền thống). 3. Những tiền đề của XHHNN 31. Sự phát triển của xã hội công nghiệp 15
  16. Máy hơi nước Kỷ nguyên phát triển công nghiệp thường được tính từ khi phát minh ra động cơ chạy bằng hơi nước. MHN đóng vai trò đặc biệt quan trọng đ ối v ới xã hội : mở đầu qua strình cơ giới hoá cho lao động, sức máy dần thay th ế cho sức lao động nặng nhọc của con người và, đồng thời, đòi h ỏi/làm tăng thêm hàm lượng tri thức, chất trí tuệ trong lao động. MHN là bi ểu t ượng c ủa thành tựu khoa học kỹ thuật : những người được tiếp cận/làm việc với MHN và những người khác. Để làm việc với máy móc/điều khiển được máy móc – phải qua đào tạo, bắt đầu phân hoá lao động có/không được đào tạo;phân biệt lao động giản đơn và lao động kỹ thuật. Phát triển khoa học và công nghệ/kỹ thuật So sự hoàn thiện máy móc, công cụ lao động ; sự mở rộng phạm vi ứng dụng chúng mà nhu cầu đào tạo tăng lên, để đáp ứng cả về số lượng người lao động và (phân cấp) trình độ học vấn/dầo tạo - ch ất l ượng lao đ ộng. Bi ểu hiện: các trường/lớp dạy nghề; cả đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật. Xuất hiện (hệ thống) các văn bằng, chứng chỉ xác nhận trình độ. Phát triển hệ thống đào tạo Việc truyền dạy nghề theo trường lớp rõ ràng là có tính h ệ th ống, khoa học, bài bản, qui củ hơn và (lại) được kiểm tra bằng những hình th ức thi c ử khách quan, chính xác hơn. Đào tạo được thể chế hoá, trở thành nh ững qui trình: qui trình đào tạo, qui trình kiểm tra, đánh giá, sát h ạch. Hình thành h ệ thống các văn bằng, chứng chỉ nghề nghiệp và tập trung dần vào trong tay nhà nước: vai trò của nhà nước/xã hội trong phát triển nghề nghiệp. Đào tạọ được xã hội hoá: gia đình, hội đoàn nghề nghiệp, nhà nước. 32. Đọc thêm 4. Những nghiên cứu gần đây 41. Nghiên cứu của Abbott Abbott (Hệ thống nghề nghiệp, 1988): tổng quan các nghiên cứu xhh về NN, tiếp nhận đánh giá một cách phê phán các nghiên cứu này và t ừ đây ki ến nghị/đề xuất mô hình (scheme) lý thuyết của mình về nghề nghiệp. Ông đã có 3 khảo sát /nghiên cứu trường h ợp ( case studies)/ về việc làm chuyên nghiệp (chuyên gia expert occupation): những việc làm liên quan đến thông tin, luật pháp và các vấn đề săn sóc cá nhân. [..] Abbott khởi phát từ câu hỏi đậm nét truyền thống xhh của trường phái Chicago: “nh ững ng ười trong nghề đang làm/thực hiện loại lao động gì?”. Tập trung sự chú ý vào chỗ 16
  17. làm (workplace), trước tiên là ở bệnh viện, ông muốn tìm hiểu “xem điều gì đang diễn ra ở đây” (what is going on there). Tầm quan trọng của lao động nghề nghiệp và những đòi hỏi kiên quyết đối với một số loại hình lao động (đó nhất định phải là lao động chuyên nghiệp!) đã hướng Abbott tới k ết lu ận rằng “ sự kiện nền tảng của cuộc sống nghề nghiệp chính là sự cạnh tranh giữa các nghề ... (và rằng) tranh luận về quyền tài phán ( juridiction)6 là một thực tế và nó có ảnh hưởng quyết định đến quá trình phát triển nghề”. Nói về mối quan hệ có tính lịch sử như vậy (..) dường như Abbott cũng ch ỉ có ý muốn nhấn mạnh các khía cạnh cơ cấu /xã hội, bởi vì ông viết “cuốn sách này (của tôi) được tổ chức theo hướng đi từ tiếp cận cá nhân t ới /quan đi ểm/ tiếp cận hệ thống về nghề nghiệp”, là đúc kết lý lu ận v ề h ệ th ống các quan hệ nghề nghiệp và phân tích ảnh hưởng của các nhân tố tác động từ bên ngoài tới hệ thống này. Tuy nhiên, tác giả Abbott không có ý ch ỉ ưu tiên nh ấn mạnh chủ thể là cá nhân hành động /actor/ hay hệ thống /systeme/, nhấn mạnh hành động /action/ hay cơ cấu /structure/ trong các quan hệ phụ thuộc ở mỗi cặp vi mô - vĩ mô mà có ý muốn kết hợp hài hoà các yếu tố này. Điều chỉnh, thay đổi mô hình lý thuyết /XhhNn lúc này/ là cần thiết bởi, theo ông, tất cả các nghiên cứu XhhNn, một mặt, đều ít nhi ều h ướng t ới ch ủ đề nghề nghiệp hoá và mặt khác, chỉ bao hàm một phân đoạn nào đó của quá trình này.Thế nhưng, nghề nghiệp hoá thì bị (người nghiên cứu) hiểu sai lệch (misleading) còn việc (họ) khái quát hoá quá trình từ những phân đoạn riêng lẻ thì lại tỏ ra không thích hợp về mặt phương pháp luận. Để xây dựng cơ sở lý luận cho việc phê phán này và để thuyết minh cho đề xuất của mình, Abbott đã xếp sắp và phân loại các nghiên c ứu Xhh v ề “nghề nghiệp hoá”/NNH theo hai cách. Đầu tiên, ông chỉ ra rằng các quan niệm về NNH thay đổi tuỳ theo các tiêu chí hình thức được chọn ( từ tác giả này đến tác giả khác) và tiếp đó, đã chỉ ra những khác biệt lớn, những khác biệt quan trọng giữa các quan niệm này. Như vậy, Abbott đưa ra ví d ụ v ề những khác biệt xét theo tiêu chí “hình thức” - đặc trưng bởi những tác giả: 1. Nghề nghiệp hóa là một chuỗi kế tiếp các phân đoạn – Wilensky (1964); 2. NNH là một phân đoạn các chức năng - Caplow (1954); 3. Mỗi trường hợp NNH đều là duy nhất – Millerson (1964) ; 4. Từng giai đoạn NNH kế tiếp cho tới trạng thái bền vững – Larson (1977). Tuỳ theo những khác biệt lớn trong những quan niệm khác nhau về NNH, Abbott đã xếp sắp chúng thành 4 nhóm : thuyết ch ức năng, thuy ết c ấu trúc, thuyết độc quyền và thuyết văn hoá. 6 Giới hạn các quyền và nghĩa vụ ; quyền hạn, thẩm quyền. Tiền lệ được (một) toà án thừa nhận, tiếp đó, được nâng cấp thành tiêu chuẩn pháp lý để phán xử các hiện tượng tương tự xảy ra kể từ đó về sau. 17
  18. Công việc sắp xếp lại và phân loại như vậy đã thu hút được sự chú ý t ới cơ sở lý luận, những điểm tương đồng và khác biệt của các nghiên cứu về nghề nghiệp, về quá trình NNH, và đồng thời kiến nghị một mô hình lý thuyết mới. Lý thuyết này lấy tiêu điểm là lao động. Đó là nội dung LĐ, kiểm soát LĐ và phân hoá LĐ, những nhân tố làm bộc lộ rõ hiện tượng phân công VL trong nội bộ mỗi nghề, trong sự cạnh tranh và xung đột về việc làm với những nghề khác, xung đột và tranh chấp về quyền tài phán (juridiction). Theo Abbott (và Keith M. Macdonald?), hiện tượng trung tâm của đời sống NN chính là mối liên hệ giữa nghề và lao động ngh ề, liên h ệ mà tác gi ả gọi (theo nội dung) là quyền tài phán. Phân tích sự phát triển NN, theo tác giả, chính là phân tích xem mối liên hệ này được hình thành nh ư th ế nào trong LĐ, nó đã ăn sâu như thế nào vào trong các cơ cấu xh, chính thức và không chính thức, và để xem diễn biến các liên hệ về quyền tài phán giữa các nghề ảnh hưởng quyết định như thế nào tới lịch sử phát triển nghề nghiệp (c ủa nh ững nghề riêng biệt, của những cá nhân/chủ thể ở trong mỗi nghề /individual professions/). Như vậy, Abbott đã tiến hành khảo sát lao động nghề nghiệp và những đòi hỏi của mỗi nghề về quyền tài phán của họ, đẩy lên thêm một bước quan niệm của ông về “hệ thống các nghề”. Từ đó, ông tiến hành khảo sát sự phân hoá tự bên trong của nội bộ mỗi nghề và bối cảnh văn hoá - xã hội của chúng – khởi đầu từ ba nghiên cứu trường hợp (như đã nêu ở trên). 42. Nghiên cứu của Macđonald K.M. Macdonald: Phê phán quan điểm của Abbott, ông cho rằng: 1/ Quan niệm “hệ thống” của Abbott dường như, hoặc là sự biểu hiện của ý niệm hướng đích intentional tiềm ẩn ở bên trong nó (tương tự như “hệ thống pháp lý”), hoặc để chỉ mức độ liên quan và tương tác là đáng kể giữa các thành phần cấu thành hệ thống (tương tự như hệ eco-systeme). Song, chính ra là ở đây lại có sự tương phản: các nghề nghiệp cạnh tranh trên th ị trường nhưng ở đó, một mặt, từng cặp một - chúng có th ể hoặc không va chạm với nhau và mặt khác, ở đó có cả cạnh tranh, xung đột và h ợp tác, di ễn ra một cách phi-hệ thống (non-systematic) với những người ngoài nghề, với khách hàng của họ và với nhà nước. 2/ Về mặt lý luận, khái niệm “hệ thống” thường gắn với cơ cấu và chức năng, những cái mà Abbott đã bỏ qua trước đó, vì cho là chúng không thích hợp. 3/ Khái niệm “hệ thống nghề nghiệp” - cho dù nó được gắn kết với “quyền tài phán” được (tác giả) nhấn mạnh và gắn với lao động nghề nghiệp, vẫn (dường như) bị tách rời khỏi khía cạnh “ giải thích Xhh - aspect of sociological explanation” là cái cốt lõi trong quan niệm của M. Weber, mà cụ thể đó trước hết là những động cơ /motives/ và mục đích /meanings/ của cá 18
  19. nhân/chủ thể hành động /actor/. 43. Nghiên cứu của Burrage (tp.1988; 1990) Một trong những người đã có đóng góp đáng kể, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn, vào việc nghiên cứu sự phát triển của vi ệc làm /mang tính/ nghề nghiệp. Trong các nghiên cứu đầu tiên của mình, ông ch ọn ngh ề lu ật và khảo sát mục tiêu mà những nghề này (được xem là khác nhau) đã theo đuổi ở Pháp, Anh và ở Hoa Kỳ. Theo ông, người ta cần phân tích hành vi nghề nghiệp, không phải là bằng cách nắm bắt và xác định động cơ hay lợi ích mà bằng cách quan sát xem họ đã làm gì hay đã cố gắng hành động một cách tập thể như thế nào, căn cứ vào những mục tiêu họ đề ra. VD. Tác giả cho rằng, trong lịch sử nghề luật, ít nhất có bốn mục tiêu (goals) ổn định và là nổi trội hơn cả, đó là: 1/ Kiểm soát các quá trình gia nhập /kết nạp, đào tạo và hành ngh ề luật; 2/ Khởi thảo, xác lập, phát triển và bảo vệ quyền tài phán (xác đ ịnh phạm vi, thẩm quyền nghề nghiệp), xác lập phạm vi mà ở đó (chỉ có) họ được phép hành nghề; 3/ Tìm cách áp đặt qui tắc dán nhãn/etiquette/ của họ, áp đ ặt nh ững giá trị đạo đức /ethics/ và qui tắc ứng xử của riêng h ọ (nhóm ngh ề nghi ệp) đối với người khác. 4/ Tìm cách bảo vệ và nếu có thể thì cải thiện và nâng cao đ ịa v ị xã h ội của họ. Những đối tượng - mục tiêu này dường như hoàn toàn tương thích với các phân tích của Larson, ngoại trừ việc ở đây kh“ng hề nhắc đến quyền tự chủ = autonomie còn các mục tiêu kinh tế thì bị /tác giả - Burrage/ loại trừ một cách cố ý. Nhưng, người ta có thể đặt ngay câu hỏi: tại sao họ lại chọn lựa 4 mục tiêu này? Bởi vì, nếu như ý tưởng về độc quy ền kh“ng lo ại tr ừ khả năng đạt được quyền lực như là mục đích tự thân thì mặt khác, cũng rất khó mà từ chối r”ng nghề luật, cũng như mọi nhóm nghề nghiệp khác, đã và đang vẫn còn quan tâm tới 4 mục tiêu này chính bởi là vì chúng có khả năng bảo đảm sự độc quyền monopoly và bảo vệ tính tự chủ autonomy để mà (ít nhất có một phần là để mà) khẳng định địa vị kinh tế của họ. Tuy nhiên, việc kh“ng thừa nhận một cách chính thức các chủ đề đó /độc quy ền&kinh tế/ kh“ng làm ảnh hưởng tới giá trị các c“ng trình nghiên cứu của Burrage về những thành c“ng và thất bại của nghề luật trong mối tương quan so sánh tình hình ở ba nước Anh, Pháp và Hoa Kỳ khi đối chi ếu v ới 4 m ục tiêu ( goals) mà họ theo đuổi. Phân tích của tác giả đã chỉ ra tầm ảnh h ưởng /đối v ới ngh ề nghiệp/ của những khác biệt về văn hoá chính trị ( political culture) và về kinh nghiệm xã hội rút ra từ thực tiễn cách mạng /tư sản/ diễn ra ở các nước này. 19
  20. Phân tích quá trình theo đuổi mục tiêu, những thành c“ng và th ất b ại c ủa ngh ề nghiệp đặt trong các bối cảnh và điều kiện xã hội khác biệt c ủa ba n ước là m ột sự khẳng định rõ rệt cho luận điểm của tác giả, đồng thời minh hoạ /thuyết minh cho /ti ếp c ận văn hoá so sánh/, tức là phải đặt nghề nghiệp trong quan hệ chặt chẽ với những khác biệt văn hoá (đặc thù cho mỗi quốc gia). Theo hướng tiếp cận này, tác giả đã đưa ra nhi ều d ữ li ệu chi tiết /../ đã chỉ ra r”ng: + cho đến trước thời kỳ cách mạng /tư sản/, một mặt, nghề luật ở cả 3 nước đã có nhiều nét giống nhau đến ngạc nhiên trong mục tiêu nghề nghi ệp mà h ọ theo đu ổi; h ọ đã cùng phải đối mặt với một phong trào xã hội, với những cu ộc t ấn c“ng có ph ương châm gần giống nhau là nh”m thiết lập một trật tự pháp luật mới ( new legal order) - cụ thể là “(xã hội có) luật nhưng kh“ng có luật sư”. Nhưng mặt khác, các cu ộc t ấn c“ng vào gi ới chức ngành luật lại có khác biệt về hình thức: những đòi h ỏi t ừ phía cách m ạng Pháp là s ự huỷ bỏ toàn bộ các thiết chế pháp luật hiện hành thời đó - trong khi ở Hoa Kỳ ng ười ta ch ỉ thuyết phục giới chức ngành luật tạm thời ngừng hoạt động một th ời gian; còn ở n ước Anh, Nghị viện đã hầu như hoàn toàn kh“ng hoạt động. Hậu quả xảy ra đối với các h ội đoàn nghề nghiệp ngành luật cũng là khác nhau: ở nước Pháp, các hội đoàn này - ít nh ất trong một thời gian ngắn, đã bị triệt tiêu - còn ở Hoa kỳ, chúng bị khống chế và thậm chí có khi còn bị xoá sổ tới hàng chục năm. Trong khi đó, ở n ước Anh, chúng tr ải qua các th ử thách một cách bình yên, thậm chí còn được củng cố và trở nên mạnh hơn. Tuy nhận định r”ng cần phải có thêm những điểm bổ sung nhưng nhiều người cũng đồng ý với Burrage và cho r”ng nghiên cứu so sánh (nh ư) c ủa “ng giúp ta hi ểu và gi ải thích được những khác biệt hiện vẫn đang tồn tại trong nghề nghiệp ở những n ước/ cùng v ới những bối cảnh văn hoá chính trị/ khác nhau. Trong một tác phẩm khác, “M“ hình hành động/khung lý thuyết dựa trên hành động xh để nghiên cứu nghề nghiệp”- An actor-based framework for the study of the profession (Burrage et al., 1990), tác giả đề cập tới bốn (kiểu) actor-hành thể là người hành ngh ề, nhà nước, người tiêu dùng và trường đại học. Tuy nhiên, lý thuyết hành đ ộng về ngh ề nghi ệp mà “ng (muốn) xây dựng ở đây đã bị phê phán ở một số điểm quan trọng [Macdonald, 19]: 1/ Chân dung người hành nghề chuyên nghiệp, xuất hiện với tính cách là đối tác c ạnh tranh trong màn kịch xã hội đặc thù (nghề nghi ệp) nhưng lại kh“ng đ ược m“ t ả v ới b ất kỳ một sự ưu tiên (đặc biệt) nào so với các “nhân vật” khác, ngoài vi ệc h ọ đ ược nhắc t ới đ ầu tiên. 2/ Tác giả đã kh“ng có sự phân biệt nào giữa những “người hành ngh ề” bình th ường và bộ phận elite lãnh đạo. Thực tế, mối quan hệ giữa họ nhiều khi tỏ ra có ảnh hưởng khá lớn đối với sự phát triển nghề nghiệp. 3/ Tác giả chưa có sự nhấn mạnh cần thiết vai trò c ủa nhà n ước (nh ư là nghiên c ứu thực tiễn, kể cả nghiên cứu của chính Burrage cho th ấy); và cũng kh“ng có vai trò đ ặc bi ệt nào giành cho những nghề nghiệp khác (như Abbott đã làm). Những điểm nêu trên đề cập tới nhu cầu cần thiết phải nhấn mạnh (khía c ạnh này hay khía cạnh khác) nhiều hơn là một sự phê phán đối với quan điểm c ủa tác gi ả mà m ấu chốt là: trên con đường theo đuổi các mục tiêu (goals) của mình, nghề nghiệp bu ộc phải cạnh tranh cùng với những đối tác khác, và đặc biệt, theo như cách nói của Joshnon (1982): “Professions are a product of state formation”. Theo đó, đối với việc làm nghề nghiệp, kh“ng còn gì thiết yếu hơn là (nền) văn hoá chính trị. Đó cũng chính là cái mà Burrage đã gắng c“ng chứng tỏ. 44. Nghiên cứu của Halliday 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0