intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài luận tài chính tiền tệ

Chia sẻ: Dau Con | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:48

570
lượt xem
130
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiền tệ là gì? Vì sao phải nghiên cứu Tiền tệ ? Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội. Vậy, tiền tệ là cái gì? Nó ra đời từ lúc nào?. Để tìm hiểu rõ về nguồn gốc ra đời của tiền tệ, có rất nhiều...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài luận tài chính tiền tệ

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC KHOA KINH TẾ * PHẦN CHUẨN BỊ BÀI MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ Giảng viên: Nguyễn thị Lan Anh Sinh viên: Đỗ Xuân Đức Lớp: K50 ĐH QTKD Sơn la, 02/2011 Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 0
  2. CHƯƠNG 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ TIỀN TỆ,TÍN DỤNG VÀ TÀI CHÍNH. CÂU 1: Tiền tệ là gì? Vì sao phải nghiên cứu Tiền tệ ? - Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội. Vậy, tiền tệ là cái gì? Nó ra đời từ lúc nào?. Đ ể tìm hiểu rõ về nguồn gốc ra đời của tiền tệ, có rất nhiều các quan điểm khác nhau. Trong kinh tế chính trị của các n ước phương Tây hình thành nên hai trường phái: * Một truờng phái cho rằng tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu khách quan của quá trình trao đổi hàng hóa (Trường phái kinh tế chính trị học cổ điển như: Adam Smith, David Ricardo…) * Trường phái thứ hai giải thích sự xuất hiện của tiền như là một sự kiện có tính chất tâm ly (như hai nhà tâm ly học W.Gherlop và Smondest). Họ cho rằng: “Nguồn gốc của tiền tệ không nằm trong quá trình trao đổi hàng hóa mà do lòng ham muốn hiểu biết và nhu cầu làm đẹp là bản tính của đàn bà. Còn bản tính của đàn ông lại là danh vọng, và sự ham muốn có nhiều tiền” + Theo Mác, trong lịch sử phát triển của loại người, lúc đầu con người sống thành bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân, chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ trong xã hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị (tương đối) của một vật được biểu hiện bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai trò vật ngang giá. Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, bộ lạc du mục tách khỏi toàn khối bộ lạc, hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên hơn. Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị mở rộng. Tham gia trao đổi bây giờ không phải là hai loại hàng hóa mà là một loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so với hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó còn bộc lộ một số thiếu sót: Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 1
  3.  Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hoàn tất, vẫn còn nhiều hàng hóa làm vật ngang giá.  Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa lại không thuần nhất. Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với nhau khi những người chủ của nó có cùng muốn trao đổi, muốn trùng khớp. Như vậy, cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và làm cho mâu thuẫn trong lao động và phân hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do đó, tất yếu đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung tất ra từ tất cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó, ví dụ như súc vật. Thích ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung. Nhưng trong giai đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào, trong những vùng khác nhau thì có những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá chung. Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải thống nhất một vật ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở một loại hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi đó, tất cả hàng hóa được biểu hiện giá trị của nó trong một thư hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật ngang giá chung. Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đ ổi và của các hình thài giá trị. Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Khái niệm tiền tệ: - Mọi người đều biết tiền tệ là một thuật ngữ rất quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội, tuy nhiên, khó có thể tìm ra một khái niệm thống nhất về tiền tệ. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 2
  4. +) Theo Mác, Tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hoá, dùng đ ể đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa . +) Irving Fisher cho rằng chỉ có giấy bạc ngân hàng là tiền tệ, +) Trong khi Conant Paul Warburg cho rằng chi phiếu cũng là tiền tệ. +) Theo các nhà kinh tế hiện đại ( Samuelson): Tiền được định nghĩa là bất cứ cái g ì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ. Theo Charles Rist thì cái thật quan trọng đối với nhà kinh tế không phải là sự thống nhất về một định nghĩa thế nào là tiền tệ mà phải biết và hiểu hiện tượng tiền tệ. PHẢI NGHIÊN CỨU TIỀN TỆ. VÌ: Tiền ra đời do nhu cầu trao đổi của con người, sự ra đời của tiền được đánh dấu bởi - sự phát triển của một loạt các hình thái giá trị. - ...................... NX:................................................................................................................................. ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... CÂU 9: Sự ra đời của phạm trù tài chính. Tiền đề ra đời của tài chính Tài chính là một phạm trù kinh tế - lịch sử. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Từ toàn bộ lịch sử phát sinh, phát triển của tài chính chúng ta thấy: Tài chính chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi mà ở đó có những hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan nhất định xuất hiện và tồn tại. Có thể xem những hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan đó là những tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính. Karl Marx trong tác phẩm nghiên cứu Kinh tế chính trị học đã chỉ ra hai tiền đề ra đời của tài chính, đó là sự Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 3
  5. ra đời, tồn tại của Nhà nước và sự xuất hiện, phát triển của nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ. Tiền đề thứ nhất: Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước. Trong các hình thái xã hội có Nhà nước, tài chính đã từng tồn tại với tư cách là một công cụ trong tay Nhà nước để phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Nhà nư ớc đầu tiên trong xã hội loài người là Nhà nước chủ nô, cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nó, những hình thức sớm của tài chính như thuế cũng bắt đầu xuất hiện.Khi một hình thái xã hội mới thay thế một hình thái xã hội cũ, thì một nền tài chính mới ra đời phù hợp với hình thái Nhà nước mới. F. Ănghen viết : “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước, đó là thuế má. Với những bước tiến của văn minh thì bản thân thuế má cũng không đủ nữa; Nhà nước còn phát hành hối phiếu vay nợ, tức là phát hành công trái”. Trong các chế độ xã hội phát triển, các Nhà nước với chức năng quản lý xã hội trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, quốc phòng… đều tăng cường tài chính của mình. = >> Như vậy, có thể nói rằng trong điều kiện lịch sử nhất định khi có sự xuất hiện, tồn tại và hoạt động của Nhà nước thì có sự xuất hiện, tồn tại và hoạt động của tài chính. Tiền đề thứ hai: Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Lịch sử phát triển của tài chính cho thấy rằng, khi những hình thức tài chính đầu tiên xuất hiện theo sự xuất hiện của Nhà nước (thuế) thì đã có sự xuất hiện và tồn tại của sản xuất hàng hoá - tiền tệ, và hình thức tiền tệ đã được sử dụng trong lĩnh vực của các quan hệ tài chính như một tất yếu. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, thuế bằng tiền đã được áp dụng (như thuế quan, thuế gián thu, thuế chợ, thuế tài sản…). Trong chế độ phong kiến, theo với sự mở rộng các quan hệ thị trường, sản xuất hàng hoá và tiền tệ, lĩnh vực của các quan hệ thuế bằng tiền đã mở rộng và tiến hành thường xuyên hơn (như thuế đất, thuế gián thu với vật phẩm tiêu dùng, thuế hộ gia đình…), tín dụng Nhà nước cũng bắt đầu phát triển. Với sự phát triển vượt bậc của kinh tế hàng hoá - tiền tệ thu nhập bằng tiền qua thuế và công trái đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nước. Theo với thu nhập bằng tiền, chi tiêu bằng tiền đã làm phong phú các hình thức chi tiêu và linh hoạt trong khi sử dụng vốn. Chính trong thời kỳ phát triển kinh tế tư bản, ngân sách Nhà nước - một loại quỹ Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 4
  6. tiền tệ tập trung đã được hình thành và ngày càng có tính hệ thống chặt chẽ, ngày càng đóng vai trò quan trọng phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.Kinh tế hàng hoá tiền tệ càng phát triển, thì hình thức giá trị tiền tệ càng trở thành hình thức chủ yếu của thu nhập và chi tiêu của Nhà nước. Kinh tế hàng hoá - tiền tệ đã mở rộng lĩnh vực của các quan hệ tài chính. Nền kinh tế tư bản ra đời và phát triển, thì hình thức giá trị tiền tệ của các quan hệ tài chính đã là một yếu tố bản chất của tài chính. ==>> Như vậy, sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ là một tiền đề khách quan quyết định sự ra đời và phát triển của tài chính. Khi nói đến tiền đề của tài chính, một số nhà lý luận kinh tế nhấn mạnh đến tiền đề thứ nhất - tức là nhấn mạnh đến sự tồn tại của Nhà nước; nh ưng một số nhà kinh tế khác không tán thành quan điểm đó; các nhà kinh tế này đưa ra ví dụ về một Nhà nước Khơ- me không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, do đó không có nền tài chính. Nhiều nhà lý luận kinh tế nhất trí nhấn mạnh đến tiền đề thứ hai. Theo các nhà kinh tế học này, đặc biệt nhấn mạnh đến sự ra đời và tồn tại của tiền tệ và cho rằng đây là tiền đề có tính chất quyết định sự ra đời và tồn tại của tài chính. Các nhà lý luận này dẫn chứng bằng thời kỳ kinh tế xã hội chủ nghĩa, khi đó Nhà nước XHCN không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá, nhưng tồn tại tiền tệ nên vẫn tồn tại một nền tài chính. Sự cần thiết khách quan của tài chính Khi ngh iên cứu các tiền đề của tài chính, chúng ta thấy rằng: chính sự tồn tại của Nhà nước và sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ quyết định tính tất yếu khách quan tồn tại của tài chính. Trong quá trình phát sinh, phát triển của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, Nhà nước ra đời; để tồn tại và phát triển cũng như để thực hiện chức năng quản lý toàn diện xã hội của Nhà nước ở các quốc gia và ở mọi thời kỳ, cần thiết phải sử dụng tài chính. Vì: Thông qua các quan hệ tài chính, để thực hiện phân phối của cải xã hội theo yêu cầu phát triển quốc gia. Sử dụng công cụ tài chính điều tiết một phần thu nhập cuả các thành phần kinh tế, phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội trong các giai đoạn phát triển. Thông qua phân phối tài chính, đảm bảo tái sản xuất xã hội và thực h iện đầu tư phát triển kinh tế.Sử dụng các công cụ tài chính, th ực hiện giám sát toàn bộ các hoạt động của quốc gia, đảm bảo sử dụng các nguồn tài chính có hiệu quả.  Tóm lại, sự cần thiết khách quan của tài chính là do sự tồn tại khách quan của các tiền đề tài chính. Trong đó, để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế và quản Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 5
  7. lý xã hội, Nhà nước của các quốc gia cần thiết phải nắm lấy tài chính như một công cụ sắc bén để quản lý quốc gia. NX:................................................................................................................................. ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... Chương 2: Hệ thống tài chính. 13.Cấu trúc hệ thống tài chính, mối quan hê giữa các tụ điểm tài chính trong hệ thống tài chính. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH TT TIỀN TỆ KHÔNG KỲ HẠN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ TT HỐI PHIẾU NHTM TT PHI TT VAY NỢ CHÍNH THỨC THỊ TRƯỜNG VỐN TT VAY NỢ TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TỔ CHỨC TÀI TT TRÁI PHIẾU PHI CHÍNH NH TT CỔ PHIẾU CÔNG CỤ TÀI CHÍNH Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 6
  8. +) Mối quan hê giữa các tụ điểm tài chính trong hệ thống tài chính. * Trước hết là tụ điểm tài chính doanh nghiệp. Chính ở đây nguồn tài chính xuất hiện và cũng chính ở đây thu hút trở về phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Nguồn tài chính của doanh nghiệp – doanh thu do tiêu thụ sản phẩm được phân phối cho các tụ điểm vốn tiếp theo. Trước hết, một phần được sử dụng trực tiếp mua tư liệu sản xuất (TLSX) trên thị trường TLSX. Một phần trả công cho người lao động và chủ doanh nghiệp và lợi tức cổ phần cho người góp vốn, phần này kết hợp với tiền lương của công nhân viên và tài trợ của thân nhân ở nước ngoài hình thành tụ điểm vốn hộ gia đình. Một phần nộp thuế cho Nhà nước hình thành tụ điểm vốn Ngân sách Nhà nước (NSNN). Một phần mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm hay gửi ở các tổ chức tín dụng hình thành tụ điểm vốn các tổ chức tài chính trung gian. Phần còn lại bổ sung vào các quĩ của doanh nghiệp và có thể tham gia khu vực tài chính quốc tế. Bên cạnh luồng phân phối ra, tài chính doanh nghiệp còn thu hút các nguồn vốn khác để bổ sung nguồn vốn của doanh nghiệp: Vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu, liên doanh… - Quá trình phân phối các nguồn tài chính trên đây của TCDN làm nảy sinh hàng loạt các mối quan hệ tài chính, trong đó có những quan hệ sẽ tiếp tục phát triển, thay đổi ở các tụ điểm vốn tiếp theo có những quan hệ kết thúc và nguồn tài chính đi vào tiêu dùng cho sản xuất và phi sản xuất. * Thứ hai là tụ điểm vốn NSNN. NSNN có vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường, và để thục hiện được vai trò đó NSNN phải có các nguồn vốn được động viên từ các khu vực kinh tế, từ dân cư và từ các nguồn tài chính nước ngoài. - Quá trình phân phối tài chính qua tụ điểm này như sau: Nguồn thu của NSNN được hình thành từ các thuế của các doanh nghiệp và dân cư và từ việc phát hành công trái, vay nợ và nhận viện trợ nước ngoài. Đồng thời NSNN sử dụng (phân phối) nguồn tài chính của mình thông qua các khoản chi tiêu thường xuyên và đầu tư phát triển của Chính phủ. Hoạt động thu chi của NSNN làm nảy sinh các mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế và dân cư, giữa Nhà nước với các tổ chức tài chính quốc tế. Mặt khác, chi NSNN làm tăng nguồn vốn tài chính ở các tụ điểm nhận vốn khác nhau. * Thứ ba là tụ điểm tài chính hộ gia đình. Ở các nước kinh tế phát triển, nguồn tài chính này rất được chú trọng. Thực tế ở nước ta cũng cho thấy rằng: Tài chính gia đình là một tụ điểm vốn quan trọng. Trong điều kiện thu nhập của đại bộ phận dân cư cao, rõ ràng đây là nguồn tài chính quan trọng. Việc khai thác Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 7
  9. nguồn này không chỉ đáp ứng nhu cầu đầu tư kinh tế, mà còn định hướng tích luỹ và tiêu dùng. Nguồn tài chính dân cư được hình thành từ thu nhập của các thành viên trong gia đình, tiền thừa kế, tiền tài trợ từ n ước ngoài. Nó sẽ chi phí cho những mục đích khác nhau, kết quả sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ cung cầu trên thị trường và tình hình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Một phần vốn tài chính của hộ gia đình đ ược phân phối cho tiêu dùng trực tiếp (ăn, mặc, giải trí, học hành, chữa bệnh…) ở thị trường vật phẩm tiêu dùng (VPTD) một phần dành dự trữ cho tiêu dùng trong tương lai. Khoản dự trữ này, nếu được khai thác biến thành những nguồn vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng cường tình hình tài chính cho các tụ điểm vốn khác. * Thứ tư là tụ điểm vốn các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức tài chính trung gian bao gồm: Các NHTM (Ngân hàng thương mại), các công ty bảo hiểm và các tổ chức tài chính trung gian khác chuyên làm nhiệm vụ môi giới để biến những nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thành những nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế. Do hoạt động đa dạng và phong phú, các tố chức tài chính có khả năng cạnh tranh với nhau và bổ sung cho nhau tạo nên nguồn tiềm năng to lớn cung cấp vốn cho các nguồn tài chính khác với nhiều hình thức phong phú. Chúng ta sẽ xem xét sâu hơn trong phần các tổ chức tài chính trung gian và thị trường tài chính. * Một tụ điểm khác của hoạt động tài chính, là hoạt động tài chính đối ngoại. Hiện nay, tất cả các lĩnh vực hoạt động tài chính trong nước (NSNN, tài chính doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian, tài chính hộ gia đình) đều có quan hệ trực tiếp tới hoạt động tài chính đối ngoại. Đứng trên góc độ vĩ mô, thì đây là mối quan hệ giữa tài chính quốc gia với tài chính quốc tế. Quan hệ này sẽ tạo được luồng di chuyển vốn từ b ên ngoài để cung ứng vốn cho nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế mở, chúng ta nhận thức điều đó và vận dụng trong việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, để tăng cường nguồn lực cho nền kinh tế đất nước. * Tài chính của các hội, đoàn thể cũng là một tụ điểm vốn quan trọng. Hoạt động của các hội và đoàn thể, trước hết là dựa trên nguồn kinh phí đóng góp của hội viên. NSNN cho hỗ trợ một phần. Chi tiêu của các hội cho nhiều mục đích tiêu dùng khác nhau, trong đó có một số hoạt động sản xuất kinh doanh, một mặt tạo ra nguồn tài chính, mặt khác chính nguồn tài chính của các tổ chức này cũng góp phần hỗ trợ cho các tụ điểm Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 8
  10. tài chính khác. Ngoài ra, nó còn tham gia vào ngu ồn vốn của các tổ chức tài chính trung gian ( gửi tiền vào ngân hàng hoặc đầu tư khác). NX: ...................................................................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. CHƯƠNG 3: NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. CÂU 17: Vai trò của ngân sách nhà nước. - Ngân sách nhà nước (ngân sách chính phủ), là một phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. +) Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. +) Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. - Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của cộng đồng và nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước. - Ngân sách nhà nước bao gồm: Ngân sách trung ương và Ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 9
  11. quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân. - Vai trò của Ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc ph òng và đối ngoại của đất nước. Cần hiểu rằng, vai trò của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội. +) Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh +) Giải quyết các vấn đề xã hội: Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 10
  12. cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt. +) Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường hàng hoá Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: Cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ. 2. Liên hệ với Việt Nam: - Ở nước ta, vai trò quản lý của nhà nước với nền kinh tế trong nước là rất lớn và nhà nước sử dụng NSNN để thực hiện vai trò điều tiết nền kinh tế. - Thu ngân sách nhà nước đã tăng đáng kể trong những năm gần đây, theo tính toán của bộ Tài chính, tương ứng 28,6% năm 2006, 26% năm 2007 và khoảng 26,6% năm 2008 so với GDP. = >> Như vậy, số thu ngân sách hàng năm đã vượt tương đối cao so với mục tiêu là 21 – 22% GDP mà Chính phủ đặt ra khi xây dựng kế hoạch năm năm, và đương nhiên lớn hơn nhiều so với các giai đoạn trước. Một điều không thể phủ nhận là, sự cải thiện trong thu ngân sách chứng tỏ tính ổn định của nền tài chính quốc gia, cũng như sự đúng đắn của các chính sách thuế đã ban hành. Tuy vậy, cán cân thu chi ngân sách đang bộc lộ nhiều vấn đề lớn. Bộ Kế hoạch và đầu tư nhận định, dù tăng thu trong mấy năm gần đây, nhưng ngâ n sách nhà nước “chỉ đáp ứng khoảng 60% nhu cầu chi cần thiết tối thiểu”. Điều này có nghĩa là, nguồn thu vẫn không tăng kịp với tốc độ chi, dẫn đến tình trạng chi ngân sách luôn vượt dự toán kế hoạch và chi năm sau tăng hơn năm trước. Theo tính toán của bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỷ trọng chi ngân sách so với GDP trung bình là 32,2% trong giai đoạn 2006 – 2008, tăng cao so với trung bình 28,7% trong giai đoạn 2001 – 2005 trước đó. Theo uỷ ban Kinh tế quốc hội, tổng thu ngân sách 2008 ước đạt 399nghìn tỷ đồng, vượt dự toán 76nghìn đồng; bội chi ngân sách trong năm 2008 là 66,2 ngàn tỉ đồng, tương ứng với 4,95% GDP. Trong khi đó, bộ Tài chính cho biết, năm 2009 dự toán thu ngân sách là Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 11
  13. 389.900 tỉ đồng (giảm 2% so với năm 2008), thấp hơn dự toán chi 491.300 tỉ đồng. Như vậy, tốc độ tăng thu chậm hơn tốc độ tăng chi đã làm thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở mức khoảng 5% GDP. Ngoài ra, bộ Kế hoạch và đầu tư cho biết, còn có những khoản chi ngoài ngân sách mà nếu đưa hết vào chi ngân sách thì mức bội chi có thể lên đến 10%. “Đây là một tỷ lệ quá cao, dẫn đến rủi ro lớn về khả năng trả nợ trong tương lai”, bộ này nhận định. Gần đây, thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng các khoản vay trong và ngoài nước chủ yếu dưới hình thức phát hành trái phiếu, và vốn huy động từ nguồn này thường được dùng để xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục. Mặc dù còn nhiều hạn chế trong việc sử dụng NSNN vào việc thực hiện các chính sách và chiến lược quốc gia,nhưng nhà nước ta đã có những chính sách điều tiết nền kinh tế hợp lý,linh hoạt, kịp thời đạt được những kết quả khả quan trong việc định hướng nền phát triển kinh tế trong nước,đảm bảo an sinh ,trật tự xã hội, củng cố nền nền quốc phòng. NX: ...................................................................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. CÂU 23: Các giải pháp xử lý bội chi ngân sách. - Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm đau đầu các chính trị gia giữa một bên là phát triển bền vững , duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có hạn. Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai. Từ sự lựa chọn đó họ đ ưa ra mức bội chi "hợp lý", bảo đảm nhu cầu tài trợ Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 12
  14. cho chi tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Bội chi NSNN được hiểu một cách chung nhất là sự vượt trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt NSNN do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền để bù đắp chi tiêu;... Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Bội chi NSNN tác động đến kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào các giải pháp nhằm bù đ ắp bội chi NSNN. Mỗi giải pháp bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô. Về cơ bản, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng các giải pháp chủ yếu nhằm xử lý bội chi NSNN như sau: Thứ nhất: Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi NSNN có thể thông qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi NSNN. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi NSNN là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia. Thứ hai: Vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt NSNN, nhà nước có thể vay nợ nước ngoài và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá. Vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ - trả lãi - bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của NSNN cho các thời kỳ sau... Thứ ba: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt NSNN và giảm bội chi NSNN. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi NSNN, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh h ưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 13
  15. Thứ tư: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết. Thứ năm: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn môi trường v.v.. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý NSNN nói chung và xử lý bội chi NSNN nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết. CHƯƠNG 4: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP CÂU 27: Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại. Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác - với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàn g đóng vai trò là một tổ chức trung gian, trong quan hệ tín dụng nó vừa là người cho vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Khác với tín dụng thương mại, được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, tíndụng ngân - hàng được cung cấp d ưới hình thức tiền tệ - bao gồm tiền mặt và bút tệ. Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngânhàng, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trangtrải các chi phí sản Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 14
  16. xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư XDCB và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân. + Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Mua bán chịu hàng hoá là hình thức tín dụng, vì: . Người bán chuyển giao cho người mua để sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định. Đến thời hạn được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất. Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là GIẤY NỢ - một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua. GIẤY NỢ trong quan hệ tín dụng thương mại được gọi là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), với 2 loại: hối phiếu và lệnh phiếu. Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho người thiếu nợ trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Người hưởng thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là thứ ba. . Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết trả một số tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ. Về hình th ức, thương phiếu được chia ra ba loại: (1) Thương phiếu vô danh, không ghi tên người thụ hưởng; (2) Thương phiếu ký danh; có ghi tên người thụ hưởng và (3) Thương phiếu định danh, có ghi tên như thương phiếu ký danh nhưng không chuyển nhượng cho người khác. . Vai trò của tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng nhu cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thácđược nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy vậy tín dụng thương mại vẫn có những hạn chế về qui mô tín dụng, về thời hạn cho vay, và về phương hướng (giới hạn đối với những xí nghiệp cần hàng hoá để sử dụng cho sản xuất hoặc dự trữ), ngoài ra việc cung cấp tín dụng thương mại chỉ được thực hiện trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau. ==>>Trong nền kinh tế thị trường, cung của quĩ cho vay (nguồn vốn tín dụng) từ nhiều nguồn khác nhau: + Tiết kiệm cá nhân. Thu nhập của cá nhân được chia làm hai phần là tiêu dùng và tiết kiệm. Số thu về tiết kiệm cá nhân, một phần được sử dụng để mua nhà, đất, hoặc đầu tư trực Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 15
  17. tiếp vào các chứng khoán; một phần còn lại đư ợc đầu tư gián tiếp vào thị trường vốn và tiền tệ thông qua các ngân hàng, công ty tài chính, quỹ tiết kiệm, HTX tín dụng… + Tiết kiệm của nhà doanh nghiệp. Tổng số tiết kiệm của nhà doanh nghiệp là phần lợi nhuận không chia và khấu hao; số tiền tiết kiệm này khi nhà doanh nghiệp chưa sử dụng đến thì có thể trở thành một bộ phận của quỹ cho vay thông qua thị trường vốn và tiền tệ. + Mức thặng dư của ngân sách nhà nước. Mức thặng dư của NSNN bằng thu nhập trừ đi chi phí về hàng hoá và dịch vụ. + Mức tăng của khối lượng tiền tệ cung ứng. Cơ sở để tính mức tăng này là khối lượng tiền tệ lưu thông ngoài ngân hàng và tiền trên tài khoản séc. Cầu về quỹ cho vay. Trong nền kinh tế hàng hoá-tiền tệ, cầu về quĩ cho vay khá phong phú, đa dạng: + Nhu cầu đầu đầu tư của doanh nghiệp. Khu vực doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng nhất về nhu cầu của quỹ cho vay. + Nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân. Ở các nước phát triển tín dụng tiêu dùng chiếm một tỷ trọng đáng kể. + Thâm hụt Ngân sách của Chính phủ: khi NSNN bị thâm hụt Nhà nước phải đi vay thông qua phát hành công trái hay trái phiếu kho bạc để bù đắp khoản bội chi hàng năm. + Ngoài ra mức giảm khối lượng tiền tệ cung ứng và mức tăng dự trữ tiền tệ cũng là hai thành phần của số cầu. Đặc điểm của quỹ cho vay Quỹ cho vay biểu hiện quan hệ giữa những người tham gia quá trình tái sản xuất, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất và lưu thông hàng hoá cũng như Nhà nước và dân cư. Mục đích sử dụng quỹ cho vay là nhằm thoả mãn nhu cầu vốn tiền tệ tạm thời cho sản xuất và tiêu dùng. Quĩ cho vay có các đặc điểm cơ bản sau: * Quỹ cho vay chủ yếu tập trung và phân phối thông qua các tổ chức tài chính tín dụng. Trong nền sản xuất hàng hoá hiện đại, phân phối quỹ cho vay thường đ ược thực hiện bằng hai cách: (1) Phân phối trực tiếp như mua trái phiếu doanh nghiệp và (2) Qua các tổ chức trung gian như ngân hàng, công ty tài chính, quỹ tiết kiệm, quỹ bảo hiểm xã hội, HTX tín dụng và các tổ chức tài chính khác. Trong đó việc phân phối qua các tổ chức trung gian chiếm đại bộ phận. - Quỹ cho vay vận động trên cơ sở hoàn trả và có lãi suất. Sự hoàn trả là đặc trưng riêng của quỹ tín dụng, đồng thời nó phản ánh bản chất vận động của quỹ cho vay. Tuần hoàn và chu Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 16
  18. chuyển vốn trong nền kinh tế quyết định khả năng hoàn trả của tín dụng. Về hình thức, sự hoàn trả được thực hiện trên cơ sở thoả thuận bằng hợp đồng tín dụng giữa người cho vay và người đi vay. ==>> Tóm lại: Tín dụng là phương thức huy động vốn quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường. Vì vậy sử dụng có hiệu quả ph ương thức này sẽ góp phần giải quyết nhu cầu vốn đang là vấn đề cấp thiết cho sản xuất và đầu tư phát triển. NX: ...................................................................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. CÂU 30. Tài sản cố định, Cơ cấu tài sản cố định, Tài sản cố định hữu hình, Khấu hao tài sản cố định, Quản lý tài sản cố định về mặt hiện vật. Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoăch bằng 1 năm) Trên thực tế, khái niệm TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành...) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử dụng nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc về TSCĐ. Đặc điểm của TSCĐ : tuổi thọ có thời gian sử dụng trên 1 năm, tức là TSCĐ sẽ tham gia vào nhiều niên độ kinh doanh và giá trị của nó được chuyển dần vào gíá trị sản phẩm làm ra thông qua khoản chi phí khấu hao. Điều này làm giá trị của TSCĐ giảm dần hàng năm. Tuy nhiên, không phải mọi tài sản có thời gian sử dụng trên một năm đều được gọi là TSCĐ, thực tế có những tài sản có tuổi thọ trên một năm nhưng vì giá trị nhỏ nên chúng không Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 17
  19. được coi là TSCĐ mà được xếp vào tài sản lưu động. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, một tài sản được gọi là TSCĐ khi có đặc điểm như đã nêu đồng thời phải có giá trị trên 10 triệu đồng. Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm: - Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định), thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như: nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc, thiết bị; phương tiện vận tải; dụng cụ văn phòng... -Tài sản cố định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chu ẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh như: một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng, chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả... -Tài sản cố định thuê tài chính: là những tài sản mà DN thuê của Cty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Mọi hợp đồng thuê tài sản cố định nếu không thoả mãn các quy định về thuê tài chính đều là tài sản cố định thuê hoạt động. - Đầu tư tài chính dài hạn: Đầu tư tài chính là tiền vốn của doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh ở bên ngoài hoạt động của doanh nghiệp mục đích hưởng lãi hoặc chia sẻ lợi ích với doanh nghiệp khác. Đầu tư tài chính có thể là: cổ phiếu; trái phiếu các loại; vốn góp liên doanh; tài sản, đất đai cho thuê ngoài; tiền vốn cho vay v.v... - Tài sản cố định dở dang: là các TSCĐ hữu hình hoặc vô hình đang trong quá trình hình thành, hiện chưa sử dụng và đ ược xếp vào mục chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Ngoài ra, những khoản ký quỹ, ký cược dài hạn mà doanh nghiệp thực hiện cũng được xếp vào TSCĐ. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 18
  20. Khấu hao tài sản cố định và phương pháp tính (Bộ phận tư vấn và phân tích CTCK Hà Nội – HSSC) Khấu hao là một thuật ngữ sử dụng tron g kế toán mô tả phương pháp phân bổ chi phí của tài sản cố định trong suốt tời gian sử dụng của nó tương đương với mức hao mòn thông thường. Khấu hao thường áp dụng với các loại tài sản có thời gian sử dụng cố định, mất dần giá trị trong quá trình sử dụng. Nói cách khác, khấu hao là sự phân bổ dần giá trị tài sản cố định (TSCĐ) vào giá thành sản phẩm nhằm tái sản xuất TSCĐ sau khi hết thời gian sử dụng. Việc khấu hao tài sản có tác động trực tiếp lên các báo cáo tài chính, cụ thể là tới thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khấu hao không phải là khoản chi thực tế bằng tiền, mà chỉ được trích trên sổ sách, nên nói không ảnh hưởng nhiều đến dòng tiền thực tế của doanh nghiệp ngoài việc tác động đến khoản thuế phải nộp. Khấu hao TSCĐ là một yếu tố chi phí trong giá thành sản phẩm của doanh nghiệp nên việc lập kế hoạch khấu hao TSCĐ nằm trong nội dung của công tác lập kế hoạch tài chính của doanh nghiệp và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp. Phương pháp tính khấu hao TSCĐ: Phương pháp khấu hao tuyến tính cố định Phương pháp này còn được gọi là khấu hao đường thẳng, theo đó, mức khấu hao cơ bản hàng năm là đều nhau trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ và được xác định bằng nguyên giá TSCĐ chia cho thời gian sử dụng (thời gian doanh nghiệp dự kiến sử dụng TSCĐ). Phương pháp khấu hao này có ưu điểm là việc tính toán đơn giản, tổng mức khấu hao của TSCĐ được phân bổ đều đặn trong các năm sử dụng và không gây ra sự đột biến trong giá thành sản phẩm hàng năm. Nhưng phương pháp này có nhược điểm là trong nhiều trường hợp không thu hồi vốn kịp thời do không tính hết được sự hao mòn vô hình của TSCĐ (sự giản thuần túy về mặt giá trị của TSCĐ mà nguyên nhân chủ yếu là do sự tiến bộ của khoa học và công nghệ). Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2