BÀN VỀ GIẢNG DẠY VẤN ĐỀ GIAO LƯU VĂN HOÁ<br />
VIỆT NAM –NHẬT BẢN TRONG CHƯƠNG TRÌNH LỊCH SỬ<br />
VIỆT NAM CẬN ĐẠI TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN THẾ KỶ XX<br />
<br />
NGUYỄN ĐỨC HOÀ(*),<br />
NGUYỄN VÕ NGỌC TRÂM(**)<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Vào thế kỉ XVI, những thương nhân Nhật đã đến Việt Nam lập nên khu vực buôn bán và<br />
sự thịnh vượng cho Hội An. Điều này đã thúc đẩy các hoạt động trao đổi văn hóa và<br />
thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong nhiều thế kỉ và đến cả ngày nay. Phong trào<br />
Đông Du là phong trào đấu tranh chính trị do Phan Bội Châu khởi xướng đầu thế kỉ XX,<br />
khuyến khích thanh niên Việt Nam sang du học Nhật Bản với hi vọng mở ra con đường<br />
cứu nước mới cho dân tộc. Điều này đã đánh dấu sự trao đổi giáo dục đầy ý nghĩa giữa<br />
hai nước. Để dạy tốt phần này trong Lịch sử Cận đại Việt Nam, giảng viên có thể sử<br />
dụng các kĩ thuật, nhiều loại hình học tập để trợ giúp sinh viên nắm thông tin và khắc sâu<br />
hiểu biết. Sinh viên làm việc theo nhóm thảo luận một số vấn đề liên quan đến việc trao<br />
đổi văn hóa giáo dục giữa hai nước.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
<br />
Japanese traders came to Vietnam during the early 16th century and laid the foundation<br />
of a commercial area and prosperty of Hoian (Faifo). This improved the commercial and<br />
cultural exchange activities between Vietnam and Japan for some centries and present<br />
day. Đong Du (Vietnamese for Eastern study) was a Vietnamese political movement<br />
founded by Phan Boi Chau at the start of the 20th century that encouraged young<br />
Vietnamese to go to Japan to study, in the hope of opening a new road of saving the<br />
nation. This marked significiant educational exchanges between two countries. In order<br />
to teach well this section in modern history of Vietnam, teachers can use various<br />
learning styles and techniques to help students retain information and strengthen their<br />
understanding. Students work in groups to discuss issues relating to cultural and<br />
educational exchanges between two countries.<br />
<br />
Trường Đại học Sài Gòn được thành lập theo Quyết định số 478/QĐ-TTT ngày<br />
25/04/2007 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng(***), Trường có rất nhiều thay đổi, trong đó<br />
có công tác đào tạo. Việc giảng dạy bộ môn Lịch sử ở Trường Đại học Sài Gòn chắc chắn<br />
phải đổi mới, để phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới theo đào tạo học chế tín chỉ. Bài<br />
viết của chúng tôi đề cập đến việc giảng dạy nội dung giao lưu văn hoá, giáo dục Việt<br />
Nam - Nhật Bản cuối thế kỉ XVII đến thế kỉ XX. Trong bài chúng tôi cũng có bàn thêm<br />
đến phương pháp giảng dạy lấy người học (sinh viên) làm trung tâm và phương pháp dạy<br />
học nêu vấn đề.<br />
<br />
<br />
<br />
(*)<br />
TS.GVC, Trường Đại học Sài Gòn<br />
( )<br />
**Trường Đại học Sài Gòn<br />
( )<br />
*** Giới thiệu Đại học Sài Gòn www.sgu.edu.vn<br />
1. VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY PHẦN “QUAN HỆ GIAO LƯU<br />
VĂN HOÁ GIÁO DỤC GIỮA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN TRONG LỊCH SỬ CẬN<br />
ĐẠI”<br />
Trong nội dung chương trình lịch sử thế giới cổ trung đại, phần viết về giao lưu văn hoá<br />
giáo dục giữa Việt Nam và Nhật Bản không nhiều. Đó là điều dễ hiểu, bởi nội dung giảng<br />
dạy chỉ nhấn mạnh chủ yếu vào quan hệ chính trị khá đặc biệt giữa Nhật Bản và các chúa<br />
Nguyễn ở Đàng Trong. Trong chương trình lịch sử Việt Nam cận đại, nếu biết chú ý<br />
đúng mức, các giảng viên có thể giảng dạy vấn đề này rất sinh động, tạo sự quan tâm và<br />
hứng thú cho sinh viên. Giảng viên có thể nêu câu hỏi xuyên suốt bài giảng, gợi sự chú ý<br />
hướng tư duy của sinh viên chẳng hạn “Đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam vào thế kỉ<br />
XVII trong quan hệ giao thương kinh tế, văn hoá với Nhật Bản là gì?” “Phong trào Đông<br />
du tại sao lại diễn ra vào đầu thế kỉ XX tại Việt Nam, nó có vị trí, vai trò như thế nào<br />
trong lịch sử Việt Nam cận đại” ? Giảng viên bằng nhiều phương pháp khác nhau (không<br />
cần thuyết trình nhiều, chỉ cần thông qua kênh hình và tài liệu hướng dẫn các em lấy từ<br />
internet, thư viện…), có thể cung cấp khá nhiều nội dung thông tin liên quan đến mảng<br />
lịch sử đầy biến động, nhưng lí thú trong quan hệ hai nước trên lĩnh vực văn hoá, giáo<br />
dục.<br />
Việt Nam và Nhật Bản là hai nước đều nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,<br />
có những điểm tương đồng về mặt lịch sử, địa lí và văn hoá. Từ rất sớm, Việt Nam và<br />
Nhật Bản đã có những mối quan hệ kinh tế, thương mại và văn hoá. Đầu thế kỉ XVI đã<br />
diễn ra các cuộc tiếp xúc, buôn bán giữa Việt Nam và Nhật Bản, nhưng người Nhật đến<br />
Việt Nam thường xuyên hơn phải kể từ giữa thế kỉ XVI đến giữa thế kỉ XVII. Ở Việt<br />
Nam, nơi người Nhật đến đông nhất và đóng vai trò quan trọng trong việc buôn bán là<br />
Phố Hiến (ở Đàng Ngoài), Đà Nẵng (Tourane) và Hội An (Faifo) ở Đàng Trong, trong số<br />
đó họ có một số người đã định cư ở Việt Nam. Tư liệu thành văn của Việt Nam và Nhật<br />
Bản đã khẳng định từ năm 1685 đã có nhiều thương nhân và tàu buôn Nhật Bản đến buôn<br />
bán ở Việt Nam, mở đầu là ở Cửa Việt, Quảng Trị (1).<br />
Ngoài ra, những ghi chép về mối bang giao Việt Nam - Nhật Bản còn được lưu trữ qua<br />
các văn kiện ngoại giao - những bức thư trao đổi giữa chính quyền vua Lê-chúa Trịnh,<br />
chúa Nguyễn với Mạc Phủ, với các quan chức, thương nhân Nhật Bản - cho thấy mối<br />
quan hệ tốt đẹp giữa hai nước đã được xác lập từ rất sớm (2). Ngày nay ở Hội An vẫn còn<br />
có di tích khu phố cổ của người Nhật - một bằng chứng lịch sử sống động cho mối quan<br />
hệ lâu đời giữa Việt Nam và Nhật Bản.<br />
Những văn thư của chúa Nguyễn gửi cho Mạc phủ Tokưgaoa cách đây 400 năm được cẩn<br />
thận chép thành An Nam Quốc thư và xếp thành 4 tập có con dấu Châu Ấn Trạng của<br />
dòng họ Tokưgaoa cho thấy Việt Nam - Nhật Bản đã sớm có mối bang giao hữu nghị, tốt<br />
đẹp. Vào thời điểm đó, Hội An là thương cảng mở rộng cửa giao thương với nhiều nước<br />
trong khu vực, trong đó có Nhật Bản. Mối quan hệ ngoại thương thuận lợi đã tạo điều<br />
kiện cho sự giao lưu văn hoá giữa hai dân tộc Việt - Nhật. Bức tranh Giao Chỉ mậu dịch<br />
độ hải đồ của thương nhân Jaia Sinrôcu (đã được gia tộc ông cẩn trọng giữ gìn suốt từ thế<br />
kỉ XVII cho đến nay) cho thấy vào thời gian này việc buôn bán giữa nước ta và Nhật Bản<br />
trở nên phổ biến qua các cửa khẩu Hội An và Phố Hiến. Ở Nagasaki, người ta thấy những<br />
ngôi nhà có kiến trúc khá giống với những ngôi nhà ở Hội An, chứng tỏ khi đến đây làm<br />
ăn, buôn bán và sinh sống lâu dài, thương nhân Nhật Bản đã xây dựng nhà cửa có kiến<br />
trúc tương tự như những ngôi nhà ở quê hương của họ. Dãy phố đường Trần Phú (Hội<br />
An) hiện nay chính là dãy phố được vẽ trong bức tranh trên. Sự giao lưu văn hoá giữa<br />
Việt Nam và Nhật Bản là một sự kiện có thực, xảy ra cách đây mấy thế kỷ mà Chùa Cầu<br />
là một chứng tích. Chùa Cầu (Hội An) được xây dựng với lối kiến trúc như những cây<br />
cầu ở Nhật Bản thời bấy giờ. Những người con xa xứ Phù Tang cũng phần nào nguôi<br />
ngoai nỗi nhớ quê hương, khi đi trên chiếc cầu kiểu nước mình giữa nơi xa xôi. Một minh<br />
chứng nữa cho thấy mối quan hệ gắn bó giữa Việt Nam-Nhật Bản chính là bia đá Phổ Đà<br />
Sơn Linh Trung Phật được đặt trong động Hoa Nghiên ở Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng). Qua<br />
400 năm, thời gian đã làm bia đá mòn đi, song những dòng chữ khắc trên bia cho người<br />
ta biết một số người Nhật đã kết hôn với phụ nữ Việt Nam. Sinh kí tử quy - thể hiện quan<br />
điểm sống gửi thác về của người phương Đông. Thế nhưng, trong những năm tàn cuộc<br />
buôn bán, những khu phố của người Nhật bị phá huỷ ở Phnôm Pênh, Manila, người Nhật<br />
bị tàn sát ở Ayuthai, nhưng những ngôi mộ của họ trên đất Việt vẫn ấm tình nhang khói,<br />
không khác gì bài vị đồng bào họ ở Nagasaki. Điều đó cho thấy con người Việt Nam vẫn<br />
giữ tình cảm nhân ái, thủy chung dành cho bạn bè các nước khác, đặc biệt là người Nhật<br />
một thời đã sống ở đây và đã có đóng góp nhất định cho sự phồn thịnh của cảng thị Hội<br />
An. Người ta đã tìm thấy những mảnh gốm sứ Việt Nam ở Nagasaki, minh chứng của<br />
việc giao lưu sản vật, văn hoá vào thời gian hai quốc gia có điều kiện giao thoa, buôn<br />
bán, tiếp cận nhau. Bảo tàng trưng bày hiện vật gốm sứ Việt Nam khai quật được ở thành<br />
phố Fukuoka từ thế kỉ XIV, XV chứng tỏ Việt Nam và Nhật Bản có có mối giao lưu từ<br />
trước khi thương nhân đến Hội An lập nghiệp. Vào khoảng thế kỉ XVI-XVII, ở Việt Nam<br />
là thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến xảy ra<br />
liên miên. Do để có tiền trang trải cho chiến tranh, chúa Trịnh, chúa Nguyễn buộc phải<br />
giao thương với các thương nhân ngoài nước, mặc dù ngoại thương vốn được xem là trái<br />
với đạo lí Khổng - Mạnh và trước đây bị xem thường. Chính vì thế, việc xem trọng ngoại<br />
thương là một đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam vào thế kỉ XVII. Mối quan hệ tốt<br />
đẹp giữa các chúa Nguyễn với các thương nhân Nhật Bản tạo điều kiện thuận lợi cho<br />
công việc làm ăn, buôn bán của họ, cũng như mối quan hệ thân tình giữa hai dân tộc.<br />
Chúa Nguyễn đã tặng bức tranh Thác Kiến Quan Âm cho Jaia, nó được giữ như một báu<br />
vật tại chùa Jômiô Jômiôji. Di bút của dòng họ Tôkưgawa cho biết rằng trong bộ sưu tập<br />
của dòng họ này có hai báu vật: Thứ nhất là chén uống trà An Nam Hậu bằng sứ tráng<br />
men xanh và thứ hai là chân cắm đèn cũng bằng sứ tráng men xanh. Qua những sản phẩm<br />
đến từ đất này, hai dân tộc Việt - Nhật đã có cơ hội giao thoa, tiếp xúc tương hỗ trong<br />
sinh hoạt và quan niệm sống với nhau. Vào thế kỉ XVII, chỉ Samurai và những thương<br />
nhân giàu có mới có tiền uống trà và họ rất quý chén trà Việt Nam - như theo lời nghệ<br />
nhân Nakarata thuộc hậu duệ đời thứ 13 của lò gốm Nakajatô của thành phố Karatsu.<br />
Gốm ở đảo Okinawa chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi kiểu chén Việt Nam, nhưng đế chén<br />
ngắn hơn một chút dùng ăn cơm. Chén uống trà gọi là An Nam Trà có kiểu dáng mạnh<br />
mẽ, dứt khoát. Do chiến tranh tàn phá, những hiện vật bằng gốm được lưu giữ ở Việt<br />
Nam không nhiều, vì thế những sản phẩm của Việt Nam do người Nhật lưu giữ là rất quý<br />
giá, nó cho thấy sự giao lưu và ảnh hưởng mạnh mẽ của gốm sứ Việt Nam đến sự phát<br />
triển của cường quốc gốm sứ Nhật Bản như thế nào.<br />
Bên cạnh những sản phẩm đến từ đất Việt, mối giao hảo giữa Việt Nam và Nhật Bản còn<br />
được tô điểm bởi cuộc hôn nhân giữa con gái của chúa Nguyễn và một thương nhân<br />
người Nhật. Vào thế kỉ XVII, một thương nhân người Nhật là Araki Sôtarô cưới được<br />
một cô công chúa Việt Nam sống ở Hội An tên là Ngọc Hoa. Chàng rước nàng về<br />
Nagasaki. Đây là một điềm lành trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, bởi công chúa là<br />
tượng trưng cho tuổi thanh xuân, cho tinh hoa của dân tộc Việt, do sức mạnh của trái tim<br />
và do tình thân hữu giữa hai dân tộc, đã bỏ xứ tòng phu. Nhân sự kiện này, một đám rước<br />
lớn đã được tổ chức ở Nagasaki để đón công chúa Ngọc Hoa. Lễ rước này ngày nay đã<br />
trở thành một nghi lễ văn hoá truyền thống thứ nhất và quan trọng nhất ở Nagasaki. Ngày<br />
nay, cứ 7 năm một lần người Nhật lại tổ chức một đám rước lớn ở thành phố Nagasaki để<br />
kỉ niệm sự kiện trọng đại này. Ở Nhật, câu chuyện này thật sự trở thành huyền thoại và<br />
được tái tạo qua các truyện tranh dành cho trẻ em 5, 6 tuổi. Còn ở Việt Nam, mối tình thơ<br />
mộng xa xưa cũng được chuyển thành kịch hát truyền thống và được dàn dựng công phu,<br />
thực sự gây xúc động cho người xem. Araki Sôtarô là một nhân vật có thật, tại văn khố<br />
bảo tàng Nhật còn lưu giữ giấy phép xuất cảng do chính quyền Tôkưgawa cấp cho ông.<br />
Ngày 22 tháng 4 năm Hoàng Định thứ 20, tức là năm 1619, chúa Nguyễn đã viết thư cho<br />
Sôtarô, người được chúa Nguyễn ban quốc tính là Nguyễn Sôtarô, tức Nguyễn Đại<br />
Lương. Công chúa Ngọc Hoa mang tên Nhật là Anhiu, theo chồng về Nhật năm 1619.<br />
Năm 1636 khi chồng mất, bà quy y ở chùa Đại An và còn sống cho đến năm 1645. Hiện<br />
nay, gia phả dòng họ Sôtarô vẫn còn giữ ghi chép câu chuyện về cuộc hải trình của<br />
Satôra và cuộc hôn nhân này. Theo lời ông Araki Sadao (hậu duệ đời thứ 16 của dòng họ<br />
Araki Satarô) cho biết rằng ông tổ của dòng họ này đã từng kết hôn với một công chúa<br />
Việt Nam (3). Những sự kiện trên chứng tỏ Việt Nam và Nhật bản đã có mối giao lưu<br />
văn hoá từ rất lâu, nó vẫn tiếp tục phát triển dù trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch<br />
sử. Quan hệ giao lưu kinh tế và văn hoá giữa hai nước bị gián đoạn một thời gian do<br />
chính sách “đóng cửa” của Mạc Phủ Tokugawa từ năm 1637 đến giữa thế kỉ XIX. Đến<br />
thời Minh Trị Thiên Hoàng việc bang giao hai nước mới được nối lại, và phong trào<br />
Đông du - sang Nhật cầu học của nhiều thanh niên yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX là<br />
mốc son đáng nhớ trong sự giao lưu văn hoá, giáo dục Việt Nam – Nhật Bản cận đại.<br />
Phong trào Đông Du, với sự giúp đỡ ở mức độ nhất định của Chính phủ Nhật và một số<br />
chính khách đương thời đã đào tạo được nhiều thanh niên yêu nước, có nhiệt huyết được<br />
tiếp cận và học hỏi những tư tưởng dân chủ, tiến bộ. Phong trào Đông Du những năm đầu<br />
thế kỉ 20 đã đặt một cột mốc lịch sử quan trọng cho mối quan hệ, cho tình hữu nghị Việt-<br />
Nhật rất đáng trân trọng trong lịch sử cận đại hai nước trong một khu vực văn hoá chung<br />
(4). Phong trào Đông Du là hoạt động yêu nước đầu tiên chống chủ nghĩa thực dân được<br />
dựa trên nền tảng duy tân, đổi mới, đề cao việc giao lưu học tập tiến bộ. Giáo sư Đinh<br />
Xuân Lâm cho rằng phong trào Đông Du xuất dương cầu học là hành động có tính chất<br />
đột phá, mở cửa hướng ra ngoài để học hỏi, tiếp nhận những cái mới cho phong trào giải<br />
phóng dân tộc Việt Nam (5). Đây có lẽ là bước mở đầu cho phong trào thanh niên Việt<br />
Nam sang Nhật Bản du học để tiếp thu những kiến thức khoa học kĩ thuật sau này chăng?<br />
Giảng dạy phần lịch sử này giảng viên nên hết sức chú trọng vào việc cho sinh viên hoạt<br />
động thảo luận theo tổ nhóm. Bởi lẽ, trong hoạt động dạy học lấy sinh viên làm trung<br />
tâm, người ta coi trọng việc tổ chức cho sinh viên hoạt động độc lập hoặc theo tổ, nhóm<br />
để trao đổi, thảo luận (6). Giảng viên nên cho sinh viên thảo luận về 2 vấn đề nêu ra ở<br />
đầu bài. Giáo án đựơc thiết kế theo kiểu phân nhánh. Những dự kiến của giảng viên phải<br />
tập trung chủ yếu vào các hoạt động đó, cùng với những khả năng diễn biến các hoạt<br />
động của sinh viên và cách tổ chức các hoạt động đó, để khi lên lớp có thể giảng viên linh<br />
hoạt điều chỉnh theo diễn biến của tiết học. Giảng viên gợi ra cho sinh viên nắm bắt vấn<br />
đề: sang thế kỷ 20, quan hệ giao lưu Việt Nhật được tiếp nối trở lại nhưng đối lập về<br />
chính trị. Đó là thời kỳ nước Nhật đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa và Việt Nam<br />
là một nước nửa phong kiến nửa thực dân. Tuy nhiên quan hệ giữa nhân dân hai nước<br />
vẫn tiếp tục phát triển vì trong lịch sử đã có mối quan hệ tốt đẹp từ lâu. Thông qua các<br />
hoạt động đó, sinh viên vừa tự lực nắm các tri thức, kĩ năng mới, đồng thời lại được rèn<br />
luyện về phương pháp tự học, khả năng khái quát và diễn đạt vấn đề. Giảng viên đóng vai<br />
trò tổ chức, quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và kiến thức của từng cá nhân và tập thể<br />
sinh viên để xây dựng bài học. Giờ học được thực hiện phân hoá theo trình độ và năng<br />
lực của sinh viên, chắc chắn vấn đề giao lưu văn hoá giáo dục Việt Nam –Nhật Bản qua 3<br />
thế kỉ sẽ gợi cho sinh viên biết bao điều lí thú.<br />
2. KẾT LUẬN<br />
Trong lịch sử, Việt Nam và Nhật Bản vốn có mối quan hệ giao lưu truyền thống về kinh<br />
tế, văn hoá. Nghiên cứu mối quan hệ giao lưu, hợp tác về văn hoá, giáo dục giữa Việt<br />
Nam và Nhật Bản là một điều cần thiết, đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều giới<br />
khoa học Việt Nam, Nhật Bản và quốc tế. Vào thế kỉ XVI, những thương nhân Nhật đã<br />
đến Việt Nam lập nên khu vực buôn bán và sự thịnh vượng cho Hội An. Điều này đã thúc<br />
đẩy các hoạt động trao đổi văn hoá và thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong nhiều thế<br />
kỉ và đến cả ngày nay. Phong trào Đông Du là phong trào đấu tranh chính trị do Phan Bội<br />
Châu khởi xướng đầu thế kỉ XX, khuyến khích thanh niên Việt Nam sang du học Nhật<br />
Bản với hi vọng mở ra con đường cứu nước mới cho dân tộc. Điều này đã đánh dấu sự<br />
trao đổi giáo dục đầy ý nghĩa giữa hai nước. Để dạy tốt phần này trong Lịch sử Cận đại<br />
Việt Nam, giảng viên có thể sử dụng các kĩ thuật, nhiều loại hình học tập để trợ giúp sinh<br />
viên nắm thông tin và khắc sâu hiểu biết. Sinh viên làm việc theo nhóm thảo luận một số<br />
vấn đề liên quan đến việc trao đổi văn hoá giáo dục giữa hai nước.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
1. Chương trình Du lịch và Đời sống, HTV 4, tháng 7-2007.<br />
2. Lê Thị Đào (1998), Quan hệ Việt Nam –Nhật Bản 1975-1995, Luận văn thạc sĩ Lịch<br />
sử, Thành phố HCM, tr16 .<br />
3. Trần Bá Hoành (2003), “Dạy học lấy người học làm trung tâm”, Tạp chí Khoa học<br />
Giáo Dục số 96, tr.5.<br />
4. Đinh Xuân Lâm (2005), “Phong trào Đông du (1905-1909) ý nghĩa và vị trí trong lịch<br />
sử dân tộc”, (Phong trào Đông du và Phan Bội Châu, trang 14). Nhà xuất bản Nghệ<br />
An và Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.<br />
5. Phan Ngọc Liên (1995), Lịch sử Nhật Bản, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội,<br />
tr. 205.<br />
6. Thời báo kinh tế Việt Nam, số 20 (từ 14 đến 20 tháng 10 năm 1993), tr. 53.<br />