intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên

Chia sẻ: ViBoruto2711 ViBoruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

104
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết dựa trên ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên để tìm ra các mô hình biến đổi ngữ âm trong tiếng Việt như: 1. *[Puɑ-]→[Fɑ-]; 2. *[uɑ-]→*[uo-]→[o-]; 3. *[ɑ-]→[ɯɤ-]; 4. *[Puɑ-]→*[Fɑ-] →[Fɯɤ-]; 5. *[Huɑ-]→*[uɑ-]→*[vɑ-]→[vɯɤ-]; 6. *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-]; 7. *[uɑ-]→[uie-]. Kết quả nghiên cứu của bài viết có thể được sử dụng để giải thích hiện tượng một số từ có hai cách đọc, tìm và giải thích một số từ đồng nguyên và phục nguyên một số âm đọc cổ của tiếng Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bàn về một số mô hình biến đổi ngữ âm trong tiếng Việt trên cơ sở ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên

v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> BÀN VỀ MỘT SỐ MÔ HÌNH BIẾN ĐỔI NGỮ ÂM<br /> TRONG TIẾNG VIỆT TRÊN CƠ SỞ NGỮ LIỆU ÂM<br /> HÁN VIỆT CỦA VẬN NGUYÊN<br /> NGUYỄN ĐÌNH HIỀN *<br /> Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội,  hienac@yahoo.com<br /> *<br /> <br /> Ngày nhận bài: 05/7/2018; ngày sửa chữa: 26/7/2018; ngày duyệt đăng: 20/8/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Bài viết dựa trên ngữ liệu âm Hán Việt của vận nguyên để tìm ra các mô hình biến đổi ngữ âm<br /> trong tiếng Việt như: 1. *[Puɑ-]→[Fɑ-]; 2. *[uɑ-]→*[uo-]→[o-]; 3. *[ɑ-]→[ɯɤ-]; 4. *[Puɑ-]→*[Fɑ-]<br /> →[Fɯɤ-]; 5. *[Huɑ-]→*[uɑ-]→*[vɑ-]→[vɯɤ-]; 6. *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-]; 7. *[uɑ-]→[uie-]. Kết quả<br /> nghiên cứu của bài viết có thể được sử dụng để giải thích hiện tượng một số từ có hai cách đọc, tìm và<br /> giải thích một số từ đồng nguyên và phục nguyên một số âm đọc cổ của tiếng Việt.<br /> Từ khóa: âm Hán Việt, thanh mẫu, vận mẫu, âm chính, âm đệm, âm cuối<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng các tư<br /> liệu ngôn ngữ nói và tư liệu ngôn ngữ viết của<br /> “Ngôn ngữ là hệ thống những âm, những từ tiếng Việt, để bàn về một số mô hình biến đổi ngữ<br /> và những quy tắc kết hợp chúng, làm phương tiện âm của vận nguyên. Bài viết sử dụng tổng hợp các<br /> để giao tiếp chung trong một cộng đồng” (Từ điển phương pháp nghiên cứu của các ngành ngôn ngữ<br /> Tiếng Việt, Hoàng Phê, 2015, tr.1084). Với tư cách học xã hội, ngôn ngữ học lịch sử, ngữ âm học thực<br /> là phương tiện giao tiếp của con người nên ngôn nghiệm, Hán Nôm học, phương ngôn học,…<br /> ngữ không nằm ngoài quy luật vận động và phát<br /> Do ngữ liệu của vận dương và vận nghiêm<br /> triển, bởi theo Ăngghen (1994, tr.519) “Vận động tương đối ít nên rất khó để tìm ra quy luật biến<br /> hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự đổi ngữ âm của 2 vận này. Song, vận dương và<br /> thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ vận nghiêm có nguyên âm chính giống như vận<br /> sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”. Sự biến nguyên. Theo lý thuyết của loại hình học, ngữ âm<br /> đổi của ngôn ngữ bao gồm sự biến đổi của ngữ âm, biến đổi luôn theo những quy luật nhất định và<br /> ngữ pháp, từ vựng và thậm chí cả văn tự. Ngữ âm diễn ra đồng loạt chứ không riêng lẻ. Vì vậy sau<br /> là vỏ âm thanh của ngôn ngữ, vì vậy nhắc đến sự khi tìm ra những mô hình biến đổi ngữ âm của vận<br /> biến đổi của ngôn ngữ, người ta thường nghĩ ngay nguyên, chúng tôi dựa vào kết quả nghiên cứu này<br /> đến sự biến đổi của ngữ âm. kết hợp với những ngữ liệu của vận dương và vận<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 18 Số 15 - 9/2018<br /> LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br /> <br /> <br /> <br /> nghiêm để bàn về những mô hình biến đổi ngữ âm ở các thời kỳ, mặc dù bằng nhiều phương pháp<br /> của chúng. khác nhau và sử dụng nhiều tư liệu (tư liệu dịch<br /> đối âm, vận thư, vận đồ, phương ngôn, ngôn ngữ<br /> 2. CÁCH ĐỌC CỦA VẬN NGUYÊN Ở ĐỊA thân tộc,… ), song kết quả phục nguyên của họ<br /> HẠT TIẾNG HÁN CỔ cũng không phải hoàn toàn giống nhau. Bảng 1<br /> Âm Hán Việt là cách đọc chữ Hán của người dưới đây là kết quả phục nguyên âm đọc tiếng Hán<br /> Việt, cách đọc này bắt nguồn từ cách đọc của tiếng trung cổ vận nguyên của một số học giả (theo Phan<br /> Hán cổ. Vì vậy, để làm sáng tỏ những biến đổi Ngộ Vân, 2000, tr.83-88).<br /> ngữ âm của vận nguyên trong tiếng Việt, trước tiên<br /> Kết quả phục nguyên của các học giả không<br /> chúng ta cần phải tìm ra âm trị của nó ở tiếng Hán<br /> hoàn toàn giống nhau, sự khác nhau chủ yếu thể<br /> cổ (bao gồm tiếng Hán trung cổ và thượng cổ).<br /> hiện ở âm chính ([ɒ], [ɐ] hoặc [ɑ]) và âm đệm ([i̯ ],<br /> Các nhà Hán ngữ học thường căn cứ vào vận [j], [i], [ĭ], [ɪ] hoặc [ɨ]). Xuất phát từ ngữ liệu âm<br /> thư của các thời kỳ để nghiên cứu lịch sử ngữ âm Hán Việt chúng tôi chấp nhận cách phục nguyên<br /> tiếng Hán. Vận thư thực chất là một loại sách công [iɑn] của Châu Pháp Cao. Như vậy, ở tiếng Hán<br /> cụ được xếp theo vận (韵), phục vụ cho việc tìm trung cổ vận nguyên có âm trị là [iɑn] ở khai khẩu<br /> chữ hiệp vần trong sáng tác thơ ca. Các chữ cùng và [uiɑn] ở hợp khẩu (sở dĩ [uiɑn] mà không phải<br /> một vận có âm chính và âm cuối hoàn toàn giống [iuɑn] là vì chúng tôi theo quan điểm của Nguyễn<br /> nhau, chúng có thể khác nhau về âm đệm hoặc Đình Hiền, 2011).<br /> thanh mẫu.<br /> Pulleyblank là người đầu tiên đưa ra quan điểm<br /> Vận nguyên (元韵) là một vận tam đẳng có cả cho rằng tam đẳng vốn không có âm đệm, sau này<br /> khai khẩu và hợp khẩu (âm trị hợp khẩu có thêm Bodman, Trịnh Trương Thượng Phương, Phan<br /> âm đệm [u]), theo nghĩa hẹp chỉ gồm vận nguyên Ngộ Vân đều tiếp nhận và tìm chứng cứ chứng<br /> (元bình thanh), nhưng theo nghĩa rộng nó gồm các minh cho quan điểm này. Phan Ngộ Vân (2000,<br /> vận: nguyên (元bình thanh), nguyễn (阮thượng tr.152) cho rằng, âm đệm tam đẳng sản sinh ra từ<br /> thanh), nguyện (願khứ thanh), nguyệt (月nhập<br /> nguyên âm ngắn của thời thượng cổ: “sau khi phía<br /> thanh). Trong bài viết này chúng tôi sử dụng thuật<br /> sau âm đầu của những chữ tam đẳng sản sinh ra<br /> ngữ vận nguyên theo nghĩa rộng.<br /> âm quá độ dạng ɯ, chúng phát triển rất nhanh về<br /> Do các vận thư đều được viết bằng chữ Hán, mà phía trước: CɯV>CɨV>CiV, sau đó biến thành âm<br /> chữ Hán không phải là loại chữ phiên âm, tác dụng đệm ngạc tam đẳng”. Nếu giả thiết này là đúng thì<br /> biểu thị âm đọc của chữ Hán rất hạn chế, chính ở tiếng Hán thượng cổ vận nguyên có âm trị là [ɑ̆n]<br /> vì vậy, việc phân tích các vận thư chỉ cho chúng ở khai khẩu và [uɑ̆n] ở hợp khẩu. Căn cứ vào âm<br /> ta biết được những loại cách đọc của các vận mà Hán Việt chúng tôi cho rằng ở tiếng Hán thượng cổ<br /> không biết được chính xác âm trị của chúng. Các vận nguyên có âm trị là [ɑn] ở khai khẩu và [uɑn]<br /> nhà Hán ngữ học khi phục nguyên lại tiếng Hán ở hợp khẩu.<br /> <br /> Bảng 1: Phục nguyên âm đọc tiếng Hán trung cổ vận nguyên<br /> <br /> Đỗng Châu<br /> Lý Vương Lục Trí Trịnh Trương<br /> Karlgren Đồng Pulleyblank Pháp<br /> Vinh Lực Vĩ Thượng Phương<br /> Hòa Cao<br /> [i̯ ɒn] [jɐn] [iɐn] [ĭɐn] [ɪɐn] [i̯ ɑn] [iɑn] [ɨɐn]<br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 19<br /> v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br /> <br /> <br /> 3. ÂM HÁN VIỆT TRUNG CỔ CỦA VẬN Vận nguyên khai khẩu chủ yếu đọc là [ie-]<br /> NGUYÊN (vận nguyên có âm cuối là [n] ở dương thanh vận<br /> và [t] ở nhập thanh vận, để tiện trình bày chúng tôi<br /> Chúng tôi dựa vào Từ điển Việt Hán do Hà<br /> Thành chủ biên để tìm ra âm Hán Việt của vận không viết âm cuối nữa), ngoài ra có 2 ngoại lệ đọc<br /> nguyên. Âm Hán Việt trung cổ của vận nguyên có là [ɑ-] và một ngoại lệ đọc là [o-]. Hợp khẩu phức<br /> những cách đọc sau: tạp hơn, có tất cả 6 cách đọc: 1. [ɑ-], chủ yếu thuộc<br /> thần âm; 2. [uɑ-], 4 ngoại lệ thuộc nhóm nha âm và<br /> Bảng 2: Cách đọc của âm Hán Việt trung cổ<br /> của vận nguyên hầu âm; 3. [ie-], chủ yếu thuộc thần âm và thanh<br /> mẫu dụ tam; 4. [uie-], cách đọc chính của nhóm<br /> 建kiến, 健鍵kiện, 獻hiến, nha âm và hầu âm; 5. [on], chỉ có 1 ngoại lệ là “繁<br /> [ien]<br /> 蔫yên, 郾yến, 偃鼴堰yển phồn”; 6. [uɤ̆n], chỉ có một ngoại lệ là “掘quật”.<br /> Vận<br /> nguyên Ngoài những cách đọc trên đây, vận nguyên<br /> [iet]<br /> khai 謁歇yết khai khẩu còn có một ngoại lệ là “掀hân” và hợp<br /> khẩu ôn[on] 言ngôn khẩu có một ngoại lệ là “鈅thược”. Do ảnh hưởng<br /> at[ɑt] 蠍hạt, 羯hạt/kiệt của thanh phù “欣hân” nên “掀” có cách đọc là<br /> 藩番翻phiên, 煩phiền, 袁 “hân”. Trường hợp “鈅thược” lại khác, “鈅” và<br /> [ien] 園猿viên, 遠viễn, 援viện “鑰” đều có chung dạng giản thể là “钥”, “thược”<br /> là cách đọc của “鑰” chứ không phải của “鈅”. Hai<br /> ngoại lệ này không liên quan đến sự biến đổi ngữ<br /> [iet] 曰viết, 越粵việt, 筏閥phiệt, âm nên chúng tôi không bàn đến.<br /> 襪miệt<br /> 勸圈khuyên, 綣quyển, 喧 4. ÂM HÁN VIỆT THƯỢNG CỔ CỦA<br /> [uien] 暄huyên, 元原源nguyên, VẬN NGUYÊN<br /> <br /> 願nguyện, 阮nguyễn, 鴛 Âm Hán Việt thượng cổ của vận nguyên có các<br /> Vận uyên, 宛菀uyển cách đọc như bảng dưới đây:<br /> nguyên<br /> Bảng 3 (1): Cách đọc âm Hán Việt trung cổ<br /> hợp và thượng cổ một số chữ của vận nguyên<br /> [uiet] 厥quyết, 闕khuyết, 月<br /> khẩu<br /> nguyệt<br /> 反返phản, 饭phạn, 樊phàn, Chữ<br /> [ɑn] Hán<br /> 园 越 猿 幡旙<br /> 販phán, 萬vạn, 娩晚挽vãn<br /> Hán Việt<br /> [ɑt] trung cổ viên việt viên phiên<br /> 伐垡罰phạt, 發髮phát<br /> [uɑn] 冤眢oan, 怨oán, 券khoán<br /> Hán Việt<br /> [on] 繁phồn thượng vườn vượt vượn phướn<br /> [uɤ̆t] 掘quật cổ<br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 20 Số 15 - 9/2018<br /> LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br /> <br /> <br /> <br /> Bảng 3 (2): Cách đọc âm Hán Việt trung cổ và thượng cổ một số chữ của vận nguyên<br /> <br /> Chữ Hán 晚 万 贩 圈 源 烦 发 喧 闕<br /> Hán Việt trung cổ vãn vạn phán khuyên nguyên phiền phát huyên khuyết<br /> Hán Việt thượng cổ muộn muôn buôn khuôn nguồn buồn buột ồn khuất<br /> <br /> Nhìn vào 2 bảng trên, chúng ta thấy âm Hán Việt thượng cổ của vận nguyên chủ yếu có 2 cách đọc là<br /> ươ[ɯɤ-] và uô[uo-], ngoài ra còn có 2 ngoại lệ là “喧 ồn” và “闕khuất”.<br /> <br /> 5. MỘT SỐ MÔ HÌNH BIẾN ĐỔI NGỮ ÂM CỦA VẬN NGUYÊN<br /> <br /> Âm đọc của vận nguyên ở tiếng Hán thượng cổ và ở âm Hán Việt (bao gồm âm Hán Việt trung cổ và<br /> thượng cổ) như bảng sau:<br /> <br /> Bảng 4: Tổng kết cách đọc của vận nguyên<br /> <br /> Tiếng Hán thượng cổ Âm Hán Việt<br /> [ɑ-]/[uɑ-] 1.[ɑ-]/[uɑ-]; 2.[o-]/[uo-]; 3.[ɯɤ-]; 4.[ie-]/[uie-]; 5. [uɤ̆-]<br /> <br /> Đối với cách đọc thứ 5 của âm Hán Việt là [uɤ̆-], chúng ta chỉ có 2 trường hợp là “闕khuất” ở âm Hán<br /> Việt thượng cổ và “掘quật” ở âm Hán Việt trung cổ. “Uât [uɤ̆t]” và “uôt [uot]” chỉ khác nhau về âm chính,<br /> [o] và [ɤ̆] đều là các nguyên âm dòng sau, bán cao, chúng chỉ khác nhau một chút về độ dài ngắn và tính<br /> chất tròn môi hay không tròn môi, song những khác biệt này bị thu hẹp lại bởi chúng đứng sau âm đệm<br /> tròn môi [u] và âm cuối [t]. Mặt khác, trong tiếng Việt hiện đại không có cách viết “khuốt” và “quốt”, vì<br /> vậy chúng tôi coi [uɤ̆-] là biến thể của [uo-].<br /> <br /> 5.1. Âm đọc [ɑ-]/[uɑ-]<br /> <br /> Trường hợp này, vận nguyên ở tiếng Hán thượng cổ và ở âm Hán Việt đều đọc là [ɑ-]/[uɑ-]. Mới nhìn<br /> qua chúng ta không thấy sự biến đổi ngữ âm nào, nói cách khác các cách đọc [ɑ-]/[uɑ-] ở âm Hán Việt<br /> dường như là sự bảo lưu các cách đọc của tiếng Hán thượng cổ. Song nếu đi sâu vào phân tích, thì quan<br /> điểm trên đây chỉ đúng với các cách đọc có thanh mẫu không phải là nhóm thần âm, đó là các trường hợp<br /> “蠍hạt, 羯hạt/ kiệt” ở khai khẩu và “冤眢oan, 怨oán, 券khoán” ở hợp khẩu.<br /> <br /> Trong vận thư (cụ thể là Thiết vận, Quảng vận), các chữ thuộc nhóm thần âm có thể dùng để phiên cả<br /> các chữ khai khẩu và hợp khẩu, ngược lại, các chữ khai khẩu và hợp khẩu đều có thể dùng để phiên các<br /> chữ thuộc nhóm thần âm. Điều này làm cho các nhà Hán ngữ học lúng túng trong việc quyết định tính<br /> chất khai khẩu, hợp khẩu của các chữ thuộc nhóm thần âm, cũng vì vậy, đại đa số các học giả cho rằng,<br /> không có sự phân biệt khai khẩu và hợp khẩu ở thần âm. Nguyễn Đình Hiền và Trữ Thái Tông (2012) đã<br /> chứng minh được rằng, hiện tượng lộn xộn trong phiên thiết trên đây là do hầu âm gây ra chứ không liên<br /> quan đến thần âm, ở thần âm vẫn có sự phân biệt giữa khai khẩu và hợp khẩu. Cụ thể ở vận nguyên của<br /> tiếng Hán thượng cổ, thần âm đọc là [uɑ-].<br /> <br /> Nhóm thần âm của âm Hán Việt hiện nay đọc là [ɑ-], ví dụ “反返phản, 饭phạn, 樊phàn, 販phán, 萬<br /> vạn, 娩晚挽vãn, 伐垡罰phạt, 發髮phát”. Như vậy ở đây đã có sự biến đổi ngữ âm từ *[uɑ-]→[ɑ-]. Mặt<br /> khác, các thần âm của tiếng Hán thượng cổ được đọc bằng các âm môi môi ([p], [ph], [b], [m], sau đây<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 21<br /> v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br /> <br /> <br /> viết tắt thành P), trong khi đó âm Hán Việt của chúng thường được đọc bằng các âm môi răng (ph[f], v[v],<br /> sau đây viết tắt thành F). Như vậy quy luật biến đổi ngữ âm ở đây phải là: *[Puɑ-]→[Fɑ-] (mô hình 1).<br /> <br /> 5.2. Âm đọc [o-]/[uo-]<br /> <br /> Âm Hán Việt thượng cổ của vận nguyên có cách đọc là [uo-], ví dụ “晚muộn, 万muôn, 贩buôn, 圈<br /> khuôn, 源nguồn, 烦buồn, 发buột”, ngoài ra còn có “喧ồn”, “繁phồn”.<br /> <br /> [uɑ-] và [uo-] có âm đệm [u] hoàn toàn giống nhau, chúng chỉ khác nhau ở âm chính [ɑ] và [o]. Đây<br /> là hai nguyên âm dòng sau, chúng khác nhau ở độ cao thấp và tính chất tròn môi hay không tròn môi, [o]<br /> là nguyên âm bán cao, tròn môi còn [ɑ] là nguyên âm thấp, không tròn môi. Chính vì là nguyên âm thấp<br /> nên [ɑ] khi phát âm có độ mở của miệng tương đối lớn, hơn nữa [ɑ] đứng sau âm đệm tròn môi [u], điều<br /> này làm cho tính chất không tròn môi của [ɑ] không rõ ràng. Theo Nguyễn Đình Hiền (2014) ở tiếng<br /> Việt xảy ra quá trình biến đổi ngữ âm: ﹡a[ɑ]→﹡o[ɔ]→ô[o] và tương ứng ở hợp khẩu là﹡ua[uɑ] (→<br /> ﹡uo[uɔ])→uô[uo]. Dưới đây chúng tôi chỉ đưa ra một số tư liệu để chứng minh cho sự biến đổi từ [ɑ]<br /> thành [o]:<br /> <br /> 5.2.1. Âm Hán Việt<br /> <br /> Có một số chữ Hán có hai cách đọc Hán Việt [ɑ] và [o], ví dụ: “纳nạp/nộp, 盒hạp/hộp, 含hàm/gồm,<br /> 答đáp/đốp, 南nam/nồm, 谱phả/phổ, 簿bạ/bộ, 墓mả/mộ/mồ, 本bản/bổn, 核hạt/hột”.<br /> <br /> 5.2.2. Tư liệu chữ Nôm<br /> <br /> Trong Quốc âm thi tập và Truyện Kiều có 18 mô hình [o-] ([ɑ-]), bảng dưới đây là một số ví dụ:<br /> <br /> Bảng 5: Một số mô hình [o-] ([ɑ-]) trong chữ Nôm<br /> <br /> Xuất xứ Chữ Nôm Âm đọc Âm Hán Việt<br /> bài 13, chữ 17 庵 ôm am<br /> bài 148, chữ 24 滥 trộm lạm<br /> Quốc âm thi tập<br /> bài 162, chữ 51 納 nộp nạp<br /> bài 148, chữ 24 cốm cảm<br /> dòng 556 揞 ôm ảm<br /> Truyện Kiều<br /> dòng 2355 匣 hộp hạp<br /> <br /> Như vậy, ở vận nguyên đã xảy ra quá trình biến đổi ngữ âm:﹡[uɑ]→[uo]. Rất có thể [uɑ] trước tiên<br /> biến đổi thành [uɔ] rồi mới biến đổi thành [uo].<br /> <br /> Trường hợp “繁phồn” là bước phát triển tiếp theo sau khi [uɑ-] biến đổi thành [uo-], mô hình biến đổi<br /> là: *[Puɑ-]→*[Puo-]→[Fo-]. Còn trường hợp của “喧ồn” là: *[Huɑ-]→*[uɑ-]→*[uo-]→[o-] (H đại diện<br /> cho các âm hầu). Các phụ âm hầu do có cách phát âm gần giống với nguyên âm nên rất dễ bị rụng, [Huɑ-]<br /> biến đổi thành [uɑ-], trên đây chúng tôi đã trình bày [uɑ-] biến đổi thành [uo-], với “喧ồn” đến đây vẫn<br /> chưa dừng lại mà tiếp tục biến đổi thành [o-] do ảnh hưởng của quy luật dị hóa. Như vậy ở vận nguyên<br /> hợp khẩu đã xẩy ra quá trình biến đổi ngữ âm: *[uɑ-]→*[uo-]→[o-] (mô hình 2).<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 22 Số 15 - 9/2018<br /> LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br /> <br /> <br /> <br /> 5.3. Âm đọc [ɯɤ-]<br /> <br /> Các âm đọc [ɯɤ-] của vận nguyên đều là âm Hán Việt thượng cổ, gồm 4 ví dụ là “园vườn, 越vượt, 猿<br /> vượn, 幡旙phướn” (幡và 旙 thực chất là chữ dị thể của nhau nên chỉ tính là 1 ví dụ, sau đây chúng tôi chỉ<br /> viết là 幡). Trong 4 trường hợp này thì 3 trường hợp “园vườn, 越vượt, 猿vượn” thuộc thanh mẫu dụ tam<br /> (喻三), còn “幡phướn” thuộc thần âm (thanh mẫu phu 敷).<br /> <br /> Phần 5.1 trên đây chúng tôi đã trình bày, ở phần âm xảy ra quá trình biến đổi ngữ âm: *[Puɑ-]→[Fɑ-].<br /> Trường hợp của “幡phướn” là sự tiếp tục biến đổi từ [Fɑ-] sang [Fɯɤ-], quá trình này sẽ là: *[Puɑ-]<br /> →*[Fɑ-]→[Fɯɤ-]. Chúng ta phải chứng minh *[Fɑ-]→[Fɯɤ-].<br /> <br /> “园vườn, 越vượt, 猿vượn” đều thuộc thanh mẫu dụ tam (喻三), ở tiếng Hán thượng cổ dụ tam thuộc<br /> hạp (喻三归匣). Ở thanh mẫu hạp của các vận hợp khẩu đã xảy ra quá trình biến đổi ngữ âm: *[Hu-]<br /> →*[u-]→[v-] (thực chất trong tiếng Hán thượng cổ, hạp có âm trị là [ɦ]). Để chứng minh cho quá trình<br /> biến đổi này, chúng ta xem một số ví dụ ở bảng dưới đây:<br /> <br /> Bảng 6: cách đọc âm Hán Việt trung cổ và thượng cổ một số chữ có thanh mẫu hạp<br /> <br /> Chữ Hán 划 祸 镬 完 丸 和 黄<br /> Hán Việt trung cổ hoạch họa hoạch hoàn hoàn hòa hoàng<br /> Hán Việt thượng cổ vạch vạ vạc vẹn viên và vàng<br /> <br /> Thanh mẫu hạp của vận nguyên hợp khẩu cũng không nằm ngoài quy luật biến đổi trên đây. Ở 3<br /> trường hợp “园vườn, 越vượt, 猿vượn” trước tiên xảy ra quá trình biến đổi: *[Huɑ-]→*[uɑ-]→[vɑ-]. Đến<br /> đây vấn đề chúng ta cần phải chứng minh chỉ còn là: *[vɑ-]→[vɯɤ-]. Kết hợp với trường hợp thần âm<br /> “幡phướn”, *[Fɑ-]→[Fɯɤ-], trong phần này chúng ta phải chứng minh: *[ɑ-]→[ɯɤ-].<br /> <br /> Chúng tôi cho rằng, tiếng Việt đã và đang diễn ra quá trình biến đổi ngữ âm từ [ɑ-] sang [ɯɤ-]. Chúng<br /> ta có thể chứng minh điều này dựa trên các tư liệu âm Hán Việt, tư liệu chữ Nôm, tư liệu phương ngôn và<br /> ngôn ngữ thân tộc.<br /> <br /> 5.3.1. Tư liệu âm Hán Việt<br /> <br /> Ngoài các ví dụ “园vườn, 越vượt, 猿vượn, 幡phướn” của vận nguyên ra, âm đọc của vận dương, vận<br /> đường, vận bộ ngư đều có thể chứng minh cho quá trình biến đổi ngữ âm này.<br /> <br /> Âm Hán Việt trung cổ của vận dương khai khẩu đọc là [ɯɤ-], ví dụ: 常thường, 昌xương, 場trường, 仗<br /> trượng, 疆cương, 姜khương. Song, các chữ thuộc trang tổ (庄组) và một số chữ thanh mẫu minh (明母)<br /> và thanh mẫu dĩ (以母) của vận dương hiện nay vẫn có âm Hán Việt trung cổ là [ɑŋ], ví dụ: 庄妝装trang,<br /> 创sáng, 床sàng, 爽sảng, 状trạng, 樣dạng, 奘tráng. Hợp khẩu của vận dương thường đọc là [uo-], song có<br /> một số chữ thuộc dụ tam và thần âm có âm đọc là [ɑŋ] hoặc [ɯɤŋ], ví dụ: 往vãng, 旺vượng, 王vương, 舫<br /> phảng, 鋩硭mang, 方肪phương, 坊phường.<br /> <br /> Âm Hán Việt trung cổ của vận đường (唐韵) chủ yếu đọc là [ɑŋ] (宕đãng, 行杭hàng, 康khang), song<br /> có 21 chữ đọc là [ɯɤŋ] (岡剛鋼綱cương, 唐塘糖堂螳đường, 當鐺đương, 倉蒼滄鶬thương).<br /> <br /> Vận ngư của tiếng Hán trung cổ vốn thuộc vận bộ ngư (鱼部) của tiếng Hán thượng cổ. Các nhà Hán<br /> ngữ học cho rằng những chữ thuộc vận bộ ngư vốn đọc là [ɑ] (hoặc [a]), hiện nay vận ngư của âm Hán<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 23<br /> v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br /> <br /> <br /> Việt thượng cổ có rất nhiều âm đọc là [ɯɤ], ví dụ: dòng<br /> 羕 dường dạng<br /> 许hứa, 许lừa, 序tựa, 贮chứa, 初xưa, 疏thưa, 锯 122<br /> cưa, 距cựa, 除chừa … Như vậy, những cách đọc dòng<br /> thước thác<br /> [ɯɤ] này là do [ɑ] biến đổi thành. 577<br /> dòng 1 người ngại<br /> Truyện<br /> 5.3.2. Tư liệu chữ Nôm<br /> Kiều dòng mướp pháp<br /> 812<br /> Trong Quốc âm thi tập và Truyện Kiều có 15<br /> dòng<br /> mô hình [ɯɤ] ([ɑ]), 14 mô hình [ɯɤi] ([ɑi]), 7 mô mượn man<br /> 1834<br /> hình [ɯɤn] ([ɑn]), 19 mô hình [ɯɤŋ] ([ɑŋ]) và 7 dòng<br /> ướt át<br /> mô hình [ɯɤm] ([ɑm]), dưới đây là một số ví dụ: 2338<br /> <br /> Ngoài ra, trong Quốc âm thi tập và Truyện<br /> Bảng 7: Bảng một số mô hình [ɯɤ] ([ɑ])<br /> Kiều có 17 mô hình [ɑŋ] ([ɯɤŋ]), ví dụ xem trong<br /> trong chữ Nôm<br /> bảng dưới đây:<br /> Chữ Âm Âm<br /> Xuất xứ Bảng 8: Bảng một số mô hình [ɑ-] ([ɯɤ-])<br /> Nôm đọc Hán Việt<br /> bài 10, trong chữ Nôm<br /> 馬 mựa mã<br /> chữ 37<br /> Quốc Chữ Âm Âm<br /> bài 85, Xuất xứ<br /> âm thi 呂 rữa lã Nôm đọc Hán Việt<br /> chữ 34<br /> tập bài 10,<br /> bài 95, 渃 nác nhược<br /> đứa đa chữ 19<br /> chữ 46 Quốc<br /> bài 4,<br /> dòng âm thi tháng thượng<br /> 焒 lửa lã chữ 6<br /> 382 tập<br /> bài 52,<br /> Truyện dòng 强 càng cường<br /> rửa lữ, lã chữ 26<br /> Kiều 1042<br /> dòng<br /> dòng 塘 đàng đường<br /> trưa tra 1098<br /> 2733<br /> dòng 62 娘 nàng nương<br /> Chữ Âm Âm Truyện<br /> Xuất xứ<br /> Nôm đọc Hán Việt Kiều dòng càng cương<br /> 2362<br /> bài 64, dòng<br /> 棖 giường tràng gang cương<br /> chữ 14 285<br /> bài 22,<br /> mươi mại 5.3.3. Tư liệu khác<br /> chữ 7<br /> Quốc<br /> bài 17,<br /> âm thi 灑 tưới sái Trên cơ sở so sánh với các phương ngôn và<br /> chữ 30<br /> tập ngôn ngữ thân tộc, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (1997,<br /> bài 9, tr.180- 183) phát hiện ra rằng [ɯɤ] trong tiếng Việt<br /> 庵 ươm am<br /> chữ 28<br /> hiện đại tương ứng với [ɯɤ] và [a] (chúng tôi viết<br /> bài 56, là [ɑ]) của tiếng Mường và phương ngôn Trung bộ,<br /> 慢 mượn mạn<br /> chữ 13 ví dụ tiếng Việt hiện đại và phương ngôn Trung<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 24 Số 15 - 9/2018<br /> LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br /> <br /> <br /> <br /> bộ: lửa/lả; ngứa/ngá; nướng/náng; nước/nác; lưỡi/ *[Huɑ-]→*[uɑ-]→*[vɑ-]→[vɯɤ-] (mô hình 5)<br /> lại… Nếu đẩy lên giai đoạn Proto Việt Chứt thì<br /> âm [ɯɤ] vẫn chưa xuất hiện, bởi [ɯɤ-] của tiếng 5.4. Âm đọc [ie-]/[uie-]<br /> Việt hiện đại chỉ tương ứng với [a] của Pọng Chứt.<br /> Vận nguyên khai khẩu chủ yếu đọc là [ie-]<br /> Như vậy, trong lịch sử phát triển của mình, ở tiếng<br /> (建kiến, 健kiện, 獻hiến, 蔫yên, 郾yến, 偃鼴堰<br /> Việt đã diễn ra quá trình biến đổi ngữ âm từ [ɑ]<br /> yển, 謁歇yết), vận nguyên hợp khẩu chủ yếu đọc<br /> sang [ɯɤ]. Theo bảng Mường: bảng 48 của giáo sư<br /> là [uie-] (勸圈khuyên, 喧暄huyên, 元原源nguyên,<br /> Nguyễn Tài Cẩn (1997, tr.191), các từ “lưỡi, rượu,<br /> 願nguyện, 阮nguyễn, 鴛uyên, 宛菀uyển, 厥quyết,<br /> ngửa, nước, nướng, sườn” của tiếng Việt thường<br /> 闕khuyết, 月nguyệt). Ngoài ra, thần âm và dụ tam<br /> được đọc là [ɑ] ở các thổ ngữ Mường. Theo bảng của vận nguyên hợp khẩu cũng có nhiều trường hợp<br /> Pọng Chứt: bảng 35 của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đọc là [ie-] (藩翻phiên, 煩phiền, 袁園猿viên, 遠<br /> (1997, tr.195), một số từ đọc là [ɯɤ] của tiếng Việt viễn, 援viện, 曰viết, 越粵việt, 筏閥phiệt, 襪miệt).<br /> như “mưa, rựa, mửa, ngửa, lưỡi, mượn, xương,<br /> nước, trước, sườn, rướm” tương ứng với [ɑ] hoặc Như phần 5.1 đã trình bày, ở thần âm của vận<br /> [ɑ̆] của các ngôn ngữ Pọng Chứt. nguyên xảy ra quá trình biến đổi ngữ âm *[Puɑ-]<br /> →[Fɑ-] (mô hình 1) và phần 5.3 đã trình bày ở<br /> Ngoài ra, một số từ đọc là “ương” của tiếng Việt dụ tam của vận nguyên xảy ra quá trình biến đổi<br /> hiện nay trong Từ điển Việt- Bồ- La của Alexandre *[Huɑ-]→*[uɑ-]→[vɑ-]. Như vậy, các âm đọc<br /> De Rhodes ở thế kỷ thứ 17 viết là “ang”, ví dụ: thuộc thần âm và dụ tam của vận nguyên sau này<br /> đường cát (đàng cát), dưỡng (dảng), yêu đương đã hợp nhất với các âm đọc ở khai khẩu (không có<br /> (yêu đang), kỷ cương (kỉ cang), trường (tlàng). Từ âm đệm [u]).<br /> “tàng” được chú thích là “tốt hơn, tường”, chứng<br /> tỏ rằng từ này có hai cách đọc “tàng, tường”, trong Vấn đề cần giải quyết ở đây là các âm đọc<br /> đó cách đọc “tường” phổ biến hơn “tàng”, trong [ie-] này của vận nguyên (tương ứng là [uie-] ở<br /> tiếng Việt hiện nay chỉ có cách đọc “tường”. Ở hợp khẩu) có nguồn gốc từ đâu? Về vấn đề này có<br /> nhập thanh vận, chúng tôi tìm thấy từ “nác”, từ thể có các khả năng là: 1. [ɑ-] trực tiếp biến đổi<br /> này được chú thích là “Nước, cùng một nghĩa”. thành [ie-]; 2. [ɑ-] biến đổi thành [ɯɤ-], rồi [ɯɤ-]<br /> Như vậy, quá trình biến đổi ngữ âm từ [ɑ] sang biến đổi thành [ie-]; 3. [ɑ-] biến đổi thành một âm<br /> [ɯɤ] kéo dài cho đến thế kỷ 17, thậm chí hiện nay X bất kỳ nào đó, rồi X biến đổi thành [ie-]. Trong 3<br /> vẫn chưa kết thúc. Đến đây chúng ta có thể rút ra giả thiết này, chúng tôi thiên về giả thiết thứ 2 hơn.<br /> kết luận ở tiếng Việt đã xảy ra quá trình biến đổi<br /> Trên đây chúng tôi đã chứng minh ở tiếng Việt<br /> ngữ âm: *[ɑ-]→[ɯɤ-] (mô hình 3).<br /> xảy ra quá trình [ɑ-] biến đổi thành [ɯɤ-] (mô hình<br /> Nguyên âm [ɑ] phân tách thành hai nguyên âm 3), chúng ta chỉ còn phải chứng minh [ɯɤ-] biến<br /> đổi thành [ie-]. Về vấn đề này, tiếng Việt hiện đại<br /> [ɯɤ] là phù hợp với lý thuyết ngữ âm học thực<br /> có lẽ sẽ cho chúng ta gợi ý, xin xem ví dụ trong<br /> nghiệm, bởi [ɑ] nằm ở đỉnh của sơ đồ nguyên âm,<br /> bảng 9 dưới đây.<br /> các nguyên âm nằm ở đỉnh của sơ đồ nguyên âm<br /> có xu hướng phân tách thành 2 nguyên âm, không Bảng 9: Bảng một số từ có hai cách đọc [ɯɤ-],<br /> chỉ [ɑ] mà [i], [u] cũng có xu hướng này (vấn đề [ie-] trong tiếng Việt hiện đại<br /> này chúng tôi sẽ trình bày trong một bài viết khác).<br /> <br /> Đến đây chúng ta có thể đi đến kết luận thần bắt chước con hươu rượu ưu tiên<br /> âm và hầu âm của vận nguyên có mô hình biến đổi bắt chiếc con hiêu riệu yêu tiên<br /> ngữ âm:<br /> Khi giao tiếp, người miền Bắc thường phát âm<br /> *[Puɑ-]→*[Fɑ-]→[Fɯɤ-] (mô hình 4); thành những âm ở dòng 2, nếu có người nhắc họ,<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 25<br /> v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br /> <br /> <br /> ngay lập tức họ ý thức được rằng mình đã nói sai [ɯɤ-] do hai nguyên âm dòng sau cấu tạo<br /> và miễn cưỡng bắt buộc mình phát âm thành âm nên còn [ie-] do hai nguyên âm dòng trước cấu<br /> ở dòng 1. Điều này chứng tỏ tiếng Việt hiện đại tạo nên. [ɯɤ-] và [ie-] khác xa nhau, giữa chúng<br /> đang diễn ra quá trình biến đổi ngữ âm từ âm đệm không thể xảy ra hiện tượng mượn âm. Do vậy,<br /> [ɯ] sang âm đệm [i], quá trình này vẫn đang diễn các mô hình [ɯɤ-] ([ie-]) của chữ Nôm phản ánh<br /> sự biến đổi ngữ âm. Chúng tôi cho rằng, [ɯɤ-] đã<br /> ra nên người ta vẫn ý thức được nói thế nào mới<br /> biến đổi thành [ie-], bởi: 1) Trong tiếng Việt hiện<br /> là chuẩn. Xét về mặt âm đệm [ɯɤ-] biến đổi thành<br /> nay đang xảy ra quá trình biến đổi ngữ âm từ âm<br /> [ie-] là phù hợp với quy luật này. Nếu chỉ để ý đến đệm [ɯ] sang âm đệm [i] (xem phần trên); 2) Có<br /> ba ví dụ đầu “bắt chước/bắt chiếc, con hươu/con hiện tượng cùng một chữ nhưng âm Hán Việt trung<br /> hiêu, rượu/riệu”, thì quá trình biến đổi sẽ là [ɯɤk] cổ của chúng là [ie-] còn âm Hán Việt thượng cổ<br /> biến đổi thành [iek] và [ɯɤu] biến đổi thành [ieu]. của chúng lại là [ɯɤ-] (园vườn/viên, 越vượt/việt,<br /> Nếu bỏ âm cuối đi, chúng ta sẽ có quá trình: [ɯɤ-] 猿vượn/viên, 幡phướn/phiên, 剑gươm/kiếm, 劫<br /> →[ie-], đây chính là quá trình chúng ta đang cần cướp/kiếp); 3) Trên đây chúng tôi đã chỉ ra [ɯɤ]<br /> phải chứng minh. do [ɑ] biến đổi thành, [ɯɤ] rất khó có thể lại do<br /> [ie-] biến đổi thành; 4) Theo như nghiên cứu của<br /> Tư liệu chữ Nôm cũng giúp chúng ta chứng các học giả Trung Quốc, âm đệm [i] của các vận<br /> minh quá trình biến đổi ngữ âm này. Trong Quốc khai khẩu tam đẳng là do âm đệm [ɯ] biến đổi<br /> âm thi tập và Truyện Kiều có 12 mô hình [ɯɤn] thành; 5) Về mặt ngữ âm học, khó có thể giải thích<br /> ([ien]) và 8 mô hình [ɯɤm] ([iem]), ví dụ xem được quy luật [ie-] biến đổi thành [ɯɤ-].<br /> trong bảng 10 dưới đây:<br /> Khai khẩu của vận nguyên có quá trình biến<br /> Bảng 10: Bảng một số mô hình [ɯɤ-] ([ie-]) đổi ngữ âm *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-] (mô hình 6), hợp<br /> trong chữ Nôm khẩu của vận nguyên liệu có diễn ra quá trình song<br /> song *[uɑ-]→*[uɯɤ-]→[uie-]? Hiện chúng ta mới<br /> Chữ Âm Âm biết được điểm đầu [uɑ-] và điểm cuối [uie-], chúng<br /> Xuất xứ<br /> Nôm đọc Hán Việt ta không có âm đọc [uɯɤ-] trong tiếng Việt, vì vậy<br /> bài 41, chúng tôi cho rằng, hợp khẩu của vận nguyên có<br /> 厭 ướm yếm<br /> chữ 44 quá trình biến đổi ngữ âm là: *[uɑ-]→[uie-] (mô<br /> bài 75, hình 7).<br /> Quốc 斂 lượm liễm<br /> chữ 26 Tóm lại ở vận nguyên của âm Hán Việt đã<br /> âm thi<br /> bài 114, xảy ra các quá trình biến đổi: *[Puɑ-]→[Fɑ-]<br /> tập gươm kiêm<br /> chữ 22 (mô hình 1); *[uɑ-]→*[uo-]→[o-] (mô hình<br /> bài 124, 2); *[ɑ-]→[ɯɤ-] (mô hình 3); *[Puɑ-]→*[Fɑ-]<br /> trượt cự liệt →[Fɯɤ-] (mô hình 4); *[Huɑ-]→*[uɑ-]→*[vɑ-]<br /> chữ 37<br /> →[vɯɤ-] (mô hình 5); *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-] (mô<br /> dòng 964 劫 cướp kiếp hình 6); *[uɑ-]→[uie-] (mô hình 7). 7 mô hình này<br /> dòng 38 bướm biếm có thể gộp lại thành sơ đồ biến đổi ngữ âm như sơ<br /> đồ 1 sau:<br /> thướt<br /> dòng 290 切 thiết<br /> (tha)<br /> Truyện dòng<br /> Kiều 1147 lươn liên<br /> dòng lướt<br /> liệt<br /> 2707 (mướt)<br /> dòng<br /> lượt liệt<br /> 2668<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 26 Số 15 - 9/2018<br /> LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br /> <br /> <br /> <br /> 6. MÔ HÌNH BIẾN ĐỔI NGỮ ÂM CỦA VẬN DƯƠNG VÀ VẬN NGHIÊM<br /> Vận dương và vận nghiêm ở tiếng Hán thượng cổ có âm chính giống như vận nguyên, đều là [ɑ-],<br /> chúng chỉ khác ở âm cuối (vận dương có âm cuối [-ŋ], [-k], vận nghiêm có âm cuối [-m], [-p]). Thông<br /> thường một quá trình biến đổi ngữ âm xảy ra, nó sẽ ảnh hưởng đến một loạt âm chứ không không chỉ ở<br /> một vài âm. Vậy vận dương và vận nghiêm có xảy ra các quá trình biến đổi ngữ âm giống vận nguyên<br /> không, và âm cuối của chúng có ảnh hưởng gì đến biến đổi ngữ âm? Đây là những vấn đề chúng ta cần<br /> giải quyết, trước tiên hãy xem âm đọc Hán Việt của vận dương và vận nghiêm:<br /> <br /> Bảng 11: Bảng cách đọc âm Hán Việt của vận dương và vận nghiêm<br /> <br /> Hán Việt trung cổ Hán Việt<br /> Vận<br /> Khai khẩu Hợp khẩu thượng cổ<br /> 嚴nghiêm, 嚴nghiêm, 劍kiếm, 劍gươm,<br /> 泛phiếm<br /> 劫kiếp, 怯khiếp, 欠khiếm 劫cướp,<br /> Vận nghiêm<br /> 凡帆phàm, 犯範phạm, 法pháp 腌ướp<br /> 帆buồm<br /> 常thường, 昌xương, 場trường,<br /> 旺vượng, 王vương, 方肪<br /> 仗trượng, 疆cương, 姜khương,<br /> phương, 坊phường 兩lạng,<br /> 脚cước, 略lược<br /> 娘nàng,<br /> 庄妝装trang, 创sáng, 床sàng,<br /> 长tràng<br /> 爽sảng, 状trạng; 恙炀漾樣 往vãng, 鋩硭mang, 舫phảng<br /> Vận dương 放buông,<br /> dạng, 奘tráng,<br /> 房buồng,<br /> 逛cuống, 狂cuồng, 筐khuông,<br /> 縛buộc<br /> 況huống<br /> 放phóng, 防房phòng, 罔惘網<br /> võng, 望妄vọng, 亡忘vong<br /> <br /> Vận nghiêm của tiếng Hán trung cổ vốn thuộc vận bộ đàm (谈部) của tiếng Hán thượng cổ, có âm<br /> đọc là [ɑm]. Mặc dù các âm đọc của vận nghiêm không nhiều, song chúng ta vẫn có thể nhìn ra quá trình<br /> biến đổi ngữ âm giống như vận nguyên: 1. “凡帆phàm, 犯範phạm, 法pháp” là các thần âm đã biến đổi<br /> từ trọng thần sang khinh thần, như vậy đã diễn ra mô hình *[Puɑ-]→[Fɑ-] (mô hình 1); 2. “帆buồm” là<br /> minh chứng cho mô hình 2, *[uɑ-]→[uo-]; 3. “劍gươm, 劫cướp, 腌ướp” minh chứng cho mô hình 3,<br /> *[ɑ-]→[ɯɤ-]; 4. “泛phiếm” là minh chứng cho mô hình 4 và 6, *[Puɑ-]→*[Fɑ-]→*[Fɯɤ-] (mô hình<br /> 4)→[Fie-] (mô hình 6); 5. “嚴nghiêm, 劍kiếm, 劫kiếp, 怯khiếp, 欠khiếm” minh chứng cho mô hình 6,<br /> *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-].<br /> Rất có thể do ảnh hưởng của âm cuối [-m]/ [-p], nên quá trình biến đổi ngữ âm của vận nghiêm diễn<br /> ra sớm hơn vận nguyên, vì vậy chúng ta không còn thấy mô hình 5 và mô hình 7 nữa.<br /> Vận dương ở tiếng Hán thượng cổ vốn thuộc vận bộ dương (阳部), các nhà âm vận học Trung Quốc<br /> phục nguyên nguyên âm chính của vận bộ dương là [ɑ] hoặc [a]. Nhìn vào cách đọc của vận dương ở bảng<br /> trên đây, chúng ta có thể phát hiện ra một số mô hình biến đổi ngữ âm giống như vận nguyên: 1. Các âm<br /> đọc là [ɑ] ở khai khẩu của âm Hán Việt trung cổ và âm Hán Việt thượng cổ là những âm đọc cổ còn lưu<br /> lại; 2. “往vãng, 舫phảng” minh chứng cho mô hình 1, *[Puɑ-]→[Fɑ-]; 3. “逛cuống, 狂cuồng, 筐khuông,<br /> 況huống, 放buông” là minh chứng cho mô hình 2, *[uɑ-] → [uo-]; 4. “常thường, 昌xương, 場trường, 仗<br /> trượng” là minh chứng của mô hình 3, *[ɑ-] → [ɯɤ-]; 5. “方肪phương, 坊phường” là minh chứng cho mô<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 27<br /> v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br /> <br /> <br /> hình 4, *[Puɑ-]→*[Fɑ-] →*[Fɯɤ-] (方phương, ở hợp “nước, nướng, lưỡi, lửa, ngứa” trong tiếng Việt<br /> phương ngôn Trung bộ vẫn còn đọc là “phang”); 6. toàn dân vẫn được đọc là “nác, náng, lại, lả, ngá”<br /> “旺vượng, 王vương” là minh chứng cho mô hình ở phương ngôn Trung bộ; [ɯɤ-] biến đổi thành<br /> 5, *[Huɑ-] →*[uɑ-] →*[vɑ-]→[vɯɤ-]. [ie-] như trường hợp “yếm (cái yếm), miếu” của<br /> tiếng Việt toàn dân vẫn được nói là “ướm, mưởu”<br /> Vận dương khác vận nguyên ở 2 điểm: 1.<br /> ở phương ngôn Trung bộ, “gườm (hai người gườm<br /> Không có mô hình 6 và mô hình 7; 2. Ở thần âm<br /> nhau)” ở tiếng Việt toàn dân được nói là “ghiềm”<br /> có nhiều âm đọc [ɔ-] (放phóng, 防房phòng, 罔惘<br /> ở phương ngôn Nam bộ (Phạm Văn Hảo, 2009).<br /> 網võng, 望妄vọng, 亡忘vong).<br /> Kết quả nghiên cứu của bài viết có thể ứng dụng<br /> Về điểm thứ nhất, vận dương chỉ biến đổi từ<br /> vào nhiều lĩnh vực, trong đó có việc tìm ra các từ<br /> [ɑ-] sang [ɯɤ-], chứ chưa biến đổi tiếp từ [ɯɤ-]<br /> đồng nguyên của nhau và phục nguyên lại những<br /> thành [ie-]. Sở dĩ như vậy là do có sự tác động<br /> dạng âm đọc cổ của tiếng Việt. Dựa trên những quy<br /> của âm cuối, vận nguyên có âm cuối đầu lưỡi, lợi<br /> luật biến đổi ngữ âm của bài viết, chúng tôi tìm<br /> [-n], [-t], cặp âm cuối này làm cho các nguyên<br /> ra một số cặp từ đồng nguyên như: 丸viên/hoàn/<br /> âm dòng sau [ɯɤ-] dễ dàng biến đổi thành [ie-],<br /> hòn; 全toàn/tuyền; 安an/yên; 好háo/hiếu; 乱loạn/<br /> nhưng vận dương có âm cuối mặt lưỡi, ngạc mềm<br /> lộn; 奔bươn/bôn; 染nhuộm/nhiễm; 说thốt/thuyết;<br /> [-ŋ], [-k], nhóm âm cuối này ảnh hưởng làm cho<br /> 兼gồm/kiêm; 卷cuốn/quyển; 劍gươm/kiếm; 房<br /> các nguyên âm dòng sau [ɯɤ-] không biến đổi về<br /> buồng/phòng; … “全toàn” của tiếng Việt toàn dân,<br /> phía trước được, [ɯɤ-] không biến đổi thành [ie-].<br /> ở phương ngôn Bắc bộ có cách đọc là “tuyền”, ví<br /> Cũng chính nhóm âm cuối này (có thể liên quan<br /> dụ “canh tuyền nước” (Phạm Văn Hảo 2009, tr.426)<br /> đến cả thanh mẫu nữa) làm cho vận dương còn lưu<br /> và vì vậy “đen tuyền” chính là “đen hoàn toàn”. Do<br /> giữ được nhiều âm đọc cổ [ɑ-].<br /> ảnh hưởng của quan hệ nghĩa và âm (các từ có cách<br /> Về điểm thứ 2 (các âm đọc [ɔ-] ở thần âm) đọc khác nhau thường khác nhau về nghĩa), nhiều<br /> có thể được giải thích là: Sau khi mô hình 1 xảy người phân vân “gươm” và “kiếm” là cùng một loại<br /> ra *[Puɑ-] biến đổi thành [Fɑ-], [ɑ-] không phân vũ khí hay là 2 loại khác nhau. Thực chất “gươm”<br /> tách thành [ɯɤ-] mà lại phát triển lên cao thành và “kiếm” là một, Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê<br /> [ɔ-]. Theo Nguyễn Đình Hiền (2014), trong quá 1998, tr.504) chú thích “kiếm1 d. gươm.” là hoàn<br /> trình phát triển của mình, ở tiếng Việt đã xảy ra toàn chính xác, cũng chính vì vậy “Hồ Gươm” còn<br /> quá trình biến đổi: ﹡a[ɑ]→﹡o[ɔ]→ô[o]. Rất có có tên gọi khác là “Hồ Hoàn Kiếm”. “奔” có âm<br /> thể các thần âm của vận dương biến đổi từ *[Puɑ-] Hán Việt trung cổ là “bôn”, đây là chữ Hán hội ý,<br /> sang [Fɑ-] xong thì vừa lúc gặp mô hình ﹡a[ɑ]→ chữ này vốn được vẽ là người ở trên và ba chân<br /> ﹡o[ɔ] nên đã biến đổi theo, suy cho cùng vẫn là ở dưới, biểu thị ý nghĩa “chạy nhanh, ba chân bốn<br /> do nhóm âm cuối [-ŋ], [-k] gây ra. cẳng”, Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê 1998, tr.92)<br /> 7. KẾT LUẬN “bươn” được chú thích là “bươn đg. (ph). Đi vội, đi<br /> nhanh.”, “bươn” và “bôn” là cặp từ đồng nguyên,<br /> Theo quy luật vận động và phát triển, mọi sự có thể âm đọc ban đầu của chúng là “*ban”.<br /> vật và hiện tượng luôn biến đổi không ngừng, ngữ<br /> âm cũng không nằm ngoài quy luật này. Khi một Chúng tôi xin được nêu một vài ví dụ để nói<br /> quy luật biến đổi ngữ âm xảy ra thì nó ảnh hưởng về ứng dụng kết quả nghiên cứu của bài viết, trong<br /> đến một loạt âm chứ không phải một vài âm. Ngoài việc phục nguyên những âm đọc cổ của tiếng Việt:<br /> các vận nguyên, dương, nghiêm ra, những quy luật a. 劍 có âm Hán Việt là “gươm/kiếm”, song<br /> mà chúng tôi chỉ ra trong bài viết dường như cũng chúng tôi cho rằng cả “gươm” và “kiếm” đều<br /> lác đác xảy ra với các vận khác, ví dụ: 安an/yên không phải là âm đọc cổ của 劍. Chúng ta đã biết ở<br /> (vận hàn khai khẩu), 全toàn/tuyền (vận tiên hợp địa hạt thanh mẫu của tiếng Việt có quá trình biến<br /> khẩu仙韵), 退thoái/thối (vận khôi hợp khẩu灰韵). đổi ngữ âm từ [k] sang g[ɣ] (phương ngôn Trung<br /> Những quy luật này cũng ảnh hưởng đến âm đọc bộ còn giữ cách đọc “cươm, thanh cươm”). Căn cứ<br /> thuần Việt: [ɑ-] biến đổi thành [ɯɤ-] như trường vào mô hình 6 *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-], thì âm đọc cổ<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 28 Số 15 - 9/2018<br /> LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH v<br /> <br /> <br /> <br /> của “gươm/ kiếm” phải phục nguyên lại là *[kɑm]. Nguyễn Tài Cẩn (1997), Giáo trình lịch sử ngữ âm<br /> Chúng tôi cho rằng “găm” trong “dao găm” chính tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.<br /> là từ đồng nguyên của “gươm” và “kiếm”. “Dao<br /> Nguyễn Du (Nguyễn Quảng Tuân phiên âm khảo dị và<br /> găm” chính là một dạng kiếm ngắn, trong Từ điển<br /> Việt - Bồ - La từ này được viết là “GAM, Dᴇ̆AO chú giải, 2004), Truyện Kiều (bản Nôm 1866), NXB<br /> GAM”. Nếu vậy thì “GAM” chính là minh chứng Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.<br /> cho vận mẫu [ɑm] mà chúng tôi phục nguyên. Một Phạm Văn Hảo chủ biên (2009), Từ điển phương ngữ<br /> số ví dụ khác: 劫cắp/cướp/kiếp; 年năm/niên; 别<br /> tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.<br /> bặt/biệt (ví dụ “bặt tăm/biệt tăm”).<br /> b. Có nhiều từ có thể không tìm được hoặc chí Nguyễn Đình Hiền (2014), Nghiên cứu những mô hình<br /> ít chưa tìm được minh chứng giống như “gươm/ biến đổi ngữ âm ở vần có âm chính là a, i, u của<br /> kiếm”, ví dụ trường hợp “房buồng/phòng” phục tiếng Việt, Đề tài cấp cơ sở Trường Đại học Ngoại<br /> nguyên là *[buɑŋ], hay “萬muôn/vạn/vàn” phục ngữ - ĐHQG Hà Nội.<br /> nguyên là *[muɑn] (Từ điển Việt - Bồ - La có các<br /> Mai Quốc Liên, Kiều Thu Hoạch, Vương Lộc, Nguyễn<br /> cách viết “vạn, uạn, muôn, man”).<br /> Khuê phiên âm và chú thích (2001), Nguyễn Trãi<br /> c. Việc phục nguyên cũng có thể chỉ là phục toàn tập tân biên, NXB Văn học, Trung tâm Nghiên<br /> nguyên một âm đọc ở khâu trung gian trong quá<br /> cứu Quốc học, Hà Nội.<br /> trình biến đổi ngữ âm, ví dụ “安” có âm Hán<br /> Việt là “an/ yên”, theo quy luật biến đổi ngữ âm C. Mác, Ph. Ăngghen (1994), C. Mác và Ph. Ăngghen<br /> *[ɑ-]→*[ɯɤ-]→[ie-], chúng ta có thể phục nguyên toàn tập (tập 20), NXB Chính trị quốc gia - Sự thật,<br /> âm đọc là “ươn[ɯɤn]” ở giữa “an” và “yên”. Trong Hà Nội.<br /> Từ điển phương ngữ tiếng Việt (Phạm Văn Hảo<br /> chủ biên, 2009, tr.430), từ “ươn” được chú thích là Hoàng Phê (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng,<br /> “(B.; T.) t. 1. Lười nhác”, theo chúng tôi rất có thể Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.<br /> đây là dạng trung gian mà chúng ta phục nguyên,<br /> Hoàng Phê và nhóm tác giả (2015), Từ điển tiếng Việt,<br /> bởi “安an” vốn có nghĩa là “yên, yên ổn, sống yên<br /> NXB Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội -<br /> ổn”, “yên” là “ở trạng thái không động đậy, xê<br /> xích hoặc thay đổi vị trí, tư thế (đứng yên)”, và Đà Nẵng.<br /> nếu cứ ở trạng thái như vậy có nghĩa là không làm 何成等(1997), 越汉辞典, 商务印书馆,北京.<br /> gì, từ đó mà từ này có nghĩa “lười nhác”. Suy luận<br /> này càng có cơ sở vì từ “an nhàn安闲” có từ đồng 王力 (1982), 龙虫并雕斋文集,第二册,中华书<br /> nguyên là “ươn hèn”. “闲nhàn” thuộc vận sơn nhị 局,北京.<br /> đẳng, thanh mẫu hạp, nên thanh mẫu đọc là “h”<br /> 阮廷贤(2011), 论三等合口介音, 东方语言<br /> và vận mẫu là “en” là hợp lý (âm Hán Việt có các<br /> 学,10:14- 24.<br /> cách đọc “茶trà, chè; 车xa, xe; 限hạn, hẹn; 察xát,<br /> xét; 斩trảm, chém; …”). Xét về mặt ý nghĩa “an 阮廷贤, 储泰松(2012), 唇音分开合试证, 古汉语<br /> nhàn” một cách thái quá sẽ trở thành “ươn hèn”./. 研究, 03: 15-22+95.<br /> Tài liệu tham khảo: 阮廷贤(2012), 从汉越语研究看音变及其层次, 语言<br /> Alexandre de Rhodes (1991), Từ điển Annam - Lusitan 研究集刊, 00: 84-96+ 354-355.<br /> - Latinh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội (nguyên<br /> tác 1651). 阮廷贤(2014), 汉越语音系与喃字研究, 河内国家大<br /> 学出版社,河内.<br /> Nguyễn Tài Cẩn (1979), Nguồn gốc và quá trình hình<br /> thành cách đọc Hán Việt, NXB Khoa học xã hội, 潘悟云(2000), 汉语历史音韵学, 上海教育出版社,<br /> Hà Nội. 上海.<br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> Số 15 - 9/2018 29<br /> v LÝ LUẬN CHUYÊN NGÀNH<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> COMMENTS ON SEVERAL VARIATION MODES OF VIETNAMESE SPEECH SOUNDS<br /> BASED ON SINO - VIETNAMESE CORPUS OF YUANYUN<br /> NGUYEN DINH HIEN<br /> Abstract: This paper bases on Sino-Vietnamese corpus of Yuanyun (元韵) to find out some variation<br /> modes of Vietnamese speech sounds such as: 1. *[Puɑ-] → [Fɑ-]; 2. *[uɑ-] → *[uo-] → [o-]; 3.<br /> *[ɑ-] → [ɯɤ-]; 4. *[Puɑ-] → *[Fɑ-] → [Fɯɤ-]; 5. *[Huɑ-] → *[uɑ-] → *[vɑ-] → [vɯɤ-]; 6. *[ɑ-]<br /> → *[ɯɤ-] → [ie-]; 7. *[uɑ-] → [uie-]. The research result may be applied to explain the fact that<br /> one Vietnamese word may have with two different ways of pronunciation, to find out and provide<br /> explaination on the words with the same or reviving pronunciation of the ancient Vietnamese words.<br /> Keywords: Sino – Vietnamese, initial, rhyme, nuclear, prevocalie, final<br /> Received: 05/7/2018; Revised: 26/7/2018; Accepted for publication: 20/8/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br /> 30 Số 15 - 9/2018<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2