Bàn về tính độc lập của tòa án theo Hiến pháp năm 2013 - nhìn từ yêu cầu của cải cách tư pháp hình sự
lượt xem 2
download
Bài viết bàn về tính độc lập của Tòa án theo yêu cầu cải cách tư pháp hình sự - nhìn từ một số quy định của Hiến pháp năm 2013. Trong đó, tập trung làm rõ ba vấn đề: Thứ nhất, sự độc lập của Tòa án - tư pháp với lập pháp - Quốc hội và hành pháp - Chính Phủ; Thứ hai, mối quan hệ giữa Tòa án và Viện Kiểm sát khi Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; Thứ ba, thẩm quyền giải thích pháp luật là hoạt động gắn liền với hoạt động tư pháp và cần phải được quy định cho Tòa án.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bàn về tính độc lập của tòa án theo Hiến pháp năm 2013 - nhìn từ yêu cầu của cải cách tư pháp hình sự
- BÀN VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA TÒA ÁN THEO HIẾN PHÁP NĂM 2013 - NHÌN TỪ YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP HÌNH SỰ Nguyễn Thị Phi Yến TÓM TẮT: Bài viết bàn về tính độc lập của Tòa án theo yêu cầu cải cách tư pháp hình sự - nhìn từ một số quy định của Hiến pháp năm 2013. Trong đó, tập trung làm rõ ba vấn đề: thứ nhất, sự độc lập của Tòa án - tư pháp với lập pháp - Quốc hội và hành pháp - Chính Phủ; thứ hai, mối quan hệ giữa Tòa án và Viện Kiểm sát khi Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp; thứ ba, thẩm quyền giải thích pháp luật là hoạt động gắn liền với hoạt động tư pháp và cần phải được quy định cho Tòa án. Từ khóa: Tòa án, Hiến pháp, độc lập tư pháp, cải cách tư pháp hình sự ABSTRACT: The article discusses the independence of the Court in accordance with the requirements of criminal justice reform - viewed from a number of provisions of the 2013 Constitution, focusing on clarifying three issues: first, the independence of the Court - Judiciary from the Legislature - Parliament and Executive - Government; second, the relationship between the Court and the Procuracy when the Procuracy performs the function of supervising judicial activities; third, the authority to interpret the law is an activity associated with judicial activity and needs to be prescribed to the Court. Keywords: Court, Constitution, judicial independence, criminal justice reform 1. Đặt vấn đề Cải cách tư pháp nói chung, trong đó đặc biệt là cải cách tư pháp hình sự đang đặt ra nhiều yêu cầu khác nhau. Từ góc độ Hiến pháp năm 2013, hiện có hai vấn đề đặt ra đang cần nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để có những giải pháp hoàn thiện phù hợp. Thứ nhất, giải thích pháp luật là hoạt động gắn liền với hoạt động tư pháp và cần phải được quy định cho Tòa án nhưng hiện nay chưa có căn cứ pháp lý vững chắc trong Hiến pháp năm 2013 về vấn đề này. Từ đó, quyền tư pháp dường như đang bị chi phối rất mạnh mẽ bởi bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật của bất cứ cơ quan hành chính nhà nước nào (kể cả Ủy ban nhân dân ở địa phương). Điều này ở phương diện nào đó đã làm suy giảm tính độc lập xét xử của Tòa án. Bên cạnh đó, hoạt động tư pháp thiếu linh hoạt và xơ cứng, rập khuôn theo những ThS. Trường Đại học luật, Đại học Huế, Email: yenntp@hul.edu.vn 424
- văn bản có giá trị pháp lý thấp, đồng thời những án lệ về hình sự được ban hành gần đây chưa thực sự có cơ sở pháp lý rõ ràng từ Hiến pháp. Thứ hai, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, song những điều kiện thiết yếu để giúp Tòa án thực hiện được nhiệm vụ đó chưa được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013. 2. Một số suy nghĩ về bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo Hiến pháp năm 2013 – nhìn từ yêu cầu của cải cách tư pháp hình sự Có thể khẳng định, tư pháp độc lập là giá trị chung của nhân loại và rất khó để lý giải rằng, ở những quốc gia nhất định nào đó có thể không cần tư pháp độc lập mà vẫn bảo đảm được “pháp quyền”. Bởi lẽ, “quyền Tư pháp độc lập là một tiêu chí đánh giá Nhà nước pháp quyền”1. Bảo đảm quyền tư pháp độc lập thì mới bảo đảm Nhà nước “tôn trọng quyền con người”. Bởi lẽ, một trong những quyền căn bản của con người là “quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án có thẩm quyền, độc lập , không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật”2. Quyền tư pháp có độc lập thì mới vô tư, khách quan, bảo vệ được công lý, công bằng và xứng đáng là người phân xử đúng sai giữa các bên nói chung, và trong tư pháp hình sự thì đó là sự phân xử đúng sai giữa cơ quan truy tố và bị cáo. Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”3; “các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm…”4; đồng thời, đã giao cho Tòa án nhân dân “thực hiện quyền tư pháp”5. Tuy nhiên, đánh giá toàn diện các cơ chế hiến định, chúng ta có thể thấy những cơ chế cần thiết để bảo đảm tính độc lập cho quyền tư pháp còn hạn chế, cụ thể: 2.1. Tòa án - tư pháp không được hiến định quyền xét xử văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp Quyền tư pháp bị kiểm soát bởi quyền lập pháp và quyền hành pháp, nhưng quyền tư pháp không thể kiểm soát lại quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nói chính xác hơn, quyền 1 Phí Thành Chung (2018), Quyền Tư pháp và một số nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ Nghĩa Việt Nam, Tạp chí Tòa án điện tử, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/quyen-tu-phap-va-mot- so-nguyen-tac-co-ban-cua-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn-vn, truy cập ngày 29/06/2021. 2 Khoản 1 Điều 14 Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 3 Khoản 1 Điều 12 Hiến pháp năm 2013. 4 Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013. 5 Khoản 1 Điêu 102 Hiến pháp năm 2013. 425
- tư pháp kiểm soát quyền lập pháp và quyền hành pháp có được Hiến pháp năm 2013 nhắc đến nhưng không bảo đảm toàn diện để trở thành một cơ chế khả thi trên thực tế. Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Với mệnh đề “kiểm soát giữa các cơ quan…” cho chúng ta thấy Hiến pháp đã trao cho quyền tư pháp (Tòa án) được kiểm soát quyền lực đối với quyền lập pháp (Quốc Hội) và quyền hành pháp (Chính phủ). Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là quyền tư pháp (Tòa án) kiểm soát quyền lập pháp (Quốc hội) và quyền hành pháp (Chính phủ) những vấn đề gì, bằng hình thức nào thì không có cơ chế thực sự vững chắc từ Hiến pháp năm 2013. Nói đến tư pháp kiểm soát lập pháp và hành pháp thì công cụ kiểm soát quan trọng và hữu hiệu nhất là quyền xét xử các văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp do lập pháp và hành pháp ban hành. Vì chức năng của tư pháp là xét xử, theo logic của nó, phải thông qua việc xét xử để kiểm soát ngược trở lại đối với lập pháp và hành pháp. Tuy nhiên, rất tiếc rằng trong Hiến pháp năm 2013 lại không đi đến cùng trong việc trao cơ chế này cho tư pháp. Tòa án tư pháp theo Hiến pháp năm 2013 là cơ quan độc lập nhưng “tuân theo pháp luật”, bất kể là loại nguồn pháp luật nào. Theo pháp luật Việt Nam, văn bản quy phạm pháp luật do lập pháp và hành pháp ban hành gồm rất nhiều loại khác nhau và do rất nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành. Nếu không được kiểm soát quyền lập pháp và hành pháp thông qua việc xét xử các văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp sẽ tạo ra hệ quả là những văn bản đó sẽ trở thành nguồn pháp luật được áp dụng trong quá trình xét xử nói chung và xét xử vụ án hình sự nói riêng. Thực tế cho thấy, tồn tại rất nhiều các văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, luật, không tuân thủ thẩm quyền, trình thủ thủ tục, căn cứ pháp lý để ban hành, nhưng không bị kiểm soát bởi quyền tư pháp mà chỉ được kiểm soát dưới góc độ nội bộ trong quyền hành pháp (Bộ Tư pháp). Có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp tới tư pháp hình sự có dấu hiệu trái Hiến pháp và Luật những vẫn có hiệu lực. Một điểm rất khó hiểu đó là, mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận nguyên tắc kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp như đã nêu ở trên, song lại không hiến định về hệ thống cơ quan tòa án – tư pháp, mà lại cho phép Quốc 426
- hội – lập pháp được định đoạt hệ thống tòa án thông qua quy định: “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định”6. Như vậy, theo logic, Quốc hội – lập pháp không thể có động lực đủ lớn để “định” ra Tòa án Hiến pháp, cơ quan có chức năng kiểm soát lại chính bản thân Quốc hội – lập pháp. Một khi Tòa án – tư pháp là những thiết chế hết sức quan trọng, nhưng không được hiến định đầy đủ, mà lại ủy quyền cho Quốc hội – lập pháp quyết định, lẽ dĩ nhiên sẽ không có cơ chế độc lập cần thiết, trước sức ép và những thế mạnh vốn có của lập pháp và hành pháp. Cần lưu ý thêm, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là những cơ quan hiến định trực tiếp, nhưng tòa án nhân dân (trừ Tòa án nhân dân Tối cao) lại không được hiến định trực tiếp. Không chỉ vậy, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước7. Điều này cũng giấy lên những nghi ngại nhất định về sự độc lập của Tòa án - tư pháp trong mối quan hệ với Quốc hội- lập pháp, thậm chí là với Ủy ban thường vụ Quốc hội- người lập pháp ủy quyền. 2.2. Tòa án - tư pháp chịu tác động của quyền kiểm sát hoạt động tư pháp Tính độc lập của Tòa án tư pháp, chỉ xét riêng ở góc độ Hiến pháp năm 2013, còn có thể bàn thêm ở mối quan hệ giữa Tòa án – tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân. Khoản 2 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định, Viện Kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, trong đó có hoạt động tư pháp hình sự của Tòa án. Trong khi đó, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, quyền kiểm sát hoạt động tư pháp (trong đó có hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án) của Viện Kiểm sát nhân dân là thuộc quyền nào trong 3 quyền nêu trên? Nếu cho rằng quyền kiểm sát hoạt động tư pháp thuộc quyền lập pháp hoặc quyền hành pháp, cũng sẽ bất hợp lý, vì Hiến pháp năm 2013 giao việc thực hiện quyền lập pháp cho Quốc hội và hành pháp cho Chính phủ vì vậy không có sự nhất quán. Nếu cho rằng, quyền kiểm sát hoạt động tư pháp thuộc quyền tư pháp, thì cũng không thể lý giải được vì sao quyền tư pháp 6 Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013. 7 Khoản 2 Điều 105 Hiến pháp năm 2013. 427
- lại kiểm sát chính mình, hơn nữa, quyền tư pháp cũng được Hiến pháp năm 2013 trao cho Tòa án thực hiện. Nếu cho rằng, quyền kiểm sát hoạt động tư pháp không thuộc các quyền vừa nêu, chắc chắn sẽ gặp phải những trở ngại rất lớn vì dường như không phù hợp với các học thuyết kinh điển về cấu trúc quyền lực nhà nước. Montesquieu đã từng cho rằng: Quyền lập pháp là quyền làm ra luật… sửa đổi hay hủy bỏ luật (đã ban hành), quyền hành pháp là quyền quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược, còn quyền tư pháp là quyền trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân8. Đồng thời, nếu so sánh với ngay bản thân Hiến pháp năm 2013 (Điều 2), như đã nêu gồm chỉ ba quyền, cũng sẽ thấy sự thiếu nhất quán. 2.3. Tòa án - tư pháp không được hiến định quyền giải thích Hiến pháp, pháp luật Về bản chất, thực hiện quyền tư pháp nói chung, đặc biệt là tư pháp hình sự, không đơn thuần là áp dụng các loại nguồn luật một cách dập khuôn vào những vụ án hình sự, mà một vấn đề hết sức quan trọng trong thực hiện quyền tư pháp của tòa án, đó là “quyền giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy”9. Quyền giải thích pháp luật và đưa ra hướng áp dụng pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của đời sống xã hội là một thuộc tính rất riêng, và không thể thiếu của quyền tư pháp. Ngoài ý nghĩa giúp cho tòa án tư pháp có thể lựa chọn được giải pháp tối ưu để giải quyết một vụ án hình sự nào đó, quyền giải thích pháp luật còn giúp tòa án được cũng cố thêm tính độc lập cần thiết của mình trước bối cảnh rất nhiều cơ quan có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật với nguy cơ chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu căn cứ pháp lý thích đáng và có thể đi ngược lại với nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Chính vì Hiến pháp năm 2013 không trao quyền cho Tòa án – tư pháp được giải thích Hiến pháp, pháp luật, dẫn đến việc ra đời của các án lệ nói chung và trong đó có các án lệ hình sự nói riêng, cũng thiếu những cơ sở pháp lý vững chắc từ Hiến pháp. Một khi Hiến pháp không chính thức ghi nhận quyền giải thích Hiến pháp, luật thuộc về tòa án – tư pháp, thì rất khó để lý giải được vì sao tòa án - tư pháp lại được quyền lựa chọn và công bố án lệ. 8 Montesquieu,Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.105-106. 9 Bryan. Garner (ed.), Black’s Law Dictionary, 9th ed, 2009, tr. 924. 428
- Vì về bản chất, án lệ là những lập luận (giải thích) của tòa án trong một vụ án nói chung và vụ án hình sự nói riêng, đáp ứng những tiêu chí nhất định. Mặc dù như vậy, song Điểm c khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao có quyền“lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Theo chúng tôi, tuy Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã đưa ra cơ sở pháp lý cho việc ban hành án lệ, song do Hiến pháp không quy định về điều này, dẫn đến việc ban hành và áp dụng án lệ về lĩnh vực hình sự hiện còn vướng mắc. Cụ thể, do chỉ có Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 nhắc đến án lệ với tư cách là quy phạm trao quyền của Tòa án được thực hiện, nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), và Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 đều không có bất cứ một quy định nào về việc áp dụng án lệ trong xét xử các vụ án hình sự. Chính vì lẽ đó, trong 43 án lệ được công bố cho đến hiện nay, chúng ta đã có 07 án lệ về pháp luật hình sự. Đó là Án lệ số 34/2020/AL, Án lệ số 29/2019/AL, Án lệ số 28/2019/AL, Án lệ số 19/2018/AL, Án lệ số 18/2018/AL, Án lệ số 17/2018/AL và Án lệ số 01/2016/AL. Tuy nhiên, có một vấn đề rất đáng lưu tâm, chưa có án lệ nào trong số án lệ hình sự được tòa án viện dẫn, áp dụng trong thời gian qua10. 3. Kết luận và kiến nghị Từ những phân tích trên cho thấy, trước những yêu cầu của cải các tư pháp nói chung, và cải cách tư pháp hình sự nói riêng, vấn đề về độc lập của Tòa án theo Hiến pháp năm 2013 cần phải nghiên cứu hoàn thiện. Theo chúng tôi, hiện Hiến pháp năm 2013 còn có những hạn chế nhất định về vấn đề này, thể hiện ở 3 khía cạnh sau đây: Thứ nhất, tòa án chưa được hiến định quyền xét xử các văn bản trái Hiến pháp, pháp luật nên không có công cụ, cơ chế kiểm soát đối với lập pháp và hành pháp. Thứ hai, Tòa án đang bị kiểm soát bởi 10 Theo số liệu thống kê đến ngày 12/4/2021, có 1021 bản án, quyết định của các Tòa án đã viện dẫn, áp dụng án lệ; trong đó các án lệ được viện dẫn nhiều nhất là Án lệ số 08/2016/AL (có 738 bản án, quyết định viện dẫn), Án lệ số 09/2016/AL (có 68 bản án, quyết định viện dẫn), Án lệ số 26/2018/AL (có 53 bản án, quyết định viện dẫn), Án lệ số 11/2017/AL (có 38 bản án, quyết định viện dẫn), Án lệ số 04/2016/AL (có 29 bản án, quyết định viện dẫn), Án lệ số 03/2016/AL (có 20 bản án, quyết định viện dẫn). Xem thêm: Tòa án nhân dân Tối cao (2021), Báo cáo số 10/BC-TA về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển án lệ giai đoạn 2016- 2021, ngày 22/04, Hà Nội, tr1. 429
- quyền kiểm soát hoạt động tư pháp từ phía Viện Kiểm sát, song quy định này chưa được lý giải thấu đáo ở góc độ lý luận. Thứ ba, Tòa án chưa được hiến định quyền giải thích pháp luật nên ở chừng mực nhất định, sẽ bị lệ thuộc vào một hệ thống quy tắc rất đồ sộ và trong nhiều trường hợp mâu thuẫn, bất hợp lý, chồng chéo nhau, dẫn đến rất khó thực thi được nhiệm vụ quan trọng của mình là bảo vệ công lý, bảo vệ, quyền con người. Do đó, để bảo đảm sự độc lập của tòa án trong theo yêu cầu cải cách tư pháp nói chung và cải cách tư pháp hình sự nói riêng, theo chúng tôi, cần tập trung nghiên cứu, hoàn thiện Hiến pháp năm 2013 theo hướng: Một là, hiến định trực tiếp tòa án bảo vệ hiến pháp mà không giao quy luật định như hiện nay; Hai là, cần nghiên cứu sửa đổi quy định về viện kiểm sát nhân dân theo hướng cơ quan này chỉ đảm nhiệm chức năng công tố, không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay; Ba là, nghiên cứu hiến định quyền giải thích hiến pháp, pháp luật cho tòa án nhân dân./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phí Thành Chung (2018), Quyền Tư pháp và một số nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ Nghĩa Việt Nam, Tạp chí Tòa án điện tử, https://tapchitoaan.vn/bai- viet/phap-luat/quyen-tu-phap-va-mot-so-nguyen-tac-co-ban-cua-nha-nuoc-phap-quyen- xhcn-vn, truy cập ngày 29/06/2021. 2. Bryan. Garner (ed.), Black’s Law Dictionary, 9th ed, 2009. 3. Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 4. Montesquieu,Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 5. Tòa án nhân dân Tối cao (2021), Báo cáo số 10/BC-TA về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển án lệ giai đoạn 2016-2021, ngày 22/04, Hà Nội. 430
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thiết chế bảo hiến trong luật của Hoa Kỳ, Pháp và Đức. Bài học đối với thiết lập tòa án bảo hiến ở Việt Nam
13 p | 1272 | 224
-
MỘT SỐ NỘI DUNG ĐỔI MỚI VỀ CÔNG TÁC QHKH SỬ DỤNG ĐẤT ĐƯỢC THỂ HIỆN TRONG NGHỊ ĐỊNH SỐ 69/2009/NĐ-CP VÀ THÔNG TƯ 19/2009/BTNMT
14 p | 366 | 116
-
Khả năng Sử dụng ảnh vệ tinh để thành lập bản đồ phân bố các loại hình đất ngập nước ở Việt Nam
5 p | 299 | 58
-
Tìm hiểu Tư tưởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX: Phần 1
333 p | 158 | 30
-
Bài giảng Kinh tế lượng: Chương 4 - Hồi quy với biến giả
13 p | 292 | 21
-
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT
7 p | 158 | 19
-
Bài giảng Kinh tế lượng: Chương 4 - Trần Thị Tuấn Anh
31 p | 102 | 18
-
Hợp đồng thương mại quốc tế và các biện pháp giải quyết tranh chấp: Phần 2
216 p | 102 | 13
-
Đánh giá về tính độc lập trong tố tụng cạnh tranh theo quy định của pháp luật hiện hành
4 p | 89 | 8
-
Quyền tác giả đối với liên kết website
4 p | 63 | 5
-
Bài giảng Kinh tế lượng - Chương 5: Hồi qui với biến giả
23 p | 73 | 4
-
Bàn về tính độc lập của cơ quan cạnh tranh trong mối quan hệ với cơ quan quản lý ngành ở Việt Nam hiện nay
10 p | 6 | 4
-
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp: Số 17/2019
68 p | 45 | 3
-
Bài giảng Nhập môn Kinh tế lượng: Chương 4
5 p | 63 | 3
-
Tài liệu tham khảo hướng dẫn sinh viên học Kinh tế lượng cơ bản
160 p | 13 | 3
-
Bài giảng Kinh tế lượng: Chương 4 - ThS.Trần Thị Tuấn Anh
6 p | 74 | 2
-
Câu hỏi về tính pháp lý của “đường lưỡi bò liền nét” trên biển Đông
6 p | 48 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn