VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
BÀN VỀ TÍNH HIỆN ĐẠI<br />
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC<br />
NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX<br />
NGUYỄN NGỌC MINH*<br />
*Đại học Sư phạm Hoa Trung, Vũ Hán, Trung Quốc, ruanyumingvn@qq.com<br />
Ngày nhận bài: 05/10/2018; ngày sửa chữa: 21/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài viết tập trung vào việc khảo sát tính hiện đại trong văn học Việt Nam và Trung Quốc qua các<br />
bình diện: bối cảnh xã hội, chủ thể và phương thức tiếp nhận, thành tựu văn học và đội ngũ sáng<br />
tác trong thời gian nửa đầu thế kỷ XX; từ đó chỉ ra sự giống và khác nhau trong sự hình thành và<br />
phát triển của tính hiện đại giữa hai nền văn học. Tính hiện đại trong văn học hai nước chủ yếu<br />
bắt nguồn từ các nền văn hóa và văn học đến từ phương Tây, thúc đẩy trào lưu văn học mới ở mỗi<br />
nước phát triển vô cùng mạnh mẽ. Trong quá trình phát triển, nền văn học hai nước đã học hỏi<br />
và tiếp thu một cách sáng tạo, có chọn lọc những đặc điểm và hình thái mới từ văn học phương<br />
Tây, đồng thời vẫn luôn giữ được quỹ đạo phát triển mang đậm dấu ấn bản sắc của nền văn hóa<br />
phương Đông.<br />
Từ khóa: tính hiện đại, tiếp nhận, văn hóa phương Tây, văn học Việt Nam, văn học Trung Quốc<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ cầu. Tất cả các giá trị từ hiện thực đến phi hiện<br />
thực, trong đó bao gồm toàn bộ những sinh hoạt<br />
Những năm gần đây, khái niệm về tính hiện đại đời sống thường nhật từ vật chất đến tinh thần đều<br />
được bàn khá nhiều trên các diễn đàn văn hóa và đi theo hướng quốc tế hóa. Không chỉ Việt Nam<br />
văn học cả ở trong và ngoài nước. Đây được xem mà hầu như toàn bộ các nước trong khu vực văn<br />
là một phạm trù đa nghĩa và trừu tượng. Ý nghĩa hóa Đông Nam Á cũng đều đi theo quỹ đạo đó.<br />
nội hàm của nó không chỉ gắn liền vào đời sống Cũng chính theo cách đó, Việt Nam đã thoát khỏi<br />
văn hóa tinh thần mà còn tiến triển theo vòng quay ảnh hưởng lâu đời từ Trung Quốc sau thời gian kéo<br />
của thời gian và chiều dài của lịch sử. Trong lý luận dài hàng ngàn năm Bắc thuộc, để thực sự mang<br />
phê bình văn học, tính hiện đại vừa bao hàm các bản sắc của riêng mình, gắn với các quá trình đang<br />
nội dung ở phạm trù văn hoá, vừa bao hàm các nội diễn ra từng ngày từng giờ, theo đúng quy luật<br />
dung thuộc phạm trù văn học, nó được bắt nguồn từ phát triển của thế giới. Việc tiếp thu các lý luận của<br />
quá trình thoát khỏi phạm vi hoạt động trong nước văn hóa và văn học phương Tây là một phần quan<br />
hay khu vực để hòa mình vào dòng chảy chung của trọng và cơ bản trong lý luận văn học Việt Nam<br />
văn minh nhân loại và tham gia vào phạm vi toàn cũng như lý luận văn học Trung Quốc. Trong nửa<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 17 (01/2019) 75<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
đầu thế kỷ XX, tính hiện đại bắt đầu hình thành được chúng tôi liệt kê trong danh mục tài liệu tham<br />
và phát triển mạnh mẽ trong văn học Việt Nam khảo ở cuối bài viết. Trong số đó, xét về mặt nội<br />
(giai đoạn 1932 đến 1945) và văn học Trung Quốc dung, những nghiên cứu của các tác giả Việt Nam<br />
(giai đoạn 1915 đến 1937). Thời kỳ này, cả người tập trung nêu được vai trò của tính hiện đại trong<br />
Việt Nam và người Trung Quốc, mặc dù gặp phải lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam hoặc<br />
không ít những khó khăn và trở ngại nhưng vẫn phân tích quá trình hiện đại hóa văn học ở hai<br />
nỗ lực tiếp nhận và vận dụng các lý thuyết hiện nước sau khi đã tiếp nhận tính hiện đại từ văn học<br />
đại vào thực tiễn đời sống văn học của nước mình. phương Tây, còn những nghiên cứu của các tác<br />
Năm 1932, nền văn học Việt Nam đã chứng kiến giả Trung Quốc mới chỉ dừng lại ở góc độ vấn đề<br />
sự ra đời của nhóm “Tự lực văn đoàn” và bắt đầu lý luận về tính hiện đại trong văn học Trung Quốc<br />
xuất hiện phong trào “Thơ mới”. Hai sự kiện này mà chưa gắn liền vào thực tiễn phát triển văn học<br />
đánh dấu cho một giai đoạn văn học mới vừa được ở từng nước; không có bài viết nào đề cập và làm<br />
hình thành ở Việt Nam, phát triển mạnh mẽ nhất rõ sự giống và khác nhau về nguồn gốc hình thành,<br />
trong thời gian từ năm 1932 đến năm 1945. Cũng phát triển cũng như phương thức ảnh hưởng của<br />
khoảng thời gian đầu thế kỷ XX ở Trung Quốc, tính hiện đại đối với văn học hai nước. Từ đó cho<br />
năm 1915 là thời điểm nổ ra phong trào văn hóa thấy sự cần thiết trong việc mở rộng góc độ nghiên<br />
mới, đánh dấu cho sự bắt đầu của nền văn học hiện cứu để phân tích sâu hơn về vấn đề tính hiện đại<br />
đại1 nước này, phát triển mạnh mẽ nhất là khoảng trong văn học Việt Nam và Trung Quốc thời kỳ<br />
thời gian từ năm 1915 đến năm 1937. Trong hai nửa đầu thế kỷ XX.<br />
giai đoạn cao trào ấy ở mỗi nước, phong trào văn<br />
2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN<br />
học mới phát triển cực kỳ rực rỡ với những thành<br />
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA<br />
tựu văn học nở rộ, cho thấy tính hiện đại ở cả hai<br />
TÍNH HIỆN ĐẠI<br />
nền văn học đang được hình thành và phát triển<br />
vô cùng mạnh mẽ. Tuy nhiên, tính hiện đại được 2.1. Bối cảnh xã hội<br />
bắt nguồn, tiếp nhận, vận dụng vào nền văn học<br />
từng nước từ các chủ thể và nguồn gốc không Trong quá trình hình thành và phát triển của<br />
giống nhau, phương thức tiếp nhận cũng có những tính hiện đại trong văn học Việt Nam và Trung<br />
điểm khác biệt, do đó quá trình hình thành và phát Quốc, bối cảnh chung của hai nước đều là xã hội<br />
triển của tính hiện đại trong nền văn học hai nước thực dân nửa phong kiến, tuy nhiên bản chất chế<br />
cũng có những điểm tương đồng và khác biệt nhất độ xã hội ở từng nước vẫn có những điểm khác<br />
định. Nguyên nhân sâu xa đến từ điều kiện lịch nhau. Giai đoạn 1932 – 1945, Việt Nam dưới chế<br />
sử, xã hội và hoàn cảnh sống của người dân hai độ thực dân nửa phong kiến đang bị mất chủ quyền<br />
nước khác nhau, kéo theo diện mạo nền văn học vào tay thực dân Pháp. Dưới sự cai trị tàn khốc<br />
với những thành tựu sáng tác mang tính đặc trưng của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam hết sức loạn<br />
của từng nước. lạc rối ren, cuộc sống người dân bị đẩy vào hoàn<br />
cảnh vô cùng cực khổ. Mất chủ quyền, đồng nghĩa<br />
Nhìn lại những phân tích gần đây về ảnh hưởng với việc người dân mất đi những quyền cơ bản của<br />
của văn hóa, văn học phương Tây đối với nền văn con người, thậm chí phải sống cuộc sống không<br />
học của Việt Nam và Trung Quốc, đáng chú ý có bằng trâu ngựa. Do đó, nhà văn, nhà thơ Việt Nam<br />
nghiên cứu của PGS Nguyễn Thị Bích Hải (2010), giống như người lính bị loại khỏi trận tuyến chiến<br />
GS Trần Đình Sử (2014) (Việt Nam) và của học đấu, không thể viết bài, đăng bài để thể hiện quan<br />
giả Lại Đại Nhân (2004), Đồng Hân (2012) (Trung điểm sáng tác của mình một cách tự do. Họ phải<br />
Quốc). Đây là những nghiên cứu có ý nghĩa quan chịu sự kìm hãm và trói buộc rất lớn ngay từ trong<br />
trọng đối với lý luận phê bình văn học hai nước, tư tưởng sáng tác. Lúc đó, nhà văn, nhà thơ phải<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
76 Số 17 (01/2019)<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
sử dụng ngòi bút và nghiên mực như một thứ vũ của Trung Quốc vẫn tràn đầy sự sáng tạo, hừng<br />
khí sắc bén trên văn đàn để lên án những hiện thực hực khí thế mở cửa hướng ra thế giới. Do đó văn<br />
bất công trong xã hội, phê phán cái xã hội phong học hiện đại Trung Quốc phát triển vô cùng mạnh<br />
kiến thối nát và phản đối sự tàn bạo của giai cấp mẽ, tinh thần của tác phẩm luôn toát lên quyết tâm<br />
thống trị. Bằng cách đó, dưới sự lãnh đạo sáng suốt giải phóng dân tộc, giải cứu nhân dân và sự giác<br />
của Đảng Cộng sản Việt Nam, những ngòi bút ấy ngộ của chính người cầm bút. Cùng với đó là tinh<br />
đã dần xây dựng được trận địa chiến đấu để cùng thần phản đối, chống lại chế độ đế quốc và phong<br />
với quân và dân Việt Nam tiến hành thành công sự kiến, học hỏi tiếp thu văn hóa phương Tây, hướng<br />
nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp và giành đến một xã hội văn minh hiện đại. Bằng cách này,<br />
thắng lợi. tính hiện đại của văn hóa phương Tây đã được đưa<br />
vào nền văn học Trung Quốc, truyền bá vào xã hội<br />
Tháng 9 năm 1940, khi quân và dân ta vẫn Trung Quốc, thẩm thấu vào tư tưởng và quan điểm<br />
chưa đánh đuổi được thực dân Pháp thì Đế quốc của nhà văn một cách khá tự nhiên và ít gặp phải<br />
Nhật Bản cũng bắt đầu nhảy vào xâm lược nước ta. các trở ngại; từ đó quá trình hình thành và phát<br />
Chút tự do dân chủ bước đầu mới vừa giành giật triển tính hiện đại trong văn học Trung Quốc được<br />
được từ tay thực dân Pháp, chưa được bao lâu đã thúc đẩy một cách mạnh mẽ, dễ dàng, thuận lợi<br />
bị quân Nhật cướp lại. Nhiều thành phần trí thức hơn so với văn học Việt Nam. Đây cũng chính là<br />
có tư tưởng tiến bộ tham gia hoạt động cách mạng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chủ thể ảnh hưởng,<br />
bị quân địch bắt giam. Một bầu không khí u ám phương thức tiếp nhận tính hiện đại của văn học<br />
của chiến tranh bao trùm lên nền văn học nước Việt Nam không được phong phú và đa dạng như<br />
nhà. Tuy nhiên, nhiều nhà văn, nhà thơ được rèn trong văn học Trung Quốc.<br />
luyện và bồi dưỡng tinh thần đấu tranh đã vùng<br />
dậy đi theo cách mạng, đi theo tiếng gọi của Đảng 2.2. Chủ thể ảnh hưởng và phương thức tiếp nhận<br />
Cộng sản Việt Nam. Có thể nói, một số lượng lớn<br />
nhà văn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đều chuyển Mặc dù tư tưởng hiện đại của văn học phương<br />
sang hoạt động cho cách mạng, góp phần không Tây đều được thẩm thấu, ăn sâu bén rễ vào nền<br />
nhỏ vào sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, văn học hai nước, nhưng nếu nhìn từ những góc<br />
thống nhất đất nước qua chính ngòi bút sắc bén độ cụ thể thì chủ thể ảnh hưởng và phương thức<br />
của mình. tiếp nhận tính hiện đại có sự khác biệt nhất định.<br />
Văn học Việt Nam tiếp nhận ảnh hưởng của văn<br />
Thời điểm ấy, nhìn từ góc độ chính trị thì xã hóa phương Tây chủ yếu thông qua nền văn học<br />
hội Trung Quốc cũng là một xã hội thực dân nửa của thực dân Pháp. Nói cách khác, văn học Pháp<br />
phong kiến, vẫn tồn tại các phe phái hay các thế có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với văn học Việt Nam<br />
lực thù trong, giặc ngoài; nhưng khác nước ta trong thời gian nửa đầu thế kỷ XX. Còn đối với văn<br />
ở chỗ là Trung Quốc không hoàn toàn mất chủ học Trung Quốc thì không giống như vậy. Ngoài<br />
quyền, người dân nước họ vẫn còn những nhân việc chủ yếu nắm bắt và lĩnh hội văn học nước<br />
quyền cơ bản. Các nhà văn, nhà thơ Trung Quốc ngoài thông qua chủ thể chính là đế quốc Nhật Bản<br />
vẫn có thể đăng bài và tự do thể hiện được quan thì văn học Trung Quốc còn chịu ảnh hưởng từ nền<br />
điểm của mình; tư tưởng của họ ít phải chịu sự văn học của nhiều quốc gia phương Tây khác như<br />
kìm hãm hay trói buộc như đội ngũ nhà văn, nhà Nga, Đông Âu, Mỹ, Anh, Pháp, Đức…<br />
thơ Việt Nam. Điều này hoàn toàn khác so với bối<br />
cảnh xã hội Việt Nam, dẫn đến những khác biệt Thực dân Pháp sau khi tràn vào Việt Nam từ<br />
trong thành tựu sáng tác văn học của đội ngũ nhà năm 1858 đã bắt đầu áp đặt sự truyền bá tư tưởng<br />
văn hai nước. Tinh thần và tư tưởng văn hóa mới hiện đại của văn hóa phương Tây đối với nhân dân<br />
trong phong trào cách mạng Ngũ Tứ2 năm 1919 ta, đồng thời mở các trường học tại các tỉnh thành<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 17 (01/2019) 77<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
ở nước ta để giảng dạy tiếng Pháp và chữ quốc Trung Quốc, họ cũng mang theo một nền văn hóa<br />
ngữ. Rất nhanh sau đó, chữ Hán và chữ Nôm, vốn phương Tây và tiến hành truyền bá và đời sống xã<br />
được sử dụng rộng rãi trước đó, đã dần mất đi chỗ hội Trung Quốc. Trong hoàn cảnh đất nước dẫu có<br />
đứng trong xã hội. Tiếng Pháp và chữ quốc ngữ chiến tranh nhưng vẫn còn chủ quyền, vẫn có thể<br />
trở thành những môn học bắt buộc đối với người tự do ngôn luận, thì nhà văn, nhà thơ hoàn toàn<br />
dân Việt Nam. Sau đó, thực dân Pháp tiếp tục dùng vẫn tìm được không gian sáng tác cho riêng mình.<br />
tiếng Pháp và chữ quốc ngữ làm công cụ chính Do đó họ hoàn toàn có thể tiếp thu có chọn lọc các<br />
thức để truyền bá văn học Pháp và văn hóa phương nền văn minh ngoại lai theo ý muốn của mình một<br />
Tây ở Việt Nam. Bằng cách này, những tư tưởng, cách chủ động.<br />
quan điểm, phong cách sáng tác của các trào lưu<br />
văn học phương Tây đã thâm nhập vào nền văn Có thể thấy, giai đoạn từ năm 1932 đến năm<br />
học Việt Nam, đưa văn học Việt Nam bước vào 1945, về cơ bản văn học nước ta chỉ tiếp nhận ảnh<br />
thời kỳ hiện đại hóa. Nhiều nhà văn, nhà thơ Việt hưởng từ văn học Pháp, từ đó tiếp cận được những<br />
Nam từng được đào tạo qua các trường lớp do thực hình thái và tư tưởng mới từ văn học phương Tây.<br />
Mặc dù văn học Pháp cũng là một trong những đại<br />
dân Pháp mở ra trước đó, với lợi thế biết tiếng<br />
biểu của nền văn hóa phương Tây, nhưng không<br />
Pháp nên có thể nhận biết, đọc hiểu và tiếp xúc<br />
thể đại diện cho tất cả các quốc gia này. Mặt khác,<br />
với những tác giả, tác phẩm quan trọng trong nền<br />
do phương thức tiếp nhận được coi là bị động, nên<br />
văn học của các nước khác nhau trên thế giới, từ<br />
nhà văn, nhà thơ nước ta, ở một mức độ nhất định<br />
đó lĩnh hội và tiếp nhận giá trị của tính hiện đại từ<br />
nào đó, cũng không thể phát huy triệt để những tiềm<br />
nền văn hóa phương Tây.<br />
năng sáng tạo của mình. Ngược lại, ở Trung Quốc,<br />
Do thực dân Pháp đến Việt Nam với mục đích giai đoạn từ năm 1915 đến năm 1937, phương thức<br />
xâm lược, muốn biến Việt Nam thành thuộc địa tiếp nhận của họ khá tự do tự tại, được chủ động<br />
của chúng, ra sức tàn phá, áp bức và bóc lột nhân tìm kiếm, học hỏi và sáng tạo, do đó phạm vi tiếp<br />
dân ta, vì vậy sự truyền bá văn hóa và văn học nhận cũng rộng hơn rất nhiều so với Việt Nam.<br />
phương Tây của thực dân Pháp vào Việt Nam bị Yếu tố này quyết định đến con đường hình thành<br />
xem là một cách áp đặt những thứ văn hóa ngoại và phát triển tính hiện đại trong văn học hai nước,<br />
lai lên tư tưởng của người dân nước Việt. Ở một và trực tiếp ảnh hưởng đến những thành tựu trong<br />
góc độ ý nghĩa nào đó, cách thức tiếp nhận văn hóa sáng tác văn học của đội ngũ các nhà văn, nhà thơ.<br />
hiện đại này là ở thế bị động, một sự miễn cưỡng<br />
3. ẢNH HƯỞNG CỦA TÍNH HIỆN ĐẠI<br />
chấp nhận và tiếp nhận những giá trị ấy. Lúc này, ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ TÁC GIẢ VÀ THÀNH<br />
ở phương diện sáng tác, nhà văn, nhà thơ không hề TỰU SÁNG TÁC<br />
có quyền tự do ngôn luận, nhất cử nhất động đều<br />
bị thực dân Pháp quản chế hết sức chặt chẽ, nên Trong quá trình hòa mình vào dòng chảy chung<br />
chính họ cũng mất đi thế chủ động trong những của văn học thế giới, các yếu tố bối cảnh xã hội,<br />
tác phẩm của mình. Điều này khác hẳn đối với các chủ thể ảnh hưởng và phương thức tiếp nhận tính<br />
nhà văn, nhà thơ Trung Quốc cùng thời. Ngoài chủ hiện đại ở Việt Nam và Trung Quốc không giống<br />
thể tiếp nhận không giống nhau, phương thức tiếp nhau đã kéo theo sự khác biệt trong hình thành đội<br />
nhận của họ cũng hoàn toàn khác so với các nhà ngũ nhà văn, nhà thơ và thành tựu sáng tác văn<br />
văn của nước ta. Một mặt, họ tiếp cận để học tập học. Cụ thể, ở Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945,<br />
văn học nước ngoài qua con đường du học, tích có khá nhiều tác giả mưu sinh bằng nghề cầm bút,<br />
lũy tri thức văn hóa, đổi mới tư duy và phong cách coi sáng tác văn học là một biện pháp cải thiện và<br />
sáng tác, đây là phương thức tiếp nhận hoàn toàn nâng cao đời sống của bản thân và gia đình. Tuy<br />
tự do và chủ động. Mặt khác, khi người Nhật vào nhiên, phần lớn các tác giả của ta đều còn trẻ và<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
78 Số 17 (01/2019)<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
chưa được trải qua một quy trình đào tạo bài bản đa dạng hơn, những sáng tác của họ mang đậm dấu<br />
nào. Điều này dù không phải là yếu tố mang tính ấn cái tôi của bản thân, đồng thời những sắc thái<br />
quyết định sống còn đến chất lượng của tác phẩm, lãng mạn và tích cực cũng được thể hiện rõ nét qua<br />
nhưng ít nhiều cũng ảnh hưởng đến phong cách, tư từng câu thơ.<br />
duy cũng như thủ pháp nghệ thuật trong các sáng<br />
tác của nhà văn hay nhà thơ. Còn ở Trung Quốc, Tuy nhiên, sau thời gian gần một thế kỷ, mặc<br />
sau khi tiếp nhận tính hiện đại từ văn học phương dù gặp nhiều điều kiện không thuận lợi bằng,<br />
Tây thì đội ngũ nhà văn, nhà thơ của họ ngày một nhưng đến hôm nay những thành tựu xuất sắc của<br />
hùng hậu và phát triển lớn mạnh. Thời kỳ Ngũ Tứ, phong trào thơ mới trong văn học Việt Nam vẫn để<br />
nhà văn hay nhà thơ Trung Quốc phần lớn đều có lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Trong khi<br />
đó, thơ mới ở Trung Quốc, dù mang khí phách hào<br />
trình độ từ đại học trở lên (Nguyễn Thị Bích Hải,<br />
hùng của phong trào Ngũ Tứ, nhưng vẫn không<br />
2010), trong đó có nhiều tác giả là du học sinh từ<br />
để lại được ấn tượng sâu sắc với độc giả Trung<br />
các nước tư bản phương Tây trở về. Họ được trải<br />
Quốc như thơ mới ở nước ta đã làm được. Theo<br />
qua quá trình đào tạo bài bản nhất định. Nhiều nhà<br />
phân tích của chúng tôi thì điều này đến từ nhiều<br />
văn, nhà thơ Trung Quốc thực sự thuộc tầng lớp trí<br />
nguyên nhân, nhưng nguyên nhân cơ bản chính là<br />
thức bậc cao trong xã hội, thậm chí còn làm công<br />
do thơ mới của Trung Quốc sau khi bước vào thời<br />
tác giảng dạy trong các trường đại học. Họ coi<br />
kỳ hiện đại đã thoát ly khỏi những giá trị truyền<br />
viết văn, làm thơ là nghề nghiệp kiếm sống, do đó<br />
thống một cách khá triệt để. Một khi tính hiện đại<br />
phong cách sáng tác mang đậm nét chuyên nghiệp.<br />
vượt trội hơn so với tính truyền thống thì rất dễ<br />
Điểm tương đồng rõ nét trong quá trình phát đem đến cảm giác lạ lẫm với bạn đọc. Còn với Thơ<br />
triển tính hiện đại trong văn học hai nước, đó là mới ở Việt Nam, tiếp nhận cái hiện đại nhưng vẫn<br />
về mặt thể loại sáng tác đã được đổi mới một cách chú trọng bảo tồn giá trị truyền thống, làm nên một<br />
phong trào thơ mới vừa mới mẻ khác biệt lại vừa<br />
toàn diện. Ở hai nước đều có phong trào Thơ mới<br />
quen thuộc thân thiết. Những vần thơ mới giản dị<br />
và đều chiếm vị trí chủ đạo trên văn đàn, trở thành<br />
mộc mạc, dễ hiểu dễ nhớ, nhờ đó càng dễ đi sâu<br />
một trào lưu đem lại ảnh hưởng to lớn đối với xã<br />
vào tâm hồn bạn đọc.<br />
hội. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, nội dung<br />
chủ đề trong phong trào Thơ mới ở Việt Nam còn Thể loại văn xuôi ở thời kỳ trước thế kỷ XX<br />
khá hạn hẹp, chủ yếu vẫn là thể hiện những tâm so với thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX đã có những<br />
trạng đau khổ, buồn rầu, tiêu cực về bản thân hay thay đổi rõ nét, từ nội dung, hình thức đến phong<br />
cuộc sống. Trong khi đó, phong trào Thơ mới, hay cách sáng tác. Có thể nói, thời kỳ trước thế kỷ XX,<br />
còn gọi là Tân thi ở Trung Quốc đã bắt đầu xuất văn đàn hai nước đều tràn ngập bởi các loại tiểu<br />
hiện và phát triển sớm hơn ở nước ta hàng chục thuyết chương hồi, kiếm hiệp và nhà văn thường<br />
năm, nên từ thể loại đến nội dung, đề tài, tư tưởng, chú trọng quá mức đến nội dung cốt truyện. Phần<br />
phong cách sáng tác đều phong phú hơn của chúng lớn nội dung truyền tải thường khá dài và được<br />
ta rất nhiều; trong đó nổi bật lên là nội dung về khai thác dưới góc nhìn từ thế giới bên ngoài nên<br />
tinh thần dân chủ, ngợi ca đất nước và sự nghiệp hết sức trừu tượng, siêu thực, mông lung. Sang đến<br />
đấu tranh giải phóng dân tộc, hoặc thể hiện nghĩa thế kỷ XX, nội dung được rút ngắn hơn, cốt truyện<br />
vụ trách nhiệm đối với vận mệnh của quốc gia. Về thường cụ thể, đặc biệt thường được gắn liền với<br />
hình thức sáng tác, thơ mới ở cả hai nước đều sử đời sống xã hội hàng ngày của người dân. Đến<br />
dụng hình thức sáng tác cách tân, ngắn gọn, súc thời kỳ cao trào của văn học Việt Nam và Trung<br />
tích. So với đội ngũ nhà thơ Việt Nam, đội ngũ nhà Quốc trong nửa đầu thế kỷ XX, không chỉ hình<br />
thơ trong thời kỳ Ngũ Tứ ở Trung Quốc lớn mạnh thức sáng tác đã chuyển đổi từ dạng tiểu thuyết<br />
hơn rất nhiều, do đó phong cách nghệ thuật của họ chương hồi sang các dạng tiểu thuyết, truyện ngắn,<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 17 (01/2019) 79<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
truyện dài kỳ…, mà phong cách sáng tác trong văn trong thời kỳ này. Về mặt chủ đề và nội dung, bên<br />
học ở hai nước cũng đã từng bước được hoàn thiện cạnh việc biên soạn những tác phẩm kịch có cốt<br />
ngay từ trong cách nghĩ, tư duy của người cầm truyện mới, các vở kịch cũng thường được tác giả<br />
bút và đã có những thay đổi rõ rệt mang đậm lối hai nước biên soạn dựa theo các tác phẩm tiểu<br />
viết văn của văn học phương Tây. Nếu như phong thuyết, thơ ca nổi tiếng đã có sẵn trên văn đàn nên<br />
cách thơ ca thường theo khuynh hướng chủ nghĩa kịch bản thường rất phong phú, quen thuộc và có<br />
lãng mạn, thì phong cách văn xuôi và tiểu thuyết sức hút đối với khán giả. Hình thức kịch và cách<br />
phần lớn lại nghiêng về khuynh hướng chủ nghĩa thể hiện kịch cũng được đội ngũ sáng tác ở hai<br />
hiện thực. Những Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Ba Kim, nước chú trọng thay đổi, không đi theo lối mòn<br />
Lão Xá của Trung Quốc hay Nguyễn Công Hoan, của thời kỳ trước. Với nhận thức kịch chính là quá<br />
Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng của Việt trình sân khấu hóa cho tất các thể loại khác, từ văn<br />
Nam là những minh chứng rõ nét nhất. Chỉ có số xuôi, tiểu thuyết, thơ từ… cho đến ca, vũ, nhạc;<br />
ít sáng tác của Quách Mạt Nhược hay truyện ngắn các tác giả đã thay đổi hình thức thể hiện của kịch<br />
của nhóm “Tự lực văn đoàn” là có mang đôi chút một cách hết sức linh hoạt. Trên cơ sở những thay<br />
hơi hướng của chủ nghĩa lãng mạn. đổi đó, phong cách sáng tác kịch cũng mang nhiều<br />
nét hiện đại hơn so với thời kỳ trước thế kỷ XX.<br />
Tản văn và tạp văn cũng là thể loại sáng tác<br />
Những tác giả có đóng góp lớn trong thời kỳ này ở<br />
có nhiều thay đổi trong nửa đầu thế kỷ XX. Thời<br />
Việt Nam, có thể kể đến Thế Lữ, Vũ Đình Long…;<br />
kỳ này, tản văn trong văn học Trung Quốc cực kỳ<br />
ở Trung Quốc có thể nói đến Lão Xá, Tào Ngu,<br />
phát triển với nội dung và chủ đề về con người,<br />
Điền Hán… Xét về thành tựu, thể loại kịch trong<br />
cuộc sống, thiên nhiên… Những nội dung sáng tác<br />
thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam và Trung<br />
đều được các tác giả cập nhật hết sức phong phú.<br />
Đặc biệt, thời kỳ này ở Trung Quốc, trên văn đàn Quốc đều đạt được những bước tiến đáng kể trong<br />
đã xuất hiện hình thức tản văn kiểu mới, thơ tản nội dung và nghệ thuật.<br />
văn… và phát triển rất nở rộ. Một loạt các nhà văn<br />
Thể loại lý luận phê bình văn học ở Việt Nam,<br />
nổi tiếng như Lỗ Tấn, Châu Tác Nhân, Chu Tự<br />
trước đây gần như chưa từng xuất hiện, và đến đầu<br />
Thanh, Băng Tâm, Hứa Địa Sơn… đều đã chuyển<br />
thế kỷ XX chỉ mới bước vào thời kỳ phát triển sơ<br />
hướng sáng tác sang hình thức tản văn kiểu mới<br />
khai. Các bài phê bình, khái quát, lý luận văn học<br />
này và cho ra đời nhiều tập tản văn đặc sắc cả về<br />
đơn lẻ bắt đầu được đăng tải trên các tạp chí lý<br />
nội dung và hình thức. Trong đó, không ít tác phẩm<br />
luận văn học, văn nghệ như Nam Phong, Tri Tân,<br />
được sáng tác trong thời kỳ này cho đến nay vẫn<br />
Thanh Nghị; sau đó mới dần xuất hiện những học<br />
còn nguyên giá trị và trở thành những tác phẩm<br />
giả và nhà nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này.<br />
kinh điển để lại cho các thế hệ sau sử dụng trong<br />
Trong khi đó, ngay từ giai đoạn văn học trước, thể<br />
lĩnh vực lý luận phê bình và nghiên cứu. Còn ở<br />
loại này đã là một thế mạnh của văn học Trung<br />
Việt Nam, giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, tản văn và<br />
tạp văn vẫn còn là một thể loại văn học mới mẻ và Quốc, sang đến đầu thế kỷ XX, những giao lưu,<br />
đang ở giai đoạn tiền phát triển, nếu có xuất hiện tiếp xúc với hàng loạt các trường phái văn học<br />
thì chỉ là được đề cập sơ qua trên một vài trang báo khác nhau đến từ nhiều nguồn văn hóa ngoại lai<br />
hoặc tạp chí văn học trong nước. Do đó thành tựu lại càng dễ dàng đưa đến cho văn học Trung Quốc<br />
chủ yếu của tản văn thời kỳ này ở Việt Nam vẫn nhiều vấn đề liên quan để bình luận, phân tích,<br />
chỉ dừng lại ở những thảo luận xoay quanh việc phê bình, do đó lý luận phê bình văn học lại càng<br />
đổi mới về nội dung và hình thức thể hiện. phát triển mạnh mẽ hơn và được đẩy lên một tầm<br />
cao mới. Nội dung của lý luận phê bình văn học<br />
Sự phát triển mạnh mẽ của thể loại kịch cũng chủ yếu là bàn về sự phát triển của các giai đoạn<br />
là một nét tương đồng nữa của văn học hai nước văn học cận hiện đại Trung Quốc, trào lưu văn học<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
80 Số 17 (01/2019)<br />
VĂN HÓA - VĂN HỌC v<br />
<br />
<br />
<br />
Ngũ Tứ, sự đổi mới và cải cách trong văn học, sự do, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ của<br />
ảnh hưởng của văn học nước ngoài và tiếp nhận nhân dân hai nước. Ngày nay, dù quá trình tiếp<br />
của văn học Trung Quốc… Hình thức sáng tác nhận tính hiện đại, hậu hiện đại cũng như những<br />
chủ yếu thường là bình luận, khái quát, phê bình, cái mới, cái đẹp từ nền văn hóa phương Tây vẫn<br />
phân tích… về giai đoạn văn học hay tác giả tác là một dòng chảy tiếp diễn chưa bao giờ dừng lại,<br />
phẩm. Nếu như trước đây, phong cách phê bình nhưng nền văn học của hai nước vẫn luôn nằm trên<br />
thường bị ảnh hưởng bởi lối nói giảm, nói tránh thì một quỹ đạo riêng. Việt Nam hay Trung Quốc, dù<br />
ở giai đoạn này, vấn đề khái quát, bình luận thường có “Tây hóa” theo cách nào đi nữa, vẫn sẽ không<br />
được chỉ ra một cách thẳng thắn với phương pháp bao giờ bị thoát hẳn ra khỏi hình bóng của nền văn<br />
lập luận chặt chẽ, mang tính thuyết phục cao. hóa phương Đông, vốn mang trong mình những<br />
nét đặc trưng mà không một nền văn minh nào trên<br />
Tóm lại, xét một cách toàn diện ở tất cả các<br />
thế giới có được. Tất cả các yếu tố mang tính hiện<br />
thể loại sáng tác trong văn học Việt Nam và Trung<br />
đại đến từ những nền văn hóa ngoại lai, sẽ được<br />
Quốc thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX, nội dung tư tưởng<br />
văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc học tập<br />
và quan điểm sáng tác của các tác giả Trung Quốc<br />
thường sớm có phân chia khuynh hướng, đồng và tiếp thu một cách có chọn lọc, sáng tạo nên một<br />
thời được thể hiện rõ rệt hơn so với các tác giả nền văn học thời kỳ mới với nhiều nét đẹp độc<br />
Việt Nam, do đó đề tài trong văn học Trung Quốc đáo và đặc sắc của mình. Việt Nam và Trung Quốc<br />
cũng thường phong phú hơn. Tác phẩm của Trung sẽ cùng bước vào kỷ nguyên văn học xã hội chủ<br />
Quốc ngay từ đầu thời kỳ Ngũ Tứ đã luôn sục sôi nghĩa, tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn công cuộc<br />
ý chí chống quân xâm lược, kêu gọi lòng quyết cải cách mở cửa ở từng nước, điều đó hoàn toàn<br />
tâm chiến đấu, đánh thắng và lan tỏa mạnh mẽ với phù hợp với quy luật phát triển cơ bản của lịch sử,<br />
bạn đọc. Còn thời kỳ đầu những năm 30 của thế kỷ xã hội và thời đại/.<br />
XX, các tác phẩm văn học Việt Nam mặc dù cũng<br />
Chú thích:<br />
thể hiện được tư tưởng đồng cảm trước số phận<br />
của người dân mất nước, bất mãn với sự thối nát 1. Văn học hiện đại Trung Quốc: giai đoạn văn<br />
của chế độ thực dân nửa phong kiến, nhưng cuối học được xác định từ năm 1917 đến năm 1949. Đây là<br />
cùng thường là lực bất tòng tâm vì không thể thay cách phân chia thời kỳ văn học theo quan điểm của GS<br />
đổi được hiện thực xã hội. Mãi cho đến những năm Nguyễn Hiến Lê, đồng thời cũng là quan điểm phổ biến<br />
40, khi mà “Từ ấy” và “Việt Bắc” của nhà thơ cách hiện nay ở Trung Quốc.<br />
mạng Tố Hữu xuất hiện, thì văn học Việt Nam mới<br />
thực sự bắt đầu phát huy đúng vai trò “văn dĩ tải 2. Phong trào Ngũ Tứ: phong trào yêu nước diễn<br />
đạo, thi dĩ ngôn chí”3 của mình. ra ngày 4 tháng 5 năm 1919 ở Bắc Kinh do lực lượng<br />
học sinh, thanh niên làm nòng cốt, lãnh đạo đông đảo<br />
4. KẾT LUẬN nhiều tầng lớp nhân dân Trung Quốc tham gia tiến hành<br />
biểu tình, bãi công, bạo lực… để phản đối chủ nghĩa đế<br />
Trong bối cảnh lịch sử xã hội đen tối của quá quốc, phong kiến.<br />
trình hình thành và phát triển tính hiện đại trong<br />
văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc nửa đầu 3. Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí: dùng văn chương<br />
thế kỷ XX, đội ngũ nhà văn, nhà thơ mỗi nước để nói về đạo lý, dùng thơ ca để biểu đạt tư tưởng và<br />
ý chí.<br />
đều đã có những nỗ lực rất lớn trong hoạt động<br />
sáng tác, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, dùng Tài liệu tham khảo:<br />
ngòi bút và tác phẩm văn học làm vũ khí sắc bén<br />
để tiến hành đấu tranh chống lại kẻ thù. Điều đó Phan Cự Đệ (1999), Văn học Việt Nam, 1900 –<br />
cho thấy khát vọng to lớn về một nền độc lập, tự 1945, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 17 (01/2019) 81<br />
v VĂN HÓA - VĂN HỌC<br />
<br />
<br />
Nguyễn Thị Bích Hải (2010), Quá trình hiện đại 赖大仁(2004),“当代文学理论批评的现<br />
hóa văn học ở Trung Quốc và Việt Nam từ cái nhìn so 代性问题——近年来文学理论现代性问题讨论述<br />
sánh, Website hocday.com, truy cập ngày 5/10/2018, 评”,江西师范大学学报(哲学社会科学版),<br />
. 第37卷,第4期,第8-12页。<br />
Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hóa văn 钱中文(1999),“再谈文学理论现代性问<br />
học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Văn hóa thông tin,<br />
题”,文艺研究,第3期,第73-88页。<br />
Hà Nội.<br />
汤哲声(1995),中国文学现代化的转型(中<br />
Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn<br />
học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so 国现代文学主潮:1917-1976),南京大学出版<br />
sánh, NXB Hà Nội, Hà Nội. 社,南京。<br />
<br />
Trần Đình Sử (2014), Tính hiện đại và lịch sử lý 佟欣(2012),“现代文学理论批评的现代性<br />
luận phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX, Website 特征”,现代语文(学术综合版),第10期,第<br />
trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, truy 78-79页。<br />
cập ngày 5/10/2018, . 题”,学术研究,第11期,第85-88页。<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
COMMENTS ON THE MODERNITY OF VIETNAMESE AND CHINESE<br />
LITERATURES IN THE FIRST HALF OF THE 20TH CENTURY<br />
NGUYEN NGOC MINH<br />
Abstract: As a research topic in the development of the modernity in Vietnamese and Chinese<br />
literature, this paper mainly explores the process of literary modernization of the two countries<br />
based on analyzing both countries’ social background, the development of literary modernity<br />
and literary achievement in the first half of the 20th century. It then points out the similarities and<br />
differences between the two countries’ literary modernization process. The modernity of Chinese<br />
and Vietnamese literatures was originated from Western literature, and Vietnam and China’s new<br />
cultral and literary movement was developing very rapidly. Rather than being tally Westernized,<br />
both countries have only made creative and selective imitation and absorption from the Western<br />
literature and have still retained their development track with oriental features.<br />
Keywords: Chinese literature, modernity, Western culture, Vietnamese literature, receptivity<br />
Received: 05/10/2018; Revised: 21/10/2018; Accepted: 20/12/2018<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
82 Số 17 (01/2019)<br />