intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo " Các nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ quy định tội phạm trong luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

134
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ quy định tội phạm trong luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009. Pháp luật hình sự là công cụ hữu hiệu mà bất kì nhà nước cũng sử dụng để đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm. Các nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ quy định tội phạm trong luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009. Pháp luật hình sự là công cụ hữu hiệu mà bất kì nhà nước...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo " Các nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ quy định tội phạm trong luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 "

  1. nghiªn cøu - trao ®æi TS. Hå Sü S¬n * 1. Nhu cầu tội phạm hoá và thực trạng P háp luật hình sự là công cụ hữu hiệu mà bất kì nhà nước nào cũng sử dụng để đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm. tội phạm hoá trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 Khả năng đấu tranh, phòng ngừa và chống Cũng như các hiện tượng xã hội khác, tội tội phạm của pháp luật hình sự phụ thuộc phạm hoá là hiện tượng động. Điều đó có vào rất nhiều yếu tố, trong đó có việc đánh nghĩa là những hành vi nguy hiểm cho xã hội giá đúng đắn và xác định chính xác những đã được tội phạm hoá thành những tội danh hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội để cụ thể có thể bị đưa ra khỏi phạm vi tác động quy định chúng là tội phạm. Việc quy định của luật hình sự, tức không còn bị coi là tội tội phạm được khoa học pháp lí hình sự gọi phạm. Bên cạnh đó, sẽ có những hành vi vi là tội phạm hoá (criminalisation) và một bộ phạm pháp luật đã phát triển đến mức phổ phận của quá trình tội phạm hoá đó là hình biến, có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội sự hoá (penalisation) được coi là vấn đề phải được tội phạm hoá, tức phải được nâng trung tâm của việc bảo vệ các quan hệ xã hội lên “hạng tội phạm”. Vấn đề là ở chỗ tất cả bằng các biện pháp pháp lí hình sự. Cố các quá trình xã hội bao giờ cũng có mặt tích nhiên, vấn đề quan trọng được đặt ra và cần cực và tiêu cực hay nói cách khác, trong mọi được giải quyết một cách thấu đáo ở đây thứ quá trình xã hội luôn tiềm ẩn những mâu nhất là trong điều kiện xã hội nhất định thì thuẫn nội tại nhất định. Thêm vào đó, hoạt những hành vi nguy hiểm nào cho xã hội cần động của con người vốn gắn với những tiêu phải tội phạm hoá và tại sao phải tội phạm chí lợi ích nhất định cũng làm cho các mâu hoá chúng; thứ hai, nhu cầu và mức độ tội thuẫn đó bộc lộ và diễn biến phức tạp, dẫn phạm hoá bị quy định bởi những nhân tố tới những hậu quả khác nhau. Trong quá nào? Vậy, nhà làm luật Việt Nam đã giải trình xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ quyết vấn đề đó như thế nào khi tiến hành tội chế thị trường, xuất hiện ngày càng nhiều và phạm hoá một loạt hành vi nguy hiểm cho xã có lúc rất phức tạp hiện tượng như gian lận hội thành những tội danh cụ thể trong Luật thuế, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật vi phạm các quy định về quản lí đất đai với hình sự được Quốc hội thông qua ngày nhiều hình thức tinh vi khác nhau, mua, bán, 19/6/2009? Bài viết dưới đây nhằm mục đích * Viện nhà nước và pháp luật trả lời cho những câu hỏi đó. Viện Khoa học xã hội Việt Nam t¹p chÝ luËt häc sè 1/2010 35
  2. nghiªn cøu - trao ®æi sử dụng trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp Trên tinh thần đó, trong Luật sửa đổi, bổ ngân sách nhà nước. Trong lĩnh vực chứng sung một số điều của Bộ luật hình sự được khoán có không ít hành vi có tính nguy hiểm Quốc hội thông qua ngày 19/6/2009, nhà làm đáng kể cho xã hội phát triển đến mức phổ luật nước ta đã tội phạm hoá một loạt hành biến như công bố thông tin sai lệch hoặc che vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội thành giấu sự thật khi chào bán, niêm yết hoặc giao những tội danh cụ thể như: tội in, phát hành, dịch chứng khoán; sử dụng thông tin nội bộ mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp để mua bán chứng khoán; gian lận, lừa đảo ngân sách nhà nước (Điều 164a); tội vi phạm trong giao dịch chứng khoán; thao túng giá quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 170a); chứng khoán v.v.. Thực trạng tương tự cũng tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che xảy ra trong lĩnh vực công nghệ thông tin. giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán Những hành vi có tính nguy hiểm đáng kể (Điều 181a); tội sử dụng thông tin nội bộ để cho xã hội như: truy cập bất hợp pháp vào mua bán chứng khoán (Điều 181b); tội thao mạng viễn thông, mạng vi tính, mạng internet túng giá chứng khoán (Điều 181c); tội vi hoặc thiết bị số của người khác; sử dụng phạm quy định về chất thải nguy hại (Điều mạng viễn thông, mạng máy tính, mạng 182a); tội vi phạm quy định về phòng ngừa internet hoặc thiết bị số để thực hiện hành vi sự cố môi trường (Điều 182b); tội truy cập chiếm đoạt tài sản xảy ra ngày càng nhiều. bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn Lĩnh vực giáo dục và đào tạo trong những thông, mạng internet hoặc thiết bị số của năm gần đây cũng chứng kiến hàng loạt các người khác (Điều 226a); tội sử dụng mạng hành vi có tính nguy hiểm đáng kể cho xã máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hội như thi hộ, gian lận kết quả thi v.v.. hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt Thực tiễn đấu tranh, phòng ngừa và chống tài sản (Điều 226b); tội khủng bố (Điều tội phạm cũng cho thấy có nhiều hành vi vi 230a); tội tài trợ khủng bố (Điều 230b)... phạm pháp luật nhưng không bị xử lí hình sự Nhà làm luật cũng đã sửa đổi, bổ sung các vì Bộ luật hình sự chưa quy định như: tài trợ dấu hiệu vào một số tội cho phù hợp với tình cho hoạt động khủng bố, buôn bán nam giới, hình mới, chẳng hạn như: tội trốn thuế (Điều mua, bán rác thải y tế hoặc chất thải công nghiệp chưa qua xử lí, nuôi nhốt động vật 161); tội xâm phạm quyền sở hữu công thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm nghiệp (Điều 171); tội vi phạm các quy định được ưu tiên bảo vệ… gây ra những bức xúc về quản lí đất đai (Điều 174)… Cùng với lớn trong xã hội. Ngoài ra, trong một số lĩnh việc quy định mới tội phạm, nhà làm luật vực như: chứng khoán, sở hữu trí tuệ, bản nước ta đã đưa hành vi sử dụng trái phép quyền tác giả… cũng có khá nhiều hành vi chất ma tuý vốn đã được quy định là tội có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội cần phạm tại Điều 199 của Bộ luật hình sự năm phải tội phạm hoá để xử lí bằng các biện 1999 ra khỏi phạm vi tác động của luật hình pháp pháp lí hình sự. sự, tức không còn coi nó là tội phạm. 36 t¹p chÝ luËt häc sè 1/2010
  3. nghiªn cøu - trao ®æi 2. Những nhân tố quyết định nhu cầu tương ứng của đời sống xã hội và sự thay đổi và mức độ tội phạm hoá trong Luật sửa trong tính chất của tính nguy hiểm cho xã đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình hội của các hành vi xâm hại đó. Tính nguy sự năm 2009 hiểm cho xã hội của hành vi thể hiện ở tính Từ những hành vi được tội phạm hoá, chất nguy hiểm và ở mức độ nguy hiểm của sửa đổi, bổ sung hoặc được phi tội phạm hoá nó cho xã hội. Mức độ nguy hiểm cho xã hội đã nêu trên đây, có thể thấy việc sử dụng của hành vi được phản ánh qua nhiều thông pháp luật hình sự để đấu tranh phòng ngừa số, trong đó có hậu quả mà nó gây ra hoặc đe và chống tội phạm trước hết bao giờ cũng doạ gây ra cho xã hội. Trong điều kiện đổi xuất phát từ nhu cầu bảo vệ các quan hệ phát mới, mở cửa, tăng cường hợp tác và hội triển tiến bộ của xã hội Việt Nam. “Nhà làm nhập quốc tế, mặt trái của nền kinh tế thị luật”, đúng như C. Mác đã nhận xét: “không trường, tính chất và mức độ nguy hiểm của làm ra luật, không sáng chế ra các luật lệ các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực mà chỉ hình thức hoá chúng”.(1) Do vậy, việc công nghệ thông tin, đặc biệt là trong các đánh giá được tính nguy hiểm cho xã hội của lĩnh vực ngân hàng, bưu chính viễn thông, hành vi này hay hành vi khác là vô cùng thương mại điện tử, văn hoá-nghệ thuật, sở quan trọng đối với việc tội phạm hoá nhưng hữu trí tuệ… ngày càng nghiêm trọng. Chẳng chưa phải là tất cả. Cho nên, ngoài việc đánh hạn trong lĩnh vực ngân hàng, lợi dụng chủ giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi trương hiện đại hoá và tăng cường giao dịch với tính cách là căn cứ quan trọng nhất của một cửa, một số người có chức vụ, quyền tội phạm hoá cần phải xem xét một cách kĩ hạn đã lợi dụng sự quản lí lỏng lẻo của một lưỡng và đầy đủ các nhân tố khác mà ở mức số ngân hàng để lập chứng từ giả, sử dụng độ này hay mức độ khác quyết định nhu cầu máy tính quản lí quá trình giao dịch thanh và mức độ tội phạm hoá các hành vi nguy toán chiếm đoạt tiền của Nhà nước; truy cập hiểm cho xã hội xâm phạm các lĩnh vực vào mạng máy tính rút tiền tham ô; giả mạo quan hệ tương ứng của đời sống xã hội. Vậy, chữ kí của chủ tài khoản vào tài khoản “ma”, đó là những nhân tố nào? Đây là vấn đề có từ đó dùng thẻ ATM rút tiền tham ô lên tới nội hàm lớn song cần phải được giải quyết hàng trăm tỉ đồng. Trong lĩnh vực bưu chính một cách rõ ràng và có cơ sở khoa học. viễn thông cũng vậy, ngày càng xuất hiện Nghiên cứu những nhân tố có vai trò quyết nhiều và lan rộng một số dạng hành vi mới định nhu cầu và mức độ tội phạm hoá mà như lắp đặt, thuê kênh riêng, sử dụng dịch vụ nhà làm luật Việt Nam đã cân nhắc trong lần viễn thông, thiết bị kĩ thuật công nghệ cao để sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật trộm cắp tiền cước điện thoại viễn thông hình sự ngày 19/6/2009, chúng tôi cho rằng: quốc tế với số lượng đặc biệt lớn. Các dạng Thứ nhất, nhu cầu và mức độ tội phạm hành vi nguy hiểm mới cho xã hội như: lấy hoá trước hết được quyết định bởi tính nguy cắp thông tin của các doanh nghiệp, vô ý làm hiểm cho xã hội ngày càng cao của các hành lộ bí mật thông tin, làm biến dạng các dữ vi xâm hại các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực liệu thương mại điện tử, tấn công từ chối t¹p chÝ luËt häc sè 1/2010 37
  4. nghiªn cøu - trao ®æi dịch vụ, giả mạo chữ kí điện tử… trong lĩnh quyền của công dân được sống trong môi vực thương mại điện tử cũng xuất hiện ngày trường trong lành gắn chặt với việc thực hiện càng phổ biến và gây ra những thiệt hại đặc chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực bảo biệt nghiêm trọng. Cố nhiên, để xảy ra tình vệ môi trường. Vì vậy, bảo vệ môi trường trạng đó, lỗi không phải do sự đổi mới, hội bằng pháp luật hình sự vừa là phương tiện nhập và hợp tác quốc tế hay nền kinh tế thị thực hiện chiến lược, chương trình, chính trường mà là do các mâu thuẫn xã hội nảy sách bảo vệ môi trường quốc gia, vừa là một sinh trong quá trình phát triển xã hội chưa trong những bảo đảm cho việc thực hiện được giải quyết một cách thoả đáng, hợp lí. quyền của công dân được sống trong môi Chính sự đổi mới, sự hội nhập và hợp tác trường trong lành. Ở khía cạnh đối ngoại, quốc tế của nền kinh tế thị trường tạo ra pháp luật hình sự Việt Nam còn được coi là chiếc chìa khoá cho việc giải quyết nhiều phương tiện để thực hiện các biện pháp bảo vấn đề của đời sống xã hội. Tuy nhiên, vệ môi trường đã được quy định trong các chừng nào các mâu thuẫn đó đang tồn tại thì điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc việc đấu tranh với các hành vi lợi dụng công gia nhập vì một số điều ước quy định các nghệ cao bằng cả các biện pháp pháp lí hình quốc gia thành viên phải quy định và áp sự là vô cùng cần thiết. dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự đối Thứ hai, trong số những nhân tố quyết với các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm định nhu cầu và mức độ tội phạm hoá có yêu phạm môi trường. cầu của chính sách đối nội và đối ngoại của Thứ ba, vị trí và vai trò của các biện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt pháp pháp luật hình sự trong hệ thống các Nam. Một trong những biểu hiện của nhân tố biện pháp bảo vệ các quan hệ xã hội cũng này là nhu cầu tội phạm hoá các hành vi góp phần quyết định nhu cầu và mức độ tội nguy hiểm cho xã hội xâm hại môi trường phạm hoá. Vấn đề là ở chỗ nói đến vai trò như mua, bán, tái chế rác thải y tế nguy hại của các biện pháp pháp lí đối với đấu tranh, hoặc chất thải công nghiệp chưa qua xử lí để phòng ngừa và chống tội phạm, trước hết sản xuất vật dụng tiêu dùng... Chúng ta thấy không thể không nói đến các biện pháp pháp rằng ở khía cạnh chính trị trong nước, pháp lí hình sự. Mặc dù quan trọng như vậy song luật hình sự được coi là một trong những các biện pháp pháp lí hình sự không phải là phương tiện, thông qua đó Nhà nước thực “liều thuốc vạn năng” hay là “liều thuốc đặc hiện chức năng bảo vệ môi trường với tư trị” đối với tội phạm. Chẳng hạn, trong lĩnh cách là một trong những chức năng độc lập vực chứng khoán, khả năng của các biện của mình. Trong quan hệ chính trị, việc pháp pháp lí hình sự có tính hạn chế khách khẳng định sự tồn tại của chức năng này thể quan bởi: 1). Các biện pháp pháp lí hình sự ít hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước trước các có khả năng khắc phục được nguyên nhân công dân của mình trong việc bảo đảm sự của các hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm bình yên về sinh thái cho cuộc sống của các hại các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này; 2). thế hệ hôm nay và mai sau. Việc thừa nhận Phương pháp mà luật hình sự sử dụng như 38 t¹p chÝ luËt häc sè 1/2010
  5. nghiªn cøu - trao ®æi cải tạo, trừng trị… tự nó hạn chế phạm vi tác càng nhiều loại hành vi nguy hại mới xâm động của pháp luật hình sự. Bên cạnh đó, có hại các yếu tố cụ thể của môi trường như: không ít các biện pháp mang tính tổ chức, mua, bán rác thải y tế hoặc chất thải công tính pháp lí, tính giáo dục… tạo ra cơ sở tốt nghiệp chưa qua xử lí để sản xuất vật liệu cho việc phòng ngừa các hành vi vi phạm tiêu dùng… Ngay cả những người thực hiện pháp luật xâm phạm các quy định của Nhà các loại hành vi mua bán rác thải y tế hoặc nước về quản lí hoạt động chứng khoán và chất thải công nghiệp chưa qua xử lí đó ngày tạo ra “cái nền” cần thiết cho việc quy định càng sử dụng nhiều hơn các thủ đoạn tinh vi tội phạm một cách có căn cứ những hành vi gây tác hại to lớn hơn cho môi trường. Tính nguy hiểm nhất cho xã hội trong lĩnh vực chất nghiêm trọng của các thiệt hại do các chứng khoán, trong đó có các hành vi xâm hành vi trên gây ra cho môi trường ngày phạm hoạt động chào bán, niêm yết, giao càng lớn. Việc đấu tranh phòng ngừa, chống dịch chứng khoán. Vì vậy, khi xác định nhu các hành vi gây ô nhiễm môi trường đã nêu cầu và mức độ quy định tội phạm, ở mức độ trên bằng các biện pháp pháp lí hình sự là rất lớn, nhà làm luật nước ta tính đến trạng cần thiết. Điều đó lí giải vì sao trong Luật thái, sự phát triển và khả năng tác động của sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật các biện pháp pháp lí thuộc các ngành luật hình sự năm 2009 nhà làm luật đã tiến hành khác mà trước hết là luật hành chính, luật tội phạm hoá thêm một loạt hành vi xâm hại môi trường, luật kinh tế, luật dân sự, luật hôn môi trường. nhân và gia đình… đối với các hành vi vi Thứ năm, trạng thái của ý thức pháp luật phạm pháp luật. về các lĩnh vực tương ứng của đời sống xã Thứ tư, các yếu tố thuộc về tội phạm hội cũng là nhân tố quan trọng mà nhà làm học như: thực trạng, cơ cấu, diễn biến của luật trong khi xác định nhu cầu và mức độ tình hình vi phạm pháp luật trong các lĩnh tội phạm hoá không thể không cân nhắc. vực quan hệ xã hội tương ứng có vai trò nhất Vấn đề là ở chỗ chỉ khi nào số đông trong xã định trong việc xác định nhu cầu và mức độ hội thừa nhận hành vi nào đó cần phải bị tội phạm hoá. Chẳng hạn, trước khi ban hành trừng trị bằng các biện pháp pháp luật hình Bộ luật hình sự năm 1999, các loại hành vi sự thì việc quy định hành vi đó là tội phạm săn bắt trái phép động vật hoang dã quý mới cần thiết và có hiệu quả. Không phải hiếm, đánh bắt cá trái phép, săn bắt trái phép ngẫu nhiên mà C. Mác đã nhấn mạnh: “dân trong rừng… xảy ra ngày càng nhiều và hết chúng chỉ nhìn thấy hình phạt chứ không sức phức tạp. Kết quả là các hành vi vi phạm nhận ra tội phạm và chính vì thế, dân chúng pháp luật môi trường đó được tội phạm hoá sẽ thấy hình phạt khi không có tội phạm, sẽ thành các tội cụ thể trong Chương “Các tội không nhận ra tội phạm khi có hình phạt”.(2) phạm về môi trường” của Bộ luật hình sự Trở lại với vấn đề về vai trò của ý thức pháp năm 1999. Thế nhưng trong quá trình phát luật đối với việc tội phạm hoá, có thể thấy đa triển xã hội, với sự tác động mạnh mẽ của số người dân Việt Nam đòi hỏi phải tăng tiến bộ khoa học công nghệ, xuất hiện ngày cường việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là t¹p chÝ luËt häc sè 1/2010 39
  6. nghiªn cøu - trao ®æi tăng cường bảo vệ môi trường bằng các biện các tội phạm mà còn cho phép phân hoá pháp pháp lí hình sự. Song, trong ý thức trách nhiệm hình sự tuỳ thuộc vào tính nguy thông thường của một bộ phận dân cư và của hiểm cho xã hội của hành vi và các đặc điểm một số cán bộ hoạt động trong các lĩnh vực y nhân thân người phạm tội. Chẳng hạn, trong tế và kinh tế tồn tại quan niệm mang tính khi chưa định nghĩa một cách rõ ràng thế nào phổ biến về “thu nhập cao” từ việc mua, bán, là gây hậu quả nghiêm trọng đối với môi tái chế rác thải y tế nguy hại cũng như từ trường, nhà làm luật cần cân nhắc có sử mua, bán, tái chế chất rắn nguy hại chưa qua dụng hay không các yếu tố “đã bị xử lí hành xử lí… Chính trạng thái ý thức pháp luật đó chính mà còn vi phạm” và “gây hậu quả có thể tạo ra những lực cản cho cả việc tuân nghiêm trọng” là yếu tố bắt buộc của cấu thủ lẫn việc áp dụng pháp luật hình sự. Vì thành tội phạm. Thực tiễn cho thấy hậu quả vậy, trạng thái ý thức pháp luật là một trong do tội phạm môi trường gây ra thường tích những nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ luỹ theo thời gian, có thể một vài năm sau, tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm cho xã có thể hàng chục năm sau mới phát tán và hội, trong đó có các hành vi nguy hiểm xâm gây hậu quả. Trong khi đó, phần lớn các hại môi trường. Dĩ nhiên, tội phạm hoá đến trường hợp, vì không có hai yếu tố bắt buộc lượt mình lại giữ vai trò nhất định trong việc đó nên khi xảy ra, hành vi không cấu thành giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và ý thức tội phạm và như vậy không thể xử lí theo xã hội trong các lĩnh vực xã hội tương ứng. luật hình sự được. Thực tiễn cũng cho thấy Thứ sáu, “ngôn ngữ” của luật hình sự những bất cập khác trong việc áp dụng các hay nói cách khác là quy tắc pháp lí của kĩ quy định trong Chương “Các tội phạm về thuật lập pháp hình sự là nhân tố có vai trò môi trường” của Bộ luật hình sự năm 1999. không nhỏ trong việc xác định nhu cầu và Chẳng hạn trong Điều 190, nhà làm luật chỉ mức độ tội phạm hoá. Vấn đề là ở chỗ các quy định cấm các hành vi săn bắt, vận nhu cầu khách quan và điều kiện cần thiết chuyển, buôn bán, giết mổ các động vật của tội phạm hoá cần phải được nhà làm luật hoang dã quý hiếm, không có từ nào nói về Việt Nam “chuyển tải một cách đúng đắn tàng trữ. Chính vì vậy mà các cơ quan chức đến ngôn ngữ của luật hình sự”. Nói cách năng không xử lí hình sự được đối với hành khác, khi tội phạm hoá, nhà làm luật cần đáp vi tàng trữ 281 con gấu ở Quảng Ninh mà ứng các đòi hỏi và quy tắc pháp lí nhất định báo chí đã nhiều lần đề cập. Do vậy, trong của kĩ thuật lập pháp hình sự. Việc tuân thủ lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật các đòi hỏi và quy tắc đó chẳng những cho hình sự năm 2009, nhà làm luật nước ta đã phép khắc phục những lỗ hổng và những bổ sung các hành vi nuôi, nhốt động vật “điều dư thừa” trong việc bảo vệ các quan hệ thuộc loài nguy cấp, quý hiếm, được ưu tiên xã hội bằng các biện pháp pháp lí hình sự, bảo vệ vào Điều 190, nâng chúng lên “hạng phân biệt được các tội phạm với các vi phạm tội phạm” về môi trường. Từ đó có thể thấy pháp luật khác, bảo đảm việc không thoát rằng điều quan trọng không chỉ ở chỗ khi xét khỏi các biện pháp pháp lí hình sự của tất cả thấy cần đấu tranh với hành vi nguy hiểm 40 t¹p chÝ luËt häc sè 1/2010
  7. nghiªn cøu - trao ®æi cho xã hội bằng các biện pháp pháp lí hình PHÁT TRIỂN Xà HỘI VÀ CÔNG TÁC sự thì tội phạm hoá hành vi đó mà quan ĐÀO TẠO PHÁP LUẬT… (tiếp theo trang 34) trọng là phải xây dựng cấu thành tội phạm Nghĩa là trong Trường sẽ mở thêm một làm sao để có thể đấu tranh được với hành vi chuyên ngành pháp luật về phát triển xã hội đó trên thực tế. và quản lí phát triển xã hội. Nếu như Khoa Cuối cùng, khi nói về tội phạm hoá để pháp luật kinh tế chú trọng đến các khoa học bảo vệ các quan hệ xã hội bằng các biện pháp lí liên quan đến việc quản lí và phát pháp pháp lí hình sự, thông thường người ta triển kinh tế nhiều hơn thì Khoa pháp luật về nói về việc mở rộng phạm vi bảo vệ cũng các vấn đề xã hội sẽ chú trọng đến các khoa như cần phải quy định các cấu thành tội học pháp lí liên quan đến việc quản lí và phát phạm mới xâm phạm các quan hệ xã hội mà triển xã hội nhiều hơn. Nếu việc thành lập luật hình sự ghi nhận và bảo vệ mà không Khoa pháp luật về các vấn đề xã hội chưa gắn việc tội phạm hoá với việc hoàn thiện chín muồi thì trước mắt cũng nên thành lập pháp luật hình sự nhằm đấu tranh, phòng các trung tâm nghiên cứu và giảng dạy pháp ngừa tội phạm có hiệu quả hơn. Cần lưu ý luật về các vấn đề xã hội như đã nêu trên. rằng việc khắc phục “những lỗ hổng pháp Tóm lại, cùng với việc xây dựng nhà luật” cũng như việc khắc phục “những dư nước pháp quyền, củng cố xã hội dân sự thì thừa” của việc tội phạm hoá đã được phát phát triển xã hội là một trong những vấn đề hiện không nằm ngoài quá trình tội phạm quan trọng và cần được quan tâm nhiều hơn hoá. Vấn đề là ở chỗ việc xác định ở mức độ trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong giai nào đó các nhóm khách thể cần phải bảo vệ đoạn hiện nay. Đất nước chỉ có thể tồn tại, bằng các biện pháp pháp lí hình sự không phát triển nhanh và bền vững, có thể sánh vai hoàn toàn đồng nghĩa với việc cần và phải cùng nhân loại khi việc quản lí xã hội nói mở rộng phạm vi trách nhiệm hình sự mà có chung, trong đó có quản lí phát triển xã hội thể thu hẹp phạm vi đó bằng cách chuyển nói riêng có hiệu quả để các mặt của đời một số hành vi phạm tội có tính nguy hiểm sống xã hội đều phát triển toàn diện. Buông cho xã hội không đáng kể sang vi phạm hành lỏng quản lí hoặc quản lí không tốt sự phát chính trong lĩnh vực tương ứng. Chính vì lẽ triển xã hội có thể dẫn đến những hậu quả đó mà khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Bộ luật khôn lường, thậm chí có thể đưa đất nước, hình sự, nhà làm luật nước ta đã thực hiện dân tộc đến chỗ hỗn loạn, đói nghèo, suy song song quá trình có tính chất giao thoa, thoái. Với quy mô, xu hướng và tầm quan đan xen giữa hai hướng: vừa tội phạm hoá trọng như vậy của phát triển xã hội đòi hỏi vừa phi tội phạm hoá các hành vi nguy hiểm các cơ sở đào tạo luật trong giai đoạn hiện cho xã hội./. nay phải chú trọng, mở rộng hơn nữa việc đào tạo pháp luật liên quan đến phát triển xã (1).Xem: C. Mác và Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập 1, tr. 164 (tiếng Nga). hội phù hợp, đáp ứng nhu cầu thiết thực của (2).Xem: Sđd, tr. 131. đất nước và nhân loại./. t¹p chÝ luËt häc sè 1/2010 41
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2