Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
BÁO CÁO HAI TRƯỜNG HỢP HỘI CHỨNG GUILLAIN – BARRÉ<br />
ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG PHƯƠNG PHÁP THAY HUYẾT TƯƠNG<br />
Nguyễn Minh Tuấn*, Đỗ Chí Thanh*, Nguyễn Thị Mỹ Hương*, Trần Thị Thùy Dương*,<br />
Nguyễn Hồng Ánh Mai*, Dương Toàn Trung*, Nguyễn Anh Tài*, Bùi Châu Tuệ*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Hội chứng Guillain – Barré được chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng, với biểu hiện bệnh đa dây thần kinh<br />
có hủy myelin do tình trạng viêm tiến triển cấp tính. Hiện tại, biện pháp điều trị chủ yếu đối với các bệnh nhân<br />
hội chứng Guillain – Barré tại khoa Nội Thần kinh, bệnh viện Chợ Rẫy là truyền Globulin miễn dịch đường tĩnh<br />
mạch (IVIG – intravenous immunoglobulin) cùng các biện pháp trợ giúp phòng chống các biến chứng. Y văn thế<br />
giới từ lâu nay vẫn nhắc đến phương pháp thay huyết tương, cùng những ưu nhược điểm riêng như là một chọn<br />
lựa trị liệu đầu tay khác đối với hội chứng Guillain – Barré, với mức độ hiệu quả ngang tầm với điều trị bằng<br />
globulin miễn dịch truyền đường tĩnh mạch. Từ cơ sở này, chúng tôi tiến hành áp dụng vào thực tiễn điều trị đối<br />
với hai trường hợp hội chứng Guillain – Barré bằng phương pháp thay huyết tương; để từ đây có thể đưa ra<br />
những nhận xét ban đầu về những thuận lợi, khó khăn cũng như những ưu điểm, khuyết điểm khi áp dụng kỹ<br />
thuật điều trị này vào thực tiễn tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Trong hai trường hợp được báo cáo, nhận thấy quá trình<br />
diễn tiến bệnh lý có khá nhiều điểm tương đồng: hai bệnh nhân cùng ở độ tuổi thanh niên, khởi bệnh bằng các<br />
triệu chứng nhiễm trùng đặc hiệu và không đặc hiệu, được điều trị trong khoảng 1 tuần tại y tế cơ sở, bệnh nhân<br />
đã được giải quyết các biểu hiện của bệnh nhiễm trùng. Thời điểm các triệu chứng chính của bệnh lý nhiễm trùng<br />
thoái lui cũng chính là lúc xuất hiện các dấu hiệu thần kinh – giảm dần khả năng vận động của các cơ, và một<br />
trong hai trường hợp bệnh nhân được báo cáo có kèm theo cả triệu chứng rối loạn về cảm giác ở tứ chi. Hai<br />
trường hợp đều sớm được nhập viện và thực hiện các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán xác định hội chứng<br />
Guillain – Barré. Ở bệnh nhân nặng hơn, hội chứng Guillain – Barré tiến triển nặng dần đến suy hô hấp, cần<br />
phải đặt nội khí quản và thở máy. Hai bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp thay huyết tương trong 5 lần,<br />
mỗi lần cách nhau 24 giờ, dung dịch thay thế được sử dụng là albumin. Diễn tiến lâm sàng đã cải thiện ở ngày<br />
thứ 23 đối với trường hợp bệnh nhân phải thở máy, bệnh nhân có thể ngưng máy thở, tự thở khí trời, đồng thời<br />
cải thiện đáng kể sức cơ, các triệu chứng thần kinh. Bệnh nhân còn lại cũng đã được xuất viện về địa phương tiếp<br />
tục theo dõi điều trị sau khi các dấu hiệu tổn thương thần kinh bắt đầu hồi phục ở ngày thứ 21. Cả hai trường hợp<br />
đều không sử dụng corticoids trong quá trình điều trị. Qua ghi nhận hiệu quả điều trị hai trường hợp hội chứng<br />
Guillain – Barré tại khoa Nội Thần Kinh và nhìn lại y văn thế giới, việc áp dụng phương pháp thay huyết tương<br />
như một quy trình chuẩn, bên cạnh biện pháp truyền globulin miễn dịch đường tĩnh mạch trong điều trị hội<br />
chứng Guillain Barré tại bệnh viện Chợ Rẫy là rất có cơ sở để được xem xét về tính khả thi cũng như hiệu quả<br />
điều trị.<br />
Từ khóa: Guillain Barré, thay huyết tương<br />
<br />
* BV Chợ Rẫy<br />
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Minh Tuấn<br />
<br />
ĐT: 09037332114 Email: minhtuan2066@yahoo.com.vn<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
129<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
SUMMARY<br />
CASE REPORT TWO CLINICAL CASES OF GUILLAIN – BARRÉ COMPLETE RECOVERY WITH<br />
THERAPEUTIC PLASMA EXCHANGE<br />
Nguyen Minh Tuan, Do Chi Thanh, Nguyen Thi My Huong, Tran Thi Thuy Duong,<br />
Nguyen Hong Anh Mai, Duong Toan Trung, Nguyen Anh Tai, Bui Chau Tue<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 129 - 135<br />
Guillain – Barré syndrome is almost a clinical diagnosis, demonstrated with acute inflammatory<br />
demyelinating polyradiculoneuropathies. The current treatment for this rare but severe autoimmune disease is<br />
using intravenous immunoglobulin (IVIG) and other supportive methods preventing compications. Plasma<br />
exchange mentioned in literature as another first-line therapy for Guillain – Barré syndrome has been used in<br />
medical conditions for many years, with its efficacy being at the same level to the one of IVIG therapy. Two cases<br />
of Guillain – Barré syndrome were applied Plasma exchange therapy at Neurology department, Cho Ray hospital,<br />
so that this current treatment could be evaluated reasonably about its clinical advantages and disadvantages. Both<br />
cases follow within a few days of triggering factor: infections. The neurologic symptoms roared noticeable when<br />
the infectious signs were beginning to withdraw. One case was reported about sensational disorders in<br />
extremities. The more severe case required mechanical ventilation because of respiratory failure. Two patients were<br />
treated with 5 single Plasma Volume sessions of Plasma exchange per 24 hours, replacement solution was<br />
albumin 5%. Clinical issues were improved in 23th day of disease onset for being on ventilator patient: motor<br />
recovery, improvement in cranial nerve functions and respiratory involvement. The other patient also recovered in<br />
21st day with remarkable clinical amelioration. There was not any corticoides during treatment period.<br />
Keywords: Guillain Barré syndrome, plasmapheresis, plasma exchange<br />
định là có liên quan đến một số yếu tố nguy cơ<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
như 2/ 3 trường hợp vừa có nhiễm trùng hô<br />
Hội chứng Guillain Barré được mô tả lần<br />
hấp trên hoặc nhiễm trùng tiêu hóa hoặc sau<br />
đầu tiên vào năm 1916 bởi Guillain và Barré.<br />
một cuộc phẫu thuật hoặc chích ngừa các loại<br />
Đây là một bệnh lý tự miễn, viêm đa dây thần<br />
bệnh như cúm, ho gà, bạch hầu, dại, uốn ván,<br />
kinh cấp tính và có hiện tượng mất myelin<br />
sốt bại liệt. Đặc biệt là các nghiên cứu cho thấy<br />
từng đoạn ở các rễ tủy và dây thần kinh ngoại<br />
có từ 20 đến 45% những bệnh nhân mắc hội<br />
biên, và biểu hiện trên lâm sàng là các trường<br />
chứng Guillain – Barré có bằng chứng nhiễm<br />
hợp liệt chức năng vận động tiến triển, có thể<br />
Campylobacter jejuni, Mycoplasma pneumonia và<br />
kèm theo rối loạn cảm giác hoặc không(7,26,23,5).<br />
Cytomegalovirruses(7). Hai trường hợp được mô<br />
Tỉ lệ mới mắc của hội chứng Guillain – Barré<br />
tả trong báo cáo này đều có diễn tiến bệnh<br />
hằng năm là từ 1 đến 3 trường hợp trong<br />
phù hợp với các ý kiến vừa nêu: Một trường<br />
100.000 dân(10). Bệnh xuất hiện ở đủ mọi lứa<br />
hợp được chẩn đoán Sốt Dengue trước nhập<br />
tuổi, nhìn chung nam thường gặp hơn nữ(26,10).<br />
viện hai tuần, một trường hợp được chẩn đoán<br />
Bệnh thường ảnh hưởng đến các cơ có chức<br />
Rối loạn tiêu hóa do nhiễm siêu vi đường tiêu<br />
năng hô hấp của người bệnh, dẫn đến tỷ lệ<br />
hóa. Khi được điều trị tạm ổn các triệu chứng<br />
suy hô hấp phải đặt nội khí quản và thở máy<br />
sốt, tiêu chảy do bệnh lý nhiễm trùng thì hai<br />
trên bệnh nhân hội chứng Guillain – Barré là<br />
bệnh nhân bắt đầu xuất hiện các biểu hiện về<br />
25 đến 30%)(24). Phần lớn bệnh nhân đều được<br />
thần kinh như: mệt, khó thở, nuốt sặc, nuốt<br />
ghi nhận có tình trạng mắc một bệnh lý nhiễm<br />
khó, tiểu khó, yếu tay chân, tê tay chân và<br />
trùng trước khi xuất hiện các biểu hiện thần<br />
được nhập viện.<br />
kinh một vài tuần(11). Bệnh lý này đã được xác<br />
<br />
130<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP<br />
Trường hợp thứ nhất là bệnh nhân nữ, 25<br />
tuổi, khởi bệnh 2 tuần trước nhập viện, bệnh<br />
nhân bắt đầu sốt, không rõ nhiệt độ, không lạnh<br />
run, giảm khi uống thuốc hạ sốt. Bệnh nhân<br />
khám và điều trị tại địa phương với chẩn đoán<br />
sốt Dengue. Điều trị được 7 ngày, bệnh nhân hết<br />
sốt, được cho xuất viện. Trước nhập viện 5 ngày,<br />
bệnh nhân thấy mệt nhiều hơn, tê tay chân, tê<br />
chân nhiều hơn tay kèm theo yếu tay chân, nuốt<br />
khó nên nhập vào khoa cấp cứu bệnh viện Chợ<br />
Rẫy. Tình trạng lúc nhập viện: Bệnh nhân tỉnh,<br />
tri giác tốt, hiểu y lệnh, nhưng vận động tay chân<br />
yếu, và bệnh nhân không thể tự đi lại mà không<br />
có người giúp. Khám thần kinh lúc này ghi nhận:<br />
sức cơ hai tay 3/5, hai chân 2/5, tê chân nhiều hơn<br />
tay, tê ở ngọn chi nhiều hơn gốc chi, đối xứng<br />
hai bên, giảm trương lực cơ, mất phản xạ gân cơ<br />
ở hai chân; ngoài ra ghi nhận bệnh nhân bị liệt<br />
mặt ngoại biên hai bên, ho khạc kém, phản xạ<br />
nôn kém. Một ngày sau nhập viện, bệnh nhân<br />
suy hô hấp nên được đặt nội khí quản và bóp<br />
bóng giúp thở. Sau đó bệnh nhân được xét<br />
nghiệm dịch não tủy, ghi nhận tình trạng phân<br />
ly đạm tế bào, đo điện cơ: ghi nhận hội chứng<br />
Guillain – Barré thể kinh điển. Chẩn đoán hội<br />
chứng Guillain – Barré đã được xác định, ngoài<br />
ra kết quả xét nghiệm có các kháng thể đối với<br />
virus Dengue. Vào ngày thứ 10 kể từ lúc có các<br />
dấu hiệu bệnh lý thần kinh, được hội chẩn với<br />
khoa Thận nhân tạo và được chỉ định thay huyết<br />
tương để điều trị. Sau đó, bắt đầu từ ngày thứ 11<br />
từ lúc khởi bệnh, bệnh nhân được tiến hành thay<br />
huyết tương 5 lần, mỗi lần cách nhau 24 giờ,<br />
lượng dịch thay thế là 1700ml với hàm lượng<br />
albumin là 5% (trọng lượng cơ thể bệnh nhân<br />
43kg), tốc độ thay thế là 15ml/phút, kháng đông<br />
sử dụng Heparin 2000UI bolus và duy trì 800UI<br />
mỗi giờ sau đó, đường mạch máu sử dụng là<br />
tĩnh mạch đùi, qua một catheter hai nòng với<br />
vận tốc máu 180 ml/phút, màng lọc sử dụng để<br />
tách huyết tương là Haemoselect. Khi hoàn tất 5<br />
lần thay huyết tương, rút catheter tĩnh mạch đùi.<br />
Sau 2 tuần thở máy qua nội khí quản, bệnh nhân<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
được chỉ định mở khí quản. Chức năng hô hấp,<br />
sức cơ được cải thiện sau chưa đến 2 tuần kể từ<br />
khi bắt đầu thực hiện thay huyết tương (ngày<br />
thứ 23 từ lúc khởi bệnh), bệnh nhân tự thở oxy<br />
qua đường mở khí quản, thở không co kéo và<br />
sức cơ thời điểm bấy giờ là 4/5. Vào ngày thứ 27<br />
sau khi khởi bệnh, (16 ngày từ lúc bắt đầu thay<br />
huyết tương), bệnh nhân tự thở khí trời qua<br />
đường mở khí quản, chưa tự đi lại được và được<br />
xuất viện một ngày sau đó.<br />
Trường hợp thứ hai là một bệnh nhân<br />
nam, 35 tuổi, cách nhập viện 1 tuần, bệnh<br />
nhân bắt đầu sốt nhẹ, không lạnh run, không<br />
rõ nhiệt độ, giảm khi uống thuốc hạ sốt kèm đi<br />
tiêu phân lỏng, không lẫn đàm máu, không rõ<br />
lượng. Bệnh nhân điều trị tại địa phương, hết<br />
sốt, hết tiêu phân lỏng sau 6 ngày. Trước nhập<br />
viện 1 ngày, bệnh nhân thấy yếu tay chân,<br />
nuốt khó, nuốt sặc, tiểu khó nên khám tại<br />
Bệnh viện Đại học Y Dược. Tại đây, bệnh nhân<br />
được chẩn đoán Viêm đa rễ thần kinh vận<br />
động – cảm giác thể sợi trục cấp, ngày thứ 8 và<br />
được chuyển Bệnh viện Chợ Rẫy. Bệnh nhân<br />
nhập viện với tình trạng tri giác tốt, giọng nói<br />
yếu, khám thần kinh ghi nhận bệnh nhân<br />
nhắm mắt kín, còn nếp nhăn trán, nhưng<br />
phồng má kém, vòm hầu nâng yếu 2 bên,<br />
phản xạ nôn T (+), P (-). Yếu tứ chi, sức cơ hai<br />
tay 2/5; hai chân: 2/5. Cảm giác sờ đau nhiệt(+),<br />
cảm giáp vị trí khớp (+). Chẩn đoán lúc nhập<br />
viện là Hội chứng Guillain – Barré, thể<br />
AMSAN, ngày thứ 8. Bệnh nhân được nhập<br />
viện, điều trị hỗ trợ phòng ngừa các biến<br />
chứng, cho đến ngày thứ tư kể từ lúc nhập<br />
viện, tức ngày thứ 11 từ lúc khởi bệnh, bệnh<br />
nhân được tiến hành trị liệu với phương pháp<br />
thay huyết tương: tổng số lần thay huyết<br />
tương là 5 lần, mỗi lần cách nhau 24 giờ, lượng<br />
dịch thay thế là 2300ml với hàm lượng<br />
albumin là 5% (trọng lượng cơ thể bệnh nhân<br />
67kg), tốc độ thay thế là 15ml/phút, kháng<br />
đông sử dụng Heparin 2500UI bolus và duy trì<br />
1000UI mỗi giờ sau đó, đường mạch máu là<br />
catheter tĩnh mạch đùi với vận tốc máu 200<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
131<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ml/phút, màng lọc sử dụng để tách huyết<br />
tương là Haemoselect. Khi hoàn tất 5 lần thay<br />
huyết tương, bệnh nhân được rút catheter tĩnh<br />
mạch đùi và tiếp tục điều trị hỗ trợ phòng biến<br />
chứng. Ngày thứ 11 sau khi được điều trị thay<br />
huyết tương, tức ngày thứ 21 kể từ lúc khởi<br />
bệnh, bệnh nhân cải thiện tình trạng lâm sàng<br />
và được chuyển về cơ sở y tế địa phương để<br />
tiếp tục theo dõi.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Các thông số kỹ thuật trong chỉ định thay<br />
huyết tương<br />
Ước lượng thể tích huyết tương<br />
Có nhiều cách ước lượng thể tích huyết<br />
tương thay thế, ở đây thể tích huyết tương được<br />
ước lượng dựa vào trọng lượng của bệnh nhân<br />
và chỉ số Hematocrit theo công thức của<br />
Kaplan(12,18,20):<br />
Vp = 0.065 x W x (1 – Hct)<br />
Trong đó, Vp là thể tích huyết tương ước<br />
lượng (lít), W là trọng lượng của bệnh nhân (kg).<br />
<br />
Phương pháp tách huyết tương<br />
Đối với những trường hợp lâm sàng trong<br />
bài báo cáo này, huyết tương được tách bằng<br />
màng<br />
tách<br />
huyết tương Haemoselect<br />
Plasmafilter 0.5 của B.Braun.<br />
Các thông số kỹ thuật<br />
2<br />
<br />
Diện tích bề<br />
0,5 m<br />
Thể tích ngăn<br />
mặt màng lọc<br />
máu<br />
Vật liệu chế Polyethersulfone Thể tích ngăn<br />
tạo màng<br />
huyết tương<br />
Đường kính<br />
300 μm<br />
Lưu lượng<br />
trong sợi lọc<br />
dòng máu<br />
Bề dày thành<br />
100 μm<br />
Lưu lượng<br />
huyết tương<br />
Kích thước lỗ<br />
0,5 μm<br />
Áp lực xuyên<br />
lọc lớn nhất<br />
màng tối đa<br />
Hệ số sàng<br />
0,95<br />
Hệ số sàng<br />
Albumin<br />
IgM<br />
<br />
48 ml<br />
154 ml<br />
60 – 180<br />
ml/phút<br />
30% lưu<br />
lượng máu<br />
100 mmHg<br />
0,85<br />
<br />
Đường máu sử dụng:<br />
Bệnh nhân được tiến hành đặt catheter hai<br />
nòng vào tĩnh mạch đùi ngay trước khi tiến hành<br />
thay huyết tương, lưu lượng máu trong lúc thay<br />
huyết tương là 180ml/ phút.<br />
<br />
132<br />
<br />
Liều lượng thuốc kháng đông<br />
Thời gian bán hủy thay đổi khác nhau ở từng<br />
bệnh nhân, điều chỉnh tùy theo bệnh nhân.<br />
Thường dùng: Heparin<br />
Liều khởi đầu: 50 UI/kg<br />
Duy trì: 1000UI/giờ<br />
Theo dõi: duy trì thời gian đông máu hoạt<br />
hóa (ACT) từ 180 đến 220 giây, (gấp 1.5 đến<br />
2.0 lần so với trị số bình thường)(12,18,20).<br />
Tăng liều khi:<br />
Hct thấp (tăng thể tích phân bố)<br />
Tốc độ thay huyết tương cao (tăng thải<br />
heparin, do heparin có hệ số sàng là 1.0).<br />
<br />
Dịch thay thế<br />
Dịch thay thế có thể sử dụng dung dịch<br />
Albumin hoặc huyết tương tươi đông lạnh(12),<br />
trong hai trường hợp này là dung dịch<br />
Albumin 5%. Vì một số khuyết điểm nếu chọn<br />
dịch thay thể là huyết tương tươi đông lạnh<br />
(HTTĐL) như: nguy cơ lây nhiễm viêm gan<br />
siêu vi B (0,0005% mỗi đơn vị HTTĐL), viêm<br />
gan siêu vi C (0,03% mỗi đơn vị HTTĐL), HIV<br />
(0,0004% mỗi đơn vị HTTĐL). Với mỗi lần<br />
thay huyết tương, thể tích huyết tương cần<br />
thay trung bình là 2 đến 3 lít sẽ cần 10 đến 15<br />
đơn vị HTTĐL từ 10 đến 15 người cho. Ngoài<br />
ra, một số chất cần theo dõi nồng độ trong quá<br />
trình điều trị có trong huyết tương thay thế<br />
cũng sẽ làm nhiễu kết quả theo dõi diễn tiến<br />
trị liệu(12). Sử dụng dung dịch thay thế là<br />
Albumin sẽ khắc phục được các nhược điểm<br />
trên, tuy nhiên giá thành Albumin khá đắt,<br />
đồng thời các yếu tố đông máu và các globulin<br />
miễn dịch có thể sẽ bị sụt giảm trong quá trình<br />
thay huyết tương bằng dung dịch Albumin(20).<br />
Tỉ lệ dịch thay thế so với huyết tương lấy<br />
đi nên được điều chỉnh tùy theo tình trạng thể<br />
dịch của từng bệnh nhân. Thông thường, thể<br />
tích thay thế từ 100% đến nhỏ hơn 85% thể<br />
tích huyết tương lấy đi. Bù thấp hơn tỉ lệ này<br />
có thể sẽ dẫn đến các bất ổn về huyết động do<br />
giảm thể tích nội mạch(12).<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
Những khó khăn gặp phải trong thực tế<br />
điều trị<br />
Các biến chứng thay huyết tương(12,20)<br />
Nhóm biến chứng liên quan đến đường<br />
mạch máu<br />
Tụ máu (Hematoma)<br />
Tràn khí màng phổi<br />
Xuất huyết sau phúc mạc<br />
Liên quan đến quá trình điều trị<br />
Tụt huyết áp do đưa một lượng máu ra ngoài<br />
cơ thể<br />
Tụt huyết áp do giảm áp lực keo trong lòng<br />
mạch<br />
Xuất huyết do giảm nồng độ các yếu tố đông<br />
máu trong huyết tương<br />
Phù do giảm áp lực keo trong lòng mạch<br />
Mất các thành phần tế bào máu (tiểu cầu)<br />
Phản ứng quá mẫn<br />
Liên quan đến sử dụng thuốc kháng đông<br />
Chảy máu: thường do quá liều Heparin hoặc<br />
ở những bệnh nhân có rối loạn đông máu.<br />
Rối loạn nhịp.<br />
Tụt huyết áp.<br />
Tê ngứa tứ chi.<br />
Ở hai trường hợp được báo cáo, không có<br />
trường hợp nào ghi nhận các biến chứng trên.<br />
<br />
Xem xét chỉ định điều trị<br />
Chỉ định điều trị<br />
Hai trường hợp này được chẩn đoán xác<br />
định là hội chứng Guillain – Barré, đây là chỉ<br />
định thay huyết tương nằm trong nhóm I của các<br />
chỉ định lọc huyết tương theo guideline của<br />
Ngân hàng Máu Hoa kỳ (American Association<br />
of Blood Banks – AABB) và Hiệp hội Apheresis<br />
Hoa Kỳ (American Society for Apheresis –<br />
ASFA), tức biện pháp điều trị thay huyết tương<br />
trong trường hợp hội chứng Guillain – Barré là<br />
một biện pháp trị liệu chuẩn, đã được chấp nhận<br />
và là biện pháp trị liệu đầu tay (first-line) so với<br />
các phương pháp điều trị khác. Hiệu quả điều trị<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
đã được xác định dựa trên những thử nghiệm<br />
lâm sàng với thiết kế nghiên cứu tốt, có nhóm<br />
chứng hoặc dựa vào các dữ liệu y học chứng cứ<br />
đã được ấn hành rộng khắp(12,20).<br />
<br />
Hiệu quả điều trị<br />
Theo các tác giả đã công bố các kết quả<br />
nghiên cứu về hiệu quả điều trị của các biện<br />
pháp điểu trị đối với hội chứng Guillain Barré,<br />
việc đơn trị liệu bằng Globulin miễn dịch đường<br />
tĩnh mạch hoặc đơn trị liệu bằng Thay huyết<br />
tương, hay kết hợp điều trị bằng cả hai phương<br />
pháp không khác biệt có ý nghĩa thống kê về<br />
thời gian hồi phục(8,9,13,16,17,20,23,27,).<br />
Tuy nhiên, nếu so với hiệu quả của việc chỉ<br />
áp dụng điều trị hỗ trợ, nhóm bệnh nhân được<br />
điều trị bằng thay huyết tương có kết cục tốt hơn<br />
về thời gian hồi phục – rút ngắn thời gian tự đi<br />
lại được không cần sự trợ giúp, giảm tỉ lệ đòi hỏi<br />
thông khí nhân tạo, rút ngắn thời gian phải<br />
thông khí nhân tạo, hồi phục sức cơ hoàn toàn và<br />
giảm tỉ lệ di chứng nặng nề sau một năm, sự<br />
khác biệt có ý nghĩa thống kê(17,14,22,25). Ngoài ra,<br />
bệnh nhân được điều trị thay huyết tương gặp<br />
biến cố nhiễm trùng hay rối loạn nhịp tim do<br />
biến chứng lên hệ thần kinh tự chủ hơn so với<br />
nhóm chứng(17).<br />
<br />
Vấn đề chi phí điều trị<br />
Trong hai trường hợp được báo cáo, cả hai<br />
bệnh nhân đều không tham gia bảo hiểm y tế.<br />
Tổng chi phí phải trả cho 5 lần thay huyết tương<br />
là gần sáu mươi tám triệu đồng, trong đó phân<br />
nửa là chi phí cho các vật liệu tiêu hao trong 5<br />
lần thay huyết tương (màng tách huyết tương,<br />
dây dẫn máu, y cụ, v.v...) và phần còn lại là chi<br />
phí cho Albumin thay thế.<br />
Nếu bệnh nhân có bảo hiểm y tế, theo quy<br />
định hiện hành, chi phí cho Albumin sẽ được<br />
thanh toán theo quy định chi trả bảo hiểm y tế<br />
của từng cá nhân tham gia bảo hiểm và phần y<br />
cụ tiêu hao nằm ngoài danh mục bảo hiểm chi<br />
trả. Chi phí một bệnh nhân có tham gia bảo<br />
hiểm cần phải thanh toán cho một đợt điều trị<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
133<br />
<br />