Báo cáo nghiên cứu khoa học: "CÁC BIỆN PHÁP CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM NGUYỄN THỊ THỦY?"
lượt xem 25
download
Vài nét về các chủ thể kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam: Ở Việt Nam, ngày 17/12/1964, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định cho ra đời Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, tên viết tắt là Bảo Việt. Bảo Việt chính thức đi vào hoạt động từ ngày 15/01/1965 và là công ty bảo hiểm nhà nước duy nhất đại diện cho ngành bảo hiểm Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu khoa học: "CÁC BIỆN PHÁP CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM NGUYỄN THỊ THỦY?"
- CÁC BIỆN PHÁP CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM NGUYỄN THỊ THỦY ThS. Giảng viên Khoa luật Thương mại, Trường Đại học Luật TP. HCM I. VÀI NÉT VỀ CHỦ THỂ KINH DOANH BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM 1. Vài nét về các chủ thể kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam: Ở Việt Nam, ngày 17/12/1964, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định cho ra đời Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, tên viết tắt là Bảo Việt. Bảo Việt chính thức đi vào hoạt động từ ngày 15/01/1965 và là công ty bảo hiểm nhà nước duy nhất đại diện cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Trong thời gian đầu từ ngày thành lập đến trước năm 1975, do nằm trong điều
- kiện giải phóng dân tộc, hoạt động của Bảo Việt ở miền Bắc chưa phát triển. Với hai chi nhánh ở Hà Nội và Hải Phòng, Bảo Việt thực hiện chủ yếu nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, tuy nhiên tái lại cho Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Ba Lan với tỷ lệ khá cao. Sau khi giải phóng miền Nam, việc quốc hữu hóa các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam đã dẫn đến việc thành lập Công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam (Bavina). Bavina tiếp tục thực hiện trách nhiệm của các công ty cũ với người được bảo hiểm muốn tiếp tục hợp đồng bảo hiểm. Đối với các công ty bảo hiểm nước ngoài, Bavina có trách nhiệm đòi nợ và thanh toán theo đúng thỏa thuận trên hợp đồng. Năm 1976, sau khi thống nhất đất nước, Bavina được chuyển thành chi nhánh của Công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh gọi tắt là Bảo Việt TP. HCM.
- Như vậy, kể từ năm 1976 đến năm 1993, Bảo Việt là công ty bảo hiểm duy nhất thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam theo chế độ hạch toán kinh tế thống nhất toàn ngành (1980). Bảo Việt trực thuộc Bộ Tài chính có chức năng giúp Bộ Tài chính thống nhất quản lý công tác bảo hiểm nhà nước và trực tiếp tiến hành nhiệm vụ bảo hiểm trong cả nước. Ngày 18/3/1993, trước nhu cầu cần thiết phải đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế đang chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 100/CP quy định về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Với quy định này, thế độc quyền nhà nước của Bảo Việt đã bị phá vỡ, các tổ chức bảo hiểm thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau có thể tham gia thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm tại Việt Nam. Một số doanh nghiệp bảo hiểm mới đã ra đời như: Vinare, Bảo Minh, PVIC (Công ty Dầu khí Việt Nam), Bảo
- Long, PJICO (Công ty Bảo hiểm cổ phần), Petrolimex, Alianz (Công ty 100% vốn nước ngoài)... Sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo ra động lực cạnh tranh, tạo điều kiện để cho các mạng lưới phân phối sản phẩm bảo hiểm như các chi nhánh, các đại lý và môi giới bảo hiểm ra đời một cách rộng khắp. Người được bảo hiểm đã có thể lựa chọn cho mình doanh nghiệp bảo hiểm phục vụ tốt nhất thay vì chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm như trước đây. Khi hoạt động kinh doanh bảo hiểm được mở rộng cho nhiều thành phần kinh tế, để tồn tại và đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm phải có các chiến lược cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng. Trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam, hoạt động cạnh tranh chỉ thực sự xảy ra khi các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế khác nhau ra đời sau khi Chính phủ ban
- hành Nghị định 100/CP ngày 18/03/1993. Sự xuất hiện, hình thành các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo ra các đối tượng để quy luật cạnh tranh điều tiết. Sau khi Quốc hội ban hành luật kinh doanh bảo hiểm (ngày 9/12/2000), các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm sẽ có cơ hội phát huy được khả năng kinh doanh cũng như nhu cầu bảo hiểm của mình trong môi trường pháp lý tương đối vững chắc. Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm Việt Nam tồn tại 16 công ty bảo hiểm gốc. Trong đó có 11 công ty bảo hiểm phi nhân thọ, 5 công ty bảo hiểm nhân thọ và một công ty tái bảo hiểm. Những công ty bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam gồm: Bảo Việt, Bảo Minh, Bảo Long, Công ty bảo hiểm cổ phần Petrolimex (Pjico), Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVIC), Công ty bảo hiểm cổ phần bưu điện (PTI). Các công ty bảo hiểm phi nhân thọ liên doanh gồm VIA (công ty bảo hiểm quốc tế Việt
- Nam), UIC (công ty liên doanh giữa Bảo Việt và 2 công ty của Nhật Yasuda và Mitsui), BIDU - QBE (liên doanh giữa ngân hàng đầu tư và phát triển và Công ty bảo hiểm QBE của Úc). Công ty bảo hiểm phi nhân thọ 100% vốn nước ngoài có Alianz - Abcf (liên doanh giữa Công ty bảo hiểm Alianz của Đức và Công ty bảo hiểm AGF của Pháp). Và gần đây nhất (tháng 6/2001) là sự ra đời của Công ty bảo hiểm phi nhân thọ 100% vốn nước ngoài Groupama của Pháp, đây là công ty bảo hiểm nước ngoài đầu tiên được phép cung cấp các sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp cho khách hàng Việt Nam. Các công ty bảo hiểm nhân thọ gồm: Công ty Bảo Việt miền Nam, Công ty Bảo Minh-CMG (là công ty bảo hiểm liên doanh giữa Bảo Minh và Công ty bảo hiểm CMG của Úc). Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ(AIA), Công ty Chinfong - Manuelife (là công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài liên doanh giữa
- Công ty Chifong của Đài Loan và Công ty bảo hiểm nhân thọ Manulife của Canada), Công ty bảo hiểm Prudential là công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Anh, Công ty AIG (là công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ) và một công ty tái bảo hiểm Vinare. 2. Phân chia thị phần bảo hiểm phi nhân thọ từ năm 1996 đến năm 2001: - Năm 1996: Bảo Việt: 69,06%, Bảo Minh 20,28%, PVIC: 4,96%, Pjico: 4,08%, Bảo Long: 1,49%, VIA: 0,13%. - Năm 1997: Bảo Việt: 63,15%, Bảo Minh: 21,33%, PVIC: 6,69%, Pjico: 5,94%, Bảo Long: 1,78%, VIA: 1,11%. - Năm 1998: Bảo Việt: 59,71%, Bảo Minh: 23,10%, PVIC: 4,96%, Pjico: 5,76%, UIC: 1,69%, Bảo Long: 1,38%, VIA 1,18%, PTI:0,29%.
- - Năm 1999: Bảo Việt: 56,52%, Bảo Minh: 24,37%, PVIC: 5,38%, Pjico: 5,74%, Bảo Long: 1,51%, VIA: 1,68%, BIDV – QBE: 0,09%. - Năm 2000: Bảo Việt: 50,9%, Bảo Minh: 25,1%, PVIC: 5%, Pjico: 6,4%, UIC: 2,4%, Bảo Long: 1,4%, VIA: 2,5%, PTI: 4%, BVDV – QBE: 0,4%, Allianz - AGF: 2%. - Năm 2001: Bảo Việt: 46,6%, Bảo Minh: 25,1%, PVIC:7,0%, Pijco: 6,3%, Bảo Long: 1,2%, VIA: 2,4%, UIC:2,8%, PTI: 4,3%, Allianz-AGF: 2,8%, BVDV-QBE: 0,4%. Sự xuất hiện cùng lúc nhiều doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đã làm cho hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thực hiện thông qua việc doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành thu phí bảo hiểm của người mua bảo hiểm để lập quỹ bảo hiểm và tiến hành chi trả cho những trường hợp
- thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Chính vì tính đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là tạo lập quỹ bảo hiểm từ phí bảo hiểm và sử dụng quỹ bảo hiểm này để tiến hành chi trả nên việc thu hút được nhiều khách hàng mua bảo hiểm đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam còn rất non trẻ nên khi thực hiện hoạt động này, các doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn xây dựng chiến lược cạnh tranh cho riêng mình. Chiến lược cạnh tranh là tổng thể các biện pháp cạnh tranh được các chủ thể kinh doanh áp dụng một cách linh hoạt để mở rộng thị phần. Mỗi chủ thể đều có những biện pháp cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh thị trường trên cơ sở tận dụng tối đa các lợi thế so sánh trong cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, chung quy lại, các doanh nghiệp bảo hiểm thường sử dụng các biện pháp cạnh tranh như giảm phí bảo hiểm, tăng hoa hồng, tăng mức bảo hiểm, quảng cáo tiếp thị.
- II. CÁC BIỆN PHÁP CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH BẢO HIỂM TẠI VIỆT NAM 1. Sự tác động của quy luật cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm thế giới đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam: Xét về lịch sử, ngành bảo hiểm thương mại của Việt Nam ra đời vốn rất muộn, lại tồn tại một thời gian dài trong cơ chế độc quyền. Hơn nữa, trước năm 1987, Nhà nước ta chưa mở cửa nền kinh tế nên lĩnh vực bảo hiểm của Việt Nam ít chịu sự tác động của quy luật cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm thế giới. Sau ngày 01/01/1994 (ngày có hiệu lực pháp lý của Nghị định 100 CP), các chính sách kinh tế của nhà nước ta đã phần nào tạo được môi trường tự do cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm. Nhận thức rõ những mặt hạn chế rất lớn về tài chính cũng như kinh nghiệm kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam,
- Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật để bảo hộ các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Song đây chỉ là giải pháp mang tính chất tạm thời để các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam tự khẳng định mình, từng bước hòa nhập vào thị trường bảo hiểm thế giới. Trước xu thế hội nhập, chúng ta không thể duy trì mãi các biện pháp bảo hộ các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước một cách tuyệt đối mà phải tạo điều kiện để các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có thể cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Vì vậy, đầu năm 1999, Nhà nước ta đã cấp giấy phép đầu tư cho các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Mặc dù Nhà nước đã thực hiện chính sách bảo hộ các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nhưng thị trường bảo hiểm Việt Nam luôn chịu sự tác động bởi quy
- luật cạnh tranh của thị trường bảo hiểm thế giới thông qua các hình thức cơ bản sau đây: * Theo số liệu thống kê những năm gần đây, doanh thu phí bảo hiểm gốc của thị trường bảo hiểm Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khá cao từ 15% đến 25%, song từ năm 1998 đến nay, sự tăng trưởng về doanh thu bảo hiểm gốc có phần chững lại. Doanh thu phí bảo hiểm bị chững lại là do chúng ta bị tác động bởi quy luật cạnh tranh của thị trường bảo hiểm thế giới. Cụ thể, mặc dù tốc độ tăng trưởng về xuất nhập khẩu và GDP của nước ta là khá cao, thị trường bảo hiểm của Việt Nam có tiềm năng rất lớn nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam chỉ khai thác được một tỷ lệ còn rất khiêm tốn trong tiềm năng đó, đặc biệt là lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu. Như vậy, phần lớn tiềm năng bảo hiểm của Việt Nam đã bị các công ty bảo hiểm nước ngoài khai thác một cách triệt để. Đồng nghĩa với kết luận trên là ngoại tệ
- từ các doanh nghiệp mua bảo hiểm được giữ lại ở nước ngoài và như vậy, chúng ta bị chảy ngoại tệ ra nước ngoài thông qua việc hàng hóa xuất nhập khẩu của chúng ta được mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm ở nước ngoài. Chúng ta cũng biết rằng, trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu do các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường thực hiện phương thức bán FOB và nhập CIF nên khi xuất hàng theo điều kiện FOB, phí bảo hiểm được giữ lại ở nước ngoài, còn khi nhập theo điều kiện CIF, phí bảo hiểm bị các doanh nghiệp nhập khẩu chuyển ra nước ngoài. Trên thực tế, tình trạng trên xảy ra là do những nguyên nhân sau đây: + Nguyên nhân chủ quan: Các công ty bảo hiểm Việt Nam có nguồn vốn rất khiêm tốn, mới thành lập, kinh nghiệm chưa nhiều vì vậy mà chưa có uy tín trên thị trường bảo hiểm thế giới nên rất khó thuyết phục các đối tác nước ngoài
- tham gia bảo hiểm tại Việt Nam. Chính vì vậy, khi các doanh nghiệp nước ngoài có nhu cầu mua bảo hiểm, thông thường họ sẽ tìm đến những công ty có vốn lớn, có bề dày kinh nghiệm và uy tín trên thị trường bảo hiểm thế giới. Với phương thức nhập CIF bán FOB phổ biến như hiện nay thì các doanh nghiệp chọn hình thức mua bảo hiểm ở nước ngoài là việc đương nhiên. + Nguyên nhân khách quan: Một mặt, do cạnh tranh trong buôn bán ngoại thương và mặt khác do chúng ta còn hạn chế về ngoại thương đặc biệt là vận tải nên các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thường sử dụng phương thức xuất FOB và nhập CIF để hạn chế các nghĩa vụ trong hợp đồng. Khi xuất FOB có nghĩa rằng bên bán không chịu cước phí và bảo hiểm, hay nói khác đi là trách nhiệm của bên bán chấm dứt khi hàng đã được giao lên tàu. Còn nhập CIF tức giá này đã bao gồm cước
- phí và bảo hiểm, mà phần cước phí và phần bảo hiểm này bên nước ngoài trả. Chính vì vậy khi doanh nghiệp nước ngoài bán CIF cho phía doanh nghiệp Việt Nam thì họ là người mua bảo hiểm và đương nhiên là họ sẽ chọn mua tại các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài bởi vì các doanh nghiệp này có số vốn lớn, uy tín cao trên thị trường bảo hiểm nước ngoài, hơn nữa phí bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thấp hơn ở Việt Nam. + Nguyên nhân từ phía Nhà nước: Hệ thống văn bản pháp luật về bảo hiểm của nước ta chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập đặc biệt là sự bất cập với các điều khoản bảo hiểm đã được quốc tế hoá. Chính sự bất cập này là một trong những nguyên nhân làm cho quyền lợi của người được bảo hiểm chưa được bảo vệ chắc chắn, các điều khoản quy định còn mù mờ nên việc quy trách nhiệm cho các bên còn chưa rõ ràng.
- Để khắc phục tình trạng trên, trước hết các doanh nghiệp bảo hiểm phải từng bước tự khẳng định mình, nâng cao uy tín của mình trên cơ sở khai thác triệt để các tiềm năng bảo hiểm của Việt Nam. Có như vậy các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam mới có thể tồn tại và phát triển khi Nhà nước ta cho phép nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được kinh doanh bảo hiểm trên thị trường Việt Nam. Trên thực tế, tác động của quy luật cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm thế giới không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động bảo hiểm gốc mà còn tác động lên hoạt động tái bảo hiểm. Do khả năng tài chính rất hạn chế của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nên khi nhận bảo hiểm các dịch vụ có giá trị lớn, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đều phải tái bảo hiểm ra nước ngoài và đồng nghĩa với nó là ngoại tệ phải chuyển ra nước ngoài từ chính các công ty bảo hiểm. Để hạn chế nguồn ngoại tệ chuyển ra nước ngoài, Bộ
- trưởng Bộ Tài chính đã ban hành quyết định số 1235- TC/QĐ/TCNH ngày 09/12/1995 về việc tái bảo hiểm bắc buộc. Theo văn bản này, tỷ lệ tái bảo hiểm cho Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam là 20% giá trị đơn bảo hiểm gốc và theo hợp đồng số thành. Tuy nhiên đây cũng chỉ là giải pháp tạm thời vì mức tái bảo hiểm là 20% và mang tính bắt buộc nên các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện việc tái bảo hiểm một cách rất miễn cưỡng. Như vậy, trong hoạt động tái bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đã vượt qua rào cản của Nhà nước ta để cạnh tranh với nhau tại Việt Nam. Việc cho ra đời Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam không chỉ tác động trực tiếp đến hoạt động cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài mà còn gián tiếp tác động lên thị trường bảo hiểm Việt Nam trong hoạt động bảo hiểm gốc bằng các mệnh lệnh hành chinh. Tình trạng này chủ yếu xảy ra trong
- hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cụ thể theo quy định của pháp luật hiện hành về kinh doanh bảo hiểm thì tổ chức, cá nhân chỉ được phép giao kết hợp đồng bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Chính vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài thường sử dụng phương thức chấp nhận tham gia bảo hiểm tại một doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nhưng việc tái bảo hiểm dịch vụ này, họ sẽ chỉ định tổ chức bảo hiểm nước ngoài nhận tái bảo hiểm. Thực trạng trên đã dẫn đến hệ quả là phần phí bảo hiểm gốc của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam bán cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hầu như được tái bảo hiểm lại cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài và vô hình chung các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam làm trung gian bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Vì vậy, có thể nói hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam bị “thua ngay trên sân nhà”.
- 2. Các biện pháp cạnh tranh nổi bật trên thị trường bảo hiểm Việt Nam: Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, để tồn tại và kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp bảo hiểm đều phải chọn cho mình những biện pháp cạnh tranh xem đây như là “cẩm nang” nhằm lôi kéo khách hàng mua bảo hiểm tại doanh nghiệp mình. Những biện pháp cạnh tranh mà các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng có thể lành mạnh hoặc không lành mạnh. Ở đây, khi tìm hiểu về thực trạng cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, chúng tôi không xắp xếp thành những biện pháp cạnh tranh lành mạnh hay không lành mạnh mà phân tích nhìn nhận nó theo từng biện pháp. Các biện pháp cạnh tranh nổi bật mà các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam sử dụng gồm: - Giảm phí bảo hiểm; - Tăng hoa hồng;
- - Tăng mức bồi thường; - Sử dụng mệnh lệnh mang tính chất hành chính; - Quảng cáo tiếp thị; - Thông qua các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất, quản lý rủi ro. 2.1. Biện pháp giảm phí bảo hiểm: Phí bảo hiểm là số tiền mà người mua bảo hiểm đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm để hình thành nên quỹ bảo hiểm. Theo quan điểm phổ biến hiện nay, phí bảo hiểm được xác định theo phương pháp thống kê. Nghĩa là, để xác định tỷ lệ phí bảo hiểm cho một loại sản phẩm bảo hiểm nào đó người ta căn cứ vào tình hình tổn thất của loại sản phẩm bảo hiểm đó trong thời gian 5 năm trước đó để tính toán mức độ tổn thất bình quân trên một đơn vị bảo hiểm. Tỷ lệ cho phép này thường từ 50% - 60%.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG NƯỚC VÀ TÔM TỰ NHIÊN TRONG CÁC MÔ HÌNH TÔM RỪNG Ở CÀ MAU"
12 p | 1363 | 120
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều."
10 p | 614 | 45
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU PHỐI TRỘN CHI TOSAN – GELATI N LÀM MÀNG BAO THỰC PHẨM BAO GÓI BẢO QUẢN PHI LÊ CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG"
7 p | 518 | 45
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ẢNH HƯỞNG CỦA MƯA AXÍT LÊN TÔM SÚ (PENAEUS MONODON)"
5 p | 454 | 44
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP PCR-GENOTYPI NG (ORF94) TRONG NGHIÊN CỨU VI RÚT GÂY BỆNH ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM SÚ (Penaeus monodon)"
7 p | 378 | 35
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC DINH DƯỠNG CÁ ĐỐI (Liza subviridis)"
6 p | 380 | 31
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SINH SẢN CỦA CÁ ĐỐI (Liza subviridis)"
8 p | 331 | 29
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU CẢI TIẾN HỆ THỐNG NUÔI KẾT HỢP LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) VỚI BỂ NƯỚC XANH"
11 p | 385 | 29
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Quan hệ giữa cấu trúc và ngữ nghĩa câu văn trong tập truyện ngắn “Đêm tái sinh” của tác giả Trần Thuỳ Mai"
10 p | 436 | 24
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU TẠO KHÁNG THỂ ĐƠN DÒNG VI-RÚT GÂY BỆNH HOẠI TỬ CƠ QUAN TẠO MÁU VÀ DƯỚI VỎ (IHHNV) Ở TÔM PENAEID"
6 p | 354 | 23
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU ƯƠNG GIỐNG VÀ NUÔI THƯƠNG PHẨM CÁ THÁT LÁT (Notopterus notopterus Pallas)"
7 p | 306 | 22
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CÁ KẾT (Kryptopterus bleekeri GUNTHER, 1864)"
12 p | 298 | 20
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "NGHIÊN CỨU DÙNG ARTEMIA ĐỂ HẠN CHẾ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIÊM MAO TRÙNG (Ciliophora) TRONG HỆ THỐNG NUÔI LUÂN TRÙNG"
10 p | 367 | 18
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU PHÂN VÙNG THỦY VỰC DỰA VÀO QUẦN THỂ ĐỘNG VẬT ĐÁY"
6 p | 348 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU THIẾT LẬP HỆ THỐNG NUÔI KẾT HỢP LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) VỚI BỂ NƯỚC XANH"
10 p | 373 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU THAY THẾ THỨC ĂN SELCO BẰNG MEN BÁNH MÌ TRONG NUÔI LUÂN TRÙNG (Brachionus plicatilis) THÂM CANH"
10 p | 347 | 15
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU ƯƠNG GIỐNG CÁ KẾT (Micronema bleekeri) BẰNG CÁC LOẠI THỨC ĂN KHÁC NHAU"
9 p | 258 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " NGHIÊN CỨU SỰ THÀNH THỤC TRONG AO VÀ KÍCH THÍCH CÁ CÒM (Chitala chitala) SINH SẢN"
8 p | 250 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn