intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "SINH KẾ CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN SAU THU HỒI ĐẤT TẠI PHƯỜNG THỦY DƯƠNG, THỊ XÃ HƯƠNG THỦY TỈNH THỪA THIÊN HUẾ"

Chia sẻ: Nguyễn Phương Hà Linh Linh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

130
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này dựa vào phương pháp tiếp cận sinh kế để đánh giá sự chuyển đổi về lao động, việc làm và thu nhập của các hộ gia đình bị thu hồi đất phục vụ các dự án phát triển của tỉnh Thừa Thiên Huế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu khoa học: "SINH KẾ CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN SAU THU HỒI ĐẤT TẠI PHƯỜNG THỦY DƯƠNG, THỊ XÃ HƯƠNG THỦY TỈNH THỪA THIÊN HUẾ"

  1. TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 62A, 2010 SINH KẾ CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN SAU THU HỒI ĐẤT TẠI PHƯỜNG THỦY DƯƠNG, THỊ XÃ HƯƠNG THỦY TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Nguyễn Quang Phục Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế Nguyễn Xuân Khoát Đại học Huế TÓM TẮT Nghiên cứu này dựa vào phương pháp tiếp cận sinh kế để đánh giá sự chuyển đổi về lao động, việc làm và thu nhập của các hộ gia đình bị thu hồi đất phục vụ các dự án phát triển của tỉnh Thừa Thiên Huế. Kết quả nghiên cứu tại Thủy Dương cho thấy, nguồn thu nhập của các hộ gia đình đã thay đổi một cách mạnh mẽ và đa dạng. Thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của các hộ gia đình, trong khi thu nhập từ nông nghiệp ngày càng giảm xuống. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã làm tăng thêm sự khác biệt về mặt xã hội trong quá trình thích ứng và tìm kiếm chiến lược sinh kế. Một số lao động chủ yếu là người nghèo và những người trên 40 tuổi đang đối mặt với nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm bởi vì thiếu kỹ năng, lý do sức khỏe, trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn. 1. Đặt vấn đề Thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm qua trên khắp các vùng miền của đất nước, nhiều khu công nghiệp và khu đô thị mới với quy mô khác nhau được hình thành và đi vào hoạt động [4]. Quá trình phát triể n này tất yếu dẫn đến việc thu hồ i đất đai (bao gồm đất ở và đất nông nghiệp) ở vùng ven đô và vùng có tiềm năng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong vòng 13 năm, từ năm 1990 đến năm 2003, Nhà nước (Trung ương và địa phương) đã thu hồi tới 697.410 ha đất phục vụ cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hộ i, các công trình công cộng, phục vụ lợi ích quốc gia [4]. Riêng giai đoạn từ 2001 đến 2007 có hơn 500.000ha đất nông nghiệp bị thu hồ i để phục vụ cho các dự án phát triển, trong đó hơn 89% là đất nông nghiệp màu mỡ [2]. Thủy Dương cách trung tâm thành phố Huế 3km về phía Nam và được xem là một vùng ven đô (sub-urban area) của thành phố. Quá trình đô thị hóa ở Thủy Dương diễn ra khá sớm (khoảng năm 2000) và mạnh nhất là từ năm 2005 đến 2010. Nhiều dự án phát triển đã được triển khai trên địa bàn, bao gồm: Khu đô thị Đông Nam Thủy An, đường Tự Đức - Thuận An, dự án sân golf [6]. Quá trình phát triển này đã dẫn đến việc 117
  2. thu hồi một diện tích đất nông nghiệp khá lớn của Thủy Dương. Từ năm 2007 đến 2009, toàn xã có 220,64 ha đất bị chuyển đổ i mục đích sử dụng (chiếm 17,65% diện tích đất tự nhiên), và đã tác động rất lớn đến sinh kế của 462 hộ gia đình nông dân [7]. Sự thay đổ i về đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa của các hộ gia đình có đất bị thu hồi diễn ra khá phức tạp. Nghiên cứu này chỉ tiếp cận đến sự thay đổi về việc làm, thu nhập của người nông dân dựa trên việc trả lời câu hỏ i sinh kế của người nông dân đã thay đổi như thế nào sau khi bị thu hồi phần lớn diện tích đất nông nghiệp. 2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu này được thực hiện tại phường Thủy Dương - một cộng đồng ven đô thành phố Huế - nơi mà quá trình đô thị hóa nông thôn và thu hồ i đất nông nghiệp đang diễn ra một cách mạnh mẽ [6], với một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nhằm thu thập thông tin thứ cấp, các tài liệu liên quan đến lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hộ i của phường Thủy Dương qua các giai đoạn khác nhau; cùng các thông tin liên quan đến quá trình đô thị hóa, báo cáo thu hồi đất nông nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, báo cáo phát triển kinh tế - xã hộ i của tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Huế... - Phương pháp phỏng vấn: Những người cung cấp thông tin là những người có am hiểu sâu sắc đến lịch sử, đời sống và quan hệ xã hội của địa phương. Những thông tin từ việc tiếp cận này sẽ giúp cho người nghiên cứu khái quát được sự chuyển đổi về việc làm, sinh kế, không gian sống và quan hệ xã hộ i của vùng ven đô này. Những người cung cấp thông tin chính bao gồm Chủ tịch UBND phường; Trưởng thôn 1 và Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp Thủy Dương. - Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc: Sử dụng phương pháp này thông qua những vấn đề hay câu hỏ i có tính chất định hướng đã cho phép người nghiên cứu tiếp cận người dân một cách thoải mái, thân thiện và dễ dàng trao đổi những vấn đề đặt ra. Vì vậy, những thông tin thu thập được có tính chất chi tiết như: tình hình cơ bản về hộ gia đình; đất đai; nghề nghiệp; thu nhập; những thay đổ i quan trọng sau khi bị thu hồ i đất nông nghiệp; những khó khăn đang phải đố i mặt… Số lượng hộ gia đình được chọn phỏng vấn, điều tra bao gồm 60 hộ, được chia thành 3 nhóm: nhóm 1 (20 hộ) là những hộ bị thu hồi đất dưới 50%; nhóm 2 (20 hộ) là những hộ bị thu hồi đất từ 50-70%; và nhóm 3 là những hộ bị thu hồ i đất trên 70%. - Phương pháp thống kê mô tả: Từ số liệu và thông tin thu thập được, chúng tôi tiến hành xử lý trên phần mềm Excel, sau đó xây dựng các biểu bảng, biểu đồ để phân tích và đánh giá sự thay đổ i về sinh kế của các hộ gia đình sau khi bị thu hồ i đất. 3. Kết quả nghiên cứu Quá trình đô thị hóa gắn liền với quá trình chuyển đổ i mục đích sử dụng đất nông nghiệp (chủ yếu là chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp để mở rộng 118
  3. đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội). Sơ đồ 1 cho thấy, từ năm 2007 đến năm 2009, Thủy Dương có hơn 220 ha đất bị thu hồ i (chiếm 26,99% diện S ơ đồ 1. Tình hình thu hồi đất của các địa p hương thuộc Thị xã Hương Thủy tích đất bị thu hồ i của toàn Thị xã Hương Thủy) để đáp ứng nhu cầu 120 Diện tích đất thu hồi các dự án phát triển. Trong tổng Thủy Vân 100 Thủy Dương diện tích đất bị chuyển đổi mục 80 ( ha) Thủy Châu 60 đích sử dụng, đất nông nghiệp 40 Thủy Thanh chiếm 42,6%, đất ở chiếm 56,6%. 20 Phú Bài Quá trình thu hồ i đất đã tác động 0 2007 2008 2009 đến 462 hộ gia đình (chiếm 16,53% Thời gian (năm) tổng số hộ trong toàn phường), trong đó, hộ thuần nông chiế m 66,4%, hộ kiêm nông chiếm 23,8%, còn lại là những hộ gia đình phi nông nghiệp. Phần lớn diện tích đất bị thu hồ i là đất sản xuất nông nghiệp, điều này đã tạo ra một sự thay đổ i khá lớn về nghề nghiệp và thu nhập của các hộ gia đình. Số liệu ở bảng 1 cho thấy, số lao động thuần nông đã giảm từ 58,39% xuống còn 18,23% so với trước khi thu hồ i đất. Nguyên nhân chủ yếu là do các hộ không còn diện tích đất canh tác hoặc chỉ còn lại một diện tích nhỏ; hoặc một số hộ khác không còn mặn mà với nghề nông vì tính rủi ro, bấp bênh trong sản xuất và thu nhập thấp nên xem đây là một “cơ hộ i” để chuyển sang các ngành nghề khác. Số lao động tiếp tục gắn bó với ruộng đồng chiếm 18,23% là do có tâm lý sợ thay đổ i nghề nghiệp, hoặc chưa t ìm thấy cơ hộ i để thay đổi. Số liệu điều tra còn cho thấy, tỷ lệ lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác (vừa làm nông nghiệp vừa tham gia một số nghề phi nông nghiệp) và lao động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ đã tăng lên rõ rệt so với trước khi thu hồ i đất (lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề tăng từ 16,4% lên 21,2%, lao động thương mại dịch vụ tăng từ 10,8% lên 31,01%). Lao động nam vừa tham gia trồng trọt (chủ yếu là trồng lúa) vừa làm thuê những công việc khác như phụ thợ nề, bốc vác, đạp xích lô, bán vé số… Lao động nữ vừa chăn nuôi vừa buôn bán các sản phẩm nông nghiệp ở chợ địa phương, hoặc mua các sản phẩm tại địa phương đem đi bán dạo, hoặc bán cho các đại lý, nhà hàng, và các chợ trong thành phố Huế. Số lao động (từ 15 đến 35 tuổi) tham gia vào lĩnh vực khác bao gồm cán bộ, công nhân, viên chức trong các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp có xu hướng tăng mạnh so với trước khi thu hồi đất (từ 8,01% lên 15,89%). Đây là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn – kỹ thuật, được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng hoặc trường dạy nghề. Số lao động trong lĩnh vực này tăng lên là do nhiều gia đình muố n định hướng con cái của họ thoát khỏi nghề nông hoặc một số lao động đã tìm được việc làm trong các công ty, xí nghiệp sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Đây là xu 119
  4. hướng chuyển đổi tích cực và có hiệu quả, góp phần cải thiện sinh kế của nhiều hộ gia đình sau thu hồ i đất. Bên cạnh số lao động nông nghiệp trong các hộ gia đình đã thích nghi được vớ i hoàn cảnh mới, chủ động tìm kiếm công việc phù hợp để có thu nhập ổn định thì vẫn tồn tại một số lượng lao động đáng kể (8,75%) chưa hoặc không tìm được việc làm do tuổi tác, trình độ văn hóa, chuyên môn thấp... Hiện nay, phần lớn họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, đòi hỏ i sự nỗ lực trước hết là từ bản thân của người lao động và sự quan tâm, hỗ trợ của chính quyền địa phương các cấp. Bảng 1. Sự thay đổi nghề nghiệp của lao động sau thu hồi đất Thợ Thời Nhóm Tổng Thuần Công Dịch Thất Khác kỹ hộ số LĐ nông nhân vụ nghiệp điểm thuật I 15 73,33 0 0 6,67 13,33 5,67 Trước thu II 72 59,72 9,72 5,56 8,33 11,11 5,56 hồi III 163 56,44 11,05 7,36 12,88 6,14 4,13 đất BQC 250 58,39 10,01 6,41 11,19 8,01 4,99 I 21 42,86 19,05 4,76 14,29 14,28 3,76 Sau II 90 25,55 21,11 7,78 22,22 16,67 6,67 thu hồi III 147 10,21 17,69 11,56 36,05 15,65 9,84 đất BQC 258 18,23 18,99 9,69 29,45 15,89 8,75 Số liệu điều tra năm 2009. Đô thị hóa với việc thu hồ i đất nông nghiệp có ảnh hưởng không nhỏ đến quy mô và cơ cấu thu nhập của hộ gia đình. Số liệu điều tra cho thấy, thu nhập bình quân/năm của nhóm hộ I đạt 36,14 triệu đồng/hộ trong khi đó ở hai nhóm hộ II và III mức thu nhập bình quân tương ứng là 39,35 triệu đồng/ hộ và 43,53 triệu đồng/hộ. Ở nhóm III, số hộ có thu nhập cao hơn 40 triệu đồng/năm chiếm 71,43%, trong khi đó ở nhóm I và II chỉ chiếm 40% và 65%. Nguyên nhân chủ yếu là do những hộ gia đình này có tỷ lệ đất bị thu hồ i thấp, chỉ mất khoảng 50% diện tích, nên quy mô và cơ cấu thu nhập ít bị ảnh hưởng. Phần lớn nhóm hộ này vẫn tiếp tục sản xuất nông nghiệp trên diệ n tích đất còn lại mà chưa có sự chuyển đổ i ngành nghề. Ngược lại, thu nhập chính của nhóm II và III chủ yếu là từ các hoạt động thương mại, dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (trên 90% tổng thu nhập). 4. Kết luận và một số kiến nghị Thứ nhất, phần lớn lao động trong các hộ gia đình có đất nông nghiệp bị thu hồ i 120
  5. từ 70% đến 100% diện tích đều lâm vào tình trạng mất việc làm; hoặc nếu tìm được việc làm cũng không ổn định và có thu nhập bấp bênh. Thứ hai, sinh kế của các hộ gia đình dưới góc độ việc làm và thu nhập có sự thay đổi đáng kể sau khi đất bị thu hồi. Lao động của các nhóm hộ đã và đang chuyển dịch mạnh theo hướng tách ra khỏi nông nghiệp và tăng số lượng lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này mới mang tính tự phát, chưa có tính ổn định và thiếu định hướng của chính quyền địa phương và các ban ngành liên quan. Vấn đề này đòi hỏi các cấp chính quyền cần phải quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được tham gia các khóa đào tạo và định hướng nghề nghiệp để sớm ổn định cuộc sống và nâng cao tính bền vững về sinh kế. Thứ ba, bên cạnh những lao động có khả năng thích ứng nhanh với bối cảnh đô thị hóa, vẫn còn nhiều lao động (trên 40 tuổi) gặp nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổ i nghề nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là số lao động này có trình độ chuyên môn thấp, thiếu kinh nghiệm, thiếu nguồn lực, và lý do tuổi tác. Vì vậy, chính quyền địa phương cần có những chính sách ưu tiên và đặc thù nhằm đảm bảo được sinh kế của nhóm lao động này sau khi thu hồ i phần lớn đất nông nghiệp. Thứ tư, chính quyền địa phương cần tập trung đầu tư phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ để tạo nhiều việc làm tại chỗ phù hợp với mọ i lứa tuổi; hoặc liên doanh liên kết với các nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn để thực hiện các khâu gia công, các công việc cần thiết trong quá trình hoàn thiện sản phẩm nhằm tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao thu nhập cho người lao động. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Benedict J. Tria Kerkvlliet. Agricultural Land in Vietnam: Markets Tempered by Family, Community and Socialist Practices. Journal of Agrarian Change, Vol 6, No 3 (2006), 285-305. [2]. Cao Vĩnh Hải. Ruộng đất cho nông dân – Thực trạng, thách thức và giải pháp trước những tổn thất do con người và thiên nhiên gây ra trên đất nông nghiệp ở nông thôn nước ta. Hội thảo trao đổi giữa các nhà hoạch định chính sách và các cán bộ nghiên cứu và phát triển về nông nghiệp, nông dân, và nông thôn. Trường Đại học Nông Lâm Huế, Huế, 2008. [3]. Ellis Frank. Rural Livelihoods and Diversity in Developing Countries. University of Oxford Press, Oxford, 2000. [4]. Lê Du Phong. Thu nhập, đời sống, việc làm của người dân có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007. 121
  6. [5]. Michael Leaf. A tale of two villages: Globalization and Peri-Urban change in China and Vietnam. Cities, Vol 19, No 1, (2002), 23-31. [6]. Nguyen Quang Phuc. Urban expansion, marginalization, and local responses: A case study of an agricultural community in Thua Thien Hue province. MA Thesis, Chiang Mai University, 2008. [7]. UBND xã Thủy Dương. Báo cáo phát triển kinh tế xã hội xã Thủy Dương năm 2005, 2006, 2007, 2008, 2009. FARMERS’ LIVELIHOODS AFTER LAND CONVERSION OF THUY DUONG WARD, HUONG THUY TOWN, THUA THIEN HUE PROVINCE Nguyen Quang Phuc College of Economics, Hue University Nguyen Xuan Khoat Hue University SUMMARY This research is based on the livelihood approaches to access the transformation in terms of labours, occupations, and incomes of households whose agricultural land was converted for many development projects in Thua Thien Hue province. The results indicate that the source of household income has been changing rapidly and has been greatly diversified. Non-farming activities have become essential sources of income of many households, whereas the sharing of agricultural income is decreasing. Land conversion has lead to increases of social differentiation in adapting and seeking out the livelihood strategies. A large of number of labours, mainly poor people and aged above 40 are facing various difficulties in changing occupation because of lack of skills, health, educational level, and professional skill. 122
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2