intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nhóm: Chủ nghĩa tự nhiên và ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên đối với Vũ Trọng Phụng qua tiểu thuyết Giông tố

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:27

41
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chủ nghĩa tự nhiên xuất hiện trong tiểu thuyết Giông tố rất rõ ràng và đậm nét với mục đích phản ánh hiện thực cuộc sống của thời kỳ bấy giờ. Nhìn lại tác phẩm của nhà văn Vũ Trọng Phụng ta thấy được ông đã đóng góp vào dòng văn học dân tộc những giá trị tinh thần đáng kể. Mời các bạn cùng tham khảo để nắm chi tiết nội dung tài liệu!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nhóm: Chủ nghĩa tự nhiên và ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên đối với Vũ Trọng Phụng qua tiểu thuyết Giông tố

  1. ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN BÁO CÁO NHÓM CHỦ NGHĨA TỰ NHIÊN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI VŨ TRỌNG PHỤNG  QUA TIỂU THUYẾT “GIÔNG TỐ” 1
  2. MỤC LỤC 1. Vũ Trọng Phụng và tác phẩm “Giông tố” 1.1 Tiểu sử Vũ Trọng Phụng 1.2 Đặc trưng trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng 2. Vũ Trọng Phụng với chủ nghĩa tự nhiên 2.1 Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học 2.1.1 Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tự nhiên 2.1.2 Những nguyên tắc sáng tác chính của chủ nghĩa tự nhiên  2.2 Sự tiếp nhận của Vũ Trọng Phụng đối với chủ nghĩa tự nhiên 2.3 Ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên đối với Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết 2.3.1 Sơ lược về tác phẩm “Giông tố” 2.3.2  Yếu tố   tự  nhiên chủ  nghĩa  trong tiểu  thuyết  “Giông  tố”  của Vũ Trọng   Phụng 3. Kết luận 4. Tư liệu tham khảo 5. Nhóm thực hiện 2
  3. 1. Vũ Trọng Phụng và tác phẩm “Giông tố” 1.1 Tiểu sử Vũ Trọng Phụng Vũ Trọng Phụng  (1912­ 1939) sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình nghèo, cha   mất sớm khi nhà văn vỏn vẹn mới được 7 tháng tuổi, được mẹ đơn thân tảo tần nuôi  dạy. Ngay sau khi tốt nghiệp cấp tiểu học, Vũ Trọng Phụng phải đi làm kiếm sống,   sống chật vật bấp bênh bằng nghề viết báo, viết văn chuyên nghiệp. Dù lao động, sáng  tác cật lực, nhưng ngòi bút của ông vẫn không đuổi nuôi sống gia đình. 1937­ 1938, ông  mắc bệnh lao phổi nhưng không có điều kiện chạy chữa. Đến năm 1939, ông mất tại   Hà Nội khi chỉ  mới 27 tuổi, để  lại gia đình còn bà nội, mẹ  đẻ, vợ  và người con gái  chưa đầy 1 tuổi. Những tác phẩm của ông đều đi sâu vào phản ánh hiện thực và các vấn đề  tệ  nạn xã hội trong thời kỳ  bấy giờ. Đặc biệt, những tác phẩm tiểu thuyết của ông đã  gây cuộc tranh cãi về  vấn đề  “dâm hay không dâm” ông cổ  vũ cho quan điểm nghệ  thuật hiện thực, các sáng tác tiểu thuyết của ông đều theo khuynh hướng tả thực. Phần   lớn, các sáng tác của ông đều hiện thực hóa, phải nhìn thẳng vào sự  thật đời sống,  phanh phui tội ác xã hội “tiểu thuyết là sự thật ở đời”. Đó là sự thật về cuộc sống của  người dân lao động, về vô vàn tội ác của bọn quan lại, địa chủ, tư sản. Từ đó, thể hiện  khát vọng tư  tưởng vị nhân sinh, hướng tới tính nhân đạo, thể  hiện thái độ  câm phẫn  với xã hội “chó đểu”. Nghệ thuật trào phúng là một yếu tố đặc trưng trong những sáng tác tiểu thuyết  của ông, được thể hiện qua nhân vật trào phúng, tình huống trào phúng, giọng điệu trào   phúng và ngôn ngữ  trào phúng. Cụ  thể  hơn, nhân vật trào phúng được ông khắc họa  dựa trên những nét trào phúng thông qua cử  chỉ  trong các sự  việc mà người đọc tự  nhận thấy đặc trưng tính cách của nhân vật cũng như  tính chất châm biếm, mỉa mai.  3
  4. Từ  đó, nhà văn không phải miêu tả  kỹ  càng tâm lý nhân vật, suy nghĩ của từng nhân  vật. 1.2 Đặc trưng trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng Vũ Trọng Phụng là một nhà văn đa tài, ông có thể  sáng tác các thể  loại khác  nhau, trong số đó, các tác phẩm tiểu thuyết của ông đã gây được nhiều tiếng vang. Ông   để  lại rất nhiều tiểu thuyết xuất sắc như: Giông tố, Số  đỏ, Vỡ  đê, Làm đĩ, Trúng số  độc đắc…, Nhiều năm trôi qua, với sự  vận động không ngừng của đời sống xã hội,  nhiều tác phẩm của nhiều tác giả đã dần trở nên lạ lẫm và đi vào sự quên lãng. Nhưng   đối với Vũ Trọng Phụng, các tác phẩm của ông dường như có khả năng vượt thời gian   một cách kỳ diệu, luôn được nhiều độc giả quan tâm và được đánh giá cao.  Trong giới tiểu thuyết những năm ba mươi của thế kỉ XX, Vũ Trọng Phụng có   con đường đi rất riêng, rất khác biệt với các tác giả viết tiểu thuyết cùng thời. Ông vô  cùng nhạy cảm trước thời cuộc, các tác phẩm của ông cập nhật liên tục những vấn đề  nóng bỏng của cuộc sống, của thời đại. Thông qua những trải nghiệm của bản thân,  Vũ Trọng Phụng đã miêu tả  hết sức sắc sảo đời sống và tâm lý của lớp người dưới   đáy xã hội. Ngòi bút của Vũ Trọng Phụng không ngần ngại phê phán, phanh phui   những điều xấu xa, dơ bẩn của xã hội đương thời. Bên cạnh đó, ông đặt tấm lòng đầy  sự chân thành, trân trọng khi viết về những con người sống có lí tưởng, có nhân cách   cao thượng, sống vì lợi ích chung của cộng đồng. Do theo sát những vấn đề  của cuộc   sống, của thời sự   nên tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng mang nhiều tính chất phóng  sự, cũng vì vậy, ông đã có được đóng góp quan trọng cho nền văn học Nam. Đó là sự  kết hợp giữa những đặc trưng trong tiểu thuyết và tính chất cơ bản của phóng sự, một  cách tân về mặt thể loại. Sự kết hợp  ấy đã làm tăng chất hiện đại cho tác phẩm của   nhà văn Vũ Trọng Phụng và làm cho người đọc ngạc nhiên và bất ngờ, thích thú. Với  khả  năng phát hiện nhanh nhạy những vấn đề  đáng quan tâm nhất của thời đại mình   cùng với những hiểu biết sâu sắc về người và đời, Vũ Trọng Phụng có thể  được xem  là “nhà tiên tri” dự cảm.  4
  5. Nét độc đáo và sức lôi cuốn của tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng được thể  hiện ở  nhiều phương diện: chất liệu cuộc sống, cốt truyện, chủ đề  tư  tưởng, nhân vật. Các   chất liệu cuộc sống mà ông sử dụng để tạo nên các tác phẩm không ở đâu xa xôi, mà   chính là những câu chuyện được rút ra từ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày xung quanh.   Vũ Trọng Phụng chủ yếu viết về nếp sống sinh hoạt của các tầng lớp viên chức, trí   thức, tư sản, nhất là bọn dốt nát gặp thời, bọn lưu manh trụy lạc, những “thành quả”  mà xã hội đương thời đã tạo ra.  Ở  ông, cốt truyện không rườm rà mà chỉ  xoay quanh   số  phận của một gia đình và một vài nhân vật. Ngòi bút tiểu thuyết của Vũ Trọng   Phụng còn độc đáo, sắc sảo  ở  cách xây dựng hình tượng nhân vật. Ông sáng tạo ra  những hình tượng điển hình trong văn học mà ít có nhà văn nào cùng thời có thể  đạt  được. Nhắc đến nhân vật của Vũ Trọng Phụng ta không thể nào quên được những cái  tên như: Nghị Hách, Xuân Tóc Đỏ, bà Phó Đoan, cụ cố Hồng, thật là một đỉnh cao, độc  đáo tài hoa của sáng tạo nghệ  thuật, đó là những tính cách làm sống lại cả  một thời   đại. Biệt tài của Vũ Trọng Phụng là chỉ  qua một cái tên, một vài câu nói, một vài chi  tiết tiêu biểu, đặc trưng đã đủ  sức khắc họa nên những nhân vật, những tính cách có  một không hai, không trùng lắp, không trộn lẫn với một ai.  Một điều ngạc nhiên ở nhà văn này là ngay khi ở độ  tuổi còn rất trẻ, ông đã có  sự hiểu biết và sự trải nghiệm phong phú đến vậy. Cũng vì thế, những bức tranh mà  ông đã dựng lên về cuộc sống vô cùng đa dạng và chân thực. Nhân vật của Vũ Trọng   Phụng thường là những con người có cá tính, có ý thức về hoàn cảnh mình đang sống   và họ  luôn cố  gắng để  thích nghi, hòa hợp để  có thể  thoát khỏi những bế  tắc, hoặc  “vươn lên” hoặc lợi dụng thời thế để  nổi danh, để  hưởng thụ  như  Nghị  Hách, Xuân   Tóc Đỏ, bà Phó Đoan hay cả cô gái nhà quê như Thị Mịch. Những người như ông Hải   Vân, Tú Anh, Phú, giáo Minh lại thoát ra khỏi hoàn cảnh bằng cách cố  giữ  gìn nhân   cách của mình, sống có lí tưởng, chịu thiệt thòi, hi sinh để làm những việc có ích, để đi  theo lý tưởng Cách mạng.  Nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng luôn sống, luôn vận động không   ngừng trong một không gian rộng lớn với hàng loạt mối quan hệ xã hội phức tạp, đa   5
  6. chiều. Cái xấu, cái ác luôn tràn ngập trong xã hội lúc bấy giờ  nhưng đâu đó vẫn còn  những con người có phẩm chất cao cả, sống vì lẽ  phải. Cuộc sống không chỉ là bóng   tối mà còn có ánh sáng, có thiên đường tươi đẹp và có hi vọng, nhưng cái hi vọng  ấy  quá mong manh nên sự bi quan vẫn còn tràn ngập trong tư  tưởng của người cầm bút.  Qua các nhân vật của Vũ Trọng Phụng, mỗi con người ai cũng đều có số phận, không   ai có thể  thoát khỏi số  phận  ấy, đó có thể  được coi là định mệnh hay là quy luật của  tạo hóa dành cho con người. Vũ Trọng Phụng vẫn chưa dám tin là con người có thể  vượt lên trên định mệnh và hoàn cảnh xã hội để  tự  cứu lấy bản thân mình. Tuy vậy,   ông vẫn tin rằng cái xấu, cái ác có thể  loại trừ, có lẽ  vì vậy mà ông đã dành hết tâm  huyết của mình để  sáng tác nên các tác phẩm phơi bày cái xấu của con người để  họ  nhìn vào đó mà tự  soi lại mình. Vũ Trọng Phụng thường xây dựng hình tượng cho  nhiều nhân vật trong cùng một tác phẩm với đủ mọi tầng lớp xã hội từ nông thôn đến  thành thị, từ những tầng lớp dưới đáy xã hội đến bọn thống trị. Vũ Trọng Phụng còn được xem là cây bút trào phúng bậc thầy bởi lối viết táo  bạo, sắc sảo và gây cấn. Ông dùng tiếng cười mang tính chất chê bai, phê phán, răn   bảo để chế giễu, đả kích những thói hư tật xấu, những con người và sự việc tiêu cực.  Với nghệ thuật đặc sắc đầy khả năng biến hoá, ngôn ngữ và giọng điệu hài hước, trào   phúng, ông đã dựng lên hàng loạt chân dung biếm hoạ có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Tiêu  biểu là trong tiểu thuyết Số đỏ, Trúng số độc đắc, thông qua bức tranh xã hội đầy rẫy   những ngẫu nhiên vô nghĩa lí của cuộc đời, Vũ Trọng Phụng đã châm biếm, đả  kích  những kẻ có tiền nhưng vô đạo đức lúc bấy giờ. Điều đó đã góp phần đặt Vũ Trọng   Phụng vào vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Khác với những   cây bút trào phúng như Nguyễn Công Hoan hay Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng là tác giả  của những phóng sự, tiểu thuyết dài nên tác phẩm của ông thường là một chuỗi liên   kết hàng loạt tình huống gắn với hàng loạt mâu thuẫn phức tạp. Các tình huống trào   phúng ấy tạo nên sức cuốn hút đầy kịch tính của văn chương, đồng thời bộc lộ sâu sắc   tính chất nghịch lý, phi lý của cuộc đời.  6
  7. Vũ Trọng Phụng là một nhà văn có ý thức trách nhiệm đối với cuộc sống và con  người. Ông là nhà văn đổi mới mạnh bạo trong thời đại của mình và có những đóng   góp quan trọng bậc nhất vào việc hình thành và phát triển thể loại tiểu thuyết ở nước   ta trong thời kì hiện đại của lịch sử văn học Việt Nam. 2. Vũ Trọng Phụng với chủ nghĩa tự nhiên 2.1 Chủ nghĩa tự nhiên trong văn học 2.1.1 Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tự nhiên.  Chủ  nghĩa tự  nhiên vừa có nghĩa là trào lưu vừa có nghĩa là phương pháp sáng   tác, hình thành một cách tiêu biểu trong trong văn học Pháp nửa sau thế kỷ XIX và đã   một thời tác động rất mạnh vào văn học Âu Mỹ vì nó ra đời dựa trên những thành tựu   của khoa học tiên tiến có nhiều sức thuyết phục, nhất là đối với các nhà văn trẻ  đang   khao khát tìm kiếm một phương thức nghệ  thuật mới đủ  sức thể  hiện những nhận   thức mới của họ về cuộc sống và con người trong một thực tại xã hội phức tạp mà lý   luận những trào lưu cũ tỏ ra không còn đủ sức đáp ứng cho nhu cầu tái hiện nó.  Mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tự  sự  sản trở  nên gây  gắt, nhà văn tuy nhìn thấy những mặt thối tha của xã hội nhưng không có khả năng và  cũng không muốn đi sâu vào những cội nguồn xã hội... chủ  nghĩa tự  nhiên đã hình  thành và phát triển trên mảnh đất và tâm trạng bi quan của một số nhà văn mà tiêu biểu   là Zola.   Chủ  nghĩa tự  nhiên đã được Emile Zola phổ  biến trong những bài viết  được ông công bố  từ  năm 1866, khi Zola tiếp xúc với tinh thần khoa học của bộ  Encyclopédie. Từ  đó khi vận dụng chủ  nghĩa tự  nhiên trong văn học ông đã thể  hiện  được sự sáng tạo, đề tài về xã hội khắc nghiệt và số phận con người trong xã hội đó.   Tái hiện một cách trung thành với tự  nhiên  ở  một mảng hiện thực nào đó, chú trọng   đến tính quy luật của môi trường tự  nhiên, hoàn cảnh vật chất, quy luật tâm sinh lí,  bệnh lí, nhưng không loại trừ bản chất xã hội, lịch sử của chúng. Chủ nghĩa tự nhiên là   một tìm tòi của các nhà lý luận, nhà văn đương thời khi chủ nghĩa hiện thực không còn   đủ sức đáp  ứng cho nhu cầu nghệ thuật trong thời đại mới có nhiều biến chuyển sâu  7
  8. sắc về  xã hội, đây là phương thức mới hữu hiệu hơn để  thâm nhập vào sự  thật đời  sống. Sự  ra đời của chủ  nghĩa tự  nhiên đã có những tác động mạnh mẽ  đến sự  phát   triển văn học như: mở rộng đề  tài, xới lên những tầng mới của hiện thực cuộc sống,  chú ý đến cái dạng vật thể  của con người (mặt mũi, hình dáng) và các sinh hoạt vật  chất của nó nhất là sinh hoạt sinh lí, giới tính cùng với vai trò vô thức trong tâm lí con   người. Giúp con người có khả năng tiếp cận, mở rộng góc nhìn về nhiều chủ đề trong  đời sống như: chủ đề thuộc tầng lớp thấp hơn liên quan đến các hoạt động bạo lực và   cấm kỵ, miêu tả  môi trường, di truyền và điều kiện xã hội kiểm soát con người, về  các chủ đề bạo lực nghèo đói, tham nhũng, mại dâm.. 2.1.2 Những nguyên tắc sáng tác chính của chủ nghĩa tự nhiên  Con người trong chủ nghĩa tự nhiên chỉ hoạt động theo bản năng và sự đầy đủ  của hành động nhận thức được thể hiện trong đó nên người đọc có thể dễ dàng nhận   ra bản chất thật của từng nhân vật trong tác phẩm. Nhận thức bằng khoa học có những điểm giống với nhận thức nghệ thuật vì   đều bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, xoay quanh về sự tồn tại và phát triển của con  người, lấy sự  thể  hiện đầy đủ  hành vi nhận thức (sinh hoạt vật chất, tâm sinh lí,...)  làm tiêu chuẩn căn bản về thẩm mỹ và cơ sở cho sáng tác. Họ từ bỏ việc thể hiện đạo  đức, mà cho rằng thực tại được miêu tả một cách lãnh đạm, đúng với cuộc sống. Như:   Teredơ, một nhân vật khác của Zola, không thỏa mãn với chồng nên tìm đến thông dâm  với một họa sĩ tên là Lôrăng, một con người cường tráng hừng hực lửa tình, đối lập  với sự  khờ  khạo, yếu đuối của chồng mình. Nhân một cuộc du thuyền, họ  dìm chết  người chồng, rồi lấy nhau. Nhưng hình ảnh người chồng cứ bám riết làm cho họ dằn  vặt, mê hoảng, điên loạn suốt đêm ngày. Khối thịt đông lạnh và rữa nát của chồng như  luôn xen vào nằm giữa hai người. Dần dần họ căm ghét nhau, muốn tố  cáo và hạ  sát   nhau, nhưng rồi tha thứ cho nhau và cùng tự sát. 8
  9. Trong bối cảnh lịch sử mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp giữa vô sản và   tư sản đã trở nên gay gắt, chế độ  tư bản bộc lộ rõ bản chất bốc lột trên mọi lĩnh vực  đời sống. Làm cho cuộc sống con người rơi vào cảnh khốn cùng, khó khăn. Về  hoàn   cảnh thì chỉ có tác động đến cơ thể trong phạm vi sinh lý,.. nơi ăn chốn ở, sỏi đá, cây   cối,..hoặc miêu tả những môi trường như quán rượu, nhà thổ, những môi trường có tác  dụng kích thích tính dục của con người. Đối với văn hoá tình hình lịch sử đã làm cho   một bộ  phận trí thức tuy thấy được những thối nát của xã hội, nhưng chưa vượt qua   những thiên kiến giai cấp, sống xa rời đời sống của nhân dân, cảm thấy hoàn toàn bất  lực trước tội ác và cái xấu đang ngày một bao vây dày đặc. Tính cách con người vốn   được quy định bởi bản chất sinh lí học. Đời sống con người bị chi phối bởi môi trường  vật chất và sinh hoạt trực tiếp chứ không tính đến các nhân tố xã hội lịch sử.  Sự nhận thức nghệ thuật luôn có một phần giống với khoa học nhưng hai lĩnh   vực này hoàn toàn không đồng nhất với nhau. Nếu như đối tượng của khoa học là sự  vật, hiện tượng tồn tại độc lập với ý thức con người thì đối tượng của nghệ thuật là  tất cả  những gì quan hệ với con người. Vì vậy mỗi người nghệ  sĩ cần giữ  cho mình  những nét đặc trưng riêng biệt của nghệ thuật: Con người trong nghệ thuật phải là con  người xã hội có tình cảm cảm xúc, giữ được những cá tính riêng biệt sinh động của nó   bảo đảm cho con người có sức sống hoạt động và phát triển như trong hiện thực cuộc   sống. Đồng thời giữ được những mối quan hệ xã hội, bản năng, quy luật tự nhiên của   đời sống con người. Nhà khoa học và nhà nghệ  thuật cũng quan tâm tới thế  giới tự  nhiên. Nhưng   đối tượng của nhà khoa học sẽ  là bản chất, quy luật vận động, thuộc tính phổ  quát   độc lập khách quan với ý thức của con người thì nhà nghệ  thuật lại chọn cho mình  trong giới tự nhiên những phương diện liên quan đến ý thức con người, đến tư tưởng,  tình cảm, cảm xúc con người, đến đời sống tinh thần của con người. Chẳng hạn, mưa   đối với nhà khoa học là quá trình ngưng tụ  của hơi nước khi gặp lạnh và rớt xuống.   Nhưng mưa đối với nhà thơ bao giờ cũng có hồn người trong đó. “Nặng lòng xưa hạt mưa đau 9
  10. Mát lòng nay trận mưa mau quê nhà” (Tố Hữu) Đa phần, hiện thực cuộc sống đi vào tác phẩm của họ bao giờ cũng có sự gọt   dũa, trau chuốt, hư cấu từ ngôn ngữ  hình  ảnh đến nhân vật,... ít tác giả  nào thể  hiện   hiện thực cuộc sống như  nó vốn có. Nhưng đến với chủ  nghĩa tự  nhiên, các nhà văn  phải viết trung thực, có sao nói vậy, không thêm bớt, tô điểm, vẽ vời, tức là tôn trọng   người đọc, nêu cao tinh thần khoa học, để có thể  khám phá chân lí cuộc sống. Người   nghệ sĩ phải có một con mắt tinh thường, một tâm hồn nhạy cảm và một tài năng sắc  bén để  tạo ra những tác phẩm mang giọng nói của riêng mình. Đồng thời, phải thể  hiện một cách nhìn, nhận thức đúng đắn về  con người và cuộc sống phản ánh một  cách chân thật khách quan, vì sáng tạo không có nghĩa là bịa đặt. Sáng tạo nghệ  thuật   giống như  sáng tạo cuộc sống, cần có tính chân thật cao mới có khả  năng tác động  mạnh mẽ vào nhận thức của người tiếp nhận. Chính nỗ  lực sáng tạo của nhà văn đã   làm nên sức sống của văn chương, thế giới nghệ thuật của người nghệ sĩ. Mỗi người nghệ sĩ trong quá trình cầm bút cần phải tạo được tiếng nói riêng,  âm sắc riêng. Nó đòi hỏi các nhà văn phải miệt mài trên con đường sáng tạo, không  ngừng nghỉ tác phẩm phải mang màu sắc của riêng mình. Một âm vang tha thiết, đặc  sắc giữa cõi văn chương, ấy là sức sống là dấu ấn riêng để lại ấn tượng của nhà văn  trong lòng độc giả. Nếu các nhà văn, nhà thơ  chỉ  biết hát chung khúc hát, không có   giọng điệu riêng,  ấn tượng riêng. Chính vì vậy những tác phẩm  ấy nhanh chóng ra đi  trong cảm nhận của người đọc như  một cơn gió thoáng qua. Vì thế  mà yêu cầu sáng  tạo, gợi nhắc về những nhà văn, nhà thơ đã dành trọn cuộc đời mình cho văn chương.  Bởi cái  tầm thường là cái chết của nghệ thuật, sự lặp lại tẻ nhạt là cái chết của thơ  ca. Độc đáo luôn là yêu cầu muôn đời của văn chương nghệ thuật. Cùng viết về đề tài  người nông dân, nhưng mỗi nhà văn lại có một cách thể hiện khác nhau. Như Nguyễn   Công Hoan đã xây dựng khá thành công hình ảnh người nông dân điêu đứng, phá sản vì  thủ  đoạn tranh cướp ruộng đất của bọn địa chủ  cường hào trong tiểu thuyết “Bước   đường cùng”. Ngô Tất Tố  với tiểu thuyết “Tắt đèn” nói lên số  phận long đong, khốn   10
  11. khổ của những người nông dân Việt Nam trước cảnh sưu cao thuế nặng thì Nam Cao   lại viết về  số  phận bi thảm, cùng cực của người nông dân qua cuộc sống hàng ngày   của họ. Cuộc sống luôn đa dạng, tốt ­ xấu, vinh ­ nhục, cao cả ­ thấp hèn hoà lẫn, đan   xen vào nhau. Có nhà văn thì cảm thấy chán ghét thực tại cuộc sống nên họ  mong   muốn thoát li, xa rời thực tế đến với một thế giới khác tốt đẹp hơn bằng bút pháp lãng  mạn. Và ngược lại có những nhà văn dám nhìn thẳng vào vấn đề chấp nhận hiện thực   và đối mặt với nó. Chính vì thế  mà những đề  tài của họ  là sự  trải nghiệm, cách nhìn   nhận đánh giá về  cuộc sống, về  con người, đề  cập đến những vấn đề  suy tàn thấp  kém trong xã hội, nơi đầy rẫy cạm bẫy khiến con người dễ dàng sa ngã. Qua đó mà  người đọc có thể  dễ  dàng nhận ra những giá trị  cuộc sống mà tác giả  đã xây dựng   thông qua cốt truyện. Sự mở rộng hệ đề  tài, chú ý tới những hiện tượng bình thường  của cuộc sống vì cho rằng không có cốt truyện nào bất lợi, cũng như  không có đề  tài   nào bất cập đã giúp cho chủ  nghĩa tự  nhiên chiếm lĩnh những đề  tài mới, khai thác   được nhiều hơn những khía cạnh hiện thực nằm sâu bên trong lòng xã hội. Chủ  nghĩa tự  nhiên giải thích các hiện tượng thối nát của xã hội bằng các  nguyên nhân sinh lí. Trong các tác phẩm văn học các nhà văn thường nêu ra bản chất  con người về các vấn đề loạn dâm, lợi ích cá nhân, lối sống trụy lạc, những dục vọng   bản năng thấp hèn và xoay quanh đó là môi trường vật chất của một xã hội mục nát,   nơi mà đồng tiền có thể  chi phối mọi thứ. Chủ  nghĩa tự  nhiên không xây dựng “tính  cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình” mà những cảm nghĩ và hành động của nhân  vật đều chịu sự chi phối của sinh lý, di truyền theo bản năng và sự  đầy đủ  của hành   động nhận thức được thể  hiện trong đó. Tuy không loại trừ  nhân tố  xã hội – lịch sử,   nhưng tính cách con người được quy định bởi bản chất sinh lí học và bởi môi trường   được quan niệm chủ yếu là môi trường sinh hoạt vật chất, tuy không loại trừ nhân tố  xã hội – lịch sử. Mặt khác, sự thâm nhập của sự thật đời sống vào tác phẩm văn học   của các tác giả  theo đuổi chủ  nghĩa tự  nhiên đã lật đổ  những nguyên tắc lí thuyết và  khiến cho một số tác phẩm ưu tú của chủ  nghĩa tự  nhiên có một tác động nghệ  thuật  11
  12. không nhỏ. Chính sự nghiên cứu sinh học vật chất đã giúp phần nào cho các nhà văn tự  nhiên chủ nghĩa phát hiện ra bản chất giai cấp của ý thức. 2.2  Sự tiếp nhận của Vũ Trọng Phụng đối với chủ nghĩa tự nhiên.     Sự nghiệp văn chương của Vũ Trọng Phụng diễn ra trong giai đoạn lịch sử đầy  biến động. Các sự kiện lịch sự ấy ảnh hưởng sâu sắc đến tác phẩm của nhà văn. Thời   gian mà tác giả  tiếp nhận văn học cũng là thời kỳ  mà chủ  nghĩa tự  nhiên hình thành,  phát triển vì thế  trong các tác phẩm của ông  ảnh hưởng một phần từ  chủ  nghĩa tự  nhiên. Các tác phẩm làm nên tên tuổi của Vũ Trọng Phụng như  “Giông Tố”, “Số  đỏ”   hay “Làm đĩ”,… đều miêu tả  một cách khách quan thực tại và tính cách con người bị  ảnh hưởng từ  xã hội lúc bấy giờ. Mà chủ  nghĩa tự  nhiên hướng vào sự  miêu tả  một   cách khách quan, chính xác và lãnh đạm đối với thực tại và tính cách con người vốn bị  quy định bản chất sinh học, từ môi trường vật chất và sinh hoạt trực tiếp, không tính  đến các nhân tố  xã hội – lịch sử. Độc giả  có thể  bắt gặp những điều này trong văn  chương Vũ Trọng Phụng, thấy được sự  tiếp nhận của nhà văn đối với chủ  nghĩa tự  nhiên. Vần văn của ông hướng tới con người lao động, con người thấp cổ  bé họng,   khắc họa lại bức tranh thường nhật của xã hội đương thời. Có quan niệm cho rằng “   quan niệm văn chương của một nhà văn được bộc lộ  qua phát ngôn lẫn hành động  thực tế”, bởi vì thế  người đọc thường nắm bắt những quan điểm của tác giả  qua   những lời văn, và cũng có khi độc giả  còn phải dựa vào những dữ  liệu để  suy đoán.   Nếu nhìn một cách bao quát toàn bộ sáng tác của Vũ Trọng Phụng, ta dễ dàng nhận ra   sự tập trung và nhất quán về phương diện đề tài của nhà văn. Về các thể loại truyện   ngắn, kịch, phóng sự  hay tiểu thuyết… có thể  thấy tiêu điểm của sự  chú ý trong văn  chương của tác giả không gì khác ngoài những nhố nhăng xô bồ, những thói hư tật xấu   của con người, những tình huống oái oăm trong cuộc sống. Trong quá trình mổ  xẻ đó,   ta thấy được tâm trạng phẫn uất cao độ của ông, nỗi căm giận của một con người thua   thiệt. Ông vừa thuật kể, miêu tả  sự  thật, vừa cố  kìm nén cơn giận dữ  tưởng chừng   như  sắp bùng phát. Và cũng không ít khi ông đã chẳng giữ  được sự  bình thản, lạnh   lùng của người phát ngôn sự thật. Những lúc đó ông buộc phải trút giận lên nhân vật,   12
  13. lên sự  vật, lên cuộc đời. “Thi pháp tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng” của Nguyễn  Thành cũng nói lên hướng tiếp cận của Vũ Trọng Phụng     Chủ nghĩa tự nhiên trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng chịu ảnh hưởng từ các   tác giả Phương Tây và tiêu biểu có thể kể đến là Émile Zola. Nói đến các nhà văn lớn  phương Tây đi theo chủ nghĩa tự nhiên thì Émile Zola – nhà văn người Pháp nổi tiếng  với tiểu thuyết “The Exprimental”. Theo Zola, tiểu thuyết gia không còn là một người   quan sát đơn thuần, ghi chép hiện tượng mà là một nhà thí nghiệm tách biệt, người đặt   các nhân vật của mình cùng với niềm đam mê của họ  vào một loạt các thử  nghiệm,  đồng thời cũng là người làm việc với các sự kiện xã hội và cảm xúc như một nhà hóa  học làm việc với vật chất. Vào đầu thế  kỉ  XX có rất nhiều tác giả  văn xuôi chịu ảnh  hưởng sâu sắc của văn học phương Tây, tiêu biểu là nhà văn độc đáo Vũ Trọng Phụng.   Độc giả  có thể  nhận thấy phong cách chủ  nghĩa tự  nhiên của Émile Zola trong tác   phẩm của Vũ Trọng Phụng.    Bởi sống trong thời kì chịu sự tác động của thực dân Pháp, tư tưởng của nhà văn   cũng vì thế chịu sự tác động phần nào vào hoàn cảnh đời sống. Tuy nhiên, Vũ Trọng   Phụng vẫn giữ  được một tinh thần cơ  bản của chủ  nghĩa tự  nhiên để  nhìn cuộc đời   qua đôi mắt nghệ thuật của một nhà sáng tác văn chương. Yếu tố khách quan giúp Vũ  Trọng Phụng dễ  dàng bắt gặp chủ  nghĩa tự  nhiên là những hoàn cảnh sống, những   cuộc sống phù phiếm hoa lệ  của những kẻ  quyền lực, giàu có hay sự  rẻ  túng của   những con người thấp cổ  bé họng trong xã hội lúc bấy giờ. Xét về  yếu tố  chủ  quan,  Vũ Trọng Phụng căm hờn, phỉ báng sự xảo huyệt, đê tiện, bẩn thỉu thối nát của một xã   hội thực dân nửa phong kiến. Ông hiểu được cái đáy xã hội không phải từ  trên nhìn   xuống, từ ngoài nhìn vào mà là người nhập cuộc để thấu hiểu và đưa vào những trang   văn của tác giả. Đồng thời những quan niệm và tư tưởng của tác giả qua các tác phẩm  cũng như thái độ qua các bài tranh luận trên các báo giấy đương thời một phần nào đó   trùng khớp với tinh thần chủ nghĩa tự nhiên. Đó là tâm trạng bi quan, lo lắng trước sự  thay đổi của xã hội, con người khi tiếp thu những cái mới mà quên đi bản chất của nó. 13
  14.    Vũ Trọng Phụng – một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam đầu thế kỷ  XX. Có thể thấy những yếu tố khách quan và chủ quan trên đã kết hợp và tạo ra một   phong cách sáng tạo đầy mới mẻ của nhà văn khi khai thác các tác phẩm dựa trên chủ  nghĩa tự nhiên. Bên cạnh đó Vũ Trọng Phụng cũng tiếp nhận các trào lưu văn học hiện  đại trong văn xuôi như  chủ  nghĩa hiện thực, chủ  nghĩa hiện đại. Ông là một người  hiểu sâu sắc và năm bắt rõ thời thế  nên trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng luôn  được đáng giá sôi nổi và nếu dựa trên những yếu tố chủ quan có thể thấy rằng trào lưu  chủ nghĩa tự nhiên phù hợp với quan niệm, tư tưởng của tác giả. Để tạo nên chỉnh thế  toàn vẹn, thống nhất, chủ  nghĩa tự  nhiên trong các sáng tác của nhà văn Vũ Trọng   Phụng phải dung hòa với các trào lưu khác như  chủ  nghĩa hiện đại, chủ  nghĩa hiện  thực. Nhà văn – nhà báo Vũ Trọng Phụng nổi tiếng là một cây bút mới lạ trong thời kì  XIX­XX. Tác giả có thái độ phê phán kịch liệt vấn đề Âu hóa, bởi trong thấy những di  sản tiêu cực của quá trình này và ông biết giữ lại niềm kính trọng đối với những nếp   sống và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Do đó, ông đã mô tả trong tiểu thuyết   “Giông Tố” hình  ảnh một người tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng dân  tộc. Nếu suy xét một cách bóng gió thì rõ ràng đó là người Cộng Sản, được miêu tả  như một nhân vật nho sĩ quen thuộc của Việt Nam, biết thuật xem bói tay, có khả năng  tiên tri và bói toán. Thứ ngôn ngữ cầu kì, lịch thiệp của nhân vật này là thứ  ngôn ngữ  kiểu cách của nhà nho. Nhìn chung, ông là một người sống với tư  tưởng gìn giữ  sự  thuần khiết của dân tộc, chỉ tiếp nhận những gì thật sự tốt đẹp cho chúng ta. Thấy rõ   trong các tác phẩm tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng luôn chứa đựng một tác động tích   cực của chủ nghĩa tự nhiên như trong việc mở rộng đề tài, xới lên những tầng lớp mới  trong đời sống và những tâm lí vốn có của con người trong những tình huống. 2.3 Ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên đối với Vũ Trọng Phụng trong tiểu thuyết.  2.3.1 Sơ lược về tác phẩm “Giông tố” 14
  15. “Dông” là hiện tượng khí quyển phức tạp, thường xảy ra vào tháng 6­7­8, có   mưa rào, gió giật mạnh, chớp và kèm theo sấm, sét. Bên cạnh đó, còn có những ý kiến   khác xoay quanh “giông” hay “dông”. Cách viết đúng, cách viết đầu tiên là “dông”, còn   “giông” đã được coi như  một dạng biến thể của “dông”. Tuy nhiên, cách viết “giông  tố” của nhà văn Vũ Trọng Phụng không ảnh hưởng nhiều đến tổng thể tác phẩm, vẫn  được đại chúng chấp nhận. Tiểu thuyết Giông tố  (1936) được ra mắt công chúng vào ngày 1/1/1936 trên  Hà Nội báo số 1. Tác phẩm được ông sáng tác trong bối cảnh Việt Nam dưới thời Pháp  thuộc những năm 1930­1940. Phong trào cách mạng yêu nước của nhân dân nổi ra sôi  nổi nhưng lien tục thất bại, bị Thực dân Pháp khủng bố, đàn áp hết sức dã man. Cộng  với  ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng của nền kinh tế thế giới nền kinh tế n ước ta   vốn đã khủng hoảng lại càng trở nên thiếu hụt hơn ( doanh nghiệp phá sản, công nhân   thất nghiệp tràn lan, quan lại, tay sai giàu có đầu cơ tích trữ, bóc lột dân nghèo...) đời   sống nhân dân điêu đứng, nhiều người phải tha phương cầu thực, rời nông thông lên  thành thị và một trong số họ đã trở thành những con người lưu manh, tha hóa. Bối cảnh  lịch sử  đã trở  thành nguồn cảm hứng bất tận để  Vũ Trọng Phụng phát huy tối đa   những câu chuyện trào phùng giàu hiện thực của mình.   Tác phẩm gồm có 30 chương và một đoạn kết. Bắt đầu từ một buổi đêm, khi   xe ô tô của Nghị Hách – tên tư sản vô cùng giàu có ở thành thị, bỗng bị hỏng giữa con   đường làng qua cánh đồng, hắn chờ cho hai người lái xe đang hí húi sửa. Một mình hắn   đi thong dong dọc con đường. Một lúc sau, hắn gặp bốn người nông dân đi gánh rạ  đêm. Trong bốn người đó, có một cô gái gánh rạ đi cuối cùng tên là Thị Mịch. Tính dâm  dê trỗi dậy, hắn lừa hỏi mua rạ của Thị Mịch, lệnh cho ba người còn lại đi trước. Rồi  kéo cô gái ấy lên xe ô tô, trả  cho 5 đồng. Sau khi cuộc cưỡng bức thô bạo có trả  tiền   đó xong xuôi, hắn đẩy Thị  Mịch ra ngoài xe rồi cho tài xế  lái xe chạy thẳng, lao tới  người đi tuần trong làng đang chặn phía trước xe.    Hai sự việc  ấy đã khiến Nghị Hách vướng phải một cuộc kiện tụng của dân   làng. Trong cuộc kiện tụng  ấy, quan huyện Cúc Lâm là người đứng giữa xét xử. Cúc  15
  16. Lâm là một người quan ngay thẳng, từ chối mọi cám dỗ nhan sắc và tiền bạc mà Nghị  Hách đưa ra để bảo vệ người dân. Tuy nhiên, Nghị Hách lại thông đồng với quan trên   khiến ông phải từ  chức, mở  một văn phòng Luật sư, một cơ  quan ngôn luận khác.  Cuộc kiện tụng của dân làng bị thất bại. Thị  Mịch là một cô gái quê, là người yêu sắp cưới của Long. Cuối cùng, khi   Thị Mịch có bầu, buộc phải trở thành vợ lẽ của Nghị Hách, Long cũng trở nên đau khổ  mà chơi bời, trác táng. Dù đã làm lẽ Nghị Hách nhưng đôi khi Thị Mịch và Long vẫn tư  tình vụng trộm với nhau. Nghị Hách không biết chuyện, thậm chí, Long còn thông dâm  cả  với người vợ  lẽ  khác của Nghị  Hách. Trong khi đó, Tú Anh – mang danh con của   Nghị Hách, mai mối, chấp thuận cho Long cưới Nguyệt – con gái Nghị Hách làm vợ.      Về tên Nghị Hách, hắn ứng cử thành công ghế Nghị trưởng – một vị trí quan   trọng trong xã hội ngày trước. Trong buổi tiệc thiết đãi  ở  Tiểu Vạn Trường Thành,  hắn đã đọc một bài diễn văn rất êm tai về bình đẳng, bác ái, nhân đạo, bao dung, đạo  đức,…., mang đậm tính chất mỉa mai, trắng trợn, độc ác của Vũ Trọng Phụng dành cho  nhân vật. Một hôm hắn nhận được tin vợ mình bị bắt cóc. Đây cũng là lúc ông già Hải  Vân – người cách mạng – cũng là bố đẻ của Tú Anh đã giúp Nghị Hách nhận ra sự thật   về bi kịch của chính mình. Vợ của ông già Hải Vân đã sinh ra Long nhưng chính Long   lại là máu mủ  của Nghị  Hách. Ngược lại, ông già Hải Vân lại thương yêu vợ  Nghị  Hách mà sinh ra Tú Anh – người trước đây Nghị Hách vẫn lầm là con đẻ. Như vậy, bi   kịch gia đình của Nghị Hách thực sự quá sức tưởng tượng. Bố cưỡng bức, lấy vợ chưa   cưới của con. Con trai thông dâm với hai người vợ  lẽ  của bố. Hai anh em ruột lấy   nhau.    Kết thúc tiểu thuyết, tên Nghị Hách mất tiền, mất vợ, đến ngay cả Thị Mịch –  đang là vợ lẽ cũng bế con trở về quê. Nhân vật Long chết vì tự sát.     Tác phẩm còn khắc họa nhiều kiểu loại nhân vật khác: thôn quê có, thành thị  có, từ quê lên thành thị cũng có, người được học thức có, người bị bán làm lẽ có, người   16
  17. làm cách mạng cũng có,… nhưng hai nhân vật là Thị  Mịch và Nghị  Hách được xây   dựng nổi bật nhất tác phẩm. 2.3.2  Yếu  tố   tự   nhiên  chủ   nghĩa   trong  tiểu   thuyết  “Giông  tố”   của   Vũ  Trọng   Phụng Ta có thể hiểu rằng chủ nghĩa tự nhiên trong văn chương miêu tả những gì diễn   ra trong cuộc sống này một cách chân thực nhất, đây cũng là tiền đề  quan trọng nhất.  Chủ nghĩa tự nhiên là lấy tự nhiên và con người làm đối tượng, phản ánh các khía cạnh  của cuộc sống con người một cách khách quan, nói lên những vấn đề  sâu sắc nhất về  mặt trái mỗi con người đó là những hành vi thiếu đạo đức, nhân cách bị tha hóa và nói   lên những chi tiết thật đến mức khiến người đọc phải khó xử. Đồng thời các tác phẩm   mang khuynh hướng chủ nghĩa tự nhiên nói lên những biểu hiện sinh lí, bản năng của  con người và con người trong chủ  nghĩa tự  nhiên là những người chỉ  hành động theo  bản năng, phần con trong chính họ  được lô rõ nên ng ̣ ười đọc có thể  dễ  dàng nhận ra  bản chất thật của từng nhân vật trong tác phẩm. Qua các yếu tố trên ta càng nhìn nhận   rõ hơn việc phơi bày thực tại của chủ nghĩa tự  nhiên, đó là sự  sao chép đời sống một  cách vô cảm và chú ý phần lớn đến các chi tiết vụn vặt nhằm vạch trần các mặt sai   trái của bên trong mỗi con người. Đa số các nhà văn thuộc khuynh hướng chủ nghĩa tự  nhiên đều chứng kiến sự oái oăm, ngang trái của con người trong thực tại xã hội đầy  rẫy sự lố lăng, giả dối, một xã hội tồn tại những con người không có đạo đức và nhân  cách, cùng là con người với nhau nhưng có sự phân biệt rõ rệt, không công bằng. Hiện   thực đời sống có  ảnh hưởng rất lớn đến ngòi bút của nhà văn, Vũ Trọng Phụng cũng   không ngoại lệ. Chính vì thế, ông đã đứng lên phơi bày hiện thực của xã hội lúc bấy  giờ, vạch trần những con người xấu xa, ghê tởm, vì những lợi ích, thú vui riêng biệt  của bản thân mà hạ thấp giá trị của người khác. Chủ nghĩa tự nhiên giải thích các hiện   tượng thối nát của xã hội bằng những nguyên nhân sinh lí. Trong các tác phẩm phần   chính thường được đưa ra về  các vấn đề  loạn dâm, lợi ích cá nhân, lối sống sai trái  của xã hội đương thời.  17
  18. Vũ Trọng Phụng là nhà văn tiêu biểu chịu  ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa tự  nhiên, bởi lẽ, xã hội mà ông sống luc b ́ ấy giờ  là một xã hội đang được giao thời  chuyển mình từ  thực dân phong kiến sang quá trình Âu hóa và đô thị  hóa, xã hội bao   hàm những bất công, những trò chơi dâm ô, cưỡng hiếp, lố  lăng, hỗn loạn, méo mó,  ̣ ực tại đen tối, đầy rẫy những cạm bẫy mà con người ta dễ dàng ngã vào. Trong   môt th cái xã hội ấy cái ác trong con người liên tục trỗi dậy, sự giàu nghèo được phân biệt rõ   ràng khi những người có tiền dù phạm sai trái đến mức nào cũng được xóa tội qua lời   nói cậy quyền cậy thế hoặc những người nghèo dù bị hại cũng trở  thành người mang  tội, tầng lớp thấp kém của xã hội. Nếu con người ta nhìn đời băng con măt tích c ̀ ́ ực,  nhận thấy cuộc sống này đáng sống, đáng trân trọng ta đã có những án văn tràn đầy   niềm vui và hy vọng; nhưng với cuộc sống đày ải, những tình tiết mang nhiều sự oái   oăm  ấy, Vũ Trọng Phụng đã hoàn toàn bất lực, gieo vào tư  tưởng của ông những nỗi  thất vọng, bất bình. Nhìn chung, chính vì sống trong một xã hội đầy thối nát nên Vũ   Trọng Phụng càng thấu hiểu được số phận bất công và chứng kiến những mặt trái của   xã hội làm ông càng phẫn nộ, mất niềm tin hoàn toàn vào tinh thần và giá trị  của con  người. Và có lẽ  từ  đây, những yếu tố  của chủ  nghĩa tự  nhiên đã bắt đầu ảnh hưởng  đến ngòi bút của ông, giúp ông tổ  điểm thêm cho các tác phẩm của mình những màu  sắc tràn đầy tính chân thật. Yếu tố  cua chu nghia t ̉ ̉ ̃ ự  nhiên đã đi sâu vào quá trình sáng tác của Vũ Trọng  Phụng, các chi tiết được nói lên như một sự phơi bày về xã hội vô cùng bất công, hành   vi đạo đức đầy tội lỗi của con người. Các nhân vật mà ông đặc tả  rất chân thực, hầu  hết các nhân vật được đề cập đến đều xoay quanh vấn đề về cái dâm va b ̀ ản năng của   mỗi con người. Những nhân vật mà ông xây dựng lên mang suy nghĩ, tư tưởng và tính   cách khác nhau nhưng điểm chung của họ  là sự  tồn tại một con người sinh lý, con  người của tự nhiên. Các nhân vật như đại diện cho từng cá thể khác nhau trong xã hội   chúng ta, đủ  các kiểu người, đủ  các tầng lớp, đa dạng từ  ngoại hình đến tính cách,  trong đó có những nhân vật bị  tha hóa bởi hoàn cảnh, môi trương,... Th ̀ ế  giới nghệ  thuật trong văn chương Vũ Trọng Phụng có bình diện của riêng nó, đó là không gian,   18
  19. thời gian, âm thanh, màu sắc và con người riêng. Những nét riêng  ấy đã giúp ông tạo   nên một đời sống nghệ  thuật náo loạn,  ồn ào, nhiều tình huống và đầy bi kịch, cho   thấy rõ bản năng con người bị trổi dậy và không màng đến giá trị của cuộc sống là gì.  Với tiểu thuyết Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã tả  thực được toàn bộ  cái dâm ô  uế lúc bấy giờ, là một xã hội mục nát nơi mà đồng tiền có thể chi phối mọi thứ. Ở đó   những nhân vật bộc lộ rõ về con người của tự nhiên và con người của sinh lí, dù là ai   đi chăng nữa, ở họ đều có những góc khuất hoặc những khoái cảm riêng. Sự dâm dục   và đồng tiền là yếu tố chính xoay quanh tác phẩm. Hầu như các tệ nạn xã hội đã được   Vũ Trọng Phụng phơi bày lên trong tiểu thuyết Giông tố khiến người đọc nhìn rõ được   con người trong xã hội là như thế nào, đồng thời thể hiện được cái yếu tố từ bên trong  tính cách, sự nhận thức, suy nghĩ, bản năng đến vẻ bề ngoài từ hành động, cử chỉ của  các nhân vật. Từ  các tình huống, diễn biến tâm lí của từng nhân vật được Vũ Trọng   Phụng miêu tả một cách khéo léo khiến người đọc cảm nhận được sự gần gũi và nhìn   rõ hơn về những vấn đề sai trái của xã hội đương thời.  Có lẽ nhân vật Nghị Hách mang đầy đủ  khía cạnh về mặt trái con người trong   xã hội, là đại diện trong yếu tố  chủ  nghĩa tự  nhiên. Một nhân vật nhìn mọi mặt đều   thấy những tội lỗi đáng lên án, là nhân vật đi từ  lòng tham tiền đến lòng tham của sự  dục vọng, bộc lộ rõ phần bản năng dâm ô, quái đản của con người. Nghị Hách là nhân   vật mở  đầu tiểu thuyết, với vẻ  bề  ngoài của Trần Đình Hách được nhà văn họ  Vũ   khắc họa lên,   “một người gần 50 thân thể  vạm vỡ, hơi lùn, trước mặt có một cặp   kính trắng gọng vàng, trên môi có một ít râu lún phún kiểu tây, cái mũ dạ đen hình quả  dưa, cái áo đen bóng một khuy, cái quần đen, rọc trắng, đôi giày láng mũi nhọn và bóng   lộn, làm cho lão có cái vẻ  sang trọng mà quê kệch, cái vẻ  rất khó tả  của những anh   trọc phú học làm người văn minh...”. Cái dáng vẻ  vừa sang trọng vừa quê kệch của  Nghị  Hách xuất thân từ  việc làm thợ  cai nề  thuộc tầng lớp bình dân như  bao người  khác nên mới mang dáng vẻ nửa mùa và nhờ  chuyến đi Lào trở  vê khiên cho vi ̀ ́ ệc làm  ăn ngày càng trở nên tốt đẹp hơn, giờ đây đa tr ̃ ở thành cái tên giàu có đứng đầu cả tỉnh,   từ nông thôn đến thành thị ai cũng biết đến.  19
  20. Tuy nhiên, điều người khác nhắc đến Nghị Hách không phải là sự giàu có đáng   ngưỡng mộ mà là những lời nói khiển trách, người ta nhận dạng bằng những chuyện   xấu ông gây ra như: “Thằng cha có hai chục con vợ  lẽ  trong đồn điền  ấy à?”, “cái  thằng bỏ bã rượu vào ruộng lương dân rồi báo nhà đoan và chỉ một thủ đoạn ấy đã tậu   được ba trăm mẫu ruộng rất rẻ ấy à?”, “cái thằng cha độc ác đánh chết người làm rồi  vứt xác người ta xuống giếng, mà khai người ta tự tử  ấy à?”... Ta càng thấy rõ Nghị  Hách là con người độc ác, giá trị  đạo đức không còn, một người có gia tài khủng như  ông, uy quyền như vậy thì mỗi sự việc ông gây ra đáng lẽ cần phải trừng phạt lai tr ̣ ở  nên vô nghĩa “nó kình địch với tôi thì tôi sẽ làm cho nó mất cái tri huyện”. Cũng vì nắm  trong tay được tiền bạc vật chất nên ông có thêm tiếng nói và địa vị trong xã hội, muốn  dìm chết ai thì dìm, muốn đặt chân lên chữ Nghị trưởng cũng hóa dễ dàng. Nghị Hách  sống thản nhiên và tận hưởng một cuộc sống với nhiều thú vui  ở  cái  ấp Tiểu Vạn   Trường Thành của mình,  ở  đo có hai m ́ ươi cô vợ  lẽ, là những cô gái mà ông nhặt về  sau những cuộc vui của mình, gái nông thôn có, gái thành thị  cũng có. Với bản năng  đầy dâm ô của Nghị  Hách thì sự  tồn tại của đàn bà, phụ  nữ  cũng là chuyện quá đỗi  bình thường. Ông coi giá trị của người phụ nữ thấp hèn hơn những đồng tiền mà ông  đưa ra để mua họ về hầu hạ cho cái bản năng đầy dâm đãng thối nát của mình “Chết!  Vài trăm bạc! Mày điên! Mày có biết những nàng hầu của tao ở đây, đáng giá bao nhiêu  mỗi thị  không? Cái đứa đẹp nhất, tao cũng chỉ  mua của bố  mẹ  nó có bảy chục. Còn   phần nhiều không mất xu nào. Có bảy chục bạc còn phải về hầu hạ người ta suốt đời,   huống chi... chỉ  có một lần mà những vài trăm bạc!”. Với một đại tư  sản giàu có, sở  hữu hàng trăm cái đồn điền nên cái  ấp của Nghị  Hách cũng phải khiến người ta ngỡ  ngàng trước sự lộng lẫy, nguy nga của chúng “cái ấp của nhà triệu phú Tạ Đình Hách   thật là đồ  sộ  nhất tỉnh, đến dinh quan Công sứ  cũng không to tát bằng...khiến cho  khách bộ hành từ đằng xa đã thấy một quả núi nhỏ xanh đen mà trên ngọn là ba tòa nhà   tây, toàn giữa thì ba tầng, hai tòa bên thì hai tầng, trông kiên cố và oai nghiêm như một   trại binh vậy...mặc sức tung hoành như những người nhà của ông chủ”.  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2