w
w
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VIỆT NAM ------------------------------
w
.
k
h
c
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ
n
m
t TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ PHÁT TRIỂN
b
v
Cơ quan quản lý
h : Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Cơ quan chủ trì đề tài : Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
t t
Chủ nhiệm đề tài
: Th.S Trần Thị Quỳnh Như
d
l .
Hà Nội - 2012
v
n
w
MỤC LỤC
w
Trang
w
TRANG PHỤ BÌA
MỤC LỤC
.
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
k
A. MỞ ĐẦU 1
h
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
c
2. Mục tiêu nghiên cứu, 2
3 3. Tổng quan tình hình nghiên cứu tài liệu và phân tích tài liệu
n
10 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
11 5. Cách tiếp cận đề tài, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng
m
12 6. Ý nghĩa đề tài
13 7. Kết quả nghiên cứu
15 8. Nội dung nghiên cứu
t -
16 B. NỘI DUNG
b
17 Chương 1: Những vấn đề khái quát về tranh sơn mài Việt Nam
v
17 1.1. Khái niệm về sơn mài, tranh sơn mài
17 1.1.1. Nguồn gốc xuất xứ
h
21 1.1.2. Những nền tảng cho sự hình thành tranh sơn mài
33 1.1.3. Thể hiện tranh sơn mài
44 1.2. Vài trò của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương với tranh sơn mài
t t
d
44 1.2.1. Lịch sử ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
48 1.2.2. Vị trí của chuyên ngành sơn ta tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
50 1.2.3. Thành tựu ban đầu
l .
1.2.4. Nguyễn Gia Trí họa sĩ sơn mài số một cả đời gắn bó
v
n
với sơn mài Việt Nam 53
w
1.3. Tranh sơn mài Việt Nam tương đồng và khác biệt với
w
tranh sơn mài Trung Quốc, Nhật Bản 56
1.3.1. Sự ảnh hưởng của văn hóa sơn giữa các nước Châu Á và Việt Nam 56
w
1.3.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa tranh sơn mài Việt Nam với tranh
sơn mài Trung Quốc, Nhật Bản. 61
.
1.3.2.1. Sự tương đồng và khác biệt giữa tranh sơn mài Việt Nam
61
với tranh sơn mài Trung Quốc k 1.3.2.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa tranh sơn mài Việt Nam
70 với tranh sơn mài Nhật Bản h
78
Chương 2: Thực trạng tranh sơn mài Việt Nam c 2.1. Diễn trình lịch sử phát triển của tranh sơn mài Việt Nam 78
n 2.1.1.1. Lịch sử tranh sơn mài tạo hình
2.1.1. Tranh sơn mài tạo hình lịch sử và thực trạng 78
78
m
2.1.1.2. Thực trạng tranh sơn mài tạo hình 105
2.1.2. Thủ công mỹ nghệ sơn mài, tranh sơn mài mỹ nghệ 111
2.2. Thực trạng vấn đề đào tạo nghề tranh sơn mài 120
t -
2.2.1. Đào tạo sơn mài tại trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam 120
b
2.2.2. Đào tạo sơn mài tại trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp 122
2.2.3. Dào tạo nghề sơn mài tại trường Trung cấp Nghề tổng hợp Hà Nội 124
v
2.2.4. Trường Đại học Nghệ thuật Huế - Nghề sơn và tranh sơn mài Huế 127
h
2.2.5. Đào tạo sơn mài tại Trường Đại học Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh
và sơn mài miền Nam 129
2.3. Đánh gia tranh sơn mài Việt Nam qua thông tin
t t
trong nước và nước ngoài 133
d 2.3.2.Các thông tin trong nước, ngoài nước đánh giá tranh sơn mài Việt Nam
2.3.1. Kết quả điều tra khảo sát xã hội học qua người dân đối với tranh sơn mài 133
141
l .
Chương 3: Xu hướng thẩm mỹ và sự phát triển của tranh
v
sơn mài Việt Nam trong bối cảnh văn hóa giao lưu, hội nhập 151
n
3.1. Khảo sát về cách thể hiện, phương pháp sáng tác xu hướng thẩm mỹ
w
151 qua các giai đoạn của tranh sơn mài Việt Nam tại một số triển lãm lớn
w
154 3.2. Tranh sơn mài đương đại Việt Nam tại một số triển lãm quốc tế gần đây
154 3.2.1. Tranh sơn mài Việt Nam trong cuộc thi và triển lãm Mỹ thuật ASEAN
w
158 3.2.2. Tranh sơn mài tại một số triển lãm quốc tế khác
3.3. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam với việc lưu giữ, bảo quản, tu sửa,
.
159 phục chế tranh sơn mài
k
159 3.3.1. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam với việc sưu tầm bảo quản tranh sơn mài
162 3.3.2. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam với việc tu sửa phục chế tranh sơn mài
h
3.4. Đào tạo nghề làm tranh sơn mài và nghiên cứu khoa học cần thiết và khó khăn 163
c
3.5. Tranh sơn mài Việt Nam trong bối cảnh văn hóa giao lưu hội nhập
171 quốc tế và thời kỳ nghệ thuật hậu hiện đại
n
171 3.5.1. Xu hướng hiện đại và hậu hiện đại trong mỹ thuật
3.5.2. Tranh sơn mài truyền thống Việt Nam trong bối cảnh văn hóa giao lưu,
m
174 hội nhập quốc tế
178 3.6. Tranh sơn mài - Quốc họa Việt Nam
3.7. Các giải pháp đề xuất, kiến nghị để khôi phục, chấn hưng phát triển nghề sơn
t -
180 ta cổ truyền, mỹ nghệ sơn mài đích thực, tranh sơn mài truyền thống Việt Nam
b
190 KẾT LUẬN
192 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
v
C. PHỤ LỤC
h
Phụ lục 1: Vài nét về vùng nguyên liệu, cây sơn Việt Nam
Phụ lục 2: Các phường nghề, làng nghề sơn truyền thống nổi tiềng Việt Nam
Phụ lục 3: Hình vẽ dụng cụ nghề sơn ta, vẽ tranh sơn mài
t t
Phụ lục 4: Bảng khảo sát xã hội về người dân tiếp cận, hiểu biết, yêu thích
d
tranh sơn mài Việt Nam
Phụ lục 5: Giải thích thuật ngữ nghề sơn ta, sơn mài
l .
v
n
Phụ lục 6: Một số hình ảnh về cây sơn, khai thác sơn, tranh sơn mài Việt Nam
w
BẢNG VIẾT TẮT
w
Đặc sản Mỹ thuật Nhiếp ảnh ĐSMTNA 1
Đại học mỹ thuật công nghiệp ĐHMTCN 2
w
Đại học Mỹ thuật Việt Nam ĐHMTVN 3
Hợp tác xã HTX 4
.
Nhà Xuất bản NXB 5
k
Nhà xuất bản Giáo dục NXBGD 6
Tạp chí Di sản Văn hóa TCDSVH 7
h
Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật TCNCMT 8
Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam Trường ĐHMTVN 9
c
Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc TLMTTQ 10
Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam TCDĐVNVN 11
n
Tạp chí Mỹ thuật TCMT 12
Tạp chí Thông tin Mỹ thuật TCTTMT 13
m
Tạp chí văn hóa dân gian TCVHDG 14
Tạp chí Văn hóa Nghệ Thuật TCVHNT 15
Tạp chí Toàn cảnh dư luận - sự kiện TCTCDL - SK 16
t -
TT Thông tin 17
b
tr Trang 18
VH Văn hóa 19
v
ĐHSP Đại học sư phạm 20
Quân đội nhân dân Việt Nam QĐNDVN 21
h
Văn hóa, Thể thao và Du lịch VH, TT và DL 22
KHXH Khoa học xã hội 23
NCVH Nghiên cứu văn hóa 24
t t
DCCH Dân chủ cộng hòa 25
26 Mỹ thuật Nhiếp ảnh
Trung tâm bảo quản tu sửa tác phẩm mỹ thuật MTNA d TTBQTSTPMT 27
l .
Trung tâm giám định tác phẩm mỹ thuật TTGĐTPMT 28
v
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam BTMTVN 29
n
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa CNHTXHCN 30
1
w
A. MỞ ĐẦU
w
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
w
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nói đến mỹ thuật, hội họa Việt Nam, chúng ta tự hào về tranh sơn mài. Phải
.
khẳng định tranh sơn mài Việt Nam do người Việt Nam sáng tạo trên cơ sở nghệ thuật
k
truyền thống dân tộc kết hợp lý thuyết tạo hình Phương Đông - Phương Tây đã trở nên
h
một giá trị nghệ thuật đặc trưng của Việt Nam, tạo cho mỹ thuật Việt Nam một sắc
thái mới, bản sắc và tiên tiến hiện đại. Nghệ thuật sơn mài Việt Nam đã có sự phát
c
triển rất đáng tự hào trên cả lĩnh vực tạo hình và trang trí thủ công mỹ nghệ. Tranh sơn
mài Việt Nam với ngôn ngữ nghệ thuật biểu hiện độc đáo, quý giá là niềm tự hào của
n mới lạ của nghệ thuật tạo hình thế giới.
giới mỹ thuật, tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam, góp sức đắt giá vào sự phong phú,
m
Nghiên cứu thực trạng tranh sơn mài Việt Nam một mặt giúp chúng ta nhìn thấy
những giá trị, phẩm chất quý giá của loại tranh độc đáo do tài năng của các nghệ sĩ
Việt Nam làm nên. Thể hiện trí thông minh, khả năng tìm tòi sáng tạo của nghệ nhân,
t -
họa sĩ Việt Nam, đã làm nên kỳ tích, tạo nên tác phẩm nghệ thuật vô giá mang đậm
b
bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó chúng ta tìm thấy những tồn tại, những khiếm khuyết
trong quá trình làm nên những tác phẩm tranh nghệ thuật sơn mài Việt Nam hiện nay
v
như vấn đề bảo tồn nghề, làng nghề, đào tạo nghề, tôn vinh nghệ nhân, nghệ sĩ, vấn đề
h
bảo tồn lưu giữ tác phẩm. Khí hậu Việt Nam nhiệt đới, nóng ẩm nên phải có biện pháp
chống tranh cong, vênh, nứt. Tạo môi trường văn hóa, thị trường tác phẩm, chất liệu
đắt, làm tranh công phu thì giá cả tác phẩm như thế nào? Chế độ chính sách của Nhà
t t
nước để giúp Tranh sơn mài Việt Nam phát triển. Trên cơ sở tìm phương hướng phát
d
triển, khẳng định giá trị tranh sơn mài Việt Nam, khẳng định tầm quan trọng của việc
bảo tồn và phát huy nguồn nguyên liệu, biện pháp để tôn vinh nghề, làng nghề, nghệ
l .
nhân, nghệ sĩ qua việc chú trọng chế độ chính sách, công tác đào tạo, bảo lưu các công
v
n
nghệ truyền thống không để thất truyền.
2
w
Nghiên cứu tranh sơn mài Việt Nam trên các mặt thực trạng và phát triển để tìm
w
được tinh hoa, phẩm chất cũng như những tồn tại, hạn chế để đề xuất các giải pháp bảo
tồn, tôn vinh tranh sơn mài, văn hóa sơn Việt Nam, thấy được xu hướng thẩm mỹ, sự
w
phát triển cũng như việc bảo tồn di sản văn hóa trong đó có những di sản đang có nguy
cơ bị mai một.
.
Đây là đề tài có giá trị về lý thuyết và thực tiễn, góp phần thiết thực đối với sự
k
phát triển mỹ thuật, du lịch, kinh tế, xã hội. Đó là sự cần thiết cấp thiết khi nghiên cứu
đề tài này.
h
Thuật ngữ tranh sơn mài (A.lacquer; P.lacque) chất liệu vẽ tranh truyền thống
của Việt Nam bao gồm sơn ta cộng với các màu son, vàng, bạc; sau này khi phát triển
c
còn có thêm các bột màu và màu vỏ trứng, vỏ trai. Các chất màu được vẽ lên mặt nền
n
là tấm vóc. Trong quá trình làm tranh, người ta dùng kỹ thuật mài (ít hay nhiều lần) để
sửa chữa tranh để làm mặt tranh phẳng đều, mịn và êm hơn vì tranh được vẽ nhiều lớp
m
chống lên nhau; sau cùng là đánh bóng tranh. Trước những năm 1930, người ta chỉ
dùng sơn ta trong trang trí đồ thờ cúng, làm hàng mỹ nghệ. Vào thời gian này, một số
họa sĩ Việt Nam đầu tiên lúc đang học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (có
t -
thể kể: Trần Văn Cẩn, Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí, Phạm Hậu, Nguyễn Khang)
b
và nghệ nhân Đinh Văn Thành đã mạnh dạn thử nghiệm đưa kỹ thuật sơn ta vào làm
tranh nghệ thuật. Thuật ngữ sơn mài và tranh sơn mài cũng xuất hiện từ đó [62, tr 130].
v
Để có cái nhìn khái quát về tranh sơn mài Việt Nam, trong đề tài này đề cập đến
tranh sơn cổ (sơn quang dầu), sơn mài thủ công mỹ nghệ, tranh sơn mài mỹ nghệ bên
h
canh tranh sơn mài tạo hình. Tranh sơn mài theo lối nói dân gian, thói quen của người
Việt Nam để chỉ chung loại tranh vẽ bằng sơn ta.
t t
2. Mục tiêu nghiên cứu
d
- Nghiên cứu xác định đặc trưng và tinh hoa nghệ thuật tranh sơn mài Việt Nam
(làm bật lên đặc trưng và tinh hoa, thấy được sự khác với tranh sơn mài nước ngoài)
Trên cơ sở tìm hiểu xuất xứ, chất liệu, kỹ thuật, nghệ thuật, sự phát triển, những
l .
thành tựu… để tìm ra những đặc trưng và tinh hoa nghệ thuật của loại hình hội hoạ độc
n
đáo của Việt Nam - Tranh sơn mài (giới hạn vào mảng tranh mỹ nghệ và tranh tạo hình). v
3
w
- Nêu phương hướng phát triển tranh sơn mài Việt Nam .
w
+ Trên cơ sở khảo sát thực trạng từ nghiên cứu nguồn nguyên vật liệu làm tranh
(cây sơn), thợ, nghệ nhân chế tác chất liệu, hoạ sĩ sáng tác tranh sơn mài Việt Nam.
w
+ Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của chất liệu, sự tìm tòi, thể nghiệm của
nghệ nhân, nghệ sĩ.
+ Trên cơ sở tìm hiểu tranh sơn mài Việt Nam trong bối cảnh văn hoá hiện nay:
.
k
giao lưu, hội nhập, văn hoá góp phần cho sự phát triển bền vững của Văn hoá - Xã hội
(trong đó còn là tiềm năng của Du lịch).
h
- Đề tài này giúp:
+ Thấy được vị trí vai trò của tranh sơn mài Việt Nam góp phần tôn vinh mỹ
c
thuật Việt Nam , văn hoá Việt Nam; góp phần làm phong phú văn hoá khu vực và thế
n
giới.
+ Góp phần là tài liệu dự báo về nhu cầu và hướng thẩm mỹ về tranh sơn mài của
xã hội trong và ngoài nước
m
+ Đề xuất sự phát triển tranh sơn mài Việt Nam không chỉ là vấn đề phát triển,
lưu giữ tác phẩm mà còn là vấn đề liên quan đến nghề, làng nghề, nghệ nhân chế tác
chất liệu, đào tạo thợ, nghệ sĩ.
t -
+ Việc nghiên cứu đề tài này góp phần vào việc thực hiện mục tiêu phát triển văn
b
hoá của Đảng “bảo tồn và phát huy nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
v
dân tộc”
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu, tài liệu và phân tích tài liệu
h
3.1. Tổng quan về tranh sơn mài Việt Nam
Để tìm hiểu về tranh sơn mài Việt Nam thực trạng và phát triển, chúng tôi phải
xuất phát từ nghề sơn truyền thống ở Việt Nam. Theo nhiều tài liệu nghiên cứu nghề
t t
sơn truyền thống có từ lâu đời ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Lào,
d
Căm pu chia, Thái Lan.v.v.
Ở Việt Nam có nhiều làng sơn nổi tiếng như ở phường Nam Ngư, Làng Bình
l .
Vọng, Hạ Thái, Sơn Đồng, Bối Khê, Chuôn Ngọ (Hà Nội), làng Đình Bảng (Bắc
n
Ninh), Phường Cát Đằng (Ý Yên, Yên Tiến, Nam Định), Dương Nổ, Triều Sơn, Địa v Linh, Tiên Nộn, Phú Vang (Huế), Tương Bình Hiệp - Thủ Dầu Một (Bình Dương).v.v.
4
w
- Tranh sơn cổ: Nói đến tranh sơn mài Việt Nam chúng ta không thể không đề
w
cập đến tranh sơn cổ. Theo quan niệm của người Việt, các cụ gọi những người vẽ
tranh ở các phường thợ là họa công (thợ vẽ), đó là thợ vẽ gốm, thợ vẽ tranh (tết), thợ
w
vẽ sơn... Tranh sơn cổ có thể coi là tiền thân của tranh sơn mài Việt Nam ngày nay.
Chúng ta tìm thấy tranh sơn cổ ở các di tích của tôn giáo, cung điện, lăng tẩm, nha phủ
của vua quan các triều đại phong kiến. Tranh của họa công nghề sơn thường được vẽ
.
k
lên gỗ không mài với kỹ thuật điêu luyện. Tranh sơn cổ là di sản văn hóa cần gìn giữ.
Hiện nay tranh tranh sơn cổ còn lại ở một số di tích, tuy không nhiều nhưng là nguồn
h
tư liệu quý để là nền tảng nghiên cứu tranh sơn mài hiện đại Việt Nam.
- Tranh sơn mài mỹ nghệ là một sản phẩm tiêu biểu của các làng sơn truyền
c
thống. Đề tài khai thác chủ yếu là phong cảnh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, tích
n
truyện dân gian Việt Nam, Trung Quốc, như tích Truyện Kiều, Tấm Cám, Thạch Sanh,
Lưu Bình Dương Lễ, Trương Chi, Thị Màu lên chùa, Súy Vân, các tích trong Tam
Quốc diễn nghĩa của Trung Quốc. Hiện nay đề tài tập trung miêu tả các sinh hoạt
m
thành thị, nông thôn Việt Nam ... ở các bức tranh sơn mài mỹ nghệ hình ảnh nhân vật
t Kích cỡ tranh sơn mài mỹ nghệ khá phong phú từ cỡ nhỏ đến tấm lớn diện tích hàng - chục m2. Tranh sơn mài mỹ nghệ có tác dụng lớn trong đời sống dùng để trang trí
luôn gắn với khung cảnh thiên nhiên trữ tình, là hình ảnh gợi tả mang tính tượng trưng.
b
trong nhà, hội trường, công trình văn hóa... trong nước cũng như xuất khẩu.
v
- Tranh sơn mài tạo hình
Từ nền tảng giá trị truyền thống của nghề sơn được tích lũy ở các nghệ nhân
h
nghề sơn, các họa sỹ Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã sáng tạo, dùng làm
chất liệu hội họa Việt Nam. Tranh sơn mài tạo hình Việt Nam đã hình thành từ đó và
ngày càng phát triển.
t t
Nhắc đến tranh sơn mài tạo hình Việt Nam, lịch sử ra đời gắn với sự tìm tòi, thể
d
nghiệm của nghệ nhân Đinh Văn Thành và các sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương hồi đó (nay là các danh họa Việt Nam) là Trần Văn Cẩn, Trần Quang
l .
Trân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Khang đầu những năm 30 của thể kỷ XX. Từ đó Mỹ
n
thuật Việt Nam có thêm một hướng đi mới trong Tranh nghệ thuật tạo hình: Sơn mài - v Đây là sự đột phá có tích lịch sử.
5
w
Tranh nghệ thuật sơn mài Việt Nam mang phẩm chất quý giá; sự kết hợp nhuần
w
nhụy giữa chất liệu đậm chất Á Đông với thủ pháp tạo hình hiện đại (học tập cách tạo
hình Châu Âu) với tâm hồn Việt đã được người nghệ sỹ Việt Nam thể hiện thành công.
w
Sự độc đáo của tranh sơn mài Việt Nam còn ở chất liệu và kỹ thuật thể hiện. Vấn
đề này có những nét tương đồng và khác biệt ở cách chế tác sản phẩm thủ công truyền
thống thể hiện tranh vẽ mà chất liệu làm từ nhựa cây sơn ở các làng nghề, cơ sở sản
.
xuất thủ công, mỹ nghệ Việt Nam và ở một số quốc gia Châu Á khác. Chính các nghệ
k
sỹ Việt Nam đã sáng tạo để làm nên đặc trưng và tinh hoa của Tranh sơn mài tạo hình
h
Việt Nam, mang bản sắc dân tộc Việt Nam.
Nghề sơn mài và tranh sơn mài Việt Nam đã có lịch sử, đã được nhiều nhà
c
nghiên cứu quan tâm nêu ra các vấn đề góp nhiều ý kiến để bảo tồn, tôn vinh làng
nghề, nghề và tranh nghệ thuật.
n
Bên cạnh việc hình thành đội ngũ tác giả, sáng tác, tác phẩm tranh Sơn mài Việt
Nam (tranh mỹ nghệ, tranh tạo hình) đã có nhiều hội thảo, nhiều bài viết đề cập đến
m
vấn đề này. Tuy vậy, việc nghiên cứu tranh sơn mài Việt Nam mới dừng lại ở các bài
viết tản mạn chưa thành hệ thống, nhiều ý kiến đóng góp nhưng chưa tập hợp lại theo
một trật tự. Nghiên cứu đề tài: "Tranh sơn mài Việt Nam - Thực trạng và Phát triển" là
t -
một vấn đề mới và hấp dẫn, kế thừa tiếp thu các ý kiến của các họa sỹ, nhà nghiên cứu,
b
chúng tôi sẽ tìm hiểu thực trạng về tranh sơn mài Việt Nam trên phương diên lý luận
và thực tiễn và tìm ra phương hướng phát triển của nó. Phác họa lịch sử và đánh giá
v
được giá trị quý giá của tranh nghệ thuật sơn mài Việt Nam - Di sản văn hóa, Quốc
họa Việt Nam.
h
Với những đặc trưng quý giá và độc đáo của tranh nghệ thuật sơn mài Việt Nam
đã góp phần tạo nên tinh hoa nghệ thuật dân tộc. Kể từ khi hình thành đến nay, tranh
t t
sơn mài Việt Nam đã phát triển không ngừng. Các tác phẩm đã khẳng định vị trí của
d
mình trong nền mỹ thuật Việt Nam, trong việc giao lưu hội nhập với mỹ thuật, văn hóa
khu vực và thế giới.
l .
Đã tạo thành nhiều thế hệ họa sĩ (trong đó có tác giả chuyên sơn mài) đã sáng tác
n
được các tác phẩm đạt chất lượng cao tạo nên giá trị và diện mạo của tranh sơn mài v Việt Nam, nhiều tác phẩm đoạt giải thưởng cao trong nước và quốc tế.
6
w
Hiện nay có nhiều tìm tòi sáng tạo trong cách thể hiện tranh sơn mài. Cùng với
w
sự phát triển của xã hội, văn hóa thì tranh sơn mài Việt Nam cũng phong phú trong
phong cách thể hiện. Nhiều nghệ nhân họa sĩ đã tìm tòi thể hiện để mở rộng ngôn ngữ
w
tạo hình, có người theo lối truyền thống, có người sử dụng phối hợp với một số loại
sơn khác (sơn Nhật, sơn công nghiệp, sơn hạt điều...), có người khai thác nhiều cách
.
thể hiện, sử dụng nhiều chất liệu bất cứ nguyên liệu gì, gắn các chất liệu lên bề mặt
k
và không mài... chính vì thế đã phá vỡ cách thể hiện truyền thống. Làm như vậy là
h
hay hay không hay? có cần bảo tồn tranh nghệ thuật sơn mài truyền thống hay không?
Vậy chúng ta hãy đi tìm lời giải đáp? Đó chính là phương hướng phát triển của tranh
c
nghệ thuật sơn mài Việt Nam!
n
Tranh sơn mài Việt Nam: tranh mỹ nghệ, tranh tạo hình là hai dòng chảy song
song tồn tại và cùng phát triển đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ phong phú của xã hội, nghệ
m
thuật độc đáo, ý tưởng sáng tạo trong việc làm tranh sơn mài của nghệ nhân, nghệ sỹ
Việt Nam tạo nên đặc trưng, tinh hoa tranh sơn mài Việt Nam khác với tranh sơn mài
các nước.
t -
3.2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu tranh sơn mài Việt Nam, tài liệu và phân tích tài
b
liệu
3.2.1. Đánh giá sơ bộ mặt mạnh mặt yếu của công trình nghiên cứu về tranh sơn mài
v
- Cây Sơn: Nhựa cây sơn (tên khoa học của cây sơn Việt Nam là:
Rhussueeldanea, khác với cây sơn Nhật thuộc giống T/2 Canorrhealeceifara, là chất
h
liệu chính để làm tranh sơn mài [60, tr 246 - 261]. Trong "Nghề cổ nước Việt" phần :
Nghề sơn then, sơn thiếp. sơn mài, tác giả Vũ Từ Trang có đề cập đến vấn đề này
t t
nhưng sơ lược. Cây Sơn cũng cũng đựơc vài tác giả nhắc đến khi đề cập đến sơn mài
d
nhưng chưa cho người đọc khái niệm về cây Sơn.
Trong bài báo "Thực trạng và giải pháp của nghề sơn mài truyền thống ở khu vực
Bắc Bộ", tác giả Nguyễn Lan Hương có đề cập đến vấn đề nguyên liệu, cho ta thấy
l .
v nơi phải sang Lào để mua nguyên liệu (nứa) nên giá nguyên liệu tăng lên. Nhu cầu về
n
thực trạng làm nguyên liệu tranh sơn mài (sơn ta, gỗ...) đang có nguy cơ cạn kệt. Có
7
w
nhựa sơn để sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhưng lại có tình trạng xuất khẩu
w
sơn chất lượng tốt nhập về sơn hoá học kém chất lượng (như sơn Nhật) để làm đồ sơn
mài như vậy không những gây thua thiệt về kinh tế mà cơ bản là làm mất đi bản sắc
w
riêng, uy tín của sơn mài Việt Nam!
Việc buôn bán nguyên vật liệu kiểu mạnh ai lấy làm không có tổ chức nào quản
.
lý, thiếu thông tin thị trường dẫn đến sự khủng hoảng nguyên liệu. Vấn đề này cần
k
phải quan tâm vì nguyên liệu góp phần không thể thiếu được trong sự phát triển của
tranh sơn mài Việt Nam. Tuy nhiên tác giả mới đề cập một cách sơ lược chưa đi sâu.
h
Chúng tôi muốn khi hoàn thiện đề tài "Tranh sơn mài Việt Nam - thực trạng và phát
triển" sẽ đi khảo sát vùng nguyên liệu và đề xuất các giải pháp để phát triển vùng
c
nguyên liệu một cách hợp lý.
n
- Vấn đề làng nghề sơn mài truyền thống được nhiều tác giả đề cập. Hoạ sỹ
Nguyễn Văn Chuốt trong bài "Hà Tây với truyền thống tranh sơn mài" đã nhắc tên các
m
làng nghề sơn mài Hà Tây như Chuôn Tre, Đồng Vàng, Bối Khê, Hạ Thái là những
làng nghề làm sơn nổi tiếng từ lâu đời. Nhà nguyên cứu Vũ Từ Trang nói đến làng
nghề Đình Bảng (còn gọi là làng Báng) nổi tiếng làm sơn then. Tiến sĩ Trương Minh
t -
Hằng viết về làng nghề Bình Vọng trong bài "Bình Vọng - đất tổ nghề sơn". Tiến sĩ
b
Nguyễn Lan Hương giới thiệu nghề sơn quang Cát Đằng trong luận án tiến sĩ, Tiến sĩ
Nguyễn Xuân Nghị nghiên cứu về Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây trong luận án
v
tiến sĩ. Tiến sĩ Phan Thanh Bình có giới thiệu một số làng nghề sơn mài ở Huế trong
tham luận "Nghề sơn mài và tranh sơn mài ở Huế". Tác giả Phạm Côn Sơn viết cuốn
h
"Làng nghề truyền thống Việt Nam có đề cập đến làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp
ở Thủ Dầu Một - Bình Dương; cùng vấn đề này Nhà NCMT Nguyễn Văn Minh đề cập
t t
đến nguồn gốc xuất xứ, đặc điểm riêng biệt của nghệ thuật sơn mài vùng đất này. Họa
d
sĩ Lê Xuân Chiểu đã giới thiệu những nét cơ bản của sơn mài miền Nam qua tham
luận "Sơn mài miền Nam" v.v. Tác giả bài viết đã cho chúng ta thấy cái nhìn khái quát
về các làng nghề sơn mài Việt Nam về vị tổ nghề, kỹ thuật, nghệ thuật sơn mài, các
l .
sản phẩm riêng biệt của từng làng nghề, từng vùng miền trong đó có tranh sơn mài.
n
Các bài viết cho ta cái nhìn khái quát về làng nghề sơn mài truyền thống Việt Nam, v
8
w
cần hệ thống lại để tại nên cái nhìn khái quát, cần bổ sung tình hình thực tế để thấy
w
được sự phát triển và biến đổi của làng nghề, có nơi giữ được nghề, có nơi bị mai một
(nhất là trong cơ chế thị trường hiện này).
w
Chúng ta thấy được những nét nổi bật trong nghề tranh sơn mài của làng trên cơ
sở đó có thể đề xuất các giải pháp bảo tồn nghề, làng nghề, phát triển văn hóa du lịch.
.
Tuy vậy các bài viết mới dừng lại ở mức liệt kê, tả kể chứ chưa đi sâu để tìm sự tương
k
đồng và khác biệt trong kỹ nghệ chế tác, tinh hoa văn hoá các làng nghề, tìm hiểu sự
phát triển hay mai một của làng nghề.
h
- Nói về tranh sơn cổ có bài viết ngắn của hoạ sỹ Lê Quốc Việt và Nguyễn Minh
Phước, các tác giả đã thống kê những tác phẩm sơn mài cổ còn được lưu trữ ở một số
c
di tích. Các tác giả có phân loại tranh và nói sơ qua về kỹ thuật thể hiện. Nghiên cứu
n
tranh sơn cổ Việt Nam để tìm thấy được tính ưu việt, sự tìm tòi sáng tạo của nghệ nhân,
nghệ sỹ Việt Nam. Thấy được bước phát triển của chất liệu sơn ta dùng để vẽ tranh
m
cũng như những hạn chế. Tuy vậy bài viết mới dừng ở sự khái quát chưa đi sâu.
- Các bài nghiên cứu như "Nghề sơn Việt Nam - cách nhìn tổng quan" của
Nguyễn Đức Bình, "Nghĩ thế nào là sơn mài" của hoạ sỹ Ngọc Thọ, "Sơn mài - sự
t -
phát triển đột phá từ chất liệu sơn ta" của hoạ sỹ Đặng Trần Sơn, " Sơn ta với nghệ
b
thuật tạo hình Việt Nam" của PGS Nguyễn Bá Vân. "Những tìm tòi thể nghiệm đưa
sơn ta thành thành sơn mài hội hoạ..." của hoạ sỹ Nguyễn Văn Chiến, "Dò tìm - Đối
v
sánh - Hấp thụ - Thăng hoa" của Nhà NCMT Thái Hanh, "Vài nét về lịch sử phát triển
của tranh sơn mài Việt Nam" cuả Nhà NCMT Đặng Thanh Vân v.v.. đã cho chúng ta
h
một số nhận xét về tranh sơn mài Việt Nam (mỹ thuật, tạo hình) cho ta thấy được sự
độc đáo, tinh hoa tranh sơn mài Việt Nam, phân biệt tranh sơn mài mỹ nghệ và tranh
t t
sơn mài tạo hình trong đó tranh sơn mài tạo hình là một sáng tạo của nghệ sỹ Việt
d
Nam.
- Thấy được sự phát triển, vị trí tranh sơn mài đối với mỹ thuật, góp phần tạo nên
bản sắc văn hoá Việt Nam. Trong các bài viết có đề cập đến tính chất hoá học, vật lý,
l .
của sơn mài. Có thể lấy lời của cố hoạ sỹ Lê Quốc Lộc - người có nhiều đóng góp với
n
sơn mài Việt Nam: "Sơn mài Việt Nam tuy sinh sau nhưng mau lớn... những bài học v
9
w
của người xưa, chúng ta phải tìm tòi, nghiên cứu, phải tự ta khơi tác. Sự đóng góp của
w
chúng ta có kết quả thật quý báu. Riêng tôi tin tưởng đặt nhiều hy vọng ở nghệ thuật
tranh sơn mài của ta, một nghệ thuật bắt nguồn từ vốn cũ, nó đang lớn lên..." (Báo Văn
w
Nghệ 8/1956). Với những tư liệu phong phú sẽ giúp là những dẫn chứng để chúng tôi
thực hiện đề tài. Vì các bài viết còn dàn trải nên khi triển khai đề tài cần phải tập trung
.
vào những vấn đề cơ bản nêu bật được thực trạng, tinh hoa nghệ thuật và sự phát triển
của tranh sơn mài Việt Nam. k - Rất ít tư liệu đề cập đến đào tạo, đây là vấn đề quan trọng để có thế hệ tiếp mới.
h
Một số bài viết như: "Dạy nghệ thuật và kỹ thuật truyền thống ở Trường Đại học Mỹ
thuật công nghiệp" của họa sĩ Nguyễn Yêm, "Trường dạy nghề công nghiệp - thủ công
c
mỹ nghệ với vấn đề đào tạo truyền nghề sơn mài truyền thống" của họa sĩ Nguyễn Đình
n
Lâm, "Dạy và học với đào tạo mỹ thuật" của Nhà NCMT Nguyễn Văn Chiến v.v. Vấn đề
đào tạo đặc biệt là đào tạo nghề vẽ tranh sơn mài được đề cập nhưng chưa đi sâu. Chưa
m
cho cái nhìn tổng quán về vấn đề này ở các trường đại học mỹ thuật - những trung tâm
đạo tạo mỹ thuật lớn của Việt Nam.
- Dự báo về xu hướng thẩm mỹ, phát triển của tranh sơn mài Việt Nam cũng được
t -
đề cập tới một số bài viết như: "Sơn mài Việt Nam đứng trước thiên niên kỷ thứ 3" của
b
họa sĩ Trần Huy Quang, "Hãy nâng tầm sơn mài Việt Nam của ta lên tầm: Quốc họa Việt
Nam" của nhà NCMT Thái Hanh v.v. có đề cập đến vị trí vai trò của tranh sơn mài Việt
v
Nam trong sự phát triển, dự báo về tầm quan trọng của tranh sơn mài với thẩm mỹ dân
tộc, bảo tồn bản sắc văn hóa Việt Nam. Tuy vậy đó chỉ mới là những ý kiến đề xuất cần
h
phải bổ sung thêm cho đầy đủ hơn.
- Nghiên cứu ngoài nước còn ít, bài viết "Sơn mài hay lối mòn" của Laurent
t t
Colin thể hiện nỗi lo lắng về sự lặp lại trong tranh sơn mài của một số tác giả tại một
d
số Gallery vì chạy theo lợi nhuận mà đánh mất giá trị nghệ thuật thiếu sự sáng tạo; tuy
vậy cách đánh giá này còn phiến diện. Một số thông tin qua bài viết "Đôi nét về triển
lãm tranh sơn quốc tế tại Phúc Kiến, Trung Quốc" của họa sỹ Trần Khánh Chương,
l .
"Nghệ nhân Đinh Văn Thành, người đầu tiên làm sơn mài" của cố họa sỹ Lê Quốc Lộc,
n
"Nghệ thuật sơn Ryukyu" của tác giả Vũ Tuyết Mai, các bài phát biểu tại Hội thảo v
10
w
"Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam" năm 2002 (do Trường Đại học Mỹ thuật
w
Hà Nội - Viện Mỹ thuật tổ chức) của họa sỹ Nguyễn Văn Chiến, Đặng Trần Sơn, Phan
Thị Nghĩa ... có đề cập đến nhưng chỉ nói sơ qua. Cho nên cần bổ sung các thông tin
w
về sự đánh giá của nước ngoài đối với tranh sơn mài Việt Nam qua các triển lãm đối
ngoại. So sánh tranh sơn mài Việt Nam với tranh sử dụng chất liệu nhựa cây sơn của
.
Trung Quốc, Nhật Bản, chúng ta tham khảo bài "Sơn mài nghề thủ công truyền thống
k
ở Nhật Bản", "Vài nét khái lược về sơn mài Trung Hoa" của tác giả Nguyễn Lan
Hương, "Nghề sơn Việt Nam - cái nhìn tổng quát" của Nguyễn Đức Bình, "Dò tìm -
h
đối sánh - hấp thụ - thăng hoa" của Nhà NCMT Thái Hanh v.v. để có cái nhìn tổng
quan về lịch sử nghệ thuật sơn, tranh sơn, cần bổ sung về sự phát triển của tranh sơn
c
mài tạo hình để thấy sự khác biệt của văn hóa Việt Nam; sự ảnh hưởng của Việt Nam
n
đối với các nước.
Nhìn chung các bài nghiên cứu về tranh sơn mài Việt Nam khá phong phú, nội
m
dung đề cập nhiều khía cạnh về văn hóa sơn Việt Nam trong đó có tranh sơn mài. Tuy
vậy các tư liệu còn tản mát, rất cần một công trình nghiên cứu có tính hệ thống về
tranh sơn mài Việt Nam thông qua thực trạng và phát triển.
t -
3.2.2. Danh mục và tóm tắt nội dung tài liệu liên quan đến đề tài
b
(Xem Báo cáo tổng thuật tài liệu của đề tài)
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
v
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Tranh sơn mài Việt Nam
Đặt tranh sơn mài Việt Nam (bao gồm tranh mỹ nghệ, tạo hình) là đối tượng
h a. Nguyên liệu, chất liệu cơ bản để vẽ tranh: nhựa cây sơn, son.
nghiên cứu, chúng ta thấy có mối quan hệ sau:
t t
b. Công nghệ chế tác cơ bản: chế biến sơn, son, (hiện nay việc chế biến son đạt
d
chất lượng tốt ở Hà Nội chỉ còn một người tuổi đã cao), vàng, bạc ...
c. Con người:
- Nghệ nhân, thợ, sự phát triển của làng nghề.
l .
- Nghệ sỹ, vấn đề đào tạo tại các trường mỹ thuật.
v
n
d. Công bố tác phẩm: Triển lãm trong nước, quốc tế.
11
w
e. Sưu tầm lưu giữ, bảo quản tác phẩm: bảo tàng mỹ thuật, sưu tập.
w
g. Bảo tồn, tôn vinh giá trị tranh sơn mài:
- Tranh sơn mài Việt Nam trong mối quan hệ với nghệ thuật khu vực, châu lục,
w
thế giới.
- Tranh sơn mài Việt Nam trong bối cảnh văn hóa giao lưu hội nhập.
.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
k
4.2.1. Không gian: Mỹ thuật Việt Nam
4.2.2. Thời gian
h
Những năm 30 của thế kỷ XX tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở
chuyên ban sơn ta, với sự tìm tòi, thể nghiệm phối hợp giữa nghệ nhân và sinh viên
c
(họa sỹ) đã tạo cái mới trong kỹ thuật xử lý chất liệu đó là kỹ thuật mài sơn nâng cao
n
hiệu quả biểu đạt của chất liệu sơn ta, giới chuyên môn vẫn gọi đây là sự đột phá có
tính lịch sử để tranh sơn mài tạo hình Việt Nam ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
m
Nhìn vào Diễn trình lịch sử tranh sơn mài Việt Nam chúng ta thấy bắt đầu từ năm
1931 Tranh sơn mài hay sơn mài Việt Nam mới xuất hiện. Đối tượng nghiên cứu của
đề tài là "Tranh sơn mài Việt Nam - Thực trạng và Phát triển" nên phạm vi nghiên cứu
t -
là tranh sơn mài Việt Nam từ năm 1931 đến nay. Nhưng để khái quát vấn đề, để làm rõ,
b
đặt tranh sơn mài trong mối quan hệ với văn hóa sơn, đề tài có đề cập đến xuất xứ
nghề vẽ tranh sơn, tranh sơn, chất liệu, kỹ thuật sơn ta các giai đoạn trước năm 1931.
v
5. Cách tiếp cận đề tài, phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng
5.1. Các tiếp cận đề tài
h
- Sưu tầm, thu thập, tập hợp các nguồn tư liệu nói về sơn mài Việt Nam và nước ngoài.
- Khảo sát điều tra thực tế, điền dã, phỏng vấn, trao đổi các thông tin... với các
t t
họa sĩ có nghề cao về sơn mài, các nghệ nhân, thợ ở các làng nghề, cơ sở sản xuất,
d
trường mỹ thuật (khoa sơn mài).
- Tập hợp thống kê các dữ liệu, lập bản đồ, để tạo nét khái quát của đề tài; lập sơ
đồ để so sánh, đối chiếu.
l .
- Miêu tả, phân tích về nghệ thuật, sử dụng kỹ thuật để phân tích, tính chất hóa
v
n
học, vật lý, dùng phương pháp tổng hợp... để nêu bật nội dung đề tài.
12
w
5.2. Phương pháp nghiên cứu
w
- Phương pháp điều tra: điều tra xã hội học bằng cách: phát phiếu điều tra, với
các nhóm người khác nhau về nghề nghiệp, độ tuổi, môi trường văn hóa ... phỏng vấn
w
các nghệ nhân, thợ, nghệ sĩ.
- Phương pháp khảo sát điền dã: thu thập số liệu, thông tin cần thiết
.
- Phương pháp phân tích so sánh tổng hợp, đối chiếu:
Phân tích đánh giá các nguồn tư liệu trên các kênh thông tin, đối chiếu trên thực k tế để rút ra những kết luận khoa học giữa lý luận và thực tiễn.
h
- Áp dụng khoa học kỹ thuật: phương pháp phân tích hóa học, vật lý, môi
trường... ảnh hưởng đến việc sáng tác và lưu giữ tác phẩm nghệ thuật sơn mài Việt
c
Nam thế nào (điều kiện cho các bảo tàng, các nhà sưu tầm tư nhân...).
n
- Phương pháp liên ngành: lịch sử cụ thể, mỹ thuật học, văn hóa học, xã hội học,
khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại...
- Phương pháp hệ thống hóa.
m
5.3. Kỹ thuật sử dụng
- Sử dụng thiết bị Camera, máy ảnh, máy ghi âm để khảo sát, điều tra, điền dã.
- Sử dụng công nghệ thông tin để tải tài liệu, liên lạc lưu trữ thông tin, tài liệu
t -
- Sử dụng tài liệu phân tích hóa học, vật lý trong phòng thí nghiệm.
b
6. Ý nghĩa đề tài
v
6.1. Ý nghĩa về khả năng ứng dụng trong Văn hóa
Đề tài nghiên cứu "Tranh sơn mài Việt Nam - thực trạng và phát triển" sẽ là tài
h
liệu khoa học giúp cho các nhà quản lý văn hóa, giáo viên, sinh viên văn hóa, mỹ thuật
có cơ sở khi hoạch định chính sách, nghiên cứu và giảng dạy. Giúp cho công chúng yêu
nghệ thuật thêm hiểu và yêu quý Tranh sơn mài Việt Nam.
t t
Giúp quảng bá hình ảnh Việt Nam với quốc tế, tăng cường văn hóa du lịch (làng
d
nghề, nghề, tác giả, tác phẩm)
6.2. Ý nghĩa về kinh tế xã hội
l .
Việc đánh giá khả năng, giá trị thẩm mỹ, giá trị kinh tế của Tranh sơn mài Việt
n
Nam sẽ giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân có cái nhìn đúng đắn về tác phẩm, công sức v lao động phổ thông và trí tuệ để sáng tác thể hiện Tranh Sơn mài Việt Nam.
13
w
6.3. Ý nghĩa về lý luận, thực tiễn
w
Là tài liệu khoa học, đáng tin cậy cho các nhà quản lý khi hoạch định chính sách.
Là tài liệu trong các thư viện phục vụ các nhà nghiên cứu, công chúng yêu thích
w
nghệ thuật Sơn mài Việt Nam.
Là tài liệu bổ sung tham khảo cho các nghệ nhân, nghệ sỹ.
.
Là sách tham khảo cho hoạt động đối ngoại, khách du lịch trong và ngoài nước.
7. Kết quả nghiên cứu k 7.1. Đối với việc xây dựng đường lối, pháp luật, chính sách
h
Đây là tài liệu khoa học của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch giúp các nhà quản
lý hiểu rõ hơn tranh nghệ thuật sơn mài Việt Nam về nghệ thuật, kỹ thuật, phương
c
thức thể hiện, thấy được tinh hoa nghệ thuật để có sự chú ý, trân trọng với tác giả, tôn
n
vinh, lưu giữ loại hình nghệ thuật độc đáo của Việt Nam (có chế độ chính sách đối với
vùng nguyên liệu, nghệ nhân, nghệ sĩ, đào tạo, mua tác phẩm, tạo thị trường cho tác
m
phẩm, lưu giữ tại bảo tàng). Cần tạo điều kiện thuận lợi cho người sáng tác. Kiến nghị
với Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam đề xuất với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
đề nghị tranh sơn mài Việt Nam là di sản văn hóa Thế giới.
t -
7.2. Đối với phát triển kinh tế - xã hội
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chúng ta thấy Việt Nam có "kho tàng" tranh sơn
b
mài quý giá. Các ý kiến đề xuất trong phương hướng phát triển có đề cập đến việc bảo
v
tồn, phát triển nghề truyền thống, điều này góp phần vào việc phát triển văn hoá, du
lịch.
h
Giới thiệu các sản phẩm tạo dấu ấn cho sơn mài Việt Nam, tranh sơn mài Việt
Nam trên thị trường, góp phần cho xuất khẩu (nguyên liệu, sản phẩm)
t t
Khẳng định Tranh sơn mài Việt Nam là Di sản Văn hoá góp phần làm nên bản
d
sắc văn hoá dân tộc Việt Nam - Phát huy và xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm bản
sắc dân tộc.
Tổ chức triển lãm giúp cho sự giới thiệu đối với công chúng góp phần nâng cao
l .
đời sống tinh thần của nhân dân, quảng bá rộng rãi tác phẩm, tác giả với công chúng.
v
n
Tăng cường hợp tác quốc tế, giao lưu đối ngoại, thu ngoại tệ.
14
w
7.3. Đối với nơi ứng dụng kết quả nghiên cứu
w
- Đối với nơi sản xuất nguyên vật liệu, làng nghề: Thấy được tầm quan trọng, khả
năng quý giá của nguồn nguyên liệu, địa phương cần có chế độ chính sách để bảo tồn,
w
phát triển nơi trồng cây sơn, công nghệ chế tác, nghề truyền thống.
- Đối với cơ sở đào tạo: Tạo lòng yêu nghề đối với nhĩmg người thợ, nghệ nhân,
.
các sinh viên mỹ thuật, các giảng viên, họa sĩ ...
- Đối với nghệ nhân nghệ sỹ sáng tác: Thấy tự hào vì mình góp phần làm nên giá k trị nghệ thuật, diện mạo của tranh sơn mài Việt Nam.
h
- Phát hiện những người có tay nghề cao, những tác phẩm giá trị.
7.4. Đối với phát triển lĩnh vực khoa học có liên quan
c
- Tạo một điểm trong diện trong hệ thống nghiên cứu các vấn đề khoa học của
n
đất nước, làm giàu cho ngành mỹ thuật, văn hoá, lịch sử, xã hội...
Một công trình tìm hiểu về văn hoá Việt Nam, giúp là tài liệu cho các nhà khoa
học các lĩnh vực liên quan tìm hiểu để có thể hỗ trợ khi nghiên cứu các vấn đề có liên
m
quan. Tạo cầu nối giữa giới sáng tác với công chúng yêu nghệ thuật, yêu tranh sơn mài,
tạo cho thế hệ trẻ sự hiểu biết, thêm yêu quý di sản văn hoá.
Thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nền kinh tế tri thức.
t -
7.5. Đối với công tác đào tạo cán bộ khoa học (kể cả việc nâng cao năng lực, hoàn
b
thiện kỹ năng nghiên cứu của các cá nhân và tập thể khoa học thông qua việc thực
v
hiện đề tài)
- Góp những kiến thức thực tế, lý luận trong việc đào tạo cán bộ cho đất nước.
h
- Góp một phương pháp nghiên cứu khoa học
- Tăng kỹ năng làm việc giữa cá nhân và tập thể, làm việc theo sự phối hợp (trực
tiếp hoặc gián tiếp)
t t
- Tăng kỹ năng nghiên cứu, giúp các cán bộ nghiên cứu trưởng thành.
d
7.6. Những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn
- Khái quát những nét cơ bản, nêu bật được nghệ thuật độc đáo trong việc làm
l .
tranh sơn mài Việt Nam.
n
- Trình bày có hệ thống quá trình phát triển của nghệ thuật truyền thống và hiện v đại sơn mài Việt Nam.
15
w
- Thống kê có tính khoa học các tư liệu về tranh sơn mài Việt Nam (làng nghề,
w
nghệ nhân, nghệ sĩ, cơ sở đào tạo ...).
Đề xuất một số giải pháp bảo tồn, tôn vinh tranh sơn mài Việt Nam (liên quan
w
đến việc bảo tồn, tôn vinh làng nghề sơn mài hiện nay).
- Dự báo về nhu cầu và hướng thẩm mỹ về tranh sơn mài của xã hội trong và
.
ngoài nước.
k Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, phần chính văn gồm 3 chương (173 trang)
8. Nội dung nghiên cứu
h
Chương 1: Những vấn đề khái quát về tranh sơn mài Việt Nam (61 trang)
Chương 2: Thực trạng tranh sơn mài Việt Nam (73 trang)
c
Chương 3: Xu hướng thẩm mỹ và sự phát triển của tranh sơn mài Việt Nam
n
trong bối cảnh văn hóa giao lưu, hội nhập (38 trang)
m
t -
b
v
h
t t
d
l .
v
n
Tài liệu tham khảo (6 trang)
16
w
B. NỘI DUNG
w
Như mọi người đều biết, nghệ thuật sơn mài của Việt Nam trong những năm qua
w
đã có sự phát triển rất đang tự hào trong lĩnh vực sáng tác mỹ thuật tạo hình cũng như
trong lĩnh vực trang trí thủ công mỹ nghệ. Nhiều tác phẩm tranh sơn mài của Việt
.
Nam đã giành được những giải thưởng lớn ở trong nước và quốc tế. Nhiều hàng thủ
k
công mỹ nghệ bằng chất liệu sơn mài của nước ta đã có mặt ở thị trường các nước và
rất được mến mộ, yêu thích và thán phục.
h
Có thể nói rằng, xét riêng trong lĩnh vực hội họa giới mỹ thuật Việt Nam đã có
c
diễm phúc và tự hào bởi có trong tay mình một phương tiện, một chất liệu tuyệt vời để
biểu hiện tác phẩm vô cùng độc đáo, không những mang đậm bản sắc nghệ thuật
n
phương Đông mà còn đủ sức chứa đựng đầy ắp tình cảm và tâm hồn Việt Nam: sâu
trầm, tinh tế, phong phú, có duyên thầm đầy hấp dẫn; với mọi đề tài, mọi phong cách
m
và hình thức biểu hiện. Nói một cách khác là các họa sĩ Việt Nam đã sử dụng chất liệu
sơn mài để gửi gắm rất đắc địa tâm hồn, tình cảm của mình vào tác phẩm, có sức lan
tỏa kỳ diệu, làm rung động sâu sắc lòng người.
t -
Trong các chất liệu và thể loại mà các họa sĩ Việt Nam thường sử dụng và sáng
b
tác như: tranh sơn dầu, tranh lụa, tranh màu nước v.v. đều là những chất liệu và thể
loại chúng ta đã tiếp thu, học tập từ bên ngoài. Duy chỉ có chất liệu sơn mài thể loại
v
sơn mài là do chính các nghệ sĩ, nghệ nhân Việt Nam tự nghiên cứu, tìm tòi, và sáng
h
tạo ra. Không những sơn mài đã là chất liệu, là phương tiện, là ngôn ngữ nghệ thuật
biểu hiện vô cùng độc đáo, quý giá, là niềm tự hào, kiêu hãnh của giới mỹ thuật Việt
Nam, mà nó còn đóng góp hết sức đắt giá vào sự phong phú, mới lạ cho nền nghệ
t t
thuật tạo hình của thế giới.
d
Tranh sơn mài Việt Nam đặc sắc, giá trị như thế nào, chúng ta hãy tìm hiểu qua
thực trạng và phát triển để có cái nhìn khái quát, đánh giá mặt mạnh, mặt chưa được để
l .
v
n
tôn vinh giá trị, đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát triển.
17
w
w
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM
w
1.1. Khái niệm về sơn mài, tranh sơn mài
1.1.1. Nguồn gốc, xuất xứ
.
a. Giải thích thuật ngữ:
- Tranh sơn mài theo lối nói dân gian hay thói quen nghĩ của người dân Việt Nam k
h
nói chung là để chỉ chung một loại tranh sử dụng chất liệu sơn ta (nhựa cây sơn) để
làm tranh.
c
- Danh họa Tô Ngọc Vân đã định nghĩa: Danh từ SƠN MÀI (laque) là một danh
n
từ mới đặt mươi năm nay để chỉ một kỹ thuật trước kia gọi là SƠN TA nhưng đã biến
hóa hẳn do nghệ thuật mài sơn.
Kỹ thuật SƠN TA cũng tương tự SƠN TÀU. SƠN TÀU - theo sách truyền - có
m
từ đời nhà Hán, sử dụng cùng với SƠN TA một thứ nguyên liệu là sơn sống. Chất sơn
sống này, ở nước ta, miền Phú Thọ sản xuất rất nhiều và vẫn bán sang Tàu cùng Nhật.
Từ 1931 trở về trước, công dụng SƠN TA cũng như SƠN TÀU ở Tàu và SƠN
t -
NHẬT ở Nhật - là phủ bọc lên đồ vật làm nó tôn vẻ lộng lẫy, lên những vật dùng
b
thường như cái khay, cái tráp, đôi guốc ... đồ thờ như hương án, đài, bát đĩa ... đồ trang
v
trí như câu đối, hoành phi, bình phong ... màu sắc đại để có: son, đen, nâu cánh dán,
vàng bạc theo cổ truyền. Nói rõ ra, SƠN TA chỉ có công dụng trang trí, địa vị là ở
h
trong trang trí. Mặc dầu ở Nhật, nghệ thuật sơn có tế nhị hơn cả, nhưng chưa một nước
nào nghĩ đến tìm tòi, sử dụng nguyên liệu sơn một cách khác cổ truyền, phiêu lưu
trong nghệ thuật sơn để tìm một con đường nào tăng phẩm gia mỹ thuật sơn bằng cách
t t
phát minh thêm khả năng của nó ... Song từ 1931 trở đi, nhờ sự tìm tòi thiết tha của
d
một số họa sĩ có tài chuyên hẳn về SƠN TA ... Từ cái tráp, chiếc guốc, nó (sơn ta)
vượt lên bức hội họa lồng khung quý giá, từ một phương tiện phụ thuộc làm tôn vẻ đồ
l .
vật, nó trở nên một phương tiện độc lập diễn đạt nổi tâm hồn người nghệ sĩ, một
n
phương tiện phong phú ... SƠN TA đổi tên là SƠN MÀI. Thấy SƠN MÀI vừa xuất v
18
w
hiện, hầu hết giới nghệ sĩ Việt hoan nghênh. Họ thấy ở SƠN MÀI một kỹ thuật mới,
w
sáng tạo do tay người mình, thích hợp với thủy thổ nước mình, thuận tiện để diễn đạt
những nhu cầu nghệ thuật của mình. Người ngoại quốc đến nước ta hoàn toàn hoan
w
nghênh SƠN MÀI, coi nó là một phát minh mới nhất trong hội họa ... [65, tr 10, 11]
- Theo Từ điển "Thuật ngữ mỹ thuật phổ thông":
.
+ Thuật ngữ sơn mài (A.lacquer; P.lacque) chất liệu vẽ tranh truyền thống độc
k
đáo của Việt Nam bao gồm sơn ta cộng với các màu son, vàng, bạc; sau này khi phát
triển còn có thêm các màu bột và màu vỏ trứng, vỏ trai. Các chất màu được vẽ lên mặt
h
nền là tấm vóc. Trong quá trình làm tranh, người ta dùng kỹ thuật mài (ít hay nhiều lần)
để vẽ, sửa chữa tranh để làm mặt tranh phẳng đều, mịn và êm hơn vì tranh được vẽ
c
nhiều lớp chồng lên nhau; sau cùng là đánh bóng tranh. Trước những năm 1930, người
n
ta chỉ dùng sơn ta trong trang trí đồ thờ cúng, làm hàng mỹ nghệ. Vào thời gian này,
một số họa sỹ Việt Nam đầu tiên lúc đang học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
m
Dương (có thể kể: Trần Văn Cẩn, Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí, Phạm Hậu,
Nguyễn Khang) và nghệ nhân Đinh Văn Thành đã mạnh dạn thử nghiệm đưa kỹ thuật
sơn ta vào làm tranh nghệ thuật, thuật ngữ sơn mài và tranh sơn mài cũng xuất hiện từ
t -
đó [63, tr 130].
b
+ Tranh sơn mài: Tranh được vẽ lên tấm vóc bằng sơn ta trộn với các thứ son và
màu thích hợp. Trong tranh sơn mài có sử dụng cả vàng, bạc, vỏ trứng, vỏ trai ... Khi
v
vẽ xong phải đem tranh vào chỗ ẩm, kín gió ủ cho khô, rồi đem ra vẽ tiếp. Vẽ xong
toàn bộ và sơn ta đã khô thì mài bằng than gỗ, đá hoặc giấy ráp nước cho mịn. Mặt
h
tranh khi đã được mài phẳng thì dùng tay xoa bột than để đánh bóng ... [62, tr 130, 131]
Cái gọi là "phát kiến mới" trong kỹ thuật sử dụng sơn ta để vẽ tranh, là cơ sở cho
t t
thuật ngữ "sơn mài" ra đời đó là việc trước đây khi vẽ (trang trí) người ta thường dùng
d
sơn cánh gián, sơn cánh gián pha son pha dầu trẩu gọi là sơn quang dầu vẽ xong khô là
được, không mài (mặt sơn có dầu thường bóng loáng gợn nét vẽ, không phẳng nhẵn).
Việc dùng sơn không có dầu mà có nhựa thông trong sơn cánh gián, sơn son. Điều này
l .
từ xưa chưa ai làm! vẽ xong đem mài cho mặt tranh phẳng nhẵn, hình lộ ra. Sơn pha
n
nhựa thông có thể vẽ chồng nhiều lớp và mài đều tất cả mặt tranh - quá trình mài là vẽ v
19
w
tranh. Sáng tạo của nghệ sĩ Việt Nam là đưa sơn ta từ chất liệu trang trí sang chất liệu
w
của nghệ thuật tạo hình, đã tạo nên những thành tựu và được các nước học tập.
Để có cái nhìn khái quát về tranh sơn mài Việt Nam thực trạng và phát triển,
w
chúng ta đặt tranh sơn mài trong mối quan hệ với văn hóa sơn, đề cập đến tranh sơn cổ
(sơn quang dầu), sơn mài thủ công mỹ nghệ, tranh sơn mài mỹ nghệ bên cạnh tranh
.
sơn mài tạo hình.
Tìm hiểu về xuất xứ, về sự hình thành và phát triển của nghệ thuật sơn mài của k Việt Nam, trước hết, cần hiểu về "Nghề sơn ta truyền thống" của Việt Nam, bởi vì đây
h
chính là cái nôi, là cơ sở ban đầu để nảy sinh ra chất liệu và kỹ thuật, nảy sinh ra
phương pháp thể hiện của những tác phẩm, sản phẩm sơn mài đầy hấp dẫn, đặc sắc và
c
có một không hai trên thế giới.
n
Qua các tài liệu lịch sử và khảo cổ học thì ông cha ta đã biết dùng nhựa của cây
sơn để chế tác ra những vật dụng, đồ trang sức, đồ mỹ nghệ… từ hàng ngàn năm nay.
m
Tuy nhiên để trở thành một nghề với đầy đủ tầm vóc và tiêu chí của nó; có thị trường
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thì nghề sơn ta mới thực sự có ở nước ta từ thế kỷ XV.
b. Tổ nghề vẽ tranh sơn
t -
Theo Dumoutier, một học giả, nhà nghiên cứu người Pháp đã công bố năm 1892
b
thì người Việt Nam có nghề sơn ta từ đời Lê Nhân Tôn (1443-1459) do Trần Thượng
Công hoặc Trần Tương Công (tức Trần Lư) học được ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc).
v
Ông đã truyền dạy lại nghề này ở nước ta. Ông được xem như là "Vị Tổ nghề sơn ta" ở
Việt Nam mà nghề sơn ta lại chính là cha đẻ của kỹ thuật và nghệ thuật sơn mài của
h
chúng ta hôm nay.
Trần Lư là người làng Bình Vọng (xã Văn Bình huyện Thường Tín - Hà Nội).
t t
Người được suy tôn là Đức Tổ nghề sơn và được lập miếu thờ (năm 1947 ngôi miếu
d
đã bị giặc Pháp đốt cháy trong một trận càn lớn). Trong làng còn hậu duệ của Đức Tổ
nhưng di vật và tư liệu không còn gì!
Tài liệu thành văn liên quan đến Đức Tổ nghề sơn, theo các nhà nghiên cứu trước
l .
cho biết có 2 tác phẩm: "Toàn Việt thi lục", "Bình Vọng Trần Thị Gia phả". Khảo
n
cứu 2 tác phẩm này, nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc cho rằng cuốn "Bình Vọng v
20
w
Trần Thị Gia phả" do ông Nguyễn Xuân Phương chép lại vào năm 1912 có nói đến
w
một người có tên Trần Lư, ghi lại câu đối xưa treo ở từ đường họ Trần cho hay đây là
người dạy dân Bình Vọng nghề sơn, nội dung như sau:
w
- Lưỡng độ hoàng hoa danh tiến sỹ
- Bách niên đơn hoạt cố tiên dân
. - Hai độ hoa vàng lừng tiến sỹ k - Trăm năm son thắm dạy dân gian1
Nghĩa là:
h
Theo "Bình Vọng Trần Thị Gia phả", Trần Lư có tên gọi là Lương, tự Tu Khê,
sinh năm Canh Dần 1470 trong gia đình có truyền thống nho học. Niên hiệu Cảnh
c
Thống thứ 5 (1502) đời vua Lê Hiến Tông, ông đỗ Tiến sĩ khóa thi năm Nhâm Tuất.
n
Năm 1505 được cử sang Trung Quốc làm Phó sứ, ở đây ông đã học nghề vẽ sơn.
Trong gia phả ghi rõ: "Dĩ tự tiên sinh nhi toàn hương tri thủ nghệ" (Tiên sinh nắm
m
vững nghề vẽ bằng sơn và truyền cho dân làng, cả làng biết nghề này) [48, tr 52]. Ông
là người vẽ giỏi, ông có công học hỏi nâng cao kỹ thuật làm sơn vẽ sơn, ông truyền
nghề vẽ tranh sơn, ông để lại bài thơ "Học thành họa nghề" nội dung ca tụng thuật vẽ
t -
cảnh vật, hoa chim ...
b
Một tài liệu khác nói Tổ nghề vẽ sơn là Trần Lô (1470 - 1540) có tên khác là
Lương Niên tự Tu Hán quê ở làng Bình Vọng - Thường Tín (Hà Nội). Ông tinh thông
v
nghề thuốc. Năm Mậu Thân đời Hồng Đức (1488) ông được sung làm Điều hộ (một
chức sắc ngành y thời đó) trong đoàn sứ bộ sang Trung Quốc. Năm Cảnh Thống thứ 5
h
đời Lê Hiến Tông (1502), ông đỗ Tiến sĩ năm Ất Sửu 1505, ông được sung chức Phó
sứ sang Trung Quốc lần thứ hai. Ông làm quan đến chức Hiến sát xứ Kinh Bắc.
t t
Trong hai lần đi sứ, ông đều tìm tòi nghề vẽ sơn của Trung Quốc, lần đầu học
d
chưa thành, lần sau ông quan sát kỹ những mẫu vẽ ở họa cách (phòng, xưởng vẽ),
nghiên cứu phép vẽ, học thành nghề vẽ sơn. Về nước ông truyền dạy nghề cho dân.
l .
v 1 Theo PGS-TS Đỗ Thị Hảo (Viện nghiên cứu Hán Nôm), phải được dịch là: "Hai phen đi sứ lừng danh tiến sỹ. Trăm năm dân sướng nhờ học nghề sơn".
n
Dần dần, nghề vẽ sơn được định hình trở thành một ngành có tiếng ở nước ta, rất được
21
w
coi trọng. Hành trang của ông được chép trong sách "Họa tất niên sư lục" (sách ghi
w
chép về tổ sư nghề vẽ sơn, soạn năm Lê Vĩnh Thọ thứ ba - 1663) (Ký hiệu Thư viện
Viện nghiên cứu Hán Nôm A.987), trong sách có chép một số bài thơ của ông làm khi
w
đi sứ, đặc biệt có bài cảm xúc khi họa thành nghề vẽ:
May sao kẻ ngu này lại được lạm đi sứ
.
Học tập thành tài nỗi mừng càng nhiều
Làm như con kiến dễ thành công, vẽ rồng rực rỡ k Vẽ con chim thêm sáng sủa, màu phượng càng tăng
h
Đội ơn lâu mãi đã truyền cho ngọn bút tinh xảo
Cách trang hoàng càng lộng lẫy bức họa đẹp đẽ
c
Khi về nước, nghề nghiệp ngày một rạng rỡ lấy gì báo đáp
n
Xin khắc xương ghi tạc mãi mãi không phai mòn. [27, tr 24 - 25]
Qua sử sách và thực tế khẳng định có làng nghề sơn Bình Vọng hoạt động từ thế
m
kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XX.
1.1.2. Những nền tảng cho sự hình thành tranh sơn mài
a. Cây sơn và vùng nguyên liệu (xem phụ lục 6 phần A)
t -
Trước hết, đó là nhựa của một loài cây gọi là cây sơn, được trồng hoặc sinh
b
trưởng tự nhiên ở vùng trung du Bắc Bộ mà nhiều nhất là ở các vùng: Tam Nông, Phù
Ninh, Lâm Thao (Tiên Kiên, Chí Chủ), Thanh Ba, Cẩm Khê ... thuộc tỉnh Phú Thọ,
nên sơn ta còn hay được gọi là sơn Phú Thọ. (xem Phụ lục 1) v Cây sơn có ở nhiều nước nhưng với đặc thù và chất lượng khác nhau. Ở Trung
h
Quốc có giống cây sơn và nhựa sơn thuộc chủng loại Rhus verniciféra. Ở Nhật Bản có
giống cây sơn và nhựa sơn thuộc loại Rhus verniciféra urushi. Ở Căm Pu Chia có
t t
giống cây sơn và nhựa sơn thuộc loại Malanorrhéa Lacciféra, giống cây sơn này cũng
d
có ở vùng Biên Hòa, Thủ Dầu Một của Việt Nam. Ở Lào, Thái Lan, Myanmar có
giống cây sơn và nhựa sơn thuộc loại Malanorrhéa Usitata. Còn cây sơn và nhựa sơn ở
vùng trung du Bắc Bộ Việt Nam thuộc loại Rhus Succédanéa là loại cây cho nhiều
l .
nhựa và chất lượng tốt hơn cả, đặc biệt là loại sơn ở vùng Tam Nông (Phú Thọ) có
n
chất lượng cao nhất và nổi tiếng nhất. Người ta chỉ khai thác nhựa sơn vào các buổi v
22
w
sáng sớm, khi chưa có ánh nắng mặt trời vì khi gặp ánh nắng thì nhựa sơn sẽ nhanh bị
w
oxy hóa làm cho sẫm màu. Người ta cũng không lấy sơn vào những ngày có mưa vì
lượng nước trong nhựa sơn sẽ nhiều lên, phẩm chất của sơn bị giảm sút. Chính vì chất
w
lượng sơn ở vùng Phú Thọ rất tốt nên đã từng là một mặt hàng xuất khẩu đắt giá đến
với nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp v.v. (nhất là Nhật Bản).
.
Chất nhựa sơn khi khô có tính ổn định hóa học rất cao, có thể chịu được trước
k
nhiều loại axit đậm đặc, tính cách điện rất tốt, hoàn toàn không thấm nước, chịu được
ở nhiệt độ rất cao, bất chấp sự phá hoại của các vi sinh vật và nước biển. Tính bền
h
chắc của sơn ta khi đã khô thì khó có chất liệu nào sánh nổi nên có câu "gắn bó như
keo sơn". Những loại gỗ khi được gắn lại với nhau bằng sơn ta thì khi muốn cậy tách
c
ra chỉ vỡ gỗ chứ không hề bị bong ở vết gắn. Người Pháp trước đây cũng đã từng dùng
n
nhựa sơn ta để quét lên cánh máy bay được căng bằng vải (hiện còn trưng bày tại Bảo
tàng kỹ thuật Paris). Có nơi còn dùng sơn ta để gắn các loại đàn cao cấp mà nổi tiếng
m
nhất là đàn violon Shadivarius … Cây sơn cũng là một trong những loại cây hiếm có,
không bao giờ bị sâu hoặc bất cứ một loại bệnh gì.
b. Tìm hiểu chất liệu vật liệu để làm tranh sơn mài, đồ thủ công mỹ nghệ sơn mài
t -
- Chất liệu:
b
+ Nhựa sơn: Nhựa sơn cũng có độc tính gây viêm, tùy theo độ cảm ứng của từng
người mà nặng nhẹ khác nhau. Khi người ta bị giây sơn vào người (nhất là ở mặt)
v
thường bị mẩn ngứa, thậm chí sưng tấy cả mặt mũi, chân tay. Hiện tượng này trong
dân gian gọi là bị lở sơn hoặc bị "sơn ăn". Cũng có người tuy không bị giây sơn vào
h
người mà chỉ đi qua chỗ có nhựa sơn mà cũng bị dị ứng bởi vì độc tính của nhựa sơn
còn bốc lên theo thể hơi, khuyếch tán, làm nhiễm độc cho những người có độ cảm ứng
t t
mạnh. Tuy nhiên cũng có câu: "sơn ăn tùy mặt, ma bắt tùy người" nên nhiều người sử
d
dụng sơn, tiếp xúc với sơn ta hằng ngày mà cũng không hề bị "sơn ăn" (tránh bị "sơn
ăn" trước khi làm sơn dùng lá khế vò nát sát vào tay, mặt. Không được rửa nước lã
trước và sau khi làm sơn. Nếu bị dùng nước vôi trong rửa những chỗ bị lở loét rồi
l .
v
n
dùng vải khô thấm sạch).
23
w
Nhựa sơn khi được khai thác gọi là sơn sống (tức là chưa qua chế biến). Người ta
w
đựng sơn sống vào trong các loại thùng gỗ hoặc đồ đan bằng tre, nứa được trát kín
(bằng sơn sống trộn mùn cưa) gọi là sải sơn (chứa từ 20kg trở xuống) và luồng sơn
w
(loại có dung tích lớn hơn). Hết sức tránh đựng sơn vào thùng bằng kim loại (nhất là
sắt) vì sơn sẽ có phản ứng oxy hóa với sắt, làm cho chất sơn bị đen đi. (xem phụ lục 6
.
phần A)
Nhựa sơn để lắng đọng một thời gian được phân ra thành nhiều loại, có tỷ trọng k khác nhau vì lượng nước và tạp chất trong sơn có khác nhau. Ví dụ gọi là sơn 800 tức
h
là trong đó hàm lượng sơn là 20%
* Lớp sơn trên cùng (từ 80% trở lên) có lượng dầu nhiều nên được gọi là sơn mặt
c
dầu, Loại sơn này mầu nâu, để được lâu, oxy hoá chậm, khó khô, dùng để pha chế
n
những loại sơn có chất lượng cao. Có thể pha chế thành sơn đen (thường gọi là sơn
then) hoặc sơn đỏ (sơn son). Đây là loại sơn cao cấp có độ bóng đẹp, lộng lẫy nhưng
m
khó khi sử dụng, thường được dùng vào nhưng vật dụng hoặc những vị trí quan trọng,
quý giá.
* Lớp sơn thứ hai (dưới lớp sơn mặt dầu) được gọi là sơn đanh, còn gọi là sơn
t -
nhất, sơn giọi, sơn mặt nghệ...(từ 70% đến 80%) cũng để pha chế ra sơn đen, sơn đỏ
b
(về sau này qua quá trình tìm tòi, sáng tạo đã chế biến thành sơn cánh gián, sơn then,
một chất liệu hết sức quan trọng để tiến tới kỹ thuật và nghệ thuật sơn mài). Loại này
v
được dùng nhiều nhất, phổ biến nhất trong nghề truyền thống của sơn ta và sơn mài.
* Lớp sơn thứ ba (dưới lớp sơn đanh) được gọi là sơn cai dạt, còn gọi là sơn giọi
h
nhì (từ 60% đến 70%), đặc sánh như dầu lạc. dùng để sơn những vật dụng thông
thường hoặc sơn lót khi làm đồ mỹ nghệ, đồ thờ hoặc sau này làm những tấm vóc để
t t
vẽ tranh sơn mài. Khi khô sẽ có độ bền chắc rất cao.
d
* Lớp sơn thứ tư (dưới lớp sơn cai dạt) được gọi là sơn giọi ba (từ 45% đến 60%),
dùng để sơn hom, sơn lót, sơn bó …
* Lớp cuối cùng được gọi là sơn bá còn gọi là, sơn “có chó” (dưới 45%) có hàm
l .
lượng nước và tạp chất cao, rất nhanh khô, thường trộn thêm với mạt cưa, đất sét trắng, đất
v
n
phù sa, hạt nhãn giã nhỏ ... để trát kín đồ đựng nước, đồ đan, thuyền thúng, thuyền gỗ v.v.
24
w
Nghề sơn ta cổ truyền trước đây chỉ dùng một số kỹ thuật và màu sắc rất hạn chế.
w
Chủ yếu là màu của sơn đen (sơn then), sơn đỏ (sơn son), dùng vàng bạc đã được dát
mỏng (được gọi là thếp vàng, thếp bạc) nên thường có câu “vàng son lộng lẫy’ hoặc
w
“sơn son thếp vàng” hoặc “đẹp vàng son, ngon mật mỡ”… Tại sao các nghệ nhân xưa
lại không sử dụng nhiều màu sắc khác nữa để cho hoà sắc, chất liệu được phong phú,
hấp dẫn đó là do đặc tính của chất nhựa sơn nên rất nhiều loại màu, loại phẩm khi
.
k
được pha trộn với sơn ta đều bị phân huỷ biến chất, biến màu bởi vì những đặc điểm
“rất trái tính trái nết” của chất sơn ta nhưng lại là một chất liệu đã tạo nên nhiều điều
h
kỳ diệu, vô cùng hấp dẫn nhưng cũng được mệnh danh là “nàng tiên khó tính” từng
gây nhiều bất ngờ, nan giải và cũng hết sức thú vị cho những người sử dụng chất liệu
c
độc đáo này.
n
Các nguyên vật liệu chủ yếu dùng trong nghề sơn ta cổ truyền là các kim loại quý
như vàng , bạc (đã được dát mỏng gọi là vàng quỳ, bạc quỳ). Các loại màu để pha với
sơn chủ yếu được chế biến từ đá thần sa hoặc chu sa (sulfune de mercure - HgS)để có
m
được các loại son như son tươi, son thắm, son trai, son nhì …(sẽ trình bày kỹ ở phần
sau) các vật liệu kể trên mới có thể chịu nổi sự tác động “tai quái” của chất sơn. Cho
đến nay, qua sự thể nghiệm, tìm kiếm nhiều năm, người ta còn sử dụng thêm nhiều
t -
loại màu mới như: thần sa nhân tạo (Vermillon), các màu đỏ rouge permanent hoặc
b
rouge signal (nhưng có nhược điểm là khó khô). bột màu vàng chế từ Sulfure arsénic
v
(AOS), bột trắng oxide da titane (TiO2), bột màu nâu oxide de ferrouge (Fe2O2,
Fe3O4), màu xanh Phổ (bleu de Prusse); cùng một số màu của Nhật, một số loại phẩm
h
như phẩm lục, phẩm tín, phẩm mặt trời, hoa hiên v.v.(nhưng rất khó khô và phải có
"u mẹo" mới có thể đạt được hiệu quả tốt).
Tuy rằng, các nguyên liệu, màu sắc trong nghề sơn ta cổ truyền còn rất hạn
t t
chế (khi chất liệu và nghệ thuật sơn mài chưa ra đời) nhưng các nghệ nhân tài giỏi
d
của chúng ta cũng đã sáng tạo ra những công trình vô giá trong các đình, chùa, đền,
miếu. Trong các đồ thờ cúng, đồ thủ công mỹ nghệ rất đặc sắc từ xa xưa.
l .
- Chế tác các vật liệu, chất liệu chính trong kỹ thuật nghề sơn ta cổ truyền, tranh
v
n
sơn mài
25
w
Sau đây là khái quát vắn tắt cách thức chế tác những vật liệu, chất liệu chính
w
được dùng trong kỹ thuật của nghề sơn ta cổ truyền.
+ Sơn đen (sơn then): muốn chế thành sơn đen ta lấy sơn sống loại 1 hoặc loại 2
w
dùng que sắt để khuấy và mài đều trong chảo gang hoặc chậu sành trong vài ba ngày,
tạo ra phản ứng oxy hoá bởi không khí và tác dụng của oxit sắt (FeSO4) do que sắt
.
được mài mòn sẽ cho sơn có màu đen hoặc cũng có thể cho thêm phèn đen (oxit sắt)
k + Các loại bột son : muốn làm các loại bột son, người ta dùng đá thần sa (Sulfure
hoặc một chút Indigo để chất đen càng sâu, càng chắc.
h
mercure) hoặc chu sa (thần sa cho chất lượng tốt hơn) nghiền cho thật nhỏ mịn rồi nấu
với nước quả bồ kết trong vòng 3 giờ để phân tích, thanh lọc một số tạp chất, sau đó
c
khoắng cho đều, bột son nặng sẽ lắng xuống, để 2 ngày sau sẽ chắt hết nước đi, ta sẽ
n
có bột son. Bột son cũng được phân ra thành nhiều loại: Lớp bột trên cùng được gọi là
son trai có màu đỏ tươi hơi ngả vàng; lớp thứ 2 là son tươi ,có màu đỏ lộng lẫy, rực rỡ
m
nhất trong các loại son; lớp thứ 3 là son thắm có màu đỏ đậm và lớp cuối cùng là son
nhì, nặng hơn cả, có màu đỏ sẫm, hơi nâu.
+ Sơn đỏ (sơn son): Muốn pha chế thành sơn đỏ thì dùng sơn sống loại 2 hoặc
t -
loại 3 trộn với lượng bột son cần thiết, được khuấy đều trong một ngày rồi pha
b
thêm dầu chẩu (đã được nấu chín) lại khuấy tiếp trong một ngày nữa là được loại
sơn son. Đây là loại sơn màu được dùng nhiều nhất, quan trọng nhất trong nghề sơn
v
ta cổ truyền, nhất là trong các tượng phật, đồ thờ cúng (sơn son thếp vàng).
+ Sơn quang dầu : Muốn pha chế ra sơn quang dầu thì dùng sơn sống pha với
h
dầu chẩu (đã được nấu chín) theo những tỷ lệ khác nhau. Muốn thếp vàng hoặc thếp
bạc người ta quét lớp sơn quang dầu lên để gần khô (bằng cách hà hơi vào thấy sơn bắt
t t
hơi nước) thì dán vàng hoặc bạc lên (gọi là thếp vàng, thếp bạc) cũng có thể khi thếp
d
xong bạc để khô kỹ rồi quét lớp sơn quang dầu phủ lên trên sẽ tạo được sắc vàng ( còn
gọi là thếp bạc phủ hoàn kim) sắc vàng này tuy thua kém khi thếp vàng thật nhưng
cũng đủ tạo nên sắc vàng lộng lẫy trong các đồ thờ, hoành phi, câu đối, ngai, kiệu .v.v..
l .
+ Vàng lá, bạc lá : Đây là những kim loại quý, chịu được sự tác động hà khắc
n
của chất sơn đồng thời giữ được màu sắc óng ả, lộng lẫy lâu dài. Ở Kiêu Kỵ (Hà Nội) v
26
w
có nghề truyền thống lâu đời đó là kỹ thuật điêu luyện dát mỏng vàng và bạc mỏng
w
đến mức gió nhẹ cũng có thể thổi bay được, gọi là vàng quỳ, bạc quỳ. Người ta
dùng loại vàng, bạc này để dán (trong nghề gọi là thếp vàng, thếp bạc) vào những
w
đồ thờ cúng, tượng thờ, đồ mỹ nghệ … Tạo nên hiệu quả thẩm mỹ, vừa sang trọng,
quý giá và vô cùng lộng lẫy, bền lâu. Trong tranh sơn mài vàng bạc giúp tạo màu,
.
hiệu quả ánh sáng.
+ Vỏ trứng gà, vịt, chim, các loài nhuyễn thể: k Vở trứng rửa sạch đất cát, lòng trắng trứng còn sót, bóc lớp màng mỏng, cọ sạch
h
rồi để ráo nước (gắn theo lối đặt ngửa), nếu gắn úp, mặt lõm tiếp xúc với nền thì cạo
sạch 2 lớp màng vỏ đi. Sau đó đập nhỏ dùng rây có mắt to nhỏ để phân loại các cỡ
c
khác nhau, các loại vụn quá thì bỏ đi. Có thể rang vỏ trứng rửa sạch với cát nóng để
n
tạo sắc hương vàng (dùng vỏ trước đã ấp nở con rồi thì thao tác tốt hơn). Chất kết dính
bằng sơn đen nhào với vôi tôi theo tỷ lệ: 1 vôi + 4 hoặc 5 phần sơn.
m
Gắn vỏ trai, xà cừ: rửa sạch, đập vỡ từng mảnh hoặc hơ lên than hồng cho vỏ rộp
lên, lấy mũi dao trổ rẽ ra từng mảnh, mỏng theo cấu trúc của vỏ trai. Gắn vỏ trai bằng
cách tô sơn theo mảng màu đã định rồi dính vào lớp sơn đó, chờ sơn khô sẽ phủ một
t -
nước sơn nữa chờ khô rồi đem mài cho mảnh trai được phẳng đều.
b
- Một số màu phẩm, màu bột, trắng ti-tan.
Bảng màu sơn mài thể hiện lối trực tiếp
v
Cánh gián rắc bạc Sơn đen rắc bạc vụn Sơn đen pha Sơn đen rắc vỏ
vụn trai vụn
Cánh gián pha son Cánh gián pha son trai trắng ti-tan h Thếp vàng quỳ Thếp bạc quỳ
trai rắc bạc vụn
t t
Cánh gián pha son Cánh gián rắc Sơn đen pha ngân Sơn đen rắc vỏ
d
nhì vàng vụn châu rắc bạc vụn trứng vụn
Cánh gián pha trắng Cánh gián pha trắng ti- Cánh gián pha ti-tan Gắn vỏ trai
ti-tan tan và phấn cánh gián với phẩm hồ thủy
l .
Cánh gián pha ti-tan Cánh gián pha ti-tan Cánh gián pha ti-tan Cánh gián pha
với bột màu lam
n
với bột màu vàng với bột màu vàng và phẩm hồ thủy bột màu vàng v và lam
27
w
w
Bảng màu sơn mài thể hiện lối gián tiếp
w
Thếp bạc quỳ, phủ cánh gián
.
Thếp vàng quỳ, phủ cánh gián
h
c
Thếp thiếc phủ cánh gián
Cánh gián pha ti- tan, phủ phẩm cánh quế Cánh gián pha ti- tan, phủ phẩm hồ thủy Cánh gián pha k ngân châu, phủ cánh gián Cánh gián pha son trai, phủ cánh gián Thếp bạc quỳ nhuộm phẩm cánh quế, phủ cánh gián Thếp bạc quỳ nhuộm hồ thủy, phủ cánh gián Thếp bạc vụn nhuộm phẩm cánh quế, phủ cánh gián Cánh gián pha ti-tan phẩm cách quế, phủ cánh gián Thếp vàng quỳ nhuộm phẩm cánh quế, phủ cánh gián Thếp vàng quỳ, nhuộm phẩm hồ thủy, phủ cánh gián Thếp bạc vụn nhuộm phẩm hồ thủy, phủ cánh gián Cánh gián pha ti-tan + phẩm hồ thủy, phủ cánh gián Thếp bạc quỳ phủ cánh gián có pha đen
n
[15, tr 118 - 119]
c. Các dụng cụ: bộ đồ của nghề sơn, làm tranh sơn mài:
m
Thép sơn các cỡ to nhỏ
Dao trổ
Mo sừng các cỡ
t -
Bay xương, bay quốc
b
Ván lót dùng để nhào sơn
v
Chảo gang, nồi đất, xoong
Bếp đun, đũa
h
Thúng đánh sơn, lon sành
Bàn vặn sơn
Mỏ vầy, thanh sắt
t t
Lưới
d
Chậu, bút đựng sơn
Bút lông các cỡ
l .
Bìa mika, dao trổ
v
n
Khăn bông, vải phin, bông nõn (xem Phụ lục 3)
28
w
d. Một số kỹ thuật cơ bản để làm thủ công mỹ nghệ sơn mài, tranh sơn mài
w
- Nguyên liệu chủ yếu, hàng đầu là phải có nhựa cây sơn (còn gọi là mủ sơn). Để
lấy nhựa sơn người ta dùng dao khắc vào vỏ cây hình chữ V, hoặc tạo đường rạch
w
vòng quanh, vừa chạm vào phần gỗ, dùng vỏ con trai (gọi là chóc) cắm phía dưới vết
khắc để hứng nhựa. Nhựa sơn thu gom trước lúc mặt trời mọc cất vào âu, lon, lào sải
.
và cũng phải bịt kín, phải để nơi râm mát có độ ẩm thích hợp. Nếu để ánh sáng chiếu
k
vào sơn sẽ bị "cháy". Nhựa sơn để lâu ngày trong các vật chứa sẽ bị lắng đọng và phân
thành các lớp gọi là: sơn mặt, sơn giọi (giọi nhất/nhì hoặc hai/ba), sơn thịt (còn gọi là
h
sơn nước thiếc). Thành phần chính trong nhựa sơn nước là chính, chất béo hòa tan là
6,5%, lượng tro là 2,6%, lượng ẩm là 4,2% (theo CL.Crevest - cuốn "Cây sơn ở Đông
c
Dương" - Nguyễn Xuân Nghị dẫn). Loại nhựa sơn như thế này dân gian gọi là "sơn
n
sống" - sơn chưa qua chế biến. Muốn chế tác các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, vẽ tranh
sơn mài thì phải qua công đoạn làm "sơn chín" còn gọi là "ngả sơn" hay "trút sơn".
m
- Kỹ thuật ngả sơn cánh gián:
+ Dụng cụ:
* Thúng đánh sơn: được đan bằng cật tre sau đó được trát, bó sơn cho kín các
t -
khe mạch và mài nhẵn lòng thúng, dùng để đánh và đựng sơn.
b
* Mỏ vầy: đóng bằng gỗ dùng để đánh sơn.
* Mo sừng: làm bằng xương trâu bò, để vét sơn.
v
+ Thao tác: Trút sơn giọi nhất vào thúng (trung bình 2kg) dùng mỏ vầy quấy, đảo,
miết vào cạnh thúng để các hạt sơn vỡ ra, ma sát tạo nhiệt cho sơn chín. Tốc độ
h
khoảng 35 vòng/phút, đánh liên tục từ 18 đến 20 giờ mới được 1 mẻ sơn. Sơn "chín"
có độ nhuyễn, dẻo, trong, bóng (sẽ tạo sự liên kết, bền chắc cho sản phẩm sau này).
t t
Khi thấy sơn sủi bọt, kéo mỏ vầy lên khỏi mặt sơn, thấy dòng sơn chảy đều, mượt
d
mà không đứt đoạn hoặc quét một nước sơn lên mặt một thanh tre đã cạo sạch theo
đường ngang, rồi dọc sau đó đem ủ, khi sơn khô, thấy mặt sơn tỏa đều, không nhăn
gợn vết thép là sơn đã chín. Sơn chín tạo màu cánh gián thì dùng nhựa thông tươi
l .
pha theo tỷ lệ 200g nhựa thông với 1 kg sơn, nhựa thông phải nấu chín vừa độ, đổ 2
n
chất hòa vào nhau đánh, đảo cho đều. Nhựa thông đúng độ sẽ làm sản phẩm về sau v
29
w
không bị mốc hoặc mờ mất cảm giác sâu, trong là đặc điểm quý của chất liệu. Kiểm
w
tra bằng cách đem nhựa thông đã đun nhỏ cho vào nước lạnh thấy đông ngay, vớt
lên vê, bóp tan vụn là được.
w
- Kỹ thuật ngả sơn đen:
+ Dụng cụ:
.
* Chảo gang, lon sành.
* Thanh sắt non (loại nung qua lửa nhưng không tôi qua nước). k * Thúng đánh sơn.
h
* Mỏ vầy.
* Thép sơn.
c
+ Thao tác: Lấy sơn giọi nhất cho vào chảo gang hay lon sành, dùng thanh sắt
n
đánh đều, phải miết thanh sắt xuống đáy chảo để ma sát tạo nhiệt cho các phân tử sắt
hòa tan vào sơn tạo một "phản ứng lý, hóa" để sơn có màu đen. Sau đó trút sơn đen
vào thúng, dùng mỏ vầy đánh tiếp cho tới khi được thì thôi. Nếu muốn có độ đen sẫm
có thể cho thêm phèn đen (đây là một thủ thuật nhưng không phổ biến). m
- Kỹ thuật làm sơn quang:
t -
Sơn quang chuyên dùng để phủ lên bề mặt sản phẩm nhằm tạo hiệu quả bền đẹp.
b
Chế tác bằng cách dùng sơn chín lọc kỹ trộn với dầu trẩu theo tỷ lệ: 2 sơn + 1 dầu trẩu.
Dầu trẩu phải được đun sôi nổi hạt từ 10 đến 15 phút (tránh việc dầu bắt lửa cháy),
v
dùng que tre nhúng vào dầu rồi đem nhỏ lên miếng kim loại phẳng chờ khi dầu nguội,
lấy ngón tay chấm nhẹ dầu bám theo kéo thành sợi mảnh dài là được. Kỹ thuật này gọi
h
là "nấu dầu cao kim" (có một kim, hai kim, ba kim). Dầu nấu chín để nguội trộn với
sơn chín đánh đều, đem vắt, lọc.
t t
- Kỹ thuật pha sơn cầm:
d
Dùng loại sơn giọi nhì, giọi ba pha với nhau theo tỷ lệ nửa nọ, nửa kia, khuấy
cho đều rồi lấy ra khoảng 1/10 đem đun sôi, chờ cho nó bớt nóng lại đổ trở lại và đánh
cho đều, nhuyễn. Sơn sau khi đánh nhuyễn lại đem vắt và lọc qua bông cho hết cặn sạn.
l .
Đây là loại sơn chuyên dùng để thếp vàng, bạc lên sản phẩm gọi là sơn cầm.
v
n
- Kỹ thuật chế tác sơn phủ kim hoàn:
30
w
Các sản phẩm hàng đồ nét thường được thếp vàng, rắc bạc. Để giữ cho bề mặt
w
các sản phẩm này đỡ bị xây sát, luôn luôn ánh lên vẻ đẹp có chiều sâu của các ánh sắc
vật liệu, tránh sự rực chóe, chói, gắt cần loại sơn phủ (vì chuyên dùng để phủ lên bề
w
mặt vàng, bạc được cẩn, thếp lên bề mặt sản phẩm nên có tên gọi là sơn phủ kim hoàn).
Dùng sơn mặt dầu với sơn giọi nhì theo tỷ lệ 1/2 + 1/2 chén rượu nhỏ +1/3 chén mỡ
.
ngỗng rồi đem đánh đều liên tục vào khoảng 4 đến 5 giờ liền. Tiếp đó đem pha thêm
k
dầu trẩu đã đạt tiêu chuẩn 2 kim vào với tỷ lệ 1/2 (1 dầu trẩu pha với 2 hỗn hợp sơn đã
đánh nói trên) và lại tiếp tục đánh cho đều. Sau đó đem ra vặn qua vải và lọc qua bông
h
cho hết cặn sạn.
c
- Kỹ thuật vặn sơn:
Các loại sơn cánh gián, đen, cầm, quang, phủ … đều có tên gọi chung là sơn chín.
n
Để nguồn chất liệu đạt tiêu chuẩn trong, mượt, để quá trình chế tác được thuận lợi,
đảm bảo kỹ thuật và giá trị mỹ thuật, thì cần phải lọc sơn cho hết cạn, sạn.
m
Tùy theo chất liệu sơn lỏng hay đặc (trường hợp chất liệu đặc hay lỏng có nhiều
nguyên nhân: Do tư thân chất liệu, do tác động của thời tiết), người ta có cách lọc khác
nhau. Trước khi lọc chất liệu sơn đặc ta đem đum cách thủy cho sơn chảy ra. Đun cách
t -
thủy sẽ tránh được trường hợp sơn bắt lửa (đây là hiện tượng rất dễ xảy ra bởi trong
b
sơn có chất dầu). Một khi sơn đã bắt lửa, khi đưa vào chế tác sản phẩm chất liệu sẽ
không bao giờ khô (người làm nghề thường gọi hiện tượng này bằng thuật ngữ "sơn
v
ngã lửa"). Làm như vậy bảo đảm an toàn, kỹ thuật, chất lượng, hiệu quả thẩm mỹ cho
h
sản phẩm. Dùng vải mộc (chất liệu hoàn toàn từ bông) đặt trên miệng bát hay lon, rồi
trải lên bề mặt của nó một lớp bông, sau đó cho hơi thụt xuống lòng bát hay lon (người
làm nghề thường gọi là làm bầu) và trút sơn vào lòng bầu. Tiếp theo hai người đứng ở
t t
d
hai đầu mảnh vải, cầm hai mép vải xếp chéo vặn xoắn, buộc vào tay quay bàn vặn cho
sơn chảy ra, lọc 2, 3 lần sẽ được sơn mượt, trong. [49, trr 94, 95]
- Một số kỹ thuật khác: xem phần phụ lục vá (gắn gỗ), bó, hom, lót, thí sơn, thếp
l .
v
n
sơn, quang sơn. (xem phụ lục 5)
31
w
- Vóc sơn mài: Nền vóc sơn là danh từ chuyên môn để gọi cái cốt gỗ như cốt lọ,
w
hộp, khay, tấm ván gỗ … đã được thao tác trong quy trình công nghệ đã được tạo một
cái nền sơn nhẵn, trơn tru như sừng, để cho thợ, nghệ nhân, họa sĩ vẽ lên bằng các
w
chất liệu của sơn mài. Làm một tấm nền vóc tốn công sức, nguyên liệu. Từ cốt mộc
đến nước sơn cuối cùng phải qua 8 đến 10 lượt nước sơn kể cả nước sơn sống, sơn
.
chín. Sau mỗi nước sơn phải qua khâu mài bằng đá với nước và sửa cho mặt sơn
k
được phẳng phiu, vuông vắn. Muốn làm vóc phải nắm được các kỹ thuật gắn gỗ,
bọc vải, bọc giấy, bó sơn, mài bó, hom sơn, mài sơn, sơn thí, sơn quang, ủ sơn v.v.
h
Trên một miếng gỗ để làm vóc đã hoàn chỉnh (đã được vá, gắn phẳng nhẵn),
dùng thép sơn lấy sơn giọi nhì quét đều lên bề mặt của tấm gỗ một lượt. Sau đó phủ
c
lên bề mặt của miếng gỗ đã được quét sơn một miếng vải bông dệt thưa với yêu cầu kỹ
n
thuật sao cho căng đều, cân đối trên mặt gỗ. Thao tác tiếp theo là dùng thép sơn quét
dọc, quét ngang trên mặt tấm vải để không phồng rộp vải và nước sơn trên mặt gỗ
m
(dưới tấm vải) thấm đều lên trên mặt vải. Nếu sơn thấm chưa đều, người thợ chờ cho
đến khi sơn trên mặt vải se khô thì lật ngược tấm gỗ, dùng kéo cắt ở bốn góc tấm vải
còn xòe thừa và quét sơn lên bề mặt của nó rồi dán vào mặt gỗ ở mặt sau. Đây là thao
t -
tác bắt góc, miết mép. Yêu cầu kỹ thuật của thao tác này là miếng vải bám vào gỗ căng
b
góc và phẳng. Theo kinh nghiệm của các nghệ nhân, bồi vóc bằng vải dễ hơn bồi bằng
giấy vì giấy mềm, khi gặp ẩm mau nhăn, làm không nhanh tay, chuẩn động tác giấy dễ
v
bị nhăn, rách. Tuy nhiên, tùy theo tính chất yêu cầu từng công việc, mà có bồi vóc
bằng vải hoặc bằng giấy, thường người ta phải bồi đi, bồi lại một tấm vóc nhiều lớp
h
vải (hoặc giấy). Bồi càng nhiều lớp, vóc càng bền.
Có 3 cách làm vóc sơn: vóc chay, vóc hom đất thó, vóc hom đất phù sa.
t t
Mài và đánh bóng vóc
d
Ở các công đoạn đã trình bày thao tác mài, song đó chỉ là việc mài sơn tạo độ
nhẵn, phẳng tương đối để rồi tiếp tục một thao tác khác như hom, lót, thí … mài và
đánh bóng trong công đoạn này là sự hoàn chỉnh sản phẩm vóc. Nó đòi hỏi sự cẩn
l .
trọng, tỷ mỷ và cả sự nhạy cảm của người thực hiện. Vật liệu dùng để mài trong công
n
đoạn này là đá xanh mịn mặt, cát cánh nhỏ, mặt đá và vật được mài (mặt vóc) luôn áp v
32
w
sát nhau đều đặn, rồi tiến hành đánh bóng. Nghệ nhân trong các làng nghề thường
w
dùng bông nõn trộn tóc rối của phụ nữ chấm bột than xoan đã pha nước xâm xấp để
đánh, cứ thế cần mẫn đánh đi, đánh lại đều tay trên toàn mặt vóc. Họ đánh cho đến khi
w
các vết mài của đá trên mặt vóc mất đi, rồi mặt vóc bóng lên thì lại dùng lòng bàn tay
để xoa. Theo kinh nghiệm của người làm nghề, "chất dầu" ở lòng bàn tay có khả năng
.
tạo nên độ bóng không giống bất kỳ vật làm bóng nào khác. Vóc được thao tác đúng
k
tiêu chuẩn có độ bền cao, có khả năng chịu được sự biến đổi của thời tiết mà không
cong, vênh, rạn, nứt, mối mọt, bong tróc … nó có độ bóng "như gương". Thao tác
h
đánh bóng chỉ có hai chiều ngang, dọc cho ta cảm giác về "độ sâu không gian" của sản
phẩm. Theo tính toán của các nghệ nhân có tuổi, để thực hiện một tấm vóc theo đúng
c
tiêu chuẩn quy cách cổ truyền phải qua tới 36 công đoạn. [49, tr 103]
n
Cách làm vóc kỹ càng, đạt tiêu chuẩn "cổ điển" này giờ ít được thực hiện ở các
làng nghề và ngay cả đối với các họa sĩ làm tranh nghệ thuật, bởi giá thành của nó rất
m
cao, người ta chỉ làm những tấm vóc như vậy theo đơn đặt hàng và được gọi là "vóc
thửa". Theo họa sĩ Nguyễn Xuân Nghị thì những họa sỹ danh tiếng như Nguyễn Kim
Đồng (nguyên chủ nhiệm khoa sơn mài, trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp và một
t -
số họa sỹ khác khi thực hiện những bức tranh theo đơn đặt hàng của nước ngoài mới
b
dày công làm vóc theo đúng quy cách cổ truyền. Hiện nay ở làng nghề Hạ Thái, theo
nhận xét của các bậc cao niên, quy trình làm vóc đã rút đi chỉ còn 16 công đoạn, nghĩa
v
là nó đã bị rút đi quá một nửa. Song đây vẫn là những tấm vóc được đánh giá là còn
chất lượng.
h
- Vóc sơn điều:
Vóc sơn điều mới xuất hiện ở các làng nghề và cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ
t t
nghệ từ sơn khoảng 12 đến 15 năm trở về đây. Sơn điều được chế tác từ vỏ quả điều và
d
phần lớn màu của loại sơn này là đỏ điều (màu đỏ pha nâu, hơi ngả sang màu nâu sẫm),
tức là người ta gọi tên sản phẩm theo đặc điểm của màu chất liệu. Đây là loại sơn được
chế biến sẵn theo phương pháp, công nghệ mới đã được đóng hộp, người dùng chỉ việc
l .
về đưa vào làm sản phẩm, không phải qua công đoạn "chế biến sơn" như loại sơn ta
n
truyền thống nói trên. Để chế tạo một bức vóc sơn điều, chỉ cần một miếng gỗ dán, v
33
w
một tấm bìa castons hay một miếng nhựa … để làm cốt, ta pha sơn điều với dầu xăng,
w
dầu trẩu để hóa chất sơn điều đủ độ dẻo rồi dùng bay sắt xúc phết lên mặt cốt với độ
dày trung bình là 2 mm, sau đó dùng bàn là làm phẳng mặt sơn, đem phơi nắng, gió
w
trong khoảng thời gian 30 phút đến 1 giờ là sơn khô. Như vậy, việc chế tác một tấm
vóc sơn ta truyền thống so với việc làm một tấm vóc sơn điều là hết sức khác nhau.
.
Làm vóc sơn ta công phu bao nhiêu thì làm vóc sơn điều đơn giản và ngắn gọn bấy
k
nhiêu. Chính vì vậy vóc sơn điều (cùng kích thước) rẻ hơn vóc sơn ta từ 50 đến 70 lần
nhưng độ bền của vóc sơn ta làm theo phương pháp truyền thống lại gấp nghìn lần vóc
h
sơn điều, trải qua thời gian hàng trăm năm vẫn giữ được độ đen bóng sâu trong, vóc
sơn điều chỉ để vài năm là bị mọt cốt, cong vênh, sơn nứt nẻ. Sản phẩm chế tác từ vóc
c
sơn điều xuống màu nhanh, kém độ rực rỡ, sâu trong so với sản phẩm sơn ta truyền
n
thống. [49, tr 105]
Quá trình phát triển của sơn mài nghệ nhân, họa sĩ đã tìm tòi nhiều chất liệu,
m
cách thể hiện để vẽ tranh, có thể tìm để thể hiện dễ hơn, để giảm giá thành (vì nguyên
vật liệu đắt) v.v . Tuy vậy thực tế cho thấy rằng vẻ đẹp của chất liệu sơn điều không
thể sánh được với vẻ đẹp của chất liệu sơn ta truyền thống và nó không thể thay thế
t -
cho chất liệu sơn ta.
b
1.1.3. Thể hiện tranh sơn mài
a. Tranh sơn mài mỹ nghệ:
v
Để có được bức tranh sơn mài mỹ nghệ, đầu tiên là phải có được một tấm vóc và
mẫu tranh được họa sĩ hay nghệ nhân vẽ hoàn chỉnh.
h
Từ mẫu tranh gốc người nghệ nhân, họa sĩ vẽ thành hai bản
- Bản nét: Vẽ lại hình nét của bức tranh mẫu
t t
- Bản mầu: Vẽ lại các mảng mầu của bức tranh mẫu
d
Từ bản vẽ nét đó người thợ, nghệ nhân dùng một tờ giấy can, can lại sau đó là in
bản nét trên tờ giấy can lên mặt tấm vóc. Để in được người ta thường xoa một lớp bột
mỏng lên một mặt của một tờ giấy poluya rồi đặt sát vào mặt tấm vóc, tiếp theo lại đặt
l .
tờ giấy can bản nét bức tranh lên trên sao cho mặt vóc, tờ giấy poluya, tờ giấy can
n
phẳng phiu, cân đối rồi dùng kẹp để kẹp chúng lại chắc chắn. Tiếp theo là dùng một v
34
w
vật cứng không sắc nhưng nhọn đầu, tô đường nét của bức tranh trên tờ giấy can. Sau
w
đó người nghệ nhân lại dùng dao khắc, dao trổ mà vạch những nét mờ của hình nét đã
được phấn bột lưu lại trên mặt vóc nhằm tránh sự nhòe mờ của phấn bột sự sai lệch
w
hình nét theo bản mẫu. Trên cơ sở các nét hình trên, người thợ, nghệ nhân pha và tô
màu bằng bút sơn lên mặt vóc theo bản mẫu màu. Tô xong các mảng màu nghệ nhân
.
lại dùng thép sơn phủ lên bề mặt bức tranh một nước sơn gọi là sơn phủ.
Sau khi đi nước sơn phủ, nghệ nhân đưa tranh đi ủ trong buồng kín gió, ít ánh k sáng và có độ ẩm giống như khi ủ vóc. Sau khi ủ với khoảng thời gian ba ngày, người
h
nghệ nhân bằng kinh nghiệm nghề nghiệp thấy sơn đã khô thì đưa ra mài. Cách mài ở
công đoạn này đòi hỏi người nghệ nhân không chỉ giỏi về kỹ thuật mà cần có sự mẫn
c
cảm của người nghệ sĩ. Người thợ, nghệ sĩ vừa dùng đá mài trên mặt sơn vừa tưới
n
nước rửa theo cho tới khi các mảng màu dưới lớp sơn phủ lộ ra dần dần. Theo cảm
quan, người mài thấy được cần lập tức dừng ngay. Ở khâu này nếu non kỹ thuật, kém
m
sự nhậy cảm dễ dẫn đến quá tay làm "thủng" bức tranh. Nếu tranh "thủng" thì không
có nghĩa làm lại sản phẩm từ đầu mà người thợ phải khắc phục hậu quả bằng cách sơn
phủ lại bộ phận bị mài thủng, rồi lại mài rửa, và thế là ra đời một sản phẩm kém hiệu
t -
quả mà người làm nghề gọi là tác phẩm sơn vá. Nhưng nếu quá non tay không dám
b
mài tới "độ đủ" cho màu sắc trong tranh hiện lên hết vẻ rực rỡ, lung linh tiềm ẩn thì
cũng thật là đáng tiếc. Biên giới giữa nghệ nhân và nghệ sĩ đôi khi rất "ngắn" trong
v
sáng tác nghệ thuật sơn mài. Vượt qua kỹ thuật kỹ xảo để đi đến sự mẫn cảm và nhậy
cảm của quá trình sáng tạo, người nghệ sĩ biết "đẩy", biết "dừng" đó là con đường dẫn
h
đến thành công. Chính vì thế mà trong lĩnh vực này nhiều nghệ nhân đã để lại những
tác phẩm đẹp, mang nét sáng tạo của tâm hồn nghệ sĩ và ngược lại, không ít những họa
t t
sĩ - nghệ sĩ có một lúc nào đó, trong một tác phẩm nào đó được đánh giá là "nghệ
d
nhân" bởi trên tác phẩm của họ chỉ mang dấu ấn của sự tinh khéo được thực hiện bởi
một bề dày kinh nghiệm nghề nghiệp. [49, tr 106, 107]
- Đánh bóng: Để làm bóng sản phẩm của mình, người thợ cũng thực hiện theo
l .
từng bước. Bước đầu người ta dùng bông trộn lẫn với tóc rối của phụ nữ chấm vào bột
n
than xoan để đánh đều trên bề mặt sản phẩm. Đánh tới một độ nào cảm thấy đã được v
35
w
thì dừng lại và chuyển sang đánh bóng bằng lòng bàn tay. Dùng gan bàn tay xoa đều
w
mãi lên mặt sản phẩm cho đến khi được thì thôi.
Các sản phẩm tranh sơn còn có tranh sơn khắc, tranh sơn điều, tranh in lưới
w
(nhưng đề tài không đề cập tới).
Màu sắc trong sản phẩm sơn truyền thống, trong đó có tranh sơn mài rất ít chỉ có
.
các màu cơ bản: đen, trắng, đỏ, vàng; một số màu hình thành trong quá trình chế biến
k
sơn (sơn đen thẫm cho thêm phèn đen), son (son tươi / trai / thắm / nhì) cho nên rất
hạn chế khả năng diễn tả sự vật. Tuy vậy chính sự đơn giản ấy lại định hình phong
h
cách, tạo ra bản sắc, sự biểu cảm, phát huy khả năng sáng tạo, cách xử lý tinh tế mang
phong cách cá nhân của nghệ nhân, nghệ sĩ.
c
Đề tài chủ yếu là hiện thực cuộc sống vẽ theo lối tả, gợi, cảnh thiên nhiên, làng
n
quê, phố xá, lễ hội dân gian, chợ, cảnh người lao động trong thiên nhiên hoặc lấy ý từ
các truyện dân gian hay các điển tích Việt Nam, Trung Quốc, (như Tấm Cám, Thạch
m
Sanh, Kiều, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Chi, Thị Mầu lên chùa, Lã Vọng câu cá
v.v.) chủ đề tác phẩm thường gửi gắm vào đó tư tưởng của người sáng tác, giáo dục
luân thường đạo lý về Trung - Nghĩa - Đức. Các nhân vật luôn gắn với khung cảnh
t -
thiên nhiên có tính chất cô đọng mang tính tượng trưng hoặc tranh phục vụ các công
b
trình tôn giáo như tranh chân dung danh nhân, Thần, Phật, các vị La Hán, Thập điện
diêm vương, tứ linh, tứ quý, chim muông hoa lá trang trí kiến trúc (ngoài việc dùng
v
sơn để vẽ, thếp, khảm hoành phi, câu đối, đồ thờ tự v.v.).
Nghề sơn vẽ tranh sơn ở Việt Nam có từ thế kỷ XV khi Tổ nghề Trần Lư (Trần
h
Thượng Công - Trần Tương Công) truyền dạy cho dân. Lúc đó nước ta mới thực sự có
những làng nghề, phường nghề sơn ta mà theo thói quen của dân gian vẫn gọi là làng
t t
nghề, phường nghề sơn mài, nhiều nơi trở nên nổi tiếng cả nước, lưu truyền cho đến
d
ngày nay như Phường nghề Làng sơn ở miền Bắc có: Làng nghề sơn then Đình Bảng
(Đình Bảng - Bắc Ninh), làng nghề sơn quang Cát Đằng (Yên Tiến - Ý Yên - Nam
Định). Làng nghề sơn Bình Vọng (Văn Bình - Thường Tín - Hà Nội - quê hương Tổ
l .
nghề Trần Lư), làng nghề sơn mài Hạ Thái (Duyên Thái - Thường Tín - Hà Nội - quê
n
hương của Nghệ nhân Đinh Văn Thành, và một số họa sĩ sơn mài nổi tiếng của Việt v
36
w
Nam), làng nghề sơn khảm trai Chuôn Ngọ (Chuyên Mỹ - Phú Xuyên - Hà Nội), làng
w
nghề sơn Sơn Đồng - Hoài Đức - Hà Nội), làng nghề sơn Bối Khê (Chuyên Mỹ - Phú
Xuyên - Hà Nội), làng nghề sơn mài Duyên Trường (Duyên Thái - Thường Tín - Hà
w
Nội), Phường Nam Ngư - Hà Nội. (xem Phụ lục 2: Làng nghề sơn truyền thống Việt
Nam)
.
Miền Trung có các làng nghề sơn gắn với các địa danh: Triều Sơn, Địa Linh,
k
Tiên Nội, Dương Nổ (Huế - Thừa Thiên Huế) - Thế kỷ XVI khi chúa Nguyễn Hoàng
đưa người vào xứ Thuận Hóa để xây dựng vùng cát cứ mới trong đó có những nghệ
h
nhân tài hoa nghề sơn ở phía Bắc đến xứ Huế để trang trí các Phủ đệ, cung vua, phủ
chúa, lăng tẩm (thời vua Gia Long, thợ giỏi, nghệ nhân nghề sơn được biên chế trong
c
"Tương cục tất họa Tượng Ty" chuyên làm sơn thiếp cho triều đình) … Sau họ trở
n
thành các nghệ nhân dân gian ở các làng xã ven Huế. (xem Phụ lục 2)
Miền Nam có: Làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp - Thủ Dầu Một - Bình
m
Dương, cuối thế kỷ XVIII những thợ sơn theo dòng di dân từ xứ Ngũ Quảng, ngoài
Bắc vào lập nghiệp tại huyện Bình An - Thủ Dầu Một. Cùng thời gian này thợ sơn mài
từ đất Quảng Bình - Thuận Hóa vào Đồng Nai, Gia Định chuyên làm sơn thếp vàng và
t -
pha chế sơn then (xem Phụ lục 2 phần Sự hình thành và phát triển sơn mài miền Nam,
b
Làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp).
Những phường nghề đã phát triển trở thành những trung tâm sản xuất, tiêu thụ
v
sản phẩm, mua bán nguyên vật liệu... đáp ứng nhu cầu sử dụng, nhu cầu thẩm mỹ của
mọi tầng lớp trong xã hội, kể cả trong các cung đình. Cũng xin lưu ý thêm là trước
h
những năm 30 của thế kỷ trước mới chỉ có nghề sơn ta, nghề sơn quang dầu chứ chưa
có nghề sơn mài. Nghề sơn chỉ giới hạn trong lĩnh vực trang trí, thủ công mỹ nghệ,
t t
làm đồ thờ cung... chưa vươn tới kỹ thuật tạo hình.
d
Tuy nhiên những phường nghề, làng nghề ngày càng phát triển, lan rộng ra nhiều
địa phương trong cả nước, nhất là các tỉnh phía bắc Việt Nam. Nhiều thợ giỏi, nghệ
nhân được tuyển vào làm trong các cung vua, phủ chúa.
l .
Nhiều công trình, sản phẩm của nghề sơn ta có tính thẩm mỹ cao đã ra đời như
n
khay, tráp, mâm, quả, ống quyển, cơi trầu… những đồ thờ cúng ngày càng được hâm v
37
w
mộ như: hương án, kiệu, cửa võng, hoành phi, câu đối, ngai thờ.v.v. các phường thợ
w
còn toả đi khắp nơi phục vụ cho việc tu tạo, trang trí cho những đình, chùa, đền, miếu
các dòng tộc, các gia đình quyền quý, giàu có ...với nghề sơn ta cổ truyền các nghệ
w
nhân, thợ giỏi đã tạo ra vô vàn những công trình uy nghi, tráng lệ, những pho tượng
thờ rất đặc sắc quý giá tiêu biểu như tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút
Tháp (Bắc Ninh), tượng Tuyết Sơn, La Hán ở chùa Tây Phương (Hà Nội) và có một
.
k
loại tượng rất hiếm thấy ở Việt Nam và thế giới đó là 2 pho “Tượng Táng” ở chùa Đậu
(thôn Gia Phú xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội) tương truyền rằng đây là
h
thể xác của hai vị thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, sau một thời gian dài
ăn chay niệm phật, luyện khí trời, uống nước lá thơm,ăn cánh hoa hồng … cho đến khi
c
viên tịch thì các môn đệ mời thợ sơn ta đến để trát bó lên thể xác của thiền sư được đặt
n
trong tư thế ngồi thiền, sau đó được thiếp bạc, phủ hoàn kim, trở thành những pho
tượng vô cùng độc đáo và quý hiếm mà đến ngày nay chúng ta còn được chiêm
ngưỡng.
m
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, tại Trường Mỹ thuật Đông Dương, qua sự tìm
tòi thí nghiệm của các nghệ nhân (tiêu biểu là nghệ nhân Đinh Văn Thành người làng
Hạ Thái) và các họa sỹ (lúc đó còn là sinh viên): Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí,
t -
Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Khang, Lê Phổ … những sáng tạo mới
b
trong kỹ thuật xử lý chất liệu đã xuất hiện, bổ sung thêm cho bảng màu truyền thống
v
những màu sắc mới, nâng cao hiệu quả biểu đạt của chất liệu sơn. Họ đã đưa chất liệu
sơn chuyên dùng cho việc chế tác các sản phẩm mang tính mỹ nghệ trang trí, trở thành
h
chất liệu của nghệ thuật hội họa, nghệ thuật tạo hình. Sự đột phá mang tính chất cách
tân lớn lao này không chỉ có tác động lớn trong ngành hội họa, mà nó còn tác động trở
lại đối với ngành mỹ nghệ ở trong các làng nghề. Nó đã tạo nên một số biến đổi ở một
t t
số lĩnh vực trong các làng nghề và mở ra cho mỹ thuật Việt Nam một chân trời mới.
d
Đặc biệt xuất hiện tranh sơn mài mỹ nghệ do nghệ nhân, thợ ở làng nghề sáng tạo (sau
này tại các hợp tác xã, Công ty sơn mài, thủ công mỹ nghệ ở các làng nghề có các họa
l .
sĩ sáng tác mẫu). Những bức tranh được thể hiện theo mẫu, sản xuất hàng loạt đáp ứng
n
sở thích của nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều tranh thể hiện kỹ thuật điêu luyện, tâm hồn v tinh tế, bàn tay tài hoa của người làm ra nó. (xem Phụ lục 2)
38
w
b. Tranh sơn mài tạo hình:
w
Tranh sơn mài tạo hình là tranh hội họa độc bản, do họa sĩ sáng tác, dùng các thủ
pháp nghệ thuật thể hiện ngôn ngữ tạo hình, chủ đề tư tưởng tác phẩm, mang phong
w
cách cá nhân nghệ sỹ. Phương pháp sáng tác đa dạng, độc đáo. Giống như thể hiện
tranh sơn mài mỹ nghệ, họa sĩ muốn vẽ tranh cũng phải có tấm vóc có chất lượng (dày
.
từ 0,5 đến hơn 2cm). Trước kia, các sinh viên thường phải tự mình làm lấy những tấm
k
vóc dưới sự chỉ dẫn và giám sát của những nghệ nhân, thợ giỏi. Ngày nay, các sinh
viên và các họa sĩ thường mua sẵn những tấm vóc của người khác làm. Như vậy,
h
không những không nắm vững, hiểu sâu về quá trình, công đoạn làm vóc mà còn dễ
mua phải những tấm vóc do thợ sơn làm ẩu, rút bớt lượng sơn, rút bớt công đoạn làm
c
vóc, thường dẫn tới những hậu quả khôn lường nhất là tranh được mang đến những
nước có khí hậu khô hanh, khắc nghiệt. n Khi có ý đồ, chủ đề của tác phẩm, họa sĩ vẽ phác thảo về hình, về màu trên giấy
m
sau đó mới can hình lên tấm vóc để bước vào quá trình thể hiện bằng chất liệu sơn
mài. Cũng có họa sĩ không có thói quen làm phác thảo trên giấy mà vẽ hình, bố cục
trực tiếp vào tấm vóc với những ý tưởng thể hiện đã hình thành sẵn ở trong đầu.
t -
Phương pháp này đòi hỏi tác giả phải có một quá trình tích luỹ kỹ năng và kinh
b
nghiệm sử dụng chất liệu sơn mài để chủ động "sai khiến" được sơn mài thường được
mệnh danh: "nàng tiên khó tính". Tuy nhiên, những bất ngờ cũng vẫn thường xảy ra,
v
dù nhiều dù ít mà thôi.
Bước thể hiện của sơn mài rất quan trọng, người họa sĩ phải tính toán, hình dung
h
ra cách thức, quy trình thể hiện từng nét vẽ, mảng màu như thế nào để cuối cùng đạt
được hiệu quả mà mình mong muốn. Trong tổng hòa của bức tranh phải khẳng định
t t
được chỗ nào thì dùng chất liệu gì, chỗ nào dùng vỏ trai, vỏ trứng, chỗ nào dùng son,
d
dùng vàng, dùng bạc, chỗ nào thì vẽ dầy, chỗ nào thì vẽ mỏng … Bởi vì trong sơn mài,
muốn có một màu nào đấy, thường ta phải vẽ chồng lên nhau rất nhiều lớp màu, hoặc
rắc vàng, rắc bạc (hoặc thếp) để khi mài ra sẽ đạt được hiểu quả như mong muốn.
l .
Khác với các chất liệu như sơn dầu, bột màu, thuốc nước … khi vẽ là thấy màu sắc,
n
hình thể hiện hữu một cách cụ thể, trực tiếp; còn sơn mài thì phải đợt khi mài ra thì sắc v
39
w
màu, hình thể mới dần dần lộ ra, mới được xác định cụ thể. Thậm chí có người còn ví
w
rằng, những họa sĩ sẽ sơn mài như những phù thủy sử dụng "âm binh" để sai khiến
bởi vì trong suốt thời gian thực hiện tác phẩm (thường thì vài ba tháng có khi đến cả
w
năm) chưa thể biết được thành quả sẽ ra sao. Chỉ những người thực sự nắm vững
được chất liệu mới có thể chủ động được cách sử lý "muôn hình muôn vẻ" của chất
.
liệu, nếu không thì chỉ làm "mò mẫm" mong vào sự may rủi khi bức tranh được mài
k Trong phương pháp đào tạo trước đây, sinh viên chuyên khoa sơn mài thường
ra. Chính vì vậy nên có cái tên có phần hài hước gọi sơn mài là "sơn mò".
h
phải tuân thủ các quy trình rất bài bản, nghiêm ngặt. Trước tiên phải làm phác thảo về
hình vẽ màu để thày giáo nhận xét. Sau khi đã được duyệt, thông qua phác thảo mới
c
bước vào quá trình thể hiện bằng chất liệu sơn mài. Khi bước vào giai đoạn quan trọng
n
này, thày giáo thường bắt học trò phải trình bày dự kiến phương án kỹ thuật thể hiện
cho từng hình thể, mảng màu cụ thể. Sau khi được thày giáo chỉ dẫn, bổ sung thì sinh
m
viên mới bắt đầu thể hiện. Người tài giỏi và tinh thông kỹ thuật là phải biết hình dung,
tính toán từng bước, màu nào phải vẽ trước, màu nào phủ lên sau, khi nào thì thếp
vàng, thếp bạc v.v.Ngay cả độ dày mỏng của các lớp màu, lớp sơn cũng phải cân nhắc,
t -
tính đếm sao cho khi mài phẳng thì màu nào sẽ lộ ra nhiều, màu nào sẽ hiện ra ít.
b
Bao giờ cũng vậy, khi vẽ xong mỗi lớp màu, lớp sơn lại phải ủ ở nơi có đủ điều
v
kiện thích hợp về ôn độ và ẩm độ thì sơn mới khô (buồng ủ thường có ôn độ từ 20 đến 300c và độ ẩm khoảng từ 60 đến 80%). Khi lớp sơn trước, lớp màu trước khô mới
được vẽ hoặc sơn tiếp lớp màu, lớp sơn khác chồng lên. Cuối cùng, theo bài bản cổ
h
truyền, người ta thường phủ lên toàn bộ tấm tranh một lớp sơn son hoặc sơn cánh gián
hoặc sơn then (tùy theo hòa sắc của từng bức tranh) để cho mặt trang được phẳng đều
t t
và khi mài ra cũng sẽ có thêm những hiệu quả về sắc nhị được phong phú, ảo huyền.
d
Khi các lớp màu, lớp sơn đã khô đanh, người ta dùng đá gan gà để mài cho
phẳng, cho các sắc màu, hình thể lộ dần ra. Càng về sau đá mài phải càng mịn, hoặc có
thể dùng than mịn, hoặc giấy ráp cát mịn, nhưng tốt nhất vẫn phải dùng đá mịn thì mặt
l .
tranh mới phẳng, tránh được tình trạng lồi lõm, mất đi tính đặc thù của kỹ thuật sơn
v
n
mài truyền thống.
40
w
Có thể nói rằng, trong quá trình thể hiện tranh sơn mài thì đây là giai đoạn hào
w
hứng, lý thú, hồi hộp và cũng tốn tâm lực nhiều nhất. Như thể có "phép màu", những ý
đồ thể hiện, thiên nhiên, con người, bố cục, hòa sắc … dần dần được hiện ra có khi
w
thành công rất bất ngờ, vượt xa mong đợi nhưng lại có khi rất thất vọng đến chán
chường, rời rã. Đặc điểm này càng cho thấy "nàng tiên khó tính" có sức hấp dẫn kỳ lạ
.
đến nhường nào.
Đối với họa sĩ vẽ tranh sơn mài thì công đoạn mài tranh cũng vẫn là đang vẽ k tranh, thậm chí còn quan trọng hơn cả lúc vẽ rất nhiều. Có những họa sĩ khi mài tranh
h
chưa có kinh nghiệm nên đã không biết dừng lại đúng lúc. Tranh mài ra trông rất đẹp
như họa sĩ nghĩ rằng cứ mài tiếp vì có thể những lớp màu, lớp sơn, lớp vàng bạc ở phía
c
dưới còn đẹp hơn nhiều nên cứ cặm cụi, hăm hở mài tiếp. Cuối cùng chất lượng của
n
bức tranh không còn đẹp được như trước nữa. Thế là một tâm trạng tiếc nuối dâng trào
đến mức khôn tả vì không thể lấy lại được nữa. Cái đẹp đã bị mài mất đi rồi, thành quả
m
và niềm hy vọng bị tiêu tan mà không có cách gì lấy lại được nữa. Bởi vậy, hơn lúc
nào hết, khi họa sĩ mài tranh thì phải hết sức "tỉnh" để biết dừng lại cho đúng lúc, đúng
chỗ. Chỗ nào cần đẩy thêm, chỗ nào phải dừng lại. Chính vì vậy nên các họa sĩ sơn
t -
mài vừa phải dùng kiến thức, tài năng lại phải dùng cơ bắp như một người thợ. Không
b
thể nhờ người khác mài hộ mình được, mặc dù khi mài là vô cùng vất vả nhất là đối
với các họa sĩ đã cao tuổi, già yếu.
v
Sau khi hoàn thành công đoạn mài tranh là đến công đoạn đánh bóng, tạo cho
mặt tranh có độ nhẵn bóng như loáng nước, đồng thời các họa tiết, sắc màu càng được
h
bộc lộ đầy đủ, lung linh, sâu thẳm. Theo kỹ thuật truyền thống, người ta thường dùng
bông hoặc tóc rối thấm ướt nước rồi chấm với bột than xoan nhỏ mịn mà xoa lên mặt
t t
tranh (trong nghề gọi là nùn than), sau khoảng độ một giờ hoặc có thể lâu hơn nếu là
d
tranh to, rồi lau sạch lớp than đi và lấy lòng bàn tay xoa thêm càng lâu càng làm cho
độ bóng của mặt tranh càng hấp dẫn và hoa tiết, sắc màu càng thêm óng ả, thẳm sâu
mà các chất liệu khác không thể tạo được vẻ đẹp đầy quyến rũ, hư ảo này.
l .
v có thể dùng sơn, dùng màu để điều chỉnh những chỗ nào cần thiết, có thể nhấn nhá
n
Khi tranh đã được đánh bóng tốt thì tiếp công đoạn điều chỉnh sau cùng, họa sĩ
41
w
thêm những chi tiết trong tranh nhưng các lớp sơn, lớp màu này phải rất mỏng để
w
không bị ảnh hưởng đến mặt phẳng của bức tranh. Họa sĩ có thể dùng vàng quỳ, bạc
quỳ để nảy thêm những nét, những mảnh ánh sáng, trời mây nhưng phải cân nhắc rất
w
kỹ lưỡng nếu không sẽ bị phản tác dụng. Có họa sĩ khi có bức tranh đạt hiệu quả tốt rồi
nhưng có sẵn vàng quỳ nên muốn nhấn nhá, "đẩy" thêm những nét vàng, mảng vàng,
.
hy vọng sẽ tạo cho bức tranh được nổi hơn, lộng lẫy hơn nên đã thếp vàng, rắc vàng
k
vào chỗ này, chỗ kia rất kỳ công và tốn kém, nhưng kết quả chất lượng của bức tranh
không những không được đẹp lên mà còn bị mất vẻ tổng thể, nhìn nét vàng, mảng
h
vàng tranh chấp nhau làm cho độ đậm nhạt, sáng tối bị "loạn" lên và đành phải tẩy hết
c
cả những nét, những mảng vàng đã kỳ công, tốn kém vừa thêm vào. Tranh đẹp mà mài
không biết dừng đúng lúc, đúng độ thì cũng uổng phí, bởi vì khi mài còn quan trọng
n
hơn cả lúc vẽ; vàng bạc quý nhưng lạm dụng, không đắc địa thì cũng kém hiệu quả đi.
Khi đã điều chỉnh thêm về độ đậm nhạt và hòa sắc của tranh, người ta có thể xoa
m
thêm một lớp xi bóng, hoặc có thể dùng loại sơn cánh gián hảo hạng được pha loãng
với dầu hỏa để quét một lớp mỏng lên mặt tranh (thường gọi là toát cánh gián). Thật
ra, tốt nhất vẫn là tranh khi mài xong đã đạt được hiệu quả như mong muốn, nó
t -
nhuyễn và bền đẹp được lâu dài. Vẽ thêm lên sau thường dễ bị chối, ngắm nhìn
b
không thật sướng mắt, màu sắc vẽ thêm dễ bị bay, dễ bị biến sắc nếu để qua một thời
gian dài. Cách xoa thêm xi cũng không nên lạm dụng, cái bóng bảy do công đoạn
v
nùn than và xoa tay là quan trọng hơn cả.
h
Trong quá trình thực hiện tác phẩm, người họa sĩ từ lúc đặt nét bút đầu tiên cho
đến khi mài ra, quá trình này diễn ra trong trạng huống luôn luôn "bí ẩn". Vì vậy người
họa sĩ càng bị cuốn hút, say mê đến mức "quên ăn quên ngủ", thậm chí nhiều phen
t t
d
đang đêm cũng phải bật dậy để xem cái mảng hình, mảng mầu mới vẽ có chịu khô
hoặc biến sắc, "dở chứng" gì không!.
Trên đây chỉ là khái quát quá trình thể hiện một bức tranh sơn mài theo "bài bản"
l .
thường làm. Tuy nhiên, hiện nay nhiều họa sĩ, nghệ nhân còn sáng tạo ra muôn vàn
n
phương pháp biểu hiện khác nhau, kể cả cách vẽ nét, cách bôi màu, cách mài, cách v
42
w
đánh bóng … Các dụng cụ, đồ nghề, phương tiện làm sơn, vẽ sơn cũng không còn quá
w
câu nệ vào các loại dụng cu, đồ nghề truyền thống như: bay xương, mo sừng, bút lông
mèo, thép lông, thép tóc … như trước đây. Vì vậy cũng không nên áp đặt một cách
w
máy móc là phải làm như thế này, làm như thế kia trong sự phát triển thiên biến vạn
hóa của kỹ thuật và nghệ thuật sơn mài, miễn sao đạt được hiệu quả cao nhất, tốt nhất
.
theo những ý đồ nghệ thuật của tác giả. Điều quan trọng nhất là làm sao vẫn giữ được
k
những thế mạnh độc đáo, những đặc thù quý giá của chất liệu như: màu sắc, hình thể
phải ẩn hiện tầng tầng lớp lớp, tạo ra những sắc thái lung linh, kỳ ảo, càng ngắm càng
h
sướng mắt, càng xem lâu càng phát hiện ra nhiều điều kỳ thú như thực, như mơ. Cái
độc đáo nữa cũng không nên xem nhẹ là hết thảy đều hiện lên trên một mặt phẳng của
c
tấm tranh bóng bảy, phẳng phiu, nhẵn kỳ như loáng nước càng nhiều càng thấy sâu
n
thăm thẳm, mà không một chất liệu nào bắt chước nổi. Và, điều quan trọng hơn hết
vẫn là tác phẩm phải đạt được một chất lượng cao cả về nội dung lẫn nghệ thuật, nếu
m
không, chỉ là một sự phô diễn kỹ thuật, lạm dụng sự độc đáo, quý hiếm của chất liệu
sơn mài, để làm "vui mắt" một cách tầm thường, chẳng đọng lại trong lòng người xem
những suy cảm sâu sắc.
t -
Do đặc tính của chất nhựa sơn ta, một hợp chất thiên nhiên có những tính năng
b
rất phức tạp, đặc biệt, không giống bất cứ một loại họa phẩm nào khác. Nó lại còn ở
trong trạng thái tự nhiên xưa này còn ít được nghiên cứu đến, cho nên những vấp váp,
v
những sự cố bất ngờ rất khó lý giải vẫn thường diễn ra trong quá trình "xử lý" chất liệu.
Với đặc tính gây viêm của sơn ta, thường gọi là bị sơn ăn hay lở sơn, gây mẩn
h
ngứa, sưng tấy mặt mũi chân tay, thậm chí một số người có độ cảm ứng mạnh với chất
sơn đành phải bỏ nghề, ngoài ra còn có những sự cố bất ngờ thường thấy như sau:
t t
Thông thường khi ta vẽ xong một lớp sơn, lớp màu thì phải đưa tranh vào "buồng
d
ủ", qua một đêm cho mặt sơn khô thì mới vẽ thêm lớp sơn, lớp màu khác lên trên.
Buồng ủ là một nơi được quây kín xung quanh, có những tấm vải hoặc chiếu được
thấm ướt nước để tạo điều kiện cho sơn khô. Cho nên nhiều người nói vui là: "cứ đến
l .
xưởng vẽ hay cơ sở vẽ tranh sơn mài mà thấy sạch sẽ khô ráo thì chắc chắn không phải
n
nơi làm sơn mài, họa sĩ chắc chắn là thuê vẽ ở chỗ khác, mình chỉ cần cái danh…". v
43
w
Tuy nhiên có những khi tranh đã "ủ" hàng tuần lễ, thậm chí lâu hơn nữa mà mặt sơn cứ
w
dấp dính không chịu khô đó là khi pha sơn với một số loại phẩm và một số màu chưa
qua thể nghiệm. Trường hợp này cũng xảy ra khi ta vẽ trong những ngày đông rét và
w
gió hanh mà phòng vẽ lại không kín gió nên còn gọi là sơn bị "bắt hanh". Cũng có thể
giữa mùa hè nóng bức mà lại có gió tây (gió Lào) thì sơn cũng khó khô hoặc không
chịu khô. Những trường hợp này thường phải cạo bỏ lớp sơn, lớp màu đã vẽ đi mà làm
.
k
lại. Ngược lại, cũng có khi ta đưa tranh vào buồng ủ, sáng hôm sau thấy mặt sơn khô
nhanh quá đến mức mặt sơn dăn dúm lại, sẽ rất tác hại nếu sự dăn dúm này lại ở vào
h
hình thể, mặt mũi của những nhân vật trong tranh. Trường hợp này cũng đành phải cao
c
đi mà làm lại. Tuy vậy có thể lợi dụng sự dăn dúm này (một phản ứng của sơn ta) để
n
tạo chất, tạo màu ở những chỗ thích hợp bằng cách quét màu sơn hơi dầy rồi cho vào buồng ủ có độ ẩm cao (nhiều hơi nước), nhiệt độ trong buồng ủ cao (từ 40 đến 500c)
khi mặt sơn đã se thì mang ra vẩy ít xăng vào, tạo một phản ứng và hạ nhiệt đột ngột,
làm cho mặt sơn dăn dúm rất đắc địa và lạ mắt cho những ý đồ diễn tả nào đấy như
m
gốc cây, lá cây v.v. Cũng có khi sau đêm ủ tranh, có những mảng màu, mảng sơn bị
xám xịt lại, không còn độ bóng của chất sơn nữa, trường hợp này thường gọi là sơn bị
chấp nước hoặc ám nước …
t -
Những sự cố bất ngờ có thể làm hỏng tranh nhưng có thể lại tạo ra sự ngẫu nhiên
b
không lặp lại. Người họa sĩ xử lý tình huống bằng kinh nghiệm, sự sáng tạo và bản
v
lĩnh nghề nghiệp.
Sơn mài Việt Nam đã giúp tạo dựng cho mỹ thuật Việt Nam có một vị trí trong
h
khu vực và thế giới. Như danh họa Tô Ngọc Vân đã tiên đoán: "Thể chất lộng lẫy của
sơn mài làm cho nghệ sỹ khao khát đi tìm một chất liệu mơi ngon mắt và xúc động
mạnh hơn sơn dầu. Thể chất cánh gián, sơn then, vàng, bạc ở sơn mài linh biến, sinh
t t
động không còn là thể chất không hồn nữa. Màu sắc sơn mài đằm thắm, sắc nhị âm
d
vang sâu rộng, rung tới tận đáy lòng người xem … Sơn mài được luyện trong tay
người Việt Nam sẽ như một kỷ niệm của những người chiến đấu cho Tự do - Hòa bình
l .
trao sang tay các nghệ sỹ trong thế giới, góp một phần vào xây dựng một nền nghệ
n
thuật mới cho nhân loại …" (Phát biểu tại Đại hội Văn hóa toàn quốc 19/7/1948). [66, v tr 12]
44
w
1.2. Vai trò của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương với tranh sơn mài
w
1.2.1. Lịch sử ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Nghề sơn đã có và phát triển rực rỡ từ lâu đời ở nhiều nước như Trung Quốc, Ấn
w
Độ, Nhật Bản ... Nhưng sáng tạo và sử dụng chất liệu này trở thành chất liệu, phương
tiện ngôn ngữ sáng tạo của mỹ thuật tạo hình nói chung va hội hoạ nói riêng thì Việt
.
Nam lại là nước đầu tiên. Để có được sự đột phá này chúng ta không thể không nhắc
k
tới sự ra đời và vai trò vị trí rất quan trọng của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương (được thành lập tại Hà Nội vào tháng 10 năm 1925) đối với mỹ thuật, tranh sơn
h
mài Việt Nam.
Phải nói rằng trước khi có Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương thì nền mỹ
c
thuật truyền thống của Việt Nam cũng đã có những thành tựu rất quan trọng và đáng tự
n
hào. Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử và điều kiện khí hậu khắc nghiệt nên nhiều
công trình mỹ thuật, kiến trúc đã bị hủy hoại. Tuy nhiên, những di sản còn lại qua các
m
cung điện, lăng tẩm, đình, chùa qua các trống đồng, các công trình chạm khắc trên đá,
trên gỗ, tượng thờ … Những họa tiết trên đất nung, đồ gốm và các loại tranh thờ, tranh
dân gian Đông Hồ, Kim Hoàng, Hàng Trống … cũng đủ cho thấy sự sáng tạo của ông
t -
cha ta xưa kia đã có một trình độ, một di sản vô cùng quý giá và rất đáng tự hào.
b
Đơn cử như những họa tiết trên trống đồng Ngọc Lũ (thuộc Lý Nhân, tỉnh Hà
Nam), trống đồng Đông Sơn (Thanh Hóa) có niên đại trên dưới 3000 năm mà đã có
v
những hình khắc, những họa tiết tinh xảo, mang tính tượng trưng, cách điệu rất cao và
nghệ thuật đồ họa rất điêu luyện, tài giỏi, phản ánh sinh động nhiều nét sinh hoạt trong
h
cuộc sống cộng đồng thời bấy giờ.
Mặt khác, những nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam cũng rất
t t
phong phú với những làng nghề, phường nghề ở khắp nơi trong cả nước như: nghề đúc
d
đồng, chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, nghề sơn, khảm trai, nghề thêu, nghề gốm, nghề
làm tranh thờ, tranh dân gian v.v. mà nhiều học giả, nghệ sĩ người Pháp khi đặt chân
tới đất này cũng đều thán phục, kính nể về trình độ và truyền thống nghệ thuật lâu đời
l .
của Việt Nam, Trong thời gian Paul Doumer làm Toàn quyền Đông Dương (1897-
n
1902) cũng đã từng nhấn mạnh: "Muốn cai trị tốt các dân tộc thuộc địa thì điều trước v
45
w
tiên là phải hiểu tường tận dân tộc đó như thế nào…". Người Pháp cũng phải tỏ thái độ
w
cẩn trọng đối với tài năng của người bản xứ, đối với nền văn hóa lâu đời và giàu bản
sắc độc đáo của xứ sở thuộc địa này.
w
Tại Đấu xảo quốc tế lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội (tháng 11 năm 1902)
có nhiều nước tham gia như: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Madagascar, Somali,
.
Tunisie v.v. Những tác phẩm, sản phẩm mỹ thuật truyền thống của Việt Nam đã được
k Truyền thống và tiềm năng văn hóa - nghệ thuật của Việt Nam càng thúc đẩy
đánh giá cao, được tôn vinh và nể trọng.
h
nhiều tổ chức ra đời. Những hoạt động tích cực của Hội Ái hữu Mỹ thuật Pháp - Việt
(L'Amicale artistique Franco - Annamite) bằng nhiều cuộc triển lãm nghệ thuật Việt
c
Nam. Sự thành lập Trường Viễn đông Bác cổ cùng khá nhiều học giả nước ngoài đã
n
đến Việt Nam để tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật … Nhiều văn
nghệ sĩ tiến bộ của Pháp đã có mặt ở Việt Nam với thái độ hợp tác, tôn trọng văn hóa -
m
nghệ thuật của Việt Nam mà đáng chú ý là họa sĩ Victor Tardieu. Ông là người đã
được giải thưởng Đông Dương của Chính phủ Pháp (1920) và đến năm 1921 ông đến
Hà Nội để vừa tìm hiểu về nền nghệ thuật bản địa vừa thâm nhập thực tế để sáng tác
t -
với một tấm lòng cảm phục, yêu mến sức sáng tạo, năng khiếu nghệ thuật của người
b
Việt Nam. Điều này đã nảy sinh và thôi thúc họa sĩ Victor Tardieu kiến nghị với chính
phủ Pháp cho thành lập ở Đông Dương một trường Mỹ thuật, nhằm bồi dưỡng, đào tạo
v
và khai thác những tài năng nghệ thuật tiềm ẩn ở xứ sở phương Đông này.
Những đề xuất hết sức xác đáng và thiện ý của Victor Tardieu đã được Chính
h
phủ Pháp chấp thuận và họa sĩ Nam Sơn đã được cử sang tu nghiệp tại Trường Cao
đẳng Mỹ thuật quốc gia và Trường Nghệ thuật Trang trí quốc gia của Pháp ở Paris để
về làm phụ tá (Moniteur) cho Ban giám hiệu Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
t t
d
đồng thời là "cầu nối" giữa các giảng viên người Pháp với các sinh viên mỹ thuật của
Việt Nam.
Tháng 10 năm 1925, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (L'école
l .
supéruieure des Beaux - Arts de L' Indochinoise) được chính thức ra đời do họa sĩ
n
Victor Tardieu trực tiếp làm hiệu trưởng - Họa sĩ Nguyễn Nam Sơn cũng được xác v
46
w
nhận là một trong 2 người sáng lập ra Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Đây
w
được xem như một sự kiện mở đầu cho nền mỹ thuật Việt Nam từ truyền thống tiến tới
hiện đại, khởi đầu cho công cuộc xây dựng một nền mỹ thuật mang tính bác học,
w
chuyên nghiệp mà vẫn giữ được bản sắc lâu đời của nền mỹ thuật truyền thống của
Việt Nam. Trường Mỹ thuật Đông Dương đào tạo các chuyên khoa về hội họa, về điêu
khắc, về nghệ thuật trang trí, khoa kiến trúc cùng nằm trong phạm vi đào tạo của nhà
.
k Các sinh viên mỹ thuật của Việt Nam nói riêng và cả Đông Dương nói chung lần
trường.
h
đầu tiên được tiếp thu ảnh hưởng của Chủ nghĩa Cổ điển, một chủ nghĩa đã từng soi
sáng về tâm hồn, trí tuệ và tài năng cho các văn nghệ sĩ của Pháp trong nhiều thế kỷ.
c
Lần đầu tiên các sinh viên mỹ thuật được học tập và tiếp thu một cách rất bài bản,
mang tính hàn lâm, kinh điển trong các môn vẽ hình họa, trang trí, đạc biểu kiến trúc,
n
định luật xa gần, giải phẫu nghệ thuật v.v. đồng thời thường xuyên có những bài học
nghiên cứu, ghi chép một cách kỹ lưỡng những cấu trúc, hình thể trong vốn mỹ thuật
m
truyền thống của Việt Nam như nghệ thuật chạm khắc ở các đình chùa, các họa tiết,
hoa văn ở bia đá, cách tạo hình và màu sắc ở tranh thờ, tranh dân gian v.v.Chủ trương
và phương pháp đào tạo này rất đúng đắn, giúp cho các sinh viên vừa tiếp thu được
t -
những kiến thức, kỹ năng mới mẻ của thời đại đồng thời vẫn không bị xa rời truyền
b
thống và bản sắc lâu đời của mỹ thuật Việt Nam. Lần đầu tiên các sinh viên mỹ thuật
được học tập rất bài bản về kỹ thuật, phương pháp vẽ tranh sơn dầu, một chất liệu đã
v
ra đời và phát triển qua nhiều thế kỷ ở các nước phương Tây, đồng thời họ cũng được
khuyến khích học tập và sáng tạo qua những chất liệu quen thuộc của phương Đông
h
như vẽ tranh lụa, làm tranh khắc gỗ v.v.
Phương hướng đào tạo của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã được họa sĩ, hiệu
t t
trưởng Victor Tardieu vạch ra rất cụ thể như sau: "… Phải giúp đỡ các nghệ sĩ và nghệ
d
nhân An Nam tìm lại được ý nghĩa sâu xa, nguồn cảm hứng cơ bản từ chính truyền
thống của họ, và muốn vậy phải đặt ra trước mắt học sinh một số tối đa hình mẫu
l .
nghệ thuật An Nam cổ. Tuy nhiên, sự quay về quá khứ này chỉ có thể trở nên có nhiều
n
hiệu quả nếu nó được dùng làm điểm xuất phát cho những tìm kiếm mới, cho một diễn v
47
w
biến phù hợp với những đòi hỏi của thực tại. Tóm lại, đó là thực hiện một diễn biến
w
hiện đại trong sự kéo dài một nghệ thuật truyền thống …".
Thật là một phương hướng, mục đích đào tạo rất đúng đắn và tiến bộ mà nếu so
w
với phương châm "Tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" đối với văn hóa - văn nghệ của
chúng ta hôm nay thì không có gì khác nhau về bản chất và tiêu chí. Phải chăng đó
.
cũng là một "diễm phúc" cho nền mỹ thuật của chúng ta có sự phát triển rực rỡ trong
những thập kỷ tiếp theo. k Thêm một dẫn chứng sinh động nữa, trên tờ Đông Tây nhật báo, khi trả lời phỏng
h
vấn của chủ bút Hoàng Tích Chù, họa sĩ Victor Tardieu còn nhận xét như sau: "… Nếu
cần phải có tính chất riêng của người An Nam thì mỹ thuật An Nam càng phải có tinh
c
thần riêng về mỹ thuật An Nam. Người An Nam, tôi xét ra, bắt chước (chứ không học)
n
mỹ thuật của người Tàu … Nhưng mỹ thuật của Tàu trải qua bao nhiêu lâu mà không
thấy nhúc nhích được một bước nào thì sao mỹ thuật có tính cách thuộc về khoa học
m
ngày nay được ! Người Tàu hẳn là chịu phần thua kém. Người An Nam không thể theo
chân trên vết cũ ấy … Cũng như văn chương, như luân lý, như chính trị … mỹ thuật
phải theo thời mà đổi mới, nghĩa là phải tập có tính cách khoa học …".
t -
Trên cơ sở những ý tưởng và mục đích đầy thiện chí và tiến bộ của Họa sĩ - Hiệu
b
trưởng Victor Tardieu nên Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã đào tạo được
một đội ngũ họa sĩ, nhà điêu khắc rất tài năng, xứng đáng là bước khởi đầu rực rỡ, tạo
v
nên một cấp độ mới đầy kiêu hãnh của mỹ thuật Việt Nam, sánh cùng các nền mỹ
thuật tiên tiến của thế giới. Mặc dầu trong quá trình này, Victor Tardieu cũng phải trải
h
qua không ít khó khăn, trở ngại bởi chính quyền thuộc địa, thậm chí nhiều phen
Trường còn bị đe dọa phải đóng cửa vì những lý do "chính trị" hoặc "kinh tế" v.v.
t t
Đến đây, chúng ta thấy có sự tương đồng với mục tiêu đào tạo tại các trường mỹ
d
thuật, hiện nay có đường lối và phương pháp đào tạo nhằm mục tiêu "tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc" theo mục tiêu văn hóa của Đảng. Chúng ta thật tự hào thế hệ họa sĩ,
nhà điêu khắc lớp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương có những tác phẩm vào loại đỉnh
l .
cao của mỹ thuật Việt Nam. Giải thưởng Hồ Chí Minh (Giải thưởng Nhà nước) được
n
trao cho nhiều nghệ sĩ do Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đào tạo, sự kế thừa v
48
w
là rất cần thiết. Trong chương trình giảng dạy của các trường mỹ thuật hiện nay những
w
buổi học về vốn cổ dân tộc, các sinh viên đi nghiên cứu, ghi chép những họa tiết,
những mẫu đạc biểu kiến trúc, những bản dập bia … luôn được chú trọng. Tuy vậy
w
vẫn còn một số sinh viên mỹ thuật chạy theo những phong cách, xu hướng nghệ thuật
rất xa lạ với thị hiếu thẩm mỹ và bản sắc dân tộc, sao nhãng cả việc đi thực tế, ký họa
.
trực quan, ghi chép tài liệu để phục vụ cho sáng tác. Có người còn dùng máy ảnh,
k
camera để thay thế hầu hết cho việc vẽ ký họa đầy rung cảm trước cuộc sống, con
người! Học tập và phát huy công nghệ mới, tinh hoa nghệ thuật hiện đại là đáng
h
khuyến khích nhưng sự "chạy theo đuôi" bắt chước thiên hạ, ngoại lai sống sượng,
thiếu chọn lọc là thực tế đáng báo động! Kế thừa phát huy tinh hoa của truyền thống,
c
chúng ta hy vọng trong tương lai, mỹ thuật có những gương mặt sáng giá như tấm
n
gương của Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Nguyễn Khang, Nguyễn Tư
Nghiêm …những nghệ sỹ sơn mài được đào tạo tại trường CĐMTĐD.
m
Phương pháp đào tạo về chuyên khoa sơn mài cho các sinh viên tại Trường
CĐMTĐD rất đáng học tập. Mỗi sinh viên chuyên khoa sơn mài phải nắm chắc, hiểu
sâu về chất liệu, am tường về cách thức sử dụng chất liệu, đó là bài học quý cần kế
t -
thừa phát huy! Nếu sinh viên khoa sơn mài lại "mù mờ" về chất liệu, không biết chế
b
biến sơn, không biết làm vóc, không điều khiển được chất sơn thì không trở thành
họa sĩ sơn mài được.
v
1.2.2. Vị trí của chuyên ngành sơn ta tại Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
Một sự kiện nữa hết sức quan trọng của sự ra đời kỹ thuật và chất liệu sơn mài,
h
hội họa sơn mài là việc thành lập Xưởng nghiên cứu kỹ thuật sơn ta (lúc ấy chưa có
tên gọi sơn mài) của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Từ một nghề sơn ta cổ
t t
truyền, chỉ giới hạn trong lĩnh vực trang trí, làm đồ thờ cúng, làm đồ mỹ nghệ đã thoát
d
hình và "thăng hoa" để trở thành một chất liệu, một kỹ thuật sử dụng có một không hai,
bước vào lĩnh vực nghệ thuật tạo hình, bước vào thế giới của hội họa.
Với những kiến thức và kỹ năng mới được học tập, cộng với sự nhiệt tâm, hứng
l .
khởi vươn tới những thành công và lòng tự hào dân tộc, các sinh viên mỹ thuật của
n
Việt Nam hồi đó như: Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Nguyễn v
49
w
Khang, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Tường Lân, Phạm Hậu, Phạm Đức Cường … cùng
w
với sự cộng tác của nghệ nhân nổi tiếng trong nghề sơn ta là Đinh Văn Thành (tức
Thiềng - quê Thường Tín, Hà Nội), họ đã lao vào tìm tòi, nghiên cứu, khám phá, sáng
w
tạo. cùng với những màu sắc và chất liệu như: vàng, bạc, sơn then, sơn son … của
nghề sơn ta truyền thống. Vẫn chất liệu cổ xưa ấy nhưng trong tay các nghệ sĩ có học
.
vấn và tài năng đã linh biến một cách tài tình. Hơn thế nữa, chất sơn ta pha với dầu
k
trẩu trước đó được gọi là sơn quang dầu chỉ dùng để sơn và phủ cho bóng như một thứ
"véc ni" thì nay sơn ta đã được pha chế với nhựa thông (được gọi là sơn nhựa) để trở
h
thành loại sơn mới là sơn cánh gián (tỷ lệ và liều lượng nhựa thông pha trong sơn cánh
gián thường vào khoảng 1/5, tức là cứ 1kg sơn ta thì pha thêm 200g nhựa thông). Cũng
c
xin lưu ý, sự ra đời của sơn cánh gián là một yếu tố hết sức quan trọng của sự đột phá
n
về kỹ thuật, chất liệu và kỹ năng sử dụng trong bước nhảy vọt vô cùng ngoạn mục từ
nghề sơn ta cổ truyền sang chất liệu sơn mài ngày một được tìm tòi, khám phá, sáng
m
tạo cho đến ngày hôm nay vẫn chưa kết thúc.
Sơn cánh gián có độ đặc sánh, có thể pha với các màu son, có thể phủ lên vàng,
bạc. Chất nhựa thông pha trong sơn làm cho lớp sơn được "dày mình" có "thịt" làm
t -
cho sơn chậm khô hơn, tỏa đều, đỡ bị dăn khi khô, đồng thời giảm được độ sẫm của
b
sơn nên màu pha vào được tươi tắn hơn, đỡ bị "chết", khi mài, đánh bóng cũng được
thuận tiện. Với cách vẽ nhiều lớp, phủ nhiều lớp sơn, nhiều lớp màu khác nhau, có thể
v
gắn thêm vở trai, vỏ trúng, vỏ ốc, xà cừ … sau đó dùng đá, than để mài thì các hình thể,
sắc màu cứ lộ dần ra, tạo nên một hiệu quả rất bất ngờ, những hòa sắc ảo huyền, sâu
h
thẳm, tầng tầng lớp lớp, gợi lên những xúc cảm thẩm mĩ mà khó có chất liệu nào tạo
nên được hiệu quả như thế. Và từ đó đã ra đời khái niệm và tên gọi sơn mài (Laque
t t
poncée) để khỏi lẫn với loại làm sơn cổ truyền đã được gọi là sơn ta và sơn quang dầu.
d
Sơn đen (sơn then) trước đây cũng được pha thêm nhựa thông (không pha dầu
trẩu) để tạo chất sơn khi khô có thể mài được nhưng lượng nhựa thông phải ít hơn so
l .
với pha vào sơn cánh gián bởi vì trong sơn then có oxit sắt đã làm cho sơn chậm khô rồi.
n
Từ những màu sơn then đằm thắm, những màu son trai, son tươi, son thắm, son v nhì ấm áp, tưng bừng; những ánh sắc của vàng, của bạc lộng lẫy, óng ả; những vỏ trai,
50
w
vỏ trứng biến hóa tài tình cộng với sự sâu trầm, kín đáo, lung linh của chất sơn cánh
w
gián … các họa sĩ còn rây vàng, rây bạc cho nhỏ ra để rắc vào sơn, vào màu tạo cho
việc diễn tả sáng tối, đậm nhạt được uyển chuyển, sinh động. Chất liệu và kỹ năng sơn
w
mài ngay từ thuở ban đầu cũng đã giúp cho họa sĩ xây dựng những tác phẩm mỹ thuật
có đề tài, nhân vật, bối cảnh … thể hiện ngôn ngữ nghệ thuật, tâm tư, tình cảm của các
.
nghệ sĩ tạo hình. Nói một cách khác là chất liệu sơn mài đã thực sự thoát mình từ sơn
k
ta truyền thống trở thành sơn mài hiện đại, đánh dấu một kỷ nguyên về một chất liệu
mới, phương tiện diễn tả mới, mang tính đặc thù của dân tộc bước vào lĩnh vực hội
h
họa của thời đại, tạo nên một diện mạo mới đầy triển vọng cho nền mỹ thuật Việt Nam.
c
1.2.3. Thành tựu ban đầu
Những tác phẩm tranh sơn mài thành công ở buổi ban đầu ấy phải kể đến: Tác
n
phẩm "Bên bờ ao" (1934) của Trần Quang Trân (tức Ngym), "Phong cảnh Bắc Kỳ"
(1930) của Lê Phổ, "Ghềnh thác Chợ Bờ" một bức tranh hoành tráng gồm nhiều tấm
m
ghép lại, sáng tác tập thể của nhóm sinh viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương,
tác phẩm "Chùa Thầy" (1940) của Nguyễn Gia Trí, "Hội chùa" (1939) của Lê Quốc
Lộc và Nguyễn Văn Quế, "Gió mùa hạ" (1940) của Phạm Hậu, "Thiếu nữ bên biển"
t -
(1940) của Nguyễn Văn Tỵ, "Đánh cá đêm trăng" (1943) của Nguyễn Khang v.v.
b
Những sáng tạo và thành công của "buổi bình minh" đáng nhớ ấy đã đi vào
lịch sử, là mốc son quan trọng của "Nghệ thuật hội họa sơn mài Việt Nam". Họ đã
v
biến cái "tĩnh" nghìn đời của nghề sơn ta trong phạm vị trang trí trở thành cái
h
"động" trong sáng tác hội họa, để chuyển tải những nội dung, những tình cảm của
người nghệ sĩ, làm rung động lòng người qua hòa sắc, hình thể, đường nét … vô
cùng kỳ thú mà chưa hề thấy ở bất cứ một chất liệu nào.
t t
Hồi ký của họa sĩ Nguyễn Khang có đoạn viết: "Có một việc tôi rất tự hào nhưng
d
chưa được trình bày, năm 1932, khi tôi còn đang học năm thứ 2 Trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương, tôi đã là người có nhiều công sức nghiên cứu, tìm tòi và đã thành
l .
công trong việc mở hướng cho sơn mài … Cụ thể là đã mày mò, nghiên cứu, thể
n
nghiệm bằng đem rây nhỏ vàng, bạc để rắc vào sơn mài, phủ kín rồi lại mài ra, tạo nên v được đậm nhạt, sáng tối, lộng lẫy, sâu thẳm. Cũng từ đó đã mở đường cho các sự tiếp
51
w
tục tìm tòi đến những kết quả ngày nay. Việc này nhiều anh em cùng trường, cùng thời
w
như: Trần Văn Cẩn, Lê Yên, Lê Văn Ngoạn, Trần Văn Hà, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn
Gia Trí … đều biết. Năm 1937, ở Triển lãm quốc tế Mỹ thuật, và kỹ thuật ở Paris, các
w
tác phẩm sơn mài của tôi đã nhận được "Phần thưởng danh dự" (Prix d' honneur) và
tôi đã được mời vào Ban giám khảo quốc tế ở Chicago nhưng tôi không đi. Giải
này là giải cao nhất dành cho cá nhân ở một cuộc triển lãm như vậy. Ông Lê Phổ và
.
k
ông Nam Sơn được huy chương vàng và huy chương đồng. Cũng sơn mài của tôi đã
được bằng ngoại hạng ở Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1939. Được phần
h
thưởng danh dự ở Triển lãm duy nhất (Salon unique) năm 1944…".
Cũng trong cuộc Triển lãm Quốc tế Paris năm 1937 (còn gọi là đấu xảo - lần đầu
c
tiên đồ sơn Việt Nam được trưng bừng, giới thiệu ở nước ngoài) mà họa sĩ Nguyễn
n
Khang đã nhắc tới, còn có nghệ nhân nổi tiếng trong nghề sơn ta là Đinh Văn Thành
tham dự để thao tác, trình diễn những công đoạn kỹ thuật rất độc đáo của nghề sơn ta
truyền thống. Hình ảnh nghệ nhân Đinh Văn Thành để răng đen, đội khăn xếp, mặc áo
m
the thâm bên cạnh họa sĩ Nguyễn Khang với trang phục hiện đại của gian trưng bày
dường như là một biểu tượng lý thú của chất liệu sơn ta truyền thống đã thoát hình
thành nghệ thuật sơn mài hiện đại, gây được sự chú ý, ngỡ ngàng và khâm phục cho
t -
công chúng Paris, cái nôi và là trung tâm của văn minh, văn hóa - nghệ thuật của Châu
b
Âu và Thế giới.
v
Giai đoạn này, ở trong nước cũng đã được tổ chức nhiều cuộc triển lãm về tranh
sơn mài. Đáng chú ý là các cuộc triển lãm sau đây:
h
- Triển lãm cá nhân đầu tiên của Nguyễn Gia Trí, công bố những tác phẩm sơn
mài sau nhiều năm tìm tòi, thể nghiệm và sáng tạo với phong cách "hiện thực nên thơ"
(1939).
t t
- Triển lãm về tranh sơn mài do Hiệp hội các nghệ sĩ Đông Dương tổ chức tại
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương 42 phố Yết Kiêu - Hà Nội (1940). d
- Triển lãm tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí cùng Phạm Hậu và Triển lãm của
l .
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cũng tại Nhà Thông tin 45 phố Tràng Tiền,
v
n
Hà Nội (1944) v.v.
52
w
Những thành quả tưng bừng, đầy bất ngờ và kỳ vọng của chất liệu và nghệ
w
thuật sơn mài trong giai đoạn mở đầu này đã gây tiếng vang lớn trong dư luận:
- Trên báo Thanh Nghị (số 45 năm 1943), họa sĩ Tô Ngọc Vân đã ca ngợi rằng:
w
"Từ ngày có Trường Mỹ thuật Đông Dương, các nghệ sĩ Việt Nam, nghệ sĩ sơn ta đã
biến hình, thoát ra ngoài phạm vi cổ sơ của nó. Người ta vẽ chồng lên chúng một lần
.
hay năm lần, bảy lần rồi mài đi mài lại. Do đó mà lộ ra những màu sắc mới mẻ, quý
k
giá chưa từng, hợp lên những điệu nhạc màu, gây ở ta những mỹ cảm thấm thía. Từ
đấy, với một tính cách đặc biệt, một nét mặt tráng lệ, sơn ta đã phân tách hẳn với sơn
Tàu, sơn Nhật mà nó cùng một gốc …". h - Cũng trên báo Thanh Nghị (số 77 năm 1944), tác giả Tô Tử cũng nhận xét: "Lối
c
vẽ bằng sơn ta (laque) đã được các họa sĩ Việt Nam nâng cao giá trị từ lối tô điểm chất
n
phác của những thợ làm đồ sơn lên hẳn một nghệ thuật hội họa … có phải vì những nét
vàng son bóng loáng ấp ủ một cái gì có tính cách Á Đông làm rung động trong ký ức
m
những bóng dáng quen thuộc và thân yêu …".
- Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung (cùng trên báo Thanh Nghị) sau khi đã phân tích rất
tinh tường về bước phát triển kỳ diệu của Nghệ thuật sơn mài với những lời ngợi ca
t -
thật đẹp, thật hồ hởi như: "lộng lẫy", "kỳ thú", "phóng khoáng", "linh động", "rực rỡ",
b
"huyền diệu" … Ông kết luận: "Một kết quả làm ta ngạc nhiên, chất sơn nhựa đủ bắt
đầu nhấc cánh. Tôi muốn nhận thấy cái sinh lực đầu mối của sự tiến hóa đó. Đen, đỏ,
v
vàng, tím … với những màu hơn kém nhau chút ít của nghề sơn, họa sĩ đã tạo cho ta
một cuộc sống mà sự giàu sang tương tự như cuộc sống thực của ta. Sự tạo tác bao giờ
h
cũng đẹp …".
Cùng với những tác phẩm rất thành công trong các chất liệu lụa, sơn dầu của thời
t t
kỳ đó, sự xuất hiện của những tác phẩm sơn mài đã tạo cho diện mạo mỹ thuật Việt
d
Nam một tầm vóc khiến nhiều họa sĩ nước ngoài cũng phải nể trọng. Trong lần mang
tranh sang triển lãm tại Hà Nội, họa sĩ rất nổi tiếng của Nhật Bản và Foujita đã trả lời
l .
phỏng vấn của báo Trung Bắc chủ nhật (số 85 ngày 2/11/1941) như sau: "Mỹ thuật
n
Việt Nam đã có nhiều đặc sắc, nhưng không giống mỹ thuật Nhật hoặc mỹ thuật Pháp v
53
w
và lúc nào cũng giữ được bản sắc riêng. Vả lại, mỹ thuật Việt Nam hiện đã có vị trí
w
vững vàng và sau này còn có thể phát triển một cách lớn lao hơn nữa …".
Giới mỹ thuật Việt Nam hồ hởi, ung dung và tự tin bước vào một kỷ nguyên sáng
w
tạo mới, đặt một tiền đề, một nền móng vững chắc cho nền mỹ thuật đương đại. Công
lao này là nhờ có Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương mà họa sĩ Tô Ngọc Vân đã
.
từng khẳng định một cách công tâm rằng: "Nếu không có Trường Cao đẳng Mỹ thuật
k
Đông Dương thì chúng ta sẽ lạc vào tà đạo hết". Công lao này là nhờ tấm lòng yêu quý,
h
mục tiêu và phương pháp đào tạo rất đúng đắn của họa sĩ, hiệu trưởng Victor Tardieu
mà họa sĩ Trần Văn Cẩn đã đánh giá: "Có thể nói, nếu không có vai trò cá nhân của
c
Victor Tardieu thì hội họa Việt Nam sẽ đi theo một con đường khác …". Và, công lao
n
này là sự tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo đầy nhiệt huyết, đây tài năng trong những bước
khởi đầu của các sinh viên, các nghệ sĩ Việt Nam của Trường Mỹ thuật Đông Dương.
m
Họ đã tạo ra một sự đột phá kỳ vĩ, một cuộc "cách mạng" của kỹ thuật và mỹ thuật, đã
để lại một dấu ấn, một di sản về kỹ năng sử dụng chất liệu mới và những tác phẩm
chuẩn đích, vô giá mà cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị, đáng nâng niu và tự
t -
hào đó là tranh sơn mài.
b
1.2.4. Nguyễn Gia Trí họa sĩ sơn mài số một, cả đời gắn bó với sơn mài Việt Nam
Những cống hiến cho sự sáng tạo thời kỳ này phải kể đến trước tiên là Nguyễn
v
Gia Trí cùng với nhiều tác phẩm sơn mài rất nổi tiếng. Ông sinh trưởng tại một làng
h
quê tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội), một trong những cái nôi nổi tiếng của các nghề thủ
công mỹ nghệ mà đặc biệt là nghề sơn ta (nơi có đền thờ Đức tổ nghề sơn ta đó là làng
Bình Vọng huyện Thường Tín). Nguyễn Gia Trí là một họa sĩ đầy bản lĩnh, tài năng
t t
đến mức có nhiều câu chuyện tưởng chừng như những giai thoại!. Người ta kể lại rằng,
d
khi ông còn đang học ở Mỹ thuật Đông Dương, nhà trường cho các sinh viên đi thâm
nhập, vẽ tài liệu để làm bài cuối năm. Mọi người đã đi cả tháng rồi mà riêng ông vẫn
l .
v
n
mải mê trong xưởng vẽ ở Hà Nội. Đợi đúng tuần trăng tỏ, ông lên hồ Ba Bể, đứng
54
w
ngắm suốt một đêm để "nhập tâm" sau đó về vẽ bức tranh cho bài thi cuối năm, và
w
điểm bài thi của ông vào loại cao nhất.
Hoặc: hồi ông sống và làm việc ở Sài Gòn (thời trước giải phóng), chính quyền
w
Ngụy đặt ông vẽ một số tranh sơn mài để trang hoàng cho những nơi công sở quan
trọng, ông ra điều kiện là phải cung cấp cho loại sơn ta của vùng Phú Thọ thì ông mới
.
nhận vẽ. Như vậy đủ thấy rõ chất lượng tốt nhất, ưa chuộng nhất làm tranh sơn mài là
k
loại sơn ta Phú Thọ và cũng thấy rõ trách nhiệm của một nghệ sĩ tài ba đối với chất
h
lượng tác phẩm của mình. Đến sau ngày giải phóng miền Nam, bức tranh sơn mài khổ
lớn "Vườn xuân Trung, Nam, Bắc" (200x640cm) của Nguyễn Gia Trí đã được UBND
c
thành phố Hồ Chí Minh mua với giá cao chưa từng có thời bấy giờ, hiện bức tranh
n
được bày ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. (xem phần 3.3.2)
Đánh giá về họa sĩ Nguyễn Gia Trí, một trong 4 danh họa được truyền tụng thời
m
"Mỹ thuật Đông Dương" là: "nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn" (tức Nguyễn Gia Trí,
Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn), trong cuốn sách "Mỹ thuật Thủ đô
Hà Nội thế kỷ XX" do họa sĩ Quang Phòng chủ biên đã nhận định như sau: "Nghệ
t -
thuật sơn mài của Nguyễn Gia Trí đạt tới đỉnh cao nhất trong những năm 1938-1944
b
với các tác phẩm như "Bên hồ Hoàn Kiếm", "Vườn xuân và thiếu nữ", "Thiếu nữ bên
hoa phù dung" … Thế giới sơn mài của Nguyễn Gia Trí vừa thực vừa mông lung, phản
v
ánh trong đó niềm khát khao vô tận một cái đẹp ma lực khó nắm bắt, luôn luôn trốn
h
tránh kẻ săn tìm. Nó biến hóa, ẩn hiện không ngừng giữa các lớp sơn trong quá trình
họa sĩ mài ra, bất ngờ ánh lên chất màu quý giá. Trong địa hạt này, Nguyễn Gia Trí
như một nhà ảo thuật lão luyện quen điều khiển những chất màu chưa ai biết đến: thấm
t t
đượm như bóng đêm, sáng như vầng trăng bạc, lấp lánh như lá vàng dưới nắng; nổi lên
d
như các chất nhung, lĩnh, men sứ, đồi mồi, đá quý. Đặc điểm nghệ thuật sơn mài của
Nguyễn Gia Trí là những nét vàng chói sáng, được phóng ra bay bổng, tài hoa, quán
l .
xuyến toàn bộ tranh, đem lại cho nó cái nhịp nhàng, cân đối và thống nhất, làm đường
n
viền làm nổi bật các hình thể con người, cảnh vật trên cái nền sâu thẳm, súc tích màu v
55
w
và chất mà mặt tranh bao giờ cũng nhẵn mịn, phẳng lỳ, bóng như ướt nước. Tất cả
w
quyện vào nhau thành một khối hổ phách trong veo, gây hiệu quả tương phản: cực
kỳ lộng lẫy mà lại vô cùng trang nhã, sâu trầm. Nguyễn Gia Trí chuyên về đề tài
w
phụ nữ kết hợp với vườn cảnh, lầu trang, xây dựng tranh theo hình thức bình phong,
bố trí các hình tượng trên nhiều tấm rời nhau ghép lại… Tuy nhiên, chỉ có Hà Nội
.
mới thực sự là mảnh đất đắc địa cho nghệ thuật sơn mài của Nguyễn Gia Trí, và người
k
ta cũng chỉ có thể nhận định chính xác về chân giá trị nghệ thuật sơn mài của Nguyễn
h
Giá Trí qua các tác phẩm sáng tác ở thời kỳ này mà thôi!".
Những phân tích, đánh giá trong cuốn sách kể trên về Nguyễn Gia Trí, một lần
c
nữa càng khẳng định tài năng và những cống hiến của ông trong những thành tựu ban
n
đầu của nghệ thuật sơn mài. Sở dĩ có được như vậy, ngoài tài năng nghệ thuật của
Nguyễn Gia Trí ra, ông là người nắm rất kỹ, hiểu rất kỹ về chất liệu sơn ta. Ngay từ
m
khi còn đang học ở Mỹ thuật Đông Dương, ông cũng đã có xưởng họa riêng để nghiên
cứu, sáng tác tranh sơn mài. Có khá nhiều thợ giỏi và những họa sĩ giúp việc cho ông
để thể hiện các tác phẩm mà ông là người điều hành rất tài giỏi.
t -
Tóm lại, với sự ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, với những
b
công lao to lớn của họa sĩ, hiệu trưởng Victor Tardieu cùng với lòng nhiệt huyết, sự
tìm tòi, khám phá, sáng tạo tuyệt vời của các sinh viên mỹ thuật thời bấy giờ nên Việt
v
Nam mới có được kỹ thuật và nghệ thuật sơn mài. Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh
h
thêm rằng, nếu không có nghề sơn ta truyền thống, không có di sản văn hóa - nghệ
thuật ngàn đời và tiềm năng sáng tạo dồi dào của người Việt Nam thì dù cho có
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương cũng không thể có nghệ thuật sơn mài. Đây
t t
phải chẳng là cái "duyên" kỳ ngộ của lịch sử mỹ thuật Việt Nam, là cái "diễm phúc"
d
cho giới mỹ thuật Việt Nam. "Vạn sự khởi đầu nan", chúng ta vô cùng biết ơn, kính
trọng và cảm phục những nghệ sĩ đầu tiên đã sáng tạo ra kỹ năng sử dụng, nghệ thuật
l .
sơn mài, chắp cánh cho mỹ thuật Việt Nam, bởi vì kỹ thuật được xem như trợ thủ đắc
v
n
lực của nghệ thuật.
56
w
1.3. Tranh sơn mài Việt Nam tương đồng và khác biệt với tranh sơn mài Trung
w
Quốc, Nhật Bản
1.3.1. Sự ảnh hưởng của văn hóa sơn giữa các nước châu Á và Việt Nam
w
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học nghề sơn Việt Nam là một nghề thủ công
truyền thống có lịch sử cách đây khoảng 2500 năm từ thời văn hóa Đông Sơn (khoảng
.
thế kỷ IV trước công nguyên). Từ Việt Nam chúng ta đi tìm sự tương đồng và khác
k
biệt của nghề thủ công truyền thống này, đặt Văn hóa Sơn Việt Nam trong mối quan
hệ với các nước lân cận để tìm hiểu về cây sơn, nghề sơn và tranh vẽ có chất liệu từ
h
cây sơn.
Chúng ta đều biết Châu Á là vùng có nghề sơn phát triển nhất, Trung Quốc là nước
c
đầu tiên khám phá ra cây sơn và phát minh ra kỹ thuật làm sơn. Bằng các di vật khảo cổ,
n
gần đây Trung Quốc đã tuyên bố họ có lịch sử sử dụng và phát triển nghề sơn cách đây
khoảng 7000 đến 8000 năm.
m
Sau Trung Quốc nghề sơn của người Nhật Bản và người Triều Tiên phát triển
cách đây khoảng 5000 đến 7000 năm. Ở Thái Lan và Myanma đồ sơn phát triển muộn
hơn. Sự phát hiện khảo cổ học của các nước Đông Nam Á về đồ sơn chúng ta có thể
t -
khẳng định nghề sơn xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc sau đó lan tỏa ra Vùng Bắc Á và
b
Đông Nam Á. Mỗi quốc gia, dân tộc có nền văn hóa riêng biệt, nhưng một số quốc
gia lại có chung một văn hóa đặc thù gọi là văn hóa vùng miền, có thể nói "Văn hóa
v
sơn" có đặc điểm vậy. Chung dòng văn hóa sơn của thế giới và khu vực, Việt Nam
có nền văn hóa sơn mang những nét đặc thù rộng (thuật ngữ "sơn ta" để phân biệt
h
sơn của Việt Nam với sơn Nhật, sơn Nam Vang (Cămpuchia), sơn điều hay sơn dầu
phát triển ở Châu Âu).
t t
Ở Nhật bản khoa học chế tạo sơn đã có truyền thống từ lâu đời. Vua chúa Nhật
d
Bản từ xưa ra chính sách luật lệ bảo vệ phương pháp và kỹ thuật của sơn mài, cấm
truyền bá ra ngoài. Đầu thế kỷ XIV (1308) Nhật Bản và Trung Quốc đã có những đoàn
đi lại và trao đổi nghiên cứu về kỹ thuật và phương pháp rắc vàng trên đồ sơn của Nhật.
l .
Người Nhật với bản tính khiêm tốn, chịu khó học hỏi, họ tự nhận mình chịu ảnh hưởng
n
của Nghệ thuật cổ điển Trung Hoa (kể cả nghệ thuật sơn); họ học tập, bắt chước sau v
57
w
đó sáng tạo cho mình một "phong cách Nhật" khiến thế giới thán phục. Đồ sơn Nhật
w
Bản có 2 dòng truyền thống: Đồ sơn Kiso, Đồ sơn Ryukyu. Đồ sơn Nhật Bản gồm các
thể loại: Raden (khảm trai, Chinkin (nét khắc thếp lá vàng), Hakue (trang trí vẽ trên
w
nền dát vàng lá), Mitrudae (tương tự như sơn dầu), Tsuikin (đắp nổi). Bảo tàng Quốc
gia Tokyo có 88.209 hiện vật trong đó có 3700 hiện vật sơn mài, nhiều tác phẩm sơn
.
mài Nhật Bản được lưu giữ tại các bảo tàng nổi tiếng thế giới. Nhật Bản có bản sắc
k
văn hóa độc đáo, chính phủ Nhật có chính sách để bảo vệ và làm cho các ngành nghề
truyền thống phát triển, phong danh hiệu Quôc Bảo (Human living treasure) cho các
h
nghệ nhân ngành nghề truyền thống, hỗ trợ giúp cho họ 20.000 USD/1 năm để duy trì
nghề trong đó có nghề sơn mài.
c
Ở Việt Nam có họa sĩ Nguyễn Khang là một trong những người tìm hướng đi
n
mới cho tranh sơn truyền thống - tranh sơn mài tạo hình. Tranh của ông khai thác chất
dân gian phối hợp nhuần nhuyễn tính trang trí và tính tạo hình, ông là người tiếp tục
m
tìm hướng đi cho mỹ nghệ nói chung và sơn ta nói riêng. Trong những chuyến đi sang
Nhật công tác 1962, lúc đó họa sĩ là đại diện ngoại thương của nước Việt Nam DCCH
đi thăm Nhật về vấn đề thủ công mỹ nghệ và sơn mài (ông được Đảng Cộng sản Việt
t -
Nam - Đồng chí Phạm Hùng giao trọng trách gặp đại diện Đảng Cộng sản Nhật Bản),
b
ông đã tìm hiểu về sơn Nhật, những kỹ thuật truyền thống và hiện đại.
Nghề sơn đã có một lịch sử dài ở nước ta, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy trong
v
di chỉ văn hóa Đông Sơn những minh chứng đáng tin cậy về việc sử dụng nhựa cây
sơn trong việc dùng để phủ, chế tác vật dụng. Ngày 14/4 năm 1961, tại di chỉ Việt Khê
h
(Hải Phòng) các nhà khảo cổ học đã khai quật một khu mộ cổ và phát hiện ra chiếc
quan tài hình thuyền độc mộc với một số vật dụng, đồ dùng có phủ sơn. Đáng chú ý là
t t
không chỉ những vật dụng gỗ phủ sơn mà có cả những vật dụng bằng đồng có quét phủ
d
sơn trên cán gỗ, nạo móc sơn then trên cán gỗ dài 30cm, đục cán gỗ sơn bóng dài
5,5cm, đục vũm cán gỗ sơn bóng dài 5,7cm, 9 cán gỗ dáo mác sơn bóng dài 2,39m,
một mái chèo sơn then, hộp gỗ sơn then dài 55cm, cao 20cm, mặt ngoài có hoa văn dải
l .
v
n
màu cánh gián.
58
w
Tiếp theo là sự khai quật một loạt di chỉ mộ cổ như di chỉ Vinh Quang (Hà Tây
w
nay là Hà Nội) khai quật tháng 9/1965, có một khúc gỗ 2cm sơn khoanh màu đen và
đỏ trong mộ cổ. Di chỉ La Đôi (Hải Phòng) có 1 mẩu gỗ dài 3cm, sơn dọc 2 màu đỏ
w
và đen. Di chỉ Đông Du (Hải Phòng) khai quật tháng 1/1972 với các đồ nghề sơn như
bàn nhỏ sơn, bút vẽ, bát sơn.
.
Trong các tài liệu cổ sử, sách Hải Dương cảnh chí có ghi nhận vào thời Đinh (thế
k
kỷ X) có Trần Ứng Long, vị lão tướng của Đinh Bộ Lĩnh (vua Đinh Tiên Hoàng) đã
dùng nhựa sơn trộn với đất bột trát kín thuyền thúng đan bằng tre để vượt sông đánh
h
xứ quân Đỗ Cảnh Thạc. Sách Việt Sử Thông giám cương mục, phần chính biên có viết
vào năm Giáp Thân (1254) Triều Trần quy định tôn thất đi kiệu hình đầu chim phượng
c
sơn son, quan tướng dùng kiệu chim anh vũ sơn then. Năm Quý Sửu (1469) Triều Lê
n
quy định lính túc vệ đội nón phủ sơn đỏ. Những thợ sơn giỏi được triều đình ghi danh,
một trong số đó là nghệ nhân Cao Sư Đăng, biên vào lớp thợ cung đình theo chế độ
m
công tượng. Thợ sơn thời Hậu Lê rất tài giỏi, bằng chứng là ngày nay vẫn còn di hài
xác ướp nhà sư Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trương (Chùa Đậu - Hà Tây - Thế kỷ XVII)
bằng sơn trộn mùn cưa, đất bó, phủ sơn cánh gián, thếp bạc và ngoài cùng phủ lớp sơn
t -
quang dầu. Trải qua mấy trăm năm với bao biến cố và sự tác động của thời gian, khí
b
hậu nhưng lớp sơn phủ đến nay vẫn còn tốt, tạo nên sự kinh ngạc lớn cho nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước. Nghề sơn nước ta cũng sớm được nói đến trong các
v
tài liệu du ký của học giả và một số nhà truyền giáo Phương Tây. Có không ít các tài
liệu Phương Tây dẫn lời của các giáo sĩ về nghề sơn nước ta với lời mô tả rất kỹ
h
cùng những lời khen ngợi, đánh giá cao về tính độc đáo của chất sơn và nghệ thuật
trang trí từ sơn. Ví dụ cuốn sách "Một chuyến đi Đàng Ngoài" của William Dampier
t t
(1668) đánh giá đồ sơn Việt Nam không thua kém các nước khác trong khu vực. Một
d
tài liệu khác cho biết khoảng năm 1920, một xưởng sơn với những người thợ đưa từ
Việt Nam sang đã được Jean Dunand (1877 - 1942) mở tại Paris. Năm 1925, Trường
Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được người Pháp mở, Bộ môn sơn ta được đưa vào
l .
v
n
chương trình giảng dạy v.v. (Theo TS Phan Thanh Bình . Trường ĐHNT Huế - TLHT)
59
w
Tóm lại trong lịch sử văn mình Việt Nam, nghề sơn đã xuất hiện từ thời văn hóa
w
Đông Sơn, cách đây 2500 năm. Thời Đinh, Lý, Trần đã có thư tịch cổ nói về nghề sơn,
nghệ nhân, tổ nghề, manh nha hình thành làng nghề, sơn đã đóng góp trong đời sống,
w
xã hội trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Thế kỷ XI, nghề sơn được chú trọng. Triều đại nhà Lý, Đạo Phật là quốc giáo,
.
nhà Vua lệnh cho làm hàng nghìn tranh, tượng phật để thờ cúng, lúc này kĩ thuật, nghệ
k
thuật tạc tượng gỗ phủ sơn, vẽ tranh sơn đã được nâng lên (trước kia tượng làm bằng
gỗ, đất không phủ sơn nên mau hỏng). Ở các triều đại phong kiến tiếp sau, nghề sơn
h
rất phát triển, ngoài tranh, tượng còn trang trí kiến trúc, làm đồ thờ, đồ dân dụng. Thế
kỷ XV hình thành các phường thợ, làng nghề sơn. Chúng ta thật sự tự hào về Tổ nghề
c
sơn, vẽ tranh sơn Trần Lư (Trần Thượng Công - Trần Tướng Công quê làng Bình
n
Vọng - Thường Tín - Hà Nội), một bậc Đại trí đã học nghề vẽ sơn (nhân hai chuyến đi
sứ Trung Quốc) về phổ biến, truyền dậy cho dân., mở đầu cho một nghệ thuật. Từ đó
m
xuất hiện các tranh sơn chân dung thần, phật, các vị la hán, thập điện diêm vương,
hình vẽ rồng, phượng, tứ linh, tứ quý, cỏ, cây, hoa, lá v.v. trang trí kiến trúc tôn giáo,
cung điện. Xuất hiện những nghệ nhân, thợ khéo trong nghề vẽ tranh sơn ở các
t -
phường nghề, làng nghề sơn khắp Bắc, Trung, Nam. Tổ nghề trong bài thơ "Học thành
b
họa nghề" đã mãi mãi khắc cốt về công ơn các bậc tiền bối đã truyền dạy nghề cho
mình ở Trung Hoa. Chúng ta thấy rằng nghệ thuật vẽ tranh sơn của Việt nam học tập
v
Trung Quốc nhưng đã được người Việt Nam sáng tạo theo tay nghề, quan niệm thẩm
mỹ, lối tư duy, tâm hồn của người Việt Nam đã tạo nên các bức tranh mang "hồn Việt".
h
Tổ nghề sơn được nhân dân tôn thờ là Trần Lư nhưng cũng có thể Đức Tổ là
người cải tiến, mở rộng kỹ thuật chất liệu, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển
t t
của nghề sơn. Mặt khác nhiều làng nghề sơn cũng có thờ Tổ nghề sơn, nghề thiếp bạc,
d
nghề làm cốt vóc và nhiều nghề phụ của nghề sơn, chế biến sơn, làm mỹ nghệ, hoàng
phi, câu đối ... nên việc xác định tổ nghề sơn chỉ mang tính ước lệ dân gian, tựu trung
lại đó là những người có tài, có đức đã truyền dạy và phát triển nghề cho dân góp phần
l .
v
n
phát triển nghệ thuật sơn Việt Nam.
60
w
Trải qua thăng trầm biến cố lịch sử một số nghệ nhân, thợ giỏi của làng nghề sơn
w
mài Bình Vọng, Hạ Thái, Bối khê đã dời làng lên kiếm sống ở đất Thăng Long bằng
nghề vẽ, làm đồ thờ bằng sơn, tiêu biểu là nghệ nhân của dòng họ Lê như: Lê Đình
w
Thố, ông nội nghệ nhân Lê Đình Liệu, nghệ nhân Lê Đình Tông (bác ông Liệu) [54, tr
76]. Nghệ nhân Đinh Văn Thành là người Hạ Thái, ông được mời vào làm việc tại
.
xưởng sơn ta của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ông là người nắm chắc
k
nghề đã cùng các sinh viên thể nghiệm và đã thành công trong việc cải tiến kỹ thuật và
phương pháp pha chế sơn thành nhiều màu và các chất liệu làm phong phú cho bảng
h
màu sơn mài, kỹ thuật mài tranh; biến đổi sơn từ chất liệu trang trí, thủ công mỹ nghệ
bước sang chất liệu của nghệ thuật tạo hình. Tranh sơn mài tạo hình Việt Nam có từ
c
đây, là một sản phẩm, giá trị độc đáo của Văn hóa Việt Nam - Tranh sơn mài có thể coi
n
là quốc họa Việt Nam.
Văn hóa sơn Việt Nam có truyền thống lâu đời, người Việt Nam đã sáng tạo
m
không ngừng để làm ra sản phẩm từ chất liệu sơn ta trong đó phải kể đến tranh sơn mài.
Văn hóa sơn Việt Nam nằm trong chuỗi những ảnh hưởng của khu vực, vừa có nét
tương đồng vừa có sự khác biệt. Sự khác biệt nguyên nhân do đâu? Sơn mài chất liệu
t -
chủ yếu là nhựa (mủ) cây sơn, cây sơn vùng hàn đới mọc từ phía bắc sông Hoàng Hà
b
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Cây sơn hàn đới cho chất chủ yếu là Urusiol. Cây
sơn nhiệt đới gồm 2 khu vực: khu vực một số tỉnh phía Bắc Việt Nam và một số vùng
v Myanma có cây sơn cho chất chủ yếu là Thitsiol. [55, tr 128]
đất ở Đông Dương, cây sơn này cho chất chủ yếu là Laccol, khu vực Thái Lan,
h
Cây sơn Việt Nam mọc chủ yếu ở vùng trung du, nhiều nhất là ở Phú Thọ, nhựa
cây này là chất hữu cơ có thể tạo nên những sản phẩm sơn gắn, sơn chống nước
t t
biển, sơn chống ăn mòn axit, phủ đồ dùng, làm mỹ nghệ, chất liệu vẽ tranh sơn
d
mài… được gọi là sơn ta (để phân biệt với chất liệu sơn dầu nhập từ phương Tây),
cùng là nhựa cây sơn nhưng sơn ta Việt Nam khác sơn Trung Quốc, Nhật Bản do
tính chất hóa học của cây ở các vùng khác nhau (như đã nói ở trên) thêm nữa những
l .
bí quyết khi chế tác tạo nên tính cổ truyền dân tộc.
v
n
Đặc điểm của chất sơn Việt Nam:
61
w
Theo Tiến sĩ Trần Vĩnh Diệu Giám đốc Trung tâm Polyme Bách Khoa đã phân
w
tích thành phần sơn ta gồm: Chất Laccol, Polysaccharide (hydrad carbon - trong đó có
khoảng 30% giống chất Urusiol của sơn Nhật Bản), chất Laccase, nước và tạp chất.
w
Sơn ta có các ưu điểm sau:
Nhựa cây sơn khi khô thì bóng, trở nên cứng có độ rắn đặc biệt nhưng lại có sự
.
mềm dẻo đàn hồi thực vật nên tiện dụng trong công nghệ chế tác;
h
Nhựa cây sơn khô theo cách thẩm thấu nên bám rất chắc vào vật được sơn (sơn k nhân tạo khô theo cách tạo màng).
Chịu được sự mài mòn, chống được mối mọt. Chịu được ở nhiệt độ 4000C, cách nhiệt, cách điện tốt.
c
Lớp sơn có thể chịu đựng tốt ở môi trường nước, nước muối, axit, độ ẩm, môi
n
trường nhiệt độ thay đổi nóng lạnh (cho nên họa sĩ Việt Nam làm tranh sơn mài muốn
khô thì phải chọn những nơi có độ ẩm cao).
m
Khi tác động với sắt sơn ta chuyển thành màu đen. [55, tr 129].
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa nghệ thuật sơn mài trong đó có tranh
với những tác phẩm nghệ thuật làm bằng sơn của một số các nước Châu Á để chúng ta
t -
thấy được thành tựu nghệ thuật độc đáo của châu lục, thấy được bản sắc văn hóa Việt
b
Nam, thấy tự hào Việt Nam đã góp được một giá trị nghệ thuật Việt vào kho tàng mỹ
thuật của vùng miền, châu lục, khu vực và thế giới. Trong phạm vi đề tài này chủ yếu
v
chúng ta tìm hiểu về sơn (gọi là sơn mài) trong đó có tranh của 2 nền văn hóa lớn
Trung Quốc, Nhật Bản.
h
1.3.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa tranh sơn mài Việt Nam với tranh sơn mài
Trung Quốc, Nhật Bản
t t
1.3.2.1. Sự tương đồng và khác biệt giữa tranh sơn mài Việt Nam với tranh sơn mài
d
Trung Quốc
a. Lịch sử nghệ thuật sơn truyền thống Trung Quốc
Có thể nói người Trung Quốc biết sử dụng nhựa sơn tự nhiên sớm nhất thế giới,
l .
bằng chứng là chiếc bát gỗ phủ sơn đỏ có niên đại cách đây 7000 năm (phát hiện khảo
n
cổ năm 1970 tại di chỉ Hemudu thuộc thời kỳ đồ đá mới ở Dư Diệu tỉnh Chiết Giang), v
62
w
đây là hiện vật sơn lâu đời nhất thế giới (cho đến nay). Cây sơn nguyên liệu chính của
w
nghề sơn được trồng nhiều ở Trung Quốc. Nghệ thuật sơn Trung Quốc phát triển trong
thời Xuân Thu - Chiến quốc (770 - 256 Tr. CN), thời Hán (206 Tr. CN đến 220 CN).
w
Cây sơn được trồng nhiều ở thời Xuân Thu - Chiến quốc, nhựa sơn lúc này có giá trị
thiết yếu phục vụ cuộc sống nên được coi trọng, nghề sơn được quan tâm, kỹ thuật sơn
.
được cải tiến, các sản phẩm phong phú. Các tác phẩm sơn mài đạt trình độ cao trong
k
cách trang trí, dùng màu, là tác phẩm nghệ thuật (chiếc gương được phủ sơn đỏ hiện
vật trong ngôi mộ cổ khai quật ở Kinh Môn - tỉnh Hồ Bắc). Đồ sơn được dùng phổ
h
biến thể hiện ở các đồ dùng hàng ngày, các loại nhạc cụ, vũ khí, các đồ tùy táng. Màu
sắc cơ bản là đỏ, đen, 2 màu là ấn tượng thị giác về đồ sơn Trung Quốc.
c
Thời nhà Hán (206 Tr. CN - 220 CN) nghệ thuật sơn rất phát triển, đồ sơn được
n
coi là tượng trưng cho sự giàu có và địa vị xã hội. Đồ sơn thời kỳ này được làm tinh
xảo, các mẫu trang trí được dát vàng, bạc xuất hiện.
m
Thời Nhà Tấn (265 - 420), Nam Bắc Triều (420 - 589) Phật giáo phát triển nên
sơn được dùng trong trang trí nghệ thuật điêu khắc tôn giáo xuất hiện những tác phẩm
hội họa sơn cổ Trung Hoa.
t -
Thời Đường (618 - 907) kỹ thuật sơn phát triển thêm một bước, vàng bạc được
b
dát mỏng, tạo thành các họa tiết gắn lên sản phẩm cùng với sơn rồi đánh bóng, tạo nên
sự tinh tế của tác phẩm.
v
Thời Nhà Tống (960 - 1279). Ngoài sự phong phú về các loại sản phẩm thì đồ
sơn thể hiện kỹ thuật khéo léo, tỷ mỉ đến mức tinh xảo.
h
Thời Nhà Minh (1368 - 1644) xuất hiện cuốn sách đầu tiên về "Nghệ thuật sơn
mài" của một thợ thủ công nổi tiếng tên là Hoàng Thành. Như vậy đã có sách về lý
t t
thuyết sơn mài.
d
Sơn mài mỹ nghệ Trung Quốc phát triển hàng nghìn năm, các vùng Bắc Kinh,
Phúc Châu, Dương Châu là những vùng nổi tiếng về sơn mài. Các tác phẩm sơn mài
Phúc Châu có độ bền chắc chịu được nhiệt, axit, kiềm… Bắc Kinh nổi tiếng với những
l .
tác phẩm sơn mài chạm khắc có chủ đề con người, phong cảnh, hoa lá, con vật; các vật
n
dùng sơn mài rất đẹp, rất tinh xảo. Dương Châu có sản phẩm sơn mài tao nhã, kỹ thuật v
63
w
tinh túy, ngoài nghệ thuật chạm khắc, sơn mài còn được nâng giá trị bởi được dát vàng,
w
đá quý, ngà voi, xà cừ… [30, tr 56, 58]
b. Tranh sơn mài Trung Quốc
w
Nói đến hội họa Trung Quốc - chúng ta ấn tượng mạnh bỏi vẻ đẹp của tranh
Thủy mặc được mệnh danh họa là Quốc họa Trung Hoa - nổi tiếng thế giới 10 danh
họa các triều đại, đã được tổ chức kỷ niệm năm sinh và năm mất đó là: Cố Khải Chi
.
(341 - 402) Đời Tấn; Lý Trị Huấn (651 - 716) Đời Đường; Vương Sằn (1036 - ),
k
Lý Công Lân (1049 - 1106), Mễ Phật (1051 - 1107) Đời Tống; Nghê Tản (1279 -
h
1368) Đời Nguyên, Ngô Vân Lân - Đời Nguyên Minh, Từ Vi (1368 - 1644) Đời
Minh; Bát Đại - Sơn Nhân, Triều Thanh…
c
Với lối diễn tả độc đáo, quan điểm thẩm mỹ riêng biệt tranh Quốc họa Trung
Hoa là giá trị nghệ thuật, tạo bản sắc văn hóa không thể lẫn. Nghệ thuật sơn mài thủ
n
công mỹ nghệ Trung Quốc có lịch sử lâu đời nhất thế giới, qua các thời đại ngày càng
phát triển, bổ sung những kỹ thuật mới, các tác phẩm tinh xảo, chau chuốt, kỹ thuật
m
cao rất đáng khâm phục, học tập.
Còn nghệ thuật hội họa sơn mài hiện đại Trung Quốc thì ra sao?
Đây là việc các họa sĩ Trung Hoa dùng nhựa sơn để làm chất liệu vẽ tranh. Việc
t -
đưa nhựa cây sơn vào nghệ thuật tạo hình Trung Quốc mới có lịch sử khoảng 40 năm
b
và hiện nay đang phát triển, đã có triển lãm tranh sơn Trung Quốc tại Hà Nội - Việt
Nam (cách đây khoảng 20 năm - những năm 80 thế kỷ XX) tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt
v
Nam (66 Nguyễn Thái Học - Hà Nội).
Cũng giống như Việt Nam các họa sỹ hiện đại Trung Quốc dựa trên sự phong
h
phú của kỹ thuật sơn truyền thống, các thế hệ nghệ sỹ hiện đại đã tìm ra những đặc
tính khác biệt của nhựa sơn và tìm tòi làm phong phú kỹ thuật sơn mài. Các họa sỹ
t t
nhận thấy rằng nhựa cây sơn ngoài là một chất liệu trang trí, có thể dùng để gắn vỏ các
d
loài nhuyễn thể, kim loại, trộn nhựa với chất màu làm phong phú bảng màu để tạo ra
những tác phẩm tạo hình. Các họa sĩ Trung Quốc thấy là khi vẽ chồng nhiều lớp để
khô rồi mài bằng than gỗ hay giấy nháp - đây chính là kỹ thuật của hội họa sơn mài
l .
hiện đại, Trung Quốc mãi đến những năm 60 thế kỷ XX mới bắt đầu, còn các họa sĩ,
v
n
nghệ nhân Việt Nam đã tìm ra từ những năm 30 thế kỷ XX.
64
w
Từ những năm 1980, nghệ thuật sơn mài Trung Quốc được giới thiệu ở nhiều
w
nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Liên Xô (trước đây)… tranh sơn mài
Trung Quốc gây ấn tượng đối với giới nghệ thuật, thể hiện bản sắc của dân tộc Trung
w
Hoa ở sự tỉ mỉ, tinh tế đến mức chau chuốt. Nhiều tranh sơn mài Trung Quốc có mặt ở
triển lãm quốc gia, quốc tế.
.
Việc đào tạo họa sỹ sơn mài được chú ý, tại các trường Đại học Mỹ thuật Thanh
k
Hoa, Học Viện Nghệ thuật Nam Kinh, Trường dạy nghề thủ công và thiết kế thuộc Đại
học Phúc Châu có chuyên khoa sơn mài. Để hiểu việc đào tạo họa sỹ sơn mài tại
h
Trung Quốc thế nào, chúng ta tìm hiểu chuyên khoa sơn mài Trường Đại học Mỹ thuật
Phúc Châu.
c
Trường Mỹ thuật Phúc Châu có các chuyên khoa: Thiết kế môi trường, trang trí
n
mỹ thuật, sơn mài (thành lập năm 1974 chia 2 loại: vẽ trên đồ sơn và sơn mài nghệ
thuật), Điêu khắc, Đồ họa, Thiết kế công nghiệp. Trường có 180 giáo sư, 1500 sinh
m
viên.
Khoa sơn của trường rất phát triển. Vào năm 2000, trường được nhà nước chính
thức giao tổ chức nhiều cuội hội thảo lớn cấp nhà nước và dẫn đầu hoạt động toàn
t -
quốc về triển lãm sơn mài và đã tổ chức Triển lãm Tranh sơn quốc tế gồm 4 nước:
b
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam - tại Thành phố Hạ Môn, tỉnh Phúc
Kiến vào tháng 12/2007. Hiện các họa sỹ sơn mài tại Trung Quốc phần lớn là do
v
trường đào tạo. Qua 55 năm, trường đào tạo chừng 6.000 sinh viên tốt nghiệp, và riêng
khoa sơn mài có 600 sinh viên.
h
Bài vẽ sơn mài của sinh viên có kích thước 60 x 80cm, thực hiện trong 2 tháng.
Vóc vẽ ở dạng ván ép 2 mặt, dày khoảng 25mm, kỹ thuật làm vóc hoàn toàn giống
t t
cách bọc vải lên gỗ của nước ta. Sơn vẽ hầu hết được sản xuất sẵn, chứa trong hộp
d
nhựa tròn, một hộp là 0,9 kg, giá bán chừng 3000 tệ / hộp. Màu vẽ sơn mài pha sẵn và
chất dầu rửa thép vẽ có trộn với một loại dung môi. Vì vậy sơn để trong môi trường
bình thường cũng có thể khô được, ngay cả mùa đông, chỉ ủ đơn giản tranh cũng khô
l .
được, màu sơn rất tươi. Họ hoàn toàn không dùng dầu hỏa để pha loãng hoặc rửa bút
n
như ở nước ta. Kỹ thuật cẩn trứng theo phương pháp cẩn nổi, khi mài phẩn trứng gắn v
65
w
gần như để nguyên, vì vậy họ đã dùng thủ pháp vờn đậm nhạt thậm chí kể cả diễn
w
chất. Tranh vẽ ít lớp (độ 3 lớp), thực hiện da người gần như vẽ vờn theo khối và
không phủ mài. Khi vẽ nét bên cạnh, họ dùng bút tỉa, ngoài ra còn sử dụng chỉ may
w
nhúng vào sơn rồi xếp theo nét nhằm tạo nên những nét vẽ mảnh cũng như độ tinh và
nhỏ của nét vẽ theo ý. Nhìn chung, sơn mài mỹ thuật, về thẩm mỹ, không gian tạo
.
hình giới hạn chiều sâu; thời gian lâu dài, chất nhựa sơn cũng không tạo nên sự óng
k
ả. Trường có 2 tranh sơn mài khổ lớn trưng bày tại hội trường Bắc Kinh. [44, tr 45,
46]
h
Vừa qua đoàn họa sỹ Việt Nam đã dự khai mạc triển lãm tranh sơn quốc tế tại Hạ
Môn - Phúc Kiến. Đây là triển lãm Tranh sơn quốc tế tổ chức 2 năm 1 lần. Chúng ta
c
hãy tìm hiểu tranh sơn mài Trung Quốc qua triển lãm này. Triển lãm tranh sơn quốc tế
n
do Hội mỹ thuật Trung Quốc phối hợp với chính quyền thành phố và Cục văn hóa Hạ
Môn tổ chức. Lễ khai mạc vào sáng 26.12.2007 (mở cửa đến 8.1.2008). Triển lãm
m
trưng bày 125 tác phẩm của họa sỹ Trung Quốc, 38 tranh của Việt Nam, 27 tác phẩm
của Hàn Quốc, tổng cộng là 190 tranh. Tất cả đều được vẽ bằng chất nhựa lấy từ cây
sơn. Ban tổ chức lấy tên là tranh sơn để có thể mở rộng cách sử dụng chất liệu. Họa sỹ
t -
Trần Khánh Chương - Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam (Trưởng đoàn) nhận xét:
b
"Triển lãm tranh sơn quốc tế Hạ Môn là cơ hội cho các họa sĩ chuyên ngành sơn
mài trao đổi kinh nghiệm sáng tác với các họa sĩ trong nước và quốc tế.Năm 2007 là
v
năm phát triển lớn của tranh sơn hiện đại Trung Quốc, tại Quảng Châu đã khai mạc
triển lãm tranh sơn lần thứ hai. Hội Mỹ thuật Trung Quốc đã tổ chức 3 cuộc hội thảo
h
về thể loại sơn, đã bồi dưỡng cho các địa phương hơn một trăm họa sĩ vẽ tranh sơn.
Sau các cuộc hội thảo này thể loại tranh sơn càng được chú trọng về nghệ thuật, về
t t
ngôn ngữ đặc trưng của chất liệu và về kỹ thuật thể hiện. Tranh sơn có "chất tranh"
d
hơn, kỹ thuật ngày càng thuần thục được nâng cao về tính đương đại và tính sáng tạo
cho dù tranh sơn là loại tranh bắt nguồn từ mỹ thuật ứng dụng mà ở Trung Quốc qua
khảo cổ người ta phát hiện chất liệu này đã được sử dụng cách đây 7000 năm".
l .
Năm 2005 tại đây đã tổ chức triển lãm tranh sơn, nhưng chỉ dành cho các họa sĩ
n
Trung Quốc. Vì vậy triển lãm tranh sơn lần này là triển lãm thứ hai chuyên đề chất liệu v
66
w
sơn mài nhưng mở rộng trở thành triển lãm quốc tế tuần kỳ và được coi là triển lãm
w
tranh sơn quốc tế Hạ Môn lần thứ nhất. Trong lời giới thiệu của Ban tổ chức ghi rõ:
"Chính quyền Hạ Môn ở góc độ trân trọng văn hóa sơn ưu tú của nước nhà, đã phối
w
hợp cùng Hội Mỹ thuật Trung Quốc tổ chức lần thứ hai triển lãm tuần kỳ tạo "thương
hiệu" cho tranh sơn…".
.
Ban tổ chức đã nhận được 375 bức tranh sơn Trung Quốc gửi đến, Hội đồng
k
nghệ thuật đã tuyển chọn trưng bày được 125 tranh (chiếm 1/3 tổng số), phần nhiều là
tranh có kích thước lớn, phản ánh phong phú đời sống đương đại của nhân dân Trung
h
Quốc với nhiều phong cách khác nhau, của các tác giả thuộc các tỉnh Phúc Kiến,
Quảng Đông, Quảng Tây, Hắc Long Giang, Hà Bắc, Giang Tô, Thiểm Tây, Trùng
c
Khánh, Hồ Bắc, Bắc Kinh, Sơn Tây… Riêng đối với các tác phẩm tranh sơn của Trung
n
Quốc, Hội đồng nghệ thuật đã chọn 11 tranh để tặng giải thưởng mang tên "Phượng
Hoàng" của các tác giả: Thạch Thát, Tiêu Lệ,Tiêu Ngô Tân, Dương Quốc Lâm, Nhâm
m
Thụy Côn, Khúc Kiện (Hắc Long Giang), Trình Kỳ Tinh, Dương Quốc Phương, Hứa
Lưu Võ, Diêu Khải, Tuyết Đảo (Phúc Kiến) và 25 tranh được bình chọn là tác phẩm
ưu tú của các tác giả: Thang Chí Nghĩa, Lâm Thái Văn, Lưu Hiểu Kiệt, Lý Phỉ Phỉ,
t -
Lâm Hiểu Hằng, Giản Cầm Tú, Trịnh Vỹ, Vệ Quân (Phúc Kiến), Bắc Nguy, Từ Lóa,
b
Lưu Quốc Lương (Hắc Long Giang), Trần Tư Hào, Chu Võ, Hoàng Thiết Vân, Đổng
Yến Khang (Quảng Đông), Lý Mộng Hồng - Trần Xuyên, Chu Linh Sơn (Quảng Tây),
v
Lý Phúc Thành (Hà Bắc), La Chấn Xuân (Giang Tô), Nhâm Hiểu Đông (Thiểm Tây),
Lâm Văn Khiết (Trùng Khánh), Phạm Thiệu Huy (Hồ Bắc), Quách Thụy Khương
h
(Sơn Tây), Trùng Khánh (Bắc Kinh). Cả 36 tác phẩm Giải Phượng Hoàng và Tác
phẩm ưu tú đều được chính quyền thành phố Hạ Môn sưu tập vĩnh viễn. 11 tác giả
t t
được Giải thưởng Phượng Hoàng đều là tác giả trẻ điều đó cho thấy một thế hệ sáng
d
tác tranh chất liệu sơn của Trung Quốc trẻ đang phát triển. Trung Quốc có 30 Tỉnh,
Thành phố trực thuộc Trung ương các tác giả được giải thưởng ta thấy có tới 11 tỉnh
thành, điều đó chứng tỏ trong những năm gần đây tranh sơn Trung Quốc đã phát triển
l .
v
n
rộng rãi trong cả nước.
67
w
Nhiều tác phẩm tranh sơn Trung Quốc sử dụng chất liệu vỏ trứng một cách tinh
w
xảo, kết hợp với mầu son, sơn đen để thể hiện tác phẩm mang đậm sắc thái Trung
Quốc truyền thống. Nhiều tác giả trẻ cũng đã tìm tòi những phong cách, ngôn ngữ hiện
w
đại. Nhiều tác phẩm có kích thước lớn, thể hiện công phu, kỹ lưỡng. Ban tổ chức nhận
định: "chúng ta đang ở thời kỳ phát triển mang tính lịch sử, công cuộc mở cửa đã đem
lại cho sáng tác nghệ thuật sự đa dạng, đa hướng, sự giao lưu rộng rãi với thế giới…
.
k
qua sự giao lưu này chúng ta tin tưởng tranh sơn hiện đại Trung Quốc - một nghệ
thuật tiêu biểu của văn hóa dân tộc - sẽ hội nhập cùng thế giới". Tranh sơn mài Trung
h
Quốc hiện đang được thể nghiệm; về mặt kỹ thuật khác với chúng ta, đó là chất liệu
nhựa sơn đã được "công nghiệp hóa", sơn đã được trộn với mầu và đóng gói trong
c
các hộp sắt như những hộp mực in, lúc vẽ pha loãng sơn bằng một loại hóa chất riêng
n
mà không sử dụng dầu hỏa như Việt nam, lý do là hiện nay ở Trung Quốc không bán
dầu hỏa. Vì nhựa sơn đã được chế biến nên ít nhiều nên có cảm giác mặt tranh không
được linh động và sâu như các tranh sơn mài Việt Nam. [12, tr 27, 28]
m
Ở Triển lãm này Việt Nam có 38 tranh của họa sĩ: Trần Khánh Chương, Nguyễn
Văn Chiến, Nguyễn Nghĩa Dậu, Nguyễn Đăng Dũng, Lê Trí Dũng, Lê Vân Hải, Công
Kim Hoa, Nguyễn Quốc Huy, Nguyễn Tường Linh, Nguyễn Phúc Lợi, Đỗ Thị Ninh,
t -
Trần Huy Quang, Trương Mai San, Trần Quang Thái, Lê Văn Thìn, Nguyễn Trà Vinh.
b
(Hội Mỹ thuật Việt Nam - 17 tác phẩm) Dương Sen, Hoàng Lan Anh, Lưu Chí Trung,
v
Lê Huy Cửu, Lê Xuân Chiểu, Lương Khánh Toàn, Lương Quốc Thắng, Nguyễn Bích
Trâm, Nguyễn Dũng An, Tô Lan Thư, Nguyễn Kim Khánh, Nguyễn Thùy Hương,
h
Văn Minh, Trần Bích Thủy, Tôn Thất Hải, Tôn Thất Liên, Trần Công Thái, Võ Nam.
(Trường Đại học Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh - 21 tác phẩm). Phần lớn các tác phẩm có
kích thước trung bình phản ánh những tìm tỏi sáng tạo trong chất liệu sơn mài Việt
t t
Nam trong thời gian gần đây.
d
Hàn Quốc gửi đến triển lãm 27 tác phẩm trong đó có: 11 tranh và 16 tác phẩm
mỹ nghệ sơn mài. Đoàn họa sĩ Hàn Quốc cho biết chất liệu sơn mài ở Hàn Quốc mới
l .
được bắt đầu từ năm 1996 (đến nay được 16 năm) học từ các họa sĩ Trung Quốc. Vì
n
vậy các tác phẩm tranh sơn của Hàn Quốc chưa có nhiều và đang ở bước tìm tòi thể v nghiệm nên tính mỹ nghệ trang trí còn khá đậm nét.
68
w
Qua Triển lãm tranh sơn quốc tế này chúng ta thấy Trung Quốc và các họa sĩ
w
Trung Quốc đang có một chiến lược phát triển Hội họa chất liệu sơn (sơn mài). Chính
phủ Trung Quốc đã dành một công trình xây dựng mới xung quanh "Sân vận động Tổ
w
chim" phục vụ Olimpic - Bắc Kinh 2008 để làm bảo tàng "Đồ Sơn Trung Quốc" -
trưng bày hiện vật 7000 năm lịch sử phát triển ngành sơn Trung Quốc cùng với các tác
phẩm mỹ thuật sơn hiện đại Trung Quốc - và được khai trương ngay sau khi Olimpic
.
Bắc Kinh kết thúc tháng 8 năm 2008. Vậy Việt Nam cần phải làm gì với nghệ thuật
k
sơn mài?
h
Họa sỹ Trần Khánh Chương cho biết: "Sau khi dự triển lãm tranh sơn quốc tế tại
Hạ Môn - Phúc kiến, Ban thường vụ Hội Mỹ thuật Việt Nam đã tổ chức cuộc họp các
c
tác giả sáng tác tranh sơn mài ở Việt Nam và đang hướng tới một kế hoạch sáng tác
tranh sơn mài ở Việt Nam với triển lãm tranh sơn mài vào cuối năm 2008 tại Hà Nội.
n
Chúng ta hy vọng truyền thống tranh sơn mài Việt Nam sẽ được phát triển trong thời kỳ
hội nhập quốc tế của đất nước".
m
Nói đến hội họa sơn mài Trung Quốc hiện đại chúng ta phải kể đến tên tuổi họa
sĩ Thái Khắc Chấn là nghiên cứu sinh Trung Quốc học tại Trường Mỹ Thuật Việt Nam
từ những năm 60 thế kỷ XX. Hiện nay ông là Giáo sư nhiều năm của Học viện Mỹ
t -
thuật Quảng Tây, ông được học Danh họa sơn mài Hoàng Tích Chù, trong bức thư họa
b
sĩ viết như sau:
“… Kính thưa thầy Hoàng Tích Chù. Em là nghiên cứu sinh sơn mài do thầy đã
v
dạy cách đây ba chục năm. Suốt ba mươi năm qua, dù trải qua bao nhiêu thăng trầm,
sóng gió nhưng trước sau em cũng không thể quên được sự dạy dỗ của Ân Sư. Khi về
h
nước, em luôn cố gắng sáng tác, giảng dạy và tiếp tục nghiên cứu về sơn mài. Vừa qua
có người sang thăm Học viện Mỹ Thuật nên đã biết được tình hình và sức khoẻ của
t t
thầy. Em hết sức vui mừng và xúc động. Những hình ảnh dạy dỗ kiên nhẫn, chân tình
d
với nét mặt hiền hậu của Thầy lại hiện lên trước mắt em. Em đã mở được nhiều khoá
học sơn mài, đã tạo được nhiều sinh viên và không ngừng tổ chức những cuộc triển
lãm ở trong, ngoài nước và có được giải thưởng. Em hết sức mong muốn có dịp thăm
l .
lại Việt Nam, thăm Thầy Kính Mến Nhất Của Em và những bạn bè trong thế giới Mỹ
v
n
thuật để trao đổi học thuật, tăng cường mối tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước..."
69
w
Cũng từ Họa sĩ - Giáo sư Thái Khắc Chấn lực lượng họa sĩ sơn mài Trung Quốc
w
ngày một tăng cả chiều rộng lẫn chiều sâu (có hàng chục trường dạy sơn mài, khoảng
1000 họa sĩ sơn mài, khoảng 300 họa sĩ thường xuyên) Trung Quốc có chiến lược về
w
nghệ thuật đặc sắc này. Điều thú vị là Tổ nghề Trần Lư xưa kia học vẽ tranh sơn từ
Trung Quốc, nay họa sĩ Trung Quốc lại được đào tạo vẽ tranh sơn mài từ Việt Nam.
.
(xem phụ lục 6 phần B mục i)
Xem những tác phẩm sơn mài của Trung Quốc và các nước tham dự tại Triển k lãm Tranh sơn quốc tế trên chúng ta thấy chưa thể so sánh chất lượng nghệ thuật của
h
những tranh sơn mài Việt Nam giai đoạn đỉnh cao của chúng ta, cách tạo hình và
màu của họ thường quá mạch lạc "khéo tay" chứ không có độ rung, sự sâu trầm, ẩn
c
hiện, thiên biến vạn hóa như kiệt tác sơn mài Việt Nam. Tuy vậy, "Trông người lại
n
ngẫm đến ta", dù sao chúng ta phải suy nghĩ nhiều hơn về chiến lược phát triển, đầu
tư về nhân tài vật lực để khắc phục, khai thông hiện trạng trì trệ có phần sa sút về
m
chất lượng về quy trình thể hiện, nguyên vật liệu của kỹ thuật sơn mài cổ truyền
(phần này chúng tôi sẽ trình bày ở Thực trạng tranh sơn mài Việt Nam). Việt Nam
phải làm gì đây để bảo tồn, tôn vinh "Tranh sơn mài Việt Nam" mà chúng ta vẫn tự
t -
hào là "Đặc sản văn hóa dân tộc". Đây là nhiệm vụ cần thiết của Cơ quan Quản lý
b
Nhà nước và Hội nghề nghiệp.
Vừa qua Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao cho Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và
v
Triển lãm tổ chức Triển lãm tranh sơn mài Việt Nam tại Bắc Kinh - Trung Quốc. Đây
là hoạt động nằm trong chương trình giao lưu hợp tác Văn hóa Việt Nam - Trung Quốc
h
2009 - 2012. Triển lãm trưng bày 40 tác phẩm trong đó có 26 tác giả trẻ có nhiều tìm
tòi, triển vọng trong sáng tác tranh sơn mài như Trịnh Tuân, Đỗ Đức Khải, Nguyễn
t t
Nghĩa Dậu, Nguyễn Văn Chuyên, Nguyễn Tường Linh, Nguyễn Việt Anh, Trần Thị
d
May, Trần Thị Doanh… Triển lãm được tổ chức tại phòng trưng bày của Trường Đại
học Mỹ thuật công nghiệp Bắc Kinh (Trường có 1500 sinh viên theo học khoa sơn
l .
mài).
n
Lễ khai mạc được diễn ra long trọng vào ngày 22.04.2011 triển lãm được các v quan chức, nghệ sỹ, công chúng yêu nghệ thuật đón nhận. Qua sự so sánh ta thấy
70
w
tranh thủy mặc coi là Quốc họa của Trung Quốc thì tranh sơn mài Việt Nam xứng
w
đáng được đánh giá là Quốc họa Việt Nam - đây là "đặc sản" của hội họa, văn hóa
Việt Nam.
w
Ông Giám đốc Tập đoàn Văn hóa đối ngoại Bắc Kinh là họa sĩ tên tuổi, am hiểu về
nghệ thuật sơn mài, khi xem tranh sơn mài Việt Nam ông giới thiệu cho người xem kỹ
.
thuật vẽ sơn mài. Một họa sĩ lão thành Trung Quốc chuyên vẽ sơn mài đã nhận xét: "Tôi
k
đã biết sơn mài Việt Nam từ những năm 1959 - 1960. Tôi không ngờ đến nay sơm mài
Việt Nam lại phát triển nhanh đến vậy đặc biệt là kỹ thuật mài… Nội dung thật phong
h
phú, tôi rất thích những bức tranh miêu tả làng quê Việt Nam". Trung Quốc đang đề
c
nghị triển lãm tổ chức tại Thẩm Quyến, Thượng Hải.
1.3.2.2. Sự tương đồng và khác biệt giữa tranh sơn mài Việt Nam với tranh sơn mài
n a. Lịch sử nghệ thuật sơn truyền thống Nhật Bản
Nhật Bản
m
Cũng như nhiều nước Châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Thái Lan,
Myanma nghề sơn là một nghề thủ công truyền thống có từ lâu đời, nghệ thuật sơn
Nhật Bản có lịch sử, phát triển và có những nét riêng, giá trị thẩm mỹ cao. Năm 1975
t -
tại di chỉ Torihama, Fukui các nhà khảo cổ học tìm thấy chiếc lược phủ sơn đỏ có niên
b
đại cách đây 6000 năm có hình dáng lạ, đẹp - các nhà khoa học đánh giá cho tới thời
điểm đó nghề sơn trên đất Phù Tang đã đạt trình độ khá cao. Người ta còn tìm thấy đồ
v
đất nung (ở nhiệt độ thấp) quét bên ngoài lớp sơn cho bền chắc ví dụ chiếc bình đựng
h
nước có niên đại cách đây 3200 năm. Ngày nay người Nhật vẫn duy trì kỹ thuật gốm
sứ kết hợp với sơn mài, kỹ thuật đó gọi là Kintsugi.
Kể từ cuối thế kỷ VII, nghề sơn có điều kiện phát triển với số lượng các tác phẩm
t t
điêu khắc Phật giáo tăng rất nhanh do sự du nhập và phát triển của đạo Phật từ Hàn
d
Quốc, mà khởi đầu là từ Trung Quốc. Nhiều hình tượng trong số đó được tạo tác bởi
kỹ thuật Kanshitsu - một kỹ thuật được tiếp nhận từ Trung Hoa: chế tác vật thể chỉ với
l .
vải, nhựa sơn hoặc có cốt bằng gỗ. Tuy vậy, ở những giai đoạn trước đó (thế kỷ VI)
n
tượng gỗ được tô màu và thếp vàng lá không phải là hiếm và hiện nay một số bức v
71
w
tượng vẫn đang được lưu giữ tại ngôi chùa gỗ cổ nhất Nhật Bản là Horyu ở Nara - ngôi
w
chùa đã được chính phủ Nhật Bản công nhận là Quốc bảo và là một phần của quần thể
kiến trúc Phật giáo đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Có thể
w
nói, nghề sơn thời điểm này đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc tái tạo
các tác phẩm phục vụ cho Phật giáo mà một công trình điển hình là pho tượng Quan
.
âm 11 đầu của ngôi chùa Yakushi. Lúc này, cốt sơn mài bằng đất sét đã dần thay thế
k
cho các vật liệu là đồng và gỗ trước đó và chất liệu mới này (đất sét và sơn) đã khẳng
định được vị trí của mình qua những tác phẩm đạt tới trình độ hoàn hảo cả về hình
h
dáng và độ bền ngay cả khi không hề qua nung lửa, mà chỉ phủ các lớp sơn lên trên bề
mặt. Vì vậy, nghề sơn mài trở thành một trong những nghề nằm trong danh sách được
c
Nhà nước bảo trợ và đây chính là điều kiện để ngành nghề này tiếp tục được duy trì và
phát triển ở những giao đoạn tiếp theo. n Vào năm 701, các điều lệ liên quan đến nghề sơn đã được hệ thống hóa trong
m
đường lối của Ban phụ trách các xưởng sơn và các văn bản khuyến khích việc trồng
cây sơn để phục vụ cho việc sản xuất hàng loạt cũng được ban hành, kể từ đây, người
ta đã bắt đầu đưa nhựa sơn vào danh mục các mặt hàng cần đánh thuế.
t -
Thời kỳ Heian (781 - 1185) việc sử dụng sơn trong đời sống hàng ngày được mô
b
tả sâu sắc và sinh động hơn so với các giai đoạn trước. Có tài liệu miêu tả về kỹ thuật
makie (kỹ thuật rắc bột vàng hay bạc) và raden (kỹ thuật khảm vỏ hàu, sò, ốc) được sử
v
dụng để làm cho đồ sơn mài thêm lộng lẫy, tráng lệ.
Thời kỳ Kamakura nghề sơn đã được chuyển từ Kyoto (kinh đô thời Heian) sang
h
Kamakura với kỹ thuật trang trí sơn thếp vàng gần như đạt đến sự hoàn mỹ. Chất liệu
của cốt sơn mài thời kỳ này chủ yếu vẫn là gỗ.
t t
Dưới thời Muromachi (1333-1568), Kyoto trở thành một trong những cái nôi
d
phát triển của các ngành nghệ thuật và các nghề thủ công truyền thống như sơn mài.
Đó là những tiến bộ trong kỹ thuật mà tiêu biểu là kỹ thuật sơn vàng nổi hay còn gọi là
"nền da lê vàng" (nashi-ji) cực kỳ tinh tế. Nghệ nhân áp mỗi họa tiết sơn vàng trên nền
l .
sơn, sau đó lại phủ một lớp sơn mỏng lên bề mặt rồi mài phẳng, đánh bóng. Các nghệ
n
sĩ làm sơn mài phải nộp thuế theo trình độ tay nghề của họ và một điểm rất đặc biệt, đó v
72
w
là mỗi người thợ này đều được cấp một "hộ chiếu đặc biệt" - với tâm "hộ chiếu" này,
w
họ có thể tự do tới bất cứ đâu trong nước.
Thời Momoyama (1574 - 1614). Việc khuyến khích xây dựng các tòa dinh thự,
w
lâu đài và thành quách lớn đã tạo nghề sơn mài phát triển theo hướng mới với vai trò
cung cấp các đồ mỹ nghệ trang trí nội thất, đó chủ yếu là những mẫu hình hoa lá, chim
.
muông được khắc họa trên tường và đặc biệt là kỹ thuật dát vàng lá trên nền sơn đã tạo
k Thời Edo (1615-1867) được mệnh danh là “kỷ nguyên vàng” của nghề sơn mài
nên những tác phẩm có vẻ đẹp rực rỡ.
h
và các nghề thủ công truyền thống khác. Những sản phẩm sơn thiếp vàng thời kỳ này
đã đạt tới đỉnh cao về độ tinh xảo và gắn liền với tên tuổi của nhiều nghệ nhân nổi
c
tiếng như Honnami Koetsu, Koami Nagashige, Yamamoto Shunsho, Kajikawa Kyujiro,
n
Shiomi Seisei… Một và kỹ thuật sơn mài nổi bật được nhắc tới là hira makie (sơn
vàng mặt phẳng), togidashi makie (sơn vàng mài bóng) và taka makie (sơn mài đắp
m
nổi). Thời Edo đội ngũ những người thợ sơn có tay nghề cao thường xuyên du hành
khắp đất nước để sửa chữa và bảo dưỡng đồ sơn, nhờ có họ mà đồ sơn luôn được bảo
quản và sử dụng trong tình trạng tốt.
t -
Từ thời Meiji - Taisho (1868-1926) và nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai,
b
người Nhật có xu hướng biến đổi từ lối sống Nhật sang lối sống thực dụng Âu Mỹ cho
nên những nghề thủ công truyền thống như sơn mài dần mất đi vị trí trong đời sống
v
của người dân Nhật Bản, theo đó, nhiều kỹ thuật thủ công có nguy cơ bị lụi tàn.
Tuy nhiên, các chính sách bảo tồn di sản văn hóa của chính phủ mà đặc biệt là
h
Luật Bảo tồn Di sản văn hóa được ban hành từ năm 1950 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc
khôi phục các nghề thủ công truyền thống đã và đang có nguy cơ bị mai một như sơn
t t
mài. Trong không khí thuận lợi đó, tới năm 1959, nhựa sơn lại tiếp tục được sản xuất
d
với năng suất liên tục đạt mức đỉnh điểm. Nhựa sơn lúc này có giá trị rất lớn, đối với
Urushi-kaki (thuật ngữ chỉ đội ngũ những người đi gom nhựa sơn) thì nhựa sơn được
l .
coi là một thứ của cải quý giá trong nghề nghiệp và có hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên,
n
kể từ năm 1960, nhựa sơn với giá thành rẻ hơn đã được nhập khẩu từ Trung Quốc cho v nên đội ngũ nhân công Urushi-kaki đã bị giảm sút. Cũng như nhiều mặt hàng thủ công
73
w
truyền thống khác, đồ sơn mài lúc này có sự thay đổi về chức năng: từ chỗ phục vụ
w
cho tôn giáo, nghệ thuật chuyển sang phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng với việc đề cao
“vẻ đẹp sử dụng”, mặc dù vậy, sơn mài vẫn được coi là một trong những mặt hàng ít bị
w
chi phối bởi yếu tố thực dụng, nó chứa đựng giá trị thẩm mỹ, văn hóa tinh thần. Người
ta sử dụng làm những món quà lưu niệm cao cấp để biếu, tặng nhau trong các dịp lễ,
.
tết, gặp mặt… [30, tr 41, 46]
Những năm gần đây, nghề sơn mài cùng với các nghề thủ công truyền thống khác k lại thu hút được sự quan tâm của chính phủ và người dân. Trước thực trạng các sản
h
phẩm công nghiệp hiện đại ra đời kéo theo sự ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng trực
c
tiếp đến chất lượng sống của con người, người ta buộc phải nhìn nhận lại vai trò của
các ngành nghề truyền thống. Sơn mài đã và đang có xu hướng phục hồi và phát triển
n
trở lại không chỉ trong nước mà còn vươn ra thế giới (điều này ở Việt Nam cũng có
những nét tương tự). Nghề sơn mài đang hoạt động tốt ở các tỉnh như Aomori, lwate,
m
Akita, Fukushima, Kanagawa, Nigata, Nagano, Fukuyama, lshikawa… Đồ sơn mài
(cách ngày nay khoảng 1000 năm) vẫn tiếp tục hiện diện trong đời sống hàng ngày của
người Nhật Bản, đặc biệt là trong bữa tiệc mừng năm mới truyền thống. Sự kết hợp
t -
giữa đồ gốm và đồ sơn tạo nên một sản phẩm tiêu dùng toàn diện hơn đã đem lại ưu
b
thế cho hai chất liệu truyền thống này. Việc đồ gốm và sơn mài tiếp tục được sử dụng
trong đời sống hàng ngày của người dân cũng cho thấy, chính phủ Nhật Bản đã rất
v
nỗ lực trong việc tuyên truyền, phổ biến tới cộng đồng về vai trò, ý nghĩa của các
h
nghề thủ công truyền thống để từ đó mỗi người đều có ý thức trân trọng, bảo tồn bộ
phận di sản văn hóa quý giá này bằng những hành động thiết thực nhất và họ đã rất
thành công (đây là những nét mà những người làm văn hóa Việt Nam cần học tập
t t
d
và phát triển).
b. Tranh sơn mài Nhật Bản
Nói đến tranh Nhật Bản, ấn tượng mạnh của chúng ta là các tác phẩm tranh khắc
l .
gỗ - vẫn được thế giới mệnh danh là "Tranh khắc gỗ Nhật Bản", đó là tác phẩm của
n
họa sĩ Hokusai (1760 - 1849), Utamaro (1753 - 1806), Hiroshige (1797 - 1858). Hiện v
74
w
nay các họa sĩ sáng tác bằng nhiều chất liệu tạo nên những tác phẩm đặc sắc mang bản
w
sắc Nhật Bản. Sơn mài Nhật Bản có lịch sử lâu đời, họ không dấu diếm tự nhận mình
chịu ảnh hưởng của nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, trên cơ sở đó tạo nên nét văn hóa
w
riêng biệt đó là vẻ đẹp tinh tế, chất trang trí, sự cầu kỳ chau chuốt.
Còn tranh sơn mài Nhật Bản thì sao?
.
Khi đoàn họa sỹ Việt Nam đến thăm Bảo tàng Mỹ thuật Urasoe nơi lưu giữ
k
những kiệt tác nghệ thuật sơn Ryukyu, ông Maeda Kouin - Giám đốc Bảo tàng đã nói
về mối quan hệ giữa sơn Ryukyu trong mối quan hệ truyền thống Á Đông, quan hệ
h
tương đồng truyền thống giữa nghề sơn Ryukyu và khu vực Đông Á. Ông cho biết
trong việc sáng tạo hay tu bổ của mình, đòi hỏi việc sáng tạo, nghiên cứu công phu,
c
ông nói: "Tôi đã sử dụng nhựa sơn Việt Nam và rất ngưỡng mộ tranh hội họa sơn mài
n
Việt Nam".
Như đã nói ở trên, chính chất trong nhựa sơn đã làm cho sơn mài Nhật Bản khác
m
những nơi khác. Theo nhiều tài liệu viết rằng cây sơn đầu tiên ở đất Tây Tạng sau đó
lan sang nhiều nơi ở Châu Á. Cây sơn Nhật Bản thuộc họ đào lộn hột, có chiều cao
khoảng 10m, lá chuyển thành màu đỏ thẫm vào mùa thu. Người ta khóa dao vào thân
t -
cây, có chất nhựa như sữa màu vàng xám chảy ra đó là nhựa sơn thô. Cách làm này có
b
khác nhau ở từng nơi, riêng ở Nhật Bản người ta khía từ 5 đến 10 đường theo chiều
ngang song song. Nhựa sơn gồm có chất urushiol và gôm, hàm lượng urushiol càng
v
cao thì độ cứng của sơn sau khi sử dụng càng lớn. Sơn Trung Quốc, Thái Lan, Việt
Nam có 50% urushiol, 25% gôm thì sơn Nhật Bản có từ 70 đến 80% có urushiol,
h
7% gôm. Chính vì vậy Nghệ thuật sơn Nhật Bản có sự khác biệt lớn về chất liệu cơ
bản.
t t
Tranh sơn Nhật Bản xưa kia do các nghệ nhân, thợ thủ công lành nghề sáng tạo
d
ra, tranh mỹ nghệ là phần trang trí tại các đền chùa, cung điện, trên các đồ vật (đĩa,
hộp, khay…) đề tài phong cảnh, phong cảnh với người, cảnh sinh hoạt, đề tài tôn
giáo… Khi xem các tác phẩm của đồ sơn Ryukyu họa sĩ Vũ Tuyết Mai nhận xét: "…
l .
Nó có yếu tố đi gần với thể loại tiểu họa. Chúng tôi cũng đối chiếu và trao đổi về nghề
n
sơn cổ truyền Việt Nam… để tìm ra những nét tương đồng và sáng tạo riêng của mỗi v
75
w
nước…". Qua đó thấy được tính độc đáo của chất liệu sơn ta (sơn Việt) và sự sáng tạo
w
của họa sĩ Việt Nam tạo nên hội họa sơn mài Việt Nam.
Năm 1900 Souganara-san, một nghệ nhân sơn mài tại Johoij, một thị trấn miền
w
Nam Nhật Bản đến Paris để bảo quản bộ sưu tập tranh sơn mài của triển lãm sơn mài
Nhật Bản. Năm 1906 Eleen Gray (sống ở Paris) đã học được truyền thống sơn mài
.
Nhật Bản qua Souganwara và sơn mài đã trở thành phương tiện mở rộng phạm vi sử
k
dụng và hiểu biết chất liệu ở phương tây. Nữ họa sĩ đã triển khai phương pháp làm kết
cấu trên bề mặt sơn mài và bổ sung thêm lá vàng, bạc, khảm trai để tăng hiệu dụng -
h
cách làm này có ảnh hưởng đến các thế hệ họa sỹ làm sơn mài sau này [34, tr 27],
nhưng như vậy sơn mài vẫn giữ vai trò trang trí!
c
Nhiều họa sỹ Nhật Bản đã sang Việt Nam để học tranh sơn mài tạo hình. Các họa
n
sỹ Việt Nam Lê Kim Mỹ, Huỳnh Thị Triết, Đoàn Văn Nguyên, Chu Anh Phương là
những thày dạy đã góp phần đào tạo nhiều họa sỹ sơn mài Nhật Bản. Có nhiều cách
m
học, từ nghệ nhân hay ở các trường trong đó có nữ họa sỹ Saeko đã thành công.
Saeko Ando đến Việt Nam năm 1995 (đến nay được 17 năm), yêu thích và say mê
sơn mài Việt Nam, họa sĩ ở lại Việt Nam để học tranh sơn mài. Saeko đã theo học
t -
nghệ nhân (tên là Chính) ở làng nghề về kỹ thuật. Tranh của Bà kết hợp giữa sơn
b
mài Việt Nam và Nhật Bản để tạo ra sắc thái mới. Saeko đã truyền những hiểu biết
về sơn mài Việt Nam cho những người Nhật Bản yêu thích sơn mài.
v
Nữ hoạ sĩ Nhật bản Saeko Ando rất tâm huyết với chất liệu và nghệ thuật sơn
mài của Việt Nam. Bà đã dày công trong việc “Tầm sư học đạo”, dã tìm đến các hoạ sĩ,
h
nghệ nhân sơn mài của Việt Nam để tìm hiểu và học tập, dường như không có một
triển lãm, một hội thảo nào về sơn mài ở Việt Nam mà họa sĩ vắng mặt, Saeko tâm sự:
t t
“Nhiều hoạ sĩ người Việt đã giúp tôi trong việc vẽ tranh sơn mài. Tôi coi các vị ấy như
d
một kho từ điển sống…”. Saeko Ando đã về tận nơi ở Phú Thọ để tìm hiểu, nghiên
cứu về cây sơn nổi tiếng của Việt Nam. Một điều đáng cảm phục nữa là bà đang là chủ
một Gallery mang tên “Cây sơn” tại Hà Nội. Ở đây, vừa là nơi trưng bày thường
l .
xuyên những tác phẩm sơn mài đồng thời cũng là nơi dạy vẽ sơn mài cho người nước
n
ngoài tới học tập, môi trường dạy sơn mài theo đúng bài bản cổ truyền Việt Nam. v
76
w
Nghệ nhân tên là Chính ở làng nghề người truyền dạy cho Seako nghề làm tranh sơn
w
mài, ông phát biểu trên truyền hình: "Đây là một người rất ham học, cảm thụ nghề tốt,
tôi tự hào vì có người học trò như vậy! Nghề này không truyền lại có mang theo mãi
w
bên mình được đâu. Tìm được người lĩnh hội nghề sơn mài, tâm đắc với nghề mình
cũng thấy kiến thức, kinh nghiệm của mình có ý nghĩa …". Họa sĩ có nhiều triển lãm
.
sơn mài tại cả 2 nước. Ở triển lãm "Hà Nội - Đàn bà - Nghệ thuật (khai mạc 8/3/2011
k
tại "Ngôi nhà nghệ thuật" 31A Văn Miếu Hà Nội chị có 3 bức sơn mài: The vein,
Reproductionm … thể hiện kỹ thuật dát vỏ trứng điêu luyện, các bức tranh miêu tả vẻ
h
đẹp của thiên nhiên Việt Nam.
Tại trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam có nhiều sinh viên Nhật Bản theo học vẽ
c
tranh sơn mài, trong tương lai sẽ có đội ngũ họa sỹ vẽ tranh sơn mài tại Nhật Bản
n
trong đó có nhiều người được đào tạo từ Việt Nam. Sự kết hợp giữa tính trau chuốt, tỷ
mỉ, tinh tế của nghệ thuật sơn mài Nhật Bản với chất mộc mạc, khỏe mạnh của nghệ
m
thuật tranh sơn mài Việt Nam sẽ giúp các họa sĩ Nhật Bản tạo ra những bức tranh sơn
mài, nghệ thuật hội họa sơn mài hiện đại Nhật Bản sắc thái mới, riêng biệt … (xem
phụ lục 6 phần B mục i)
t -
Nói về sơn ta (Việt Nam chúng ta nên gọi là sơn Việt), sơn Tàu (Trung Quốc),
b
sơn Nhật (Nhật Bản). Cách đây hơn 60 năm (năm 1948), Danh họa Tô Ngọc Vân phát
biểu: Danh từ sơn mài là một danh từ mới đặt mười năm nay để chỉ một kỹ thuật trước
v
kia gọi là sơn ta nhưng đã biến hóa hẳn do nghệ thuật mài sơn. Kỹ thuật sơn ta cũng
tương tự như sơn Tàu. Sơn Tàu - theo sách truyền có từ đời nhà Hán sử dụng cùng với
h
sơn ta một thứ nguyên liệu là sơn sống. Chất sơn sống này, ở nước ta, miền Phú Thọ
rất nhiều và vẫn bán sang Tàu cùng Nhật. Từ năm 1931 trở về trước, công dụng sơn ta
t t
cũng như sơn Tàu ở Tàu, sơn Nhật ở Nhật - là phủ bọc lên đồ vật làm nó tôn vẻ lộng
d
lẫy, lên những vật dùng thường như cái khay, cái tráp, đôi guốc ..., đồ thờ như hương
án, đài, bát, đĩa ..., đồ trang trí như câu đối, hoành phi, bình phong ... màu sắc đại để có:
son, đen, nâu cánh gián, vàng, bạc theo cổ truyền. Nói rõ ra, sơn ta chỉ có công dụng
l .
trang trí, địa vị là ở trong trang trí. Mặc dầu ở Nhật, nghệ thuật sơn có tế nhị hơn cả,
n
nhưng chưa một nước nào nghĩ đến tìm tòi, sử dụng nguyên liệu sơn một cách khác cổ v
77
w
truyền, phiên lưu trong nghệ thuật sơn để tìm một con đường nào tăng phẩm gia mỹ
w
thuật sơn bằng cách phát minh thêm khả năng của nó ... Thấy sơn mài vừa xuất hiện
hầu hết thế giới nghệ sĩ Việt Nam hoan nghênh... Người ngoại quốc ... coi nó là một
w
phát minh mới nhất trong hội họa .[66, tr 11 - 12]...
Thừa nhận nghệ thuật sơn, tranh sơn, tranh sơn mài Việt Nam là sản phẩm của
.
giao thoa văn hóa với các nước cùng Châu lục (tiêu biểu là văn hóa Trung Quốc), với
k
văn hóa Phương Tây (tiêu biểu là văn hóa Pháp), người Việt Nam đã sáng tạo ra hội
họa sơn mài và nghệ thuật tranh sơn mài Việt Nam đã ảnh hưởng lại với các nước. Sự
h
tương đồng và khác biệt đã làm tranh sơn mài Việt Nam vừa có nét chung vừa có sắc
c
n
m
t -
b
v
h
t t
d
l .
v
n
thái riêng.
78
w
Chương 2 THỰC TRẠNG TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM
w
w
2.1. Diễn trình lịch sử phát triển của tranh sơn mài Việt Nam
Trong phạm vi của không gian, thời gian nghiên cứu, đặt tranh sơn mài (bao gồm
tranh tạo hình và tranh mỹ nghệ) trong mối quan hệ với tranh sơn, mỹ thuật Việt Nam;
.
k
giữa hiện tại với quá khứ, với tương lai chúng ta có thể phân chia một cách tương đối
các giai đoạn của tranh sơn mài nói riêng, tranh sơn (ta) nói chung. Trên cơ sở nêu các
h
tác giả, tác phẩm của từng giai đoạn tại các di tích lịch sử, một số triển lãm trong nước
quốc tế, tại Bảo tàng mỹ thuật v.v.chúng ta có thể hình dung khái quát diện mạo, thấy
c 2.1.1. Tranh sơn mài tạo hình lịch sử và thực trạng
n
được thực trạng và sự phát triển của tranh sơn mài Việt Nam.
Hẳn chúng ta đều thấy là những năm 30 của Thế kỷ XX tại chuyên ban sơn ta của
Trường Cảo đẳng Mỹ thuật Đông Dương giữa nghệ nhân và sinh viên (họa sỹ) đã có
m
sự tìm tòi, thể nghiệm tạo ra cái mới trong kỹ thuật xử lý chất liệu đó là kỹ thuật mài
sơn nâng cao hiệu quả biểu đạt của sơn ta, phát kiến này vẫn được gọi là sự đột phá có
tính lịch sử để tranh sơn mài tạo hình Việt Nam ra đời và phát triển. Đối tượng nghiên
t -
cứu của đề tài là "Tranh sơn mài Việt Nam - Thực trạng và phát triển" nên lẽ ra diễn
b
trình lịch sử phát triển tranh sơn mài Việt Nam chỉ nêu từ 1931 cho đến nay. Để khái
v
quát vấn đề, để tạo tương quan, đặt tranh sơn mài trong mối quan hệ với văn hóa sơn
đề tài đề cập đến tranh sơn trước năm 1931. Để tiện cho việc theo dõi sự tiếp nối tranh
h
sơn mài từ truyền thống, chúng tôi xếp tranh sơn ta trong đó có tranh sơn cổ (tranh sơn
khuyết danh) vào phần tranh sơn mài tạo hình.
2.1.1.1. Lịch sử tranh sơn mài tạo hình
t t
d
a. Giai đoạn trước 1925 (xem phụ lục 6 phần B mục a)
b. Giai đoạn 1925 - 1945 (xem phụ lục 6 phần B mục b)
c. Giai đoạn 1945 - 1954 (xem phụ lục 6 phần B mục c)
l .
d. Giai đoạn 1954 - 1964 (xem phụ lục 6 phần B mục d)
v
n
e. Giai đoạn 1964 - 1985 (xem phụ lục 6 phần B mục e)
79
w
g. Giai đoạn 1986 - 1999 (xem phụ lục 6 phần B mục g)
w
h. Giai đoạn 2000 đến nay (xem phụ lục 6 phần B mục h)
a. Giai đoạn trước 1925: Tranh sơn khuyết danh.:
w
Trước đây vẽ tranh sơn do các họa công, thợ vẽ hoặc nghệ nhân ở các phường
nghề, làng nghề đảm nhiệm, tranh thường là một bộ phận của kiến trúc, tác giả khuyết
.
danh. Sơn vẽ trực tiếp lên gỗ (không mài), các mảng màu vẽ riêng rẽ, kỹ thuật pha sơn
k
kèm theo chạm gỗ, đắp sơn điêu luyện. Đề tài là các điển tích Việt Nam, Trung Quốc,
tứ linh, tứ quý, bát tiên, trang trí hoa lá, chân dung, tâm linh v.v. để trang trí vật dụng
h
như bình phong, khay, hộp, tủ, bàn, ghế hay kiến trúc: tôn giáo, cung điện, lăng tẩm …
Tranh sơn đã giúp tăng giá trị làm lộng lẫy, quý giá sản phẩm, công trình ... Hãy điểm
c
qua những bức tranh sơn cổ còn lưu giữ được ở một số di tích.
n
- Chùa Tùng Vân (Thị trấn Thổ Tang - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc)
Chùa có lịch sử cách đây hơn 300 năm từ thời Vua Lê Hy Tông. Chùa lưu giữ
m
được 5 bức tranh sơn cổ rất đẹp ở ban thờ nhà hậu. Đó là chân dung một người phụ
nữ đầu đội mũ nét mặt đôn hậu, kiêu sa, ở mặt bên cạnh trong khán thờ vẽ người phụ
nữ có dáng như người phục vụ, ban thờ bên phải vẽ người đàn ông đội mũ, mặc áo
choàng sang trọng xung quanh có người hầu, 2 mặt vuông góc có hình 2 người phụ
t -
nữ tay bê khay nước, khay rượu, người ta vẫn gọi những bức tranh với tên "Quan hậu
b
và thị nữ". Theo Đại Đức Thích Nguyên Cao là sư trụ trì thì những bức tranh này có
v
từ lâu, trải qua năm tháng mà màu sơn vẫn đẹp, trên quần áo, mũ của nhân vật ánh
vàng lấp lánh toát lên vẻ lộng lẫy sang trọng, ai đến chùa Tùng Vân phải sửng sốt với
h
những tác phẩm quý giá này.
- Đình Đông Ngạc (xã Thụy Phương - huyện Từ Liêm - Hà Nội)
Được xây dựng cách đây 500 năm, đặc biệt trong đình còn lưu giữ bộ tranh sơn
t t
màu có từ thời Lê vẽ trên ván gỗ, diềm có trang trí hình hoa lá 16 bức minh họa cho
d
nội dung 16 chữ Hán theo kiểu liên hoàn: Bách, Cốc, Phong, Đăng, Vạn, Niên, Kỳ,
Phúc, Chúc, Thọ, Thánh, Hoàng, Tư, Dân, An, Thái. Phía dưới có 8 bức tranh vẽ trên
l .
giá gỗ theo 8 chủ đề thể hiện các tầng lớp trong xã hội xưa là: Ngư, Tiều, Canh, Mục,
n
Sĩ, Nông, Công, Thương. Nét vẽ tinh tế, dùng nhiều nét vàng trên nền đỏ tươi. Dưới v mỗi bức tranh là bài thơ thất ngôn bát cú. Bộ tranh cổ này được treo ở nhà bái đường
80
w
Đình làng Vẽ (tên nôm của làng Đông Ngạc) từ lâu, nội dung mô tả xã hội phong kiến
w
đương thời. Giá trị của những bức tranh này không chỉ nằm ở đường nét thể hiện, nét vẽ
tinh tế mà nó còn là một trong những bộ tranh cổ hiếm có của đất Thăng Long còn được
w
lưu giữ trong dân gian.
- Đình Lỗ Hạnh: (Thôn Lỗ - xã Đông Lỗ - huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang)
Đình được ghi danh "Đệ nhất Kinh Bắc" xây từ 1576. Được xây dựng thời nhà
.
k Trong hậu cung có 2 bức tranh sơn mài cỡ lớn 2,23m x 1m, mỗi bức vẽ 4 tố
Mạc năm Sùng Khang thứ 11 (1576).
h
nữ đánh đàn, dân gian vẫn gọi là bộ "Bát Tiên" (8 cô tiên đứng trên đài mây) đây là
2 bức tranh nghệ thuật vẽ bằng sơn được đánh giá sớm nhất ở Việt Nam. Đây là
c
một giá trị độc đáo của Đình Lỗ Hạnh và của đất Kinh Bắc.
n
- Đình La Xuyên (xã Yên Ninh - huyện Ý Yên - Nam Định)
Nằm tại vùng có làng nghề sơn quang truyền thống nổi tiếng, nơi đây có bức
tranh "Thành hoàng" vẽ bằng sơn ta.
m
- Lăng Đồng Khánh (Thôn Thượng Hai - xã Thủy Xuân - Thành phố Huế)
Điện Ngưng Hy là công trình kiến trúc nổi bật trong quần thể di tích lăng Đồng
Khánh (còn gọi là Tư Lăng xây 1888). Đây là nơi bảo lưu nghệ thuật sơn son thếp
t -
vàng, nghệ thuật sơn mài nổi tiếng của Việt Nam. Trên các đố bản ở nội thất là hàng
b
loạt các ô hộc trang trí các đề tài mai điểu, tùng lộc, liên áp, trúc tước… bằng sơn mài,
v
ghép khảm và chạm nổi. Đặc biệt trong chính điện còn có 24 đố bản vẽ các bức tranh
trong điển tích "Nhị thập tứ hiếu" kể về những tấm gương hiếu thảo của người xưa
h
theo điển tích Trung Quốc.
Bên trong điện, các nghệ nhân đã tạo ra được một không gian nội thất vàng son
lộng lẫy. Hàng trăm hình ảnh và câu thơ được chạm khắc hoặc viết vẽ làm đẹp cho
t t
d
kiến trúc. Hệ thống cột kèo tiền điện cũng sơn son thếp vàng. Màu sắc, hình trang trí
rực rỡ, lộng lẫy.
- Tranh sơn "Vua Lý Nam Đế và Hoàng hậu" tại BTMTVN
l .
Tại Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam có lưu giữ Bức tranh "Vua Lý Nam Đế và
n
Hoàng Hậu" (Sưu tập tại Thái Bình - TKXVIII - Sơn quang dầu trên gỗ - 112 x v
81
w
182cm). Đây là tác phẩm hội họa, tỷ lệ nhân vật to nhỏ theo địa vị xã hội, bố cục cân
w
xứng chắc chắn, không gian hai chiều ước lệ, các mảng được phân bố rõ ràng, đường
nét tinh tế nổi bật chủ đề chính, thể hiện được thần của nhân vật. Các họa tiết vàng son
w
rực rỡ tạo vẻ sang trọng quý phái cho nhân vật chính và bức tranh.
Ngoài những tranh nhân vật dùng để thờ còn có tranh sơn vẽ các vị La Hán, Thập
.
điện Diêm vương như ở: Chùa Trăm Gian (còn có tên Quảng Nghiêm, Tiên Lữ, Sở) ở
k Điều độc đáo ở Chùa Trăm Gian là bộ tranh 18 vị La Hán. Ở các chùa khác các
thôn Tiên Lữ - xã Tiên Phương - huyện Chương Mỹ - Hà Nội.
h
vị La Hán thường là tượng gỗ phủ sơn được các nghệ nhân tạc thành trông rất sinh
động. 18 vị La Hán ở Chùa Trăm Gian được vẽ trên ván gỗ theo kỹ thuật chạm nổi
c
nông rồi phủ sơn, mỗi người một vẻ, dáng điệu sinh động, trông rất thoáng hoạt làm
n
phong phú cho nghệ thuật Chùa Trăm Gian. Các bức tranh sơn ở 2 hành lang mỗi bên
đặt 9 bức tranh các vị La Hán và 2 bức tranh cổ. Theo lời kể của dân địa phương trước
m
đây có 8 bức tranh cổ có từ rất lâu nhưng bị thất lạc mất 4 trong quá trình biến động
của lịch sử. Ở hành lang bên phải (từ cửa chùa nhìn vào) bức thứ nhất vẽ cảnh tòa án
đang xét xử, phía trên là một người ngồi sau bàn nét mặt oai vệ cầm bút phê vào bản
t -
án, có 2 người giơ tay như phân bua trình bày, phía dưới có 2 nhận vật trông rất dữ tợn
b
cầm kìm, chày đang chuẩn bị tra tấn một người nằm trong cái cối. Bên dưới góc trái có
hình Phật Quan âm nét mặt đượm buồn, đứng giữa đám mây ngũ sắc. Bức thứ 2 vẽ
v
cảnh vị quan phê vào bản án có 2 người phục vụ bên cạnh, 2 vị quan cận thần không
còn phân bua gì, chỉ còn khoanh tay ngồi chứng kiến hình phạt thảm khốc. Phía dưới
h
là cảnh hành hình, một dị nhân có sừng, râu lởm chởm trông như sư tử, rất gớm ghiếc,
đặt cái khoan lên đầu tội nhân; một dị nhân khác mình người đầu chó đang nắm một
t t
người quỳ, tay trói đằng sau. Không gian bức tranh chia 2, nửa trên màu ghi ảm đạm,
d
nửa dưới màu đen xám có hình một đám hỗn độn… 2 bức tranh có sự khác nhau ở bố
cục và tổ chức nhân vật. Hai bức tranh ở hành lang đối diện thì khác hẳn, bức phía
ngoài vẽ một vị quan oai vệ cùng lính hầu đi thị sát, đằng sau là hình con ngựa đen;
l .
bức tiếp sau vẽ một vị sư đang thuyết pháp khuyên răn 2 người một trẻ, một già… Với
n
một không gian ước lệ, phân mảng hợp lý mà chỉ trong một khuôn khổ không lớn v
82
w
(khoảng 110 x 50 cm) mà họa sĩ dân gian khái quát được một không gian lớn, thể hiện
w
dương thế, âm thế khoảng cách thật mong manh, ý tưởng, đề tài có tính giáo dục, răn đời
khuyến khích điều thiện, nếu làm điều ác sẽ bị trừng trị; ý tưởng, triết lý Phương Đông
w
qua các tranh sơn cổ ở Chùa Quảng Nghiêm tương đồng với những bức "ngày phán xử
cuối cùng" trong hội họa Phương Tây.
.
Đề tài Thập điện Diêm vương là tranh sơn còn được lưu giữ ở chùa Nhạ Phúc (xã
k
Lại Yên - Hà Nội, chùa được xây từ thời vưa Trần Anh Tông (trị vì từ 1293 - 1314),
Chùa Huyền Kỳ (xã Phú Lãm - huyện Thanh Oai - Hà Nội, chùa còn có tên là Hiển
h
Minh Tự), có phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Những tranh sơn đề tài vẽ các con vật linh, cây, hoa cũng được các họa công thể
c
hiện, cụ thể như: ở Chùa Dâu (xã Thanh Khương - huyện Thuận Thành - Bắc Ninh,
n
chùa có tên Diêm Ứng Tự, Pháp Vân Tự, Thiền Đình Tự, Cổ Châu Tự; được xây từ
thế kỷ II, 187 - 226). Vẻ đẹp của kiến trúc và điêu khắc Chùa Dâu là hoàn thiện, nhưng
m
ít ai chú ý những bức tranh trên trần và khung gỗ bao quanh đặt tượng các vị thần. Bức
tranh trần ở gian thờ trong, giữa có hình vòng tròn âm dương, xung quanh có hình
ngọn lửa sáng trắng, hình rồng, mây màu nâu, xanh trên nền màu nâu đỏ. Bức tranh
được đặt ở vị trí trang trọng, mang nghệ thuật tôn giáo, có các cặp đối lập âm dương,
t -
rồng - mây … bức tranh thể hiện sự ngưỡng vọng với mặt trời, nước và những biểu
b
tượng phối ngẫu để tạo nên sự sống, nước rất quan trọng đối với cư dân nông nghiệp.
v
Ở khung gỗ đặt tượng phía dưới các mặt đều vẽ hình các con vật linh như rùa, ly vật
có vẩy, chân có móng, có vây), rồng, nước, mây… Mỗi bên chia làm 4 ô to, 8 ô nhỏ,
h
vẽ hình 2 bên tương tự nhau. Các ô hộc ở đây đều có hình trang trí như vân mây, hoa
văn sóng nước uốn lượn mềm mại tạo chất trang trí. Nền tranh màu đỏ tươi hình vẽ
màu vàng… Toàn bộ bức tranh tạo vẻ bề thế, lộng lẫy cho kiến trúc, điêu khắc, để tài
t t
d
tôn lên vẻ uy nghi cho điêu khắc tạo cảm giác vừa gần gũi vừa thiêng liêng.
Tại Đền thờ vua Lê Đại Hành - Hoa Lư - Ninh Bình có bức tranh sơn cổ "Hoa
sen" treo trên cổng chính ở Bái Đường. Bức tranh sơn son thếp vàng vẽ hai bên khóm
l .
sen, khóm trúc, giữa là câu đối minh họa truyền thuyết bà mẹ Lê Hoàn nhân mơ thấy
n
hoa sen mà sinh ra quý tử - sau là vua Lê Đại Hành. Kỹ thuật làm bức tranh này không v
83
w
khác lối làm hoành phi câu đối, lối khắc chìm phủ sơn lên trên, tùy độ khắc nông sâu
w
mà tạo nên hiệu quả … [55, tr 15]
Qua các bức tranh son cổ còn lại tại các di tích lịch sử chúng ta thấy tranh sơn
w
Việt Nam có lịch sử khá lâu, đa số được vẽ vào thế kỷ XVI, XVII, XVIII, XIX. Kỹ
thuật theo lối vẽ một lớp hoặc nhiều lớp, tranh sơn đắp hoặc chạm nổi phủ sơn. Ở
tranh được vẽ mỏng màu sắc chủ yếu là son, then, vàng, xanh lục có những nét nhỏ chi
.
k
tiết, nét màu vàng phẳng chồng lên lớp sơn son mịn. Ở tranh sơn đắp vẽ nhiều lượt,
các lớp sơn vẽ chồng lên nhau, có chỗ vẽ thoáng, có mảng màu tô cẩn thận, chỗ để mịn,
h
chỗ để lại nét bút, thời gian lâu dài đã tạo sắc độ sâu và cảm giác về màu khác nhau;
có bức được mài sơ trên bản vẽ. Kỹ thuật thếp vàng (vàng sống hoặc vàng hơ qua lửa)
c
tạo những hiệu quả khác nhau. Kỹ thuật đắp nổi bột đá trắng, xanh, màu ngà (có người
n
cho rằng đó là bột ngà voi)… tạo sự phong phú của màu. [54, tr 13]
Vị trí của tranh sơn cổ ở các di tích, kiến trúc cổ như tranh trần, tranh cửa, bích
họa, tranh thờ, tranh liên hoàn… Có những bức vẽ trên ván nong, cốn, hay trong khám
m
thờ, đây không phải là những bức tranh độc lập mà là một bộ phận nằm trong cấu kiện
của kiến trúc, không có đề tài và nghệ thuật như một tác phẩm hội họa. Một số tác
phẩm đã vượt ra khỏi tính chất trang trí đơn thuần, tạo nên sự tôn kính tâm linh. Có
t -
một số tranh có thể đứng độc lập là tác phẩm hội họa nhưng đa số phải gắn với kiến
b
trúc như vậy mới tạo nên giá trị hoàn chỉnh.
v
Tác giả của các bức tranh là những nghệ nhân dân gian, thợ vẽ vô danh. Họ là
những người khéo tay, giỏi nghề được các phường thợ, làng nghề tôn vinh, giới thiệu.
h
Được ban, người phụ trách (sư trụ trì, thử từ đình, đền, phường thợ…) mời tham gia.
Còn ở Trung Quốc những bức tranh cổ được vẽ bởi những họa gia cung đình, hoa
công dân gian có tên tuổi được phong cấp về nghề nghiệp trong xã hội. Việt Nam phải
t t
đến cuối thế kỷ XIX, họa sĩ mới được ghi danh.
d
b. Giai đoạn 1925 - 1945: Giai đoạn họa sĩ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương:
l .
- Từ 1925 - 1931:
n
+ Sơn ta là môn học trong chương trình đào tạo của trường, các giáo sư người v Pháp và người Việt Nam, sinh viên đều bắt đầu học làm sơn từ thợ sơn ta, từ nghệ
84
w
nhân Đinh Văn Thành (tức Phó Thiềng) - ông rất giỏi nghề và có khả năng tổ chức.
w
Sơn ta dùng để vẽ trang trí (theo lối truyền thống), sử dụng 3 màu đen, đỏ, vàng. Tranh
vẽ xong khô là được, màu đỏ chưa mài được nên nổi cao làm mặt tranh làm không
w
phẳng.
+ 1931: Tranh sơn Việt Nam trưng bày tại Đấu xảo quốc tế Pari (cùng với hộp,
.
khay sơn mỹ nghệ). Bức Bình phong 6 tấm "Phong cảnh Bắc Kỳ" (1929-1930) của Lê
k
Phổ (1909-2002) gây tiếng vang, tác giả sử dụng then, son, vàng, bạc nhưng vẫn mang
tính trang trí. Các nhà nghiên cứu đánh giá: "Lê Phổ là một trong số ít họa sĩ Việt Nam
h
đầu tiên đặt chân trên "con đường mới" của chất liệu sơn ngàn năm cổ truyền của dân
tộc" tuy nhiên "kết quả những bước đầu ấy vẫn chưa thoát khỏi hình thức trang trí cổ
c
điển, vì trong những kỹ thuật chưa phát triển được nên còn tình trạng đóng khung
n
phương pháp cũ trong việc làm sơn cũng như pha chế chất liệu màu sắc" [23, tr.18]
Thời kỳ này tác phẩm sơn mài có ghi tên tác giả (tác phẩm hữu danh).
m
- 1931 - 1945:
+ 1931 - 1932: Phát hiện nhựa thông pha với sơn cánh gián, sơn cánh gián pha
son (từ thượng cổ đến giờ chỉ dùng dầu trẩu để pha) nên có thể vẽ chồng nhiều lớp và
t -
mài được. Thuật ngữ sơn mài ra đời (sự kiện Trần Văn Cẩn vẽ hình con phượng bằng
b
sơn then phủ bằng sơn son pha nhựa thông, nghệ nhân Đinh Văn Thành mài cho mặt
tranh phẳng, hình lộ ra).
v
Sơn ta trở thành chất liệu của hội họa (chất liệu phải thể hiện được sáng tối, xa
gần, khả năng tả chất, bảng màu phải có gam nóng, lạnh, tìm ra hệ màu lạnh) Trần Văn
h
Cẩn, Lê Phổ, Nguyễn Tường Lân, Mai Trung Thứ, Trần Quang Trân, Nguyễn Khang,
Nguyễn Văn Tỵ chú tâm nghiên cứu và chứng minh khả năng hội họa của sơn mài qua
t t
các tác phẩm. Nghiên cứu cách làm sơn mài truyền thống Nhật Bản kết hợp với kỹ
d
thuật cổ truyền của nghệ thuật sơn Việt Nam như dùng bột vàng, bạc rắc lên nền sơn,
dùng vỏ trứng gắn … cải tiến phương pháp mài và đánh bóng, mở được sự phát triển
về kỹ thuật tạo được đậm nhạt, sáng tối cho tranh sơn mài tạo hình (điều này các nước
l .
v
n
khác chưa làm bao giờ).
85
w
Bức "Bờ ao" (gòn gọi là "Cây tre bóng nước") tạo được ánh sáng, độ đậm nhạt
w
của Trần Quang Trân đã "đánh dấu một giai đoạn quyết định của Nghệ thuật sơn mài
từ nghề thủ công trang trí lên thành chất liệu của hội họa" (Nhà NC Khương Huân) [55,
w
tr.103]
+ 1935: Bảng màu sơn mài phong phú hơn: đen, đỏ, vàng, cánh gián, trắng bạc,
.
trắng vỏ trứng, màu vỏ trai, mạnh dạn đưa màu xanh lam.
+ 1940: Dùng màu trắng (mới) là titane, đây là phát hiện có tính nhảy vọt đối với k hội họa sơn mài Việt Nam - đây là quá trình "hiện đại hóa" chất liệu cổ truyền (xuất
h
hiện thuật ngữ "sơn mài sáng" là chất sơn có chất khác truyền thống - "sơn mài đồng
nhất" là đồng nhất về chất sơn). [23, tr 29]
c
+ Một số triển lãm, tác giả, tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ này:
n
1931, 1937: tranh trang trí sơn ta, tranh sơn mài tại đấu xảo quốc tế Pari - Pháp.
Triển lãm Golden Gate: 1932 ở Roma, 1934 ở Milan - Ý, 1935 ở Bruxelles - Bỉ, 1938
m
ở San Francisco. 1939 TL sơn mài cá nhân của Nguyễn Gia Trí, 1940 TL sơn mài của
các họa sĩ Trường CĐMTĐD (tại trường - 42 Yết Kiêu - Hà Nội), 1942 TL tranh sơn
mài của Nguyễn Văn Ty (tại Nhà Khai Trí, Tiến, Đức - 16 Lê Thái Tổ - Hà Nội), TL
t -
tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí và Phạm Hậu tại Nhà Thông tin (45 Tràng Tiền -
b
Hà Nội). Tác phẩm tiêu biểu: "Phong cảnh Bắc Kỳ" (1931) - Lê Phổ; "Bờ ao" hay
"Cây tre bóng nước" (1932) - Trần Quang Trần; "Lùm tre nông thôn" (1938); "Hoa
v
Phù Dung", "Vườn xuân" (1939), "Thiếu nữ bên hồ sen", "Bên hồ Hoàn Kiếm" (1940)
của Nguyễn Gia Trí, "Hội chùa" (1942) của Lê Quốc Lộc và Nguyễn Văn Quế; "Đánh
h
cá đêm trăng" (1940-1943) - Nguyễn Khang; "Cá", "Gió mùa hạ" (1940) - Phạm Hậu;
"Thiếu nữ đi trên đồng lúa" (1940) - Nguyễn Tiến Chung; "Ghềnh thác Chợ Bờ" (1940)
t t
tập thể sinh viên trường CĐMTĐD; "Thiếu nữ và biển" (1940-1943) - Nguyễn Văn Tỵ;
d
"Ba thiếu nữ" (1940) - Trần Phúc Duyên; "Phong cảnh" (1943), "Chăn trâu dưới gốc
thông" (1944) - Nguyễn Trọng Hợp; "Trong vườn" (1943), "Đi chợ tết về qua đình"
(1944) - Sỹ Ngọc; "Phong cảnh chùa Thầy" (1940-1945) - không rõ tác giả … Phương
l .
pháp sáng tác cơ bản là hiện thực nên thơ hay hiện thực mộng mơ, có một số tác phẩm
v
n
theo khuynh hướng tượng trưng, lập thể, trừu tượng.
86
w
Tranh sơn mài Việt Nam manh nha hình thành từ cuối những năm 20, xuất hiện
w
đầu những năm 30 thế kỷ XX, đó là sự tìm tòi, thể nghiệm, sáng tạo của nghệ nhân và
nghệ sĩ đã phát hiện khả năng hội họa của chất liệu sơn ta truyền thống, tuy vậy tranh
w
sơn mài thời kỳ này vẫn ảnh hưởng chất trang trí (một thế mạnh của chất liệu). Các
họa sĩ Việt Nam đã phát huy được ưu thế của nghệ thuật truyền thống và được sự đào
.
tạo của các nghệ sĩ Pháp - Việt chân chính đã tạo nên tranh sơn mài loại tranh đặc sắc
k c. Giai đoạn 1945 - 1954: Thời kỳ nước Việt Nam DCCH và Kháng chiến chống
của Người Việt (xem phần 1.2).
h
Thực dân Pháp - Giai đoạn chuyển giao mỹ thuật, xây dựng một nền văn hóa, mỹ thuật
Việt Nam của một nước độc lập tự chủ (lần đầu tiên có tên trên bản đồ Thế giới).
c
Sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945) thì Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật
n
Đông Dương cũng phải giải thể, khép lại thời kỳ đầu của mỹ thuật Việt Nam trong hai
chục năm trước Cách mạng Tháng 8. Những sự tìm tòi, sáng tạo của các hoạ sỹ về chất
m
liệu, nghệ thuật sơn mài cũng bị gián đoạn. Cách mạng Tháng 8 thành công dân tộc ta
lại phải bước vào một cuộc kháng chiến 9 năm đầy gian khổ mà hào hùng. Hầu hết các
hoạ sỹ đã một lòng theo cách mạng, từ giã quê hương, thành phố để đi kháng chiến,
t -
người thì lên Việt Bắc, Tây Bắc, người về khu 3, người vào khu 4 cũng có người như
b
Nguyễn Đỗ Cung, Văn Giáo đã tình nguyện lên đường Nam tiến. Lịch sử đã ghi nhận
vai trò và trách nhiệm của giới mỹ thuật Việt Nam trước vận mệnh của đất nước, của
v
dân tộc, đây cũng là một nét đặc thù một yếu tố hết sức quan trọng để giới mỹ thuật
Việt Nam có những tác phẩm “để đời", những bước phát triển rực rỡ (nhất là nền hội
h
hoạ sơn mài) của những giai đoạn kế tiếp.
Ngoài việc tiếp tục sáng tác về hội hoạ các hoạ sỹ đã dồn nhiều tâm huyết vào
t t
những công việc phục vụ cho kháng chiến như: vẽ tranh cổ động, vẽ tranh địch vận,
d
thành lập những đội tuyên truyền, những đoàn văn hoá cứu quốc, triển lãm lưu động
để cổ vũ toàn dân tăng gia sản xuất, hăng hái tòng quân, ủng hộ tiền tuyến, giết giặc
lập công v.v.
l .
Từ những nghệ sỹ sáng tác thiên về đề tài thiếu nữ, hội hè đình đám, bờ tre
n
bóng nước, hươu, nai, cá cảnh. Nay họ đã nhanh chóng hoà nhập vào trào lưu của v
87
w
dân tộc, của cách mạng với cuộc sống sôi động, muôn hình muôn vẻ của nhân dân
w
và bộ đội, ngoài những tranh tuyên truyền cổ động được in hàng loạt, tranh tường
tranh in trên báo, giới mỹ thuật kháng chiến còn tổ chức rất nhiều cuộc triển lãm
w
lưu động và tổ chức được cả những triển lãm mỹ thuật mang tính toàn quốc như ở
Đào Giã năm 1948, ở Chiêm Hoá (Tuyên Quang) 1951.
.
Năm 1950 (20/12) Trường Mỹ thuật Kháng chiến được thành lập, đây là một mô
k
hình đào tạo rất mới mẻ vừa học tập trau dồi về chuyên môn vừa gắn các bài làm, bài
tập với nhiệm vụ cấp bách của toàn quân, toàn dân là thường xuyên tổ chức trưng bày
h
các tác phẩm, các bài làm nhằm phục vụ cho các cuộc vận động, thi đua sản xuất, tiết
kiệm, đóng thuế nông nghiệp, hăng hái đi làm dân công “tất cả cho tiền tuyến’’ điều
c
này đã cổ động cho công cuộc kháng chiến rất nhiều. Ngay trong ngày khai giảng
n
Hiệu trưởng Tô Ngọc Vân đã nhấn mạnh: “... Nhận của nhân dân cơm áo chúng ta
phải trả lại nhân dân bằng hội hoạ, bằng cách đem hội hoạ phụng sự nhân dân, làm
m
đẹp cuộc đời của nhân dân, hướng dẫn để nâng cao trình độ thưởng thức hội hoạ của
nhân dân, đứng trên lập trường ấy chúng ta ghi câu khẩu hiệu: hội hoạ là công tác,
người vẽ là một cán bộ, ở đây chúng ta đồng tình với những bậc tiền bối, danh sư của
t -
hội hoạ cổ điển đem nghệ thuật mà phục vụ một Đạo, nhưng cái đạo của chúng ta là
b
đạo làm một người của nhân dân …". Danh hoạ Tô Ngọc Vân đã xác định cho các
đồng nghiệp và học trò của mình về vai trò và nhiệm vụ của người nghệ sỹ đối với đất
v
nước, đối với nhân dân đặc biệt là nhiệm vụ nâng cao nhận thức thẩm mỹ cho nhân
dân, nâng cao trình độ thưởng thức nghệ thuật của nhân dân. Điều này cho mãi tới
h
những năm sau này chúng ta vẫn cố gắng làm cho tốt điều đó bởi lẽ nghệ thuật ngày
càng phát triển cao lên thì khoảng cách giữa công chúng thưởng ngoạn với cấp độ của
t t
tác phẩm nghệ thuật ngày một lớn. Nhận thức và trình độ thưởng ngoạn tác phẩm nghệ
d
thuật của công chúng nếu không được nâng cao sẽ không thể lĩnh hội được.
Ngày 10/12/1951 nhân dịp TLMTTQ lần thứ 4 tại Chiêm Hóa - Tuyên Quang.
l .
v
n
Hồ Chí Minh đã viết thư gửi các nghệ sĩ nhân dịp triển lãm, Người viết:
88
w
Gửi anh em họa sĩ.
w
Biết tin có cuộc trưng bày, tiếc vì bận quá, không đi xem được, tôi gửi lời thân ái
hỏi thăm anh chị em. Nhân tiện, tôi nói vài ý kiến của tôi đối với nghệ thuật, để anh
w
chị em tham khảo.
Văn hóa Nghệ thuật cũng là một mặt trận.
.
Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.
Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ Nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là: k Phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là Công,
h
Nông, Binh.
Để làm tròn nhiệm vụ, chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng,
c
nói tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết,
n
trước hết.
Về sáng tác thì cần phải hiểu thấu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân.
m
Như thế, mới bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta, đồng
thời để giúp phát triển và nâng cao cho tinh thần ấy, kháng chiến tiến bộ mạnh. Quân
và dân ta tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi, thì anh chị em nghệ thuật cần phải dùng phương
t -
pháp phê bình và tự phê bình để tiến bộ mãi.
b
Chắc có người nghĩ: Cụ Hồ đưa nghệ thuật vào chính trị. Đúng lắm. Văn hóa
Nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh
v
tế và chính trị.
Tiền đồ dân tộc ta rất vẻ vang, tiền đồ nghệ thuật ta rất rộng rãi. Chúc anh chị
h
em mạnh khỏe, tiến bộ, thành công.
Hồ Chí Minh [13 tr 578 – 579 ]
t t
Tư tưởng của Hồ Chủ tịch là "Sợi chỉ đỏ" xuyên suốt cho mỹ thuật Việt Nam.
d
Riêng với kỹ thuật và nghệ thuật sơn mài thì sao? Chúng ta đều biết rằng muốn
có được đủ các nguyên vật liệu, đồ nghề, phương tiện để vẽ tranh sơn mài trong hoàn
cảnh ở những vùng kháng chiến vô cùng thiếu thốn, gian khổ là một điều hết sức nan
l .
giải. Năm 1947 họa sĩ Tô Ngọc Vân lúc đó là trưởng đoàn Văn hoá Cứu quốc ở khu X,
n
đoàn gồm các ông Thế Lữ, Phan Khôi, Bùi Huy Phồn, Nguyễn Tuân, Nguyễn v
89
w
Khang… Cùng hoạt động và sáng tác văn nghệ, họa sĩ Tô Ngọc Vân đã tổ chức một
w
xưởng khắc và in tranh tuyên truyền trên một quả đồi lớn ở làng Xuân Áng, giữa xứ sở
của vùng cây sơn Phú Thọ. Tại đây, họa sĩ Tô Ngọc Vân và Nguyễn Tư Nghiêm đã
w
tranh thủ nghiên cứu sáng tác tranh sơn mài, hai hoạ sĩ đã tìm được màu lục bổ sung
cho bảng màu sơn mài một hệ lạnh mà xưa nay nó vẫn thiếu. Họa sỹ Nguyễn Tư
.
Nghiêm đánh giá: "Màu xanh lục trong sơn mài không phải là một phát hiện gì, mà do
k
kháng chiến đòi hỏi. Vì vẽ bộ đội nên nghĩ đến màu xanh (lam Phổ phủ lên vàng
thếp)" hay". Trong kháng chiến bất kể thứ gì cho màu đều được dùng thậm chí cả
h
thuốc chữa bệnh. Ngân chi tử vào cánh gián để ra màu xanh! Có thể lam Phổ phủ lên
vàng thếp thì đúng rồi. Mặc dù hoàn cảnh khó khăn nhưng việc tìm màu cũng còn tùy
c
thuộc vào sự đòi hỏi".
n
Năm 1948, với màu lục vừa tìm được Nguyễn Tư Nghiêm đã sáng tác bức tranh
“Bộ đội thổi sáo dưới nhà sàn" tuyệt đẹp; mấy tàu lá chuối xanh rờn đột ngột hiện lên
m
dưới ánh nắng như reo hát cùng cái bắp chuối đỏ tía của son nhì, kích thích mạnh mẽ
hoà sắc vàng - son, đem lại cho nó một màu bổ túc mới mẻ, xưa nay chưa từng có
trong thế giới sơn mài truyền thống. (Bức tranh này đã được chọn làm quà tặng cho
t -
Đại hội Thanh niên thế giới vì hoà bình 1953 tổ chức tại Bucarest). Kết quả đầy triển
b
vọng của họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm đó gây hào hứng, họa sĩ Tô Ngọc Vân bắt tay
ngay vào sáng tác bức sơn mài, ba tấm “chạy giặc trong rừng” với sự phối hợp các sắc
v
thái của màu xanh, bằng kĩ thuật lam Phổ (blue de Prusse) lên vàng thếp… [23, tr 46 - 47]
Cũng trong giai đoạn này cũng xuất hiện một số tác phẩm sơn mài như: “Tiểu đội
h
pháo” của họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, sáng tác năm 1949, với bút pháp khỏe khoắn,
sinh động, cô đọng, ca ngợi các chiến sĩ pháo binh, một binh chủng có những chiến
t t
công vang dội như chiến thắng sông Lô. Tác phẩm “Cái bát” của họa sĩ Sĩ Ngọc vẽ
d
năm 1949 với hòa sắc cổ truyền: sơn son, vàng, bạc, vỏ trai, vỏ trứng, sơn then, sơn
cánh gián … khắc họa sinh động hình ảnh bà mẹ nông thôn đang quạt mát cho anh
bộ đội dừng chân uống nước, bức tranh thể hiện tình quân dân sâu đậm, chất tạo hình
l .
mạnh mẽ, hoành tráng. Bức tranh được đánh giá là bước chuyển trong quan điểm
v
n
sáng tác của hội họa, nền hội họa cách mạng.
90
w
Ngay trong những năm chiến tranh gian khổ và oanh liệt này, niềm tin vào tiền
w
đồ và triển vọng rực rỡ của nghệ thuật sơn mài, chất liệu sơn mài của các họa sĩ không
hề suy giảm. Tại Đại hội Văn hóa toàn quốc (19/7/1948), họa sĩ Tô Ngọc Vân đã phát
w
biểu rất lạc quan rằng: “… Thể chất lộng lẫy của sơn mài làm cho nghệ sĩ khát khao đi
tìm một chất liệu mới ngon mắt và xúc động mạnh hơn sơn dầu. Thể chất cánh gián,
sơn then, vàng, bạc ở sơn mài linh biến, sinh động, không còn là thể chất không hồn
.
k
nữa. Màu sắc sơn mài đằm thắm, sắc nhị âm vang sâu rộng, rung tới tận đáy lòng
người xem... Sơn mài được điêu luyện trong tay người Việt Nam sẽ như một kỷ niệm
h
của những người đã chiến đấu cho Tự do - Hòa bình trao sang tay các nghệ sĩ trong thế
giới, góp phần vào xây dựng một nền nghệ thuật mới cho nhân loại…”
c
Thật là những ý tưởng vô cùng lạc quan, đặt rất nhiều kỳ vọng vào chất liệu và
n
nghệ thuật sơn mài mà danh họa Tô Ngọc Vân đã nhìn xa, thấy rộng, càng ngày được
chứng minh, càng trở thành hiện thực rất hùng hồn và sinh động. Ông đã ấp ủ đến cháy
bỏng trong suốt thời gian tham gia kháng chiến là khi hòa bình lập lại ông sẽ thực hiện
m
những tác phẩm sơn mài cỡ lớn, mang tính hoành tráng sử thi để ca ngợi cuộc kháng
chiến thần thánh của quân và dân ta, rất tiếc ông đã hi sinh trên đường đi thâm nhập,
ghi chép tài liệu sáng tác trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (đây là một tổn thất
t -
lớn cho giới mỹ thuật Việt Nam).
b
Bắt đầu từ giai đoạn này ở Việt Nam xuất hiện hình thức triển lãm tầm cỡ quốc
v
gia gọi là Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc (TLMTTQ) do Hội Văn hóa Cứu quốc, Hội
Văn Nghệ, Hội Mỹ thuật, Hội Nghệ sĩ Tạo hình và Bộ Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông
h
tin, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức hoặc đồng tổ chức. Có thể nói
TLMTTQ tiến trình cùng với lịch sử của nước Việt Nam hiện đại, các tác phẩm đã là
biên niên sử của mỹ thuật, thể hiện sinh động hình ảnh 2 cuộc kháng chiến, công cuộc
t t
xây dựng, bảo vệ, đổi mới, phát triển của đất nước ta.
d
Các tác phẩm được Hội đồng Nghệ thuật là các nghệ sĩ tên tuổi đại diện thẩm
định chọn lọc qua sáng tác của các nghệ sĩ cả nước nên là những tác phẩm tiêu biểu.
l .
Chúng tôi đề cập đến tranh sơn mài tại TLMTTQ của các giai đoạn mỹ thuật, gồm 17
n
cuộc. 1945, 1946, 1948, 1951, 1954, 1955, 1958, 1960, 1962, 1976, 1980, 1985, 1990, v 1995, 2000, 2005, 2010.
91
w
Giai đoạn 1945 - 1954 có TL 1945, 1946, 1948, 1951, các tác giả nòng cốt là
w
được đào tạo tại Trường CĐMTĐD và Trường Mỹ thuật Kháng chiến. Phương pháp
sáng tác từ hiện thực mộng mơ, lập thể, trìu tượng sang hiện thực cách mạng. Tại cuộc
w
TLMTTQ tháng 9/1945 (tại Nhà Khai Trí Tiến Đức - 16 Lê Thái Tổ - Hà Nội) Chủ
tịch Hồ Chí Minh đến xem và phát biểu: "Các chú vẽ nhiều thiếu nữ khỏa thân, vẽ
.
nhiều hoa, cái ấy cũng đẹp nhưng đẹp trên cao, sao các chú không vẽ cái đẹp dưới đất
k
chung quanh ta?" [22, tr.312] câu nói của lãnh tụ tối cao (Danh nhân Văn hóa Thế giới)
đã là kim chỉ nam cho văn hóa, mỹ thuật, trong đó có tranh sơn mài Việt Nam. Tác
h
phẩm đề tài tình quân dân, "Cái bát" (1949) của Nguyễn Sỹ Ngọc lần đầu tiên lối bố
cục theo phép viễn cận trực diện được thể hiện ở hội họa sơn mài, đây là tác phẩm tiêu
c
biểu của thời kỳ kháng chiến chống Pháp và "Kể từ đây, hội họa sơn mài lại đem đến
n
một ý niệm mới trên cuộc hành trình tiến vào hiện thực, thoát hẳn mối vương vấn đối
với thể thức bình phong trang trí cổ xưa Á Đông ..." [23, tr.47]
m
Tranh sơn mài thời kỳ này phải kể đến "Đêm hoa đăng" của Tạ Ty vẽ theo lối
biểu tượng (được giải thưởng cao); "Thuyền chài" của Nguyễn Khang; "Phong cảnh
Hòa bình" của Phạm Hậu; "Nữ sinh cắp tráp" (Giải của Chính phủ). "Vịnh Hạ Long"
t -
của Hoàng Tích Chù; "Tổng khởi nghĩa" (Giải của Liên đoàn xuất bản) của Phạm Văn
b
Đôn; "Lúa mới" của Trần Đình Thọ; "Chợ Bờ" của Nguyễn Văn Tỵ - Đây là những
tranh sơn mài tại TLMTTQ lần thứ 2 KM 18/8/1946 tại Nhà hát lớn Hà Nội [21,
v
tr.313]. Rồi các tác phẩm "Bộ đội nghỉ chân bên đường", "Phút giây cuối cùng",
(1948), "Khi giặc đã qua" (1949) của Tô Ngọc Vân; "Bộ đội thổi sáo dưới sàn nhà"
h
(1948) của Nguyễn Tư Nghiêm; "Cái bát" (1949) của Sĩ Ngọc; "Niềm vui", "Múa
quạt" của Nguyễn Sáng cũng là những tác phẩm sơn mài tiêu biểu của thời kỳ này.
t t
1951 họa sĩ Tạ Ty có triển lãm cá nhân về sơn mài vẽ theo lập thể.
d
d. Giai đoạn 1954 - 1964: Thời kỳ Hòa bình lập lại ở miền Bắc, miền Nam tiếp
tục cuộc đấu tranh thống nhất - Thời kỳ nghệ thuật hiện thực xã hội, đề tài mới, trọng
tâm là con người Việt Nam mới, đẹp trong lao động, sản xuất và chiến đấu. Phương
l .
pháp sáng tác: Hiện thực xã hội chủ nghĩa (mỹ thuật Việt Nam trong bối cảnh "quốc tế
n
hóa" với phe xã hội chủ nghĩa). Mỹ thuật Việt Nam trong đó có tranh sơn mài là thời v
92
w
kỳ đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa nhân vân, xuất hiện những kiệt tác tiêu
w
biểu cho mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX - Thời kỳ cổ điển của sơn mài Việt Nam. Các
tác giả là lớp đào tạo tại Trường CĐMTĐD, Mỹ thuật kháng chiến, Trường Cao đẳng
w
Mỹ thuật Việt Nam, Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp, đào tạo ở các trường mỹ thuật
nước ngoài như Liên Xô, Đức …
.
Kháng chiến thành công, hòa bình lập lại (1954), giới mỹ thuật kiêu hãnh, tự hào
k
và háo hức trước giai đoạn phát triển mới. Cả thế giới biết đến Việt Nam - Điện Biên
Phủ - Hồ Chí Minh. Không khí sáng tạo sôi động, say mê chưa từng thấy. Các họa sĩ
h
thâm nhập, gắn bó, hòa hợp cùng các tầng lớp nhân dân, cùng các vùng miền. Những
tác phẩm mang đậm hơi thở của cuộc sống đua nhau nở rộ. Phương pháp sáng tác gắn
c
liền với hiện thực xã hội được đề cao, phản ánh sinh động mọi hoạt động của xã hội vì
n
vậy những tác phẩm mỹ thuật trong giai đoạn này được công chúng rất mến mộ, tôn
vinh, đón nhận nồng nhiệt, thích thú. Sơn mài được các họa sĩ sử dụng như một thế
m
mạnh, phát huy đầy đủ tiềm năng ưu việt của sự mới lạ, bền chắc và độc đáo của nó.
Chất liệu sơn mài được các họa sĩ Việt Nam tiếp tục khám phá, sáng tạo, phát triển.
Khả năng diễn tả, biểu hiện có thể đáp ứng ở bất cứ đề tài, phong cách, trường phái
t -
nào.
b
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam) và
Trường Quốc gia Mỹ nghệ (thành lập năm 1949 - nay là trường Đại học Mỹ thuật
v
Công nghiệp) được mở cửa kịp thời, đón nhận học sinh, sinh viên tuyển chọn từ các
vùng miền từ miền xuôi đến các tỉnh thuộc vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc và một số con
h
em cán bộ miền Nam tâp kết ra Bắc, trong đó có các dân tộc Tây Nguyên.
Chuyên khoa sơn mài của trường Mỹ thuật dưới sự giảng dạy của các họa sĩ:
t t
Trần Văn Cẩn, Hoàng Tích Chù, Trần Đình Thọ, Nguyễn Đức Nùng, Sỹ Ngọc, Văn
d
Bình v.v. Chuyên khoa sơn mài của Trường Mỹ nghệ với sự dẫn dắt của các họa sĩ:
Nguyễn Khang, Trần Quang Trân, Lê Quốc Lộc, Phạm Hậu, Nguyễn Tư Nghiêm,
Phạm Đức Cường v.v. Tất thảy đều là những họa sĩ được đào tạo tại trường Mỹ thuật
l .
Đông Dương, đã có những tác phẩm “để đời” trong giai đoạn đầu tiên của nghệ thuật
n
sơn mài Việt Nam. Hai cơ sở đào tạo quan trọng này đó đáp ứng kịp thời nhu cầu phát v
93
w
triển của mỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới, thực sự trở thành những trung tâm đào
w
tạo và nghiên cứu, phát triển về chất liệu, về nghệ thuật sơn mài. Nhiều nghệ nhân nổi
tiếng trong nghề sơn ta ở các địa phương trong các làng nghề truyền thống cũng được
w
mời về trường để công tác, nghiên cứu như nghệ nhân: Đinh Văn Thành, Bùi Văn Vệ -
“Hữu xạ tự nhiên hương”, chẳng bao lâu đã có nhiều quốc gia như Bulgarie, Indonesia,
.
Trung Quốc… cũng cử các nghiên cứu sinh sang học tập về sơn mài của Việt Nam.
Thực tế cho thấy, giai đoạn sau hòa bình lập lại (1954) đến trước khi Mỹ tiến k hành chiến tranh phá hoại ra miền Bắc Việt Nam (1964) là giai đoạn phát triển phong
h
phú từ trước đến giờ trong trào lưu sáng tác mỹ thuật sôi động, chưa từng thấy. Những
triển lãm mỹ thuật mang tầm toàn quốc liên tục được tổ chức (1954, 1955, 1958, 1960,
c
1962…). Phong cách hiện thực xã hội, đậm đà tính chiến đấu, tính nhân văn, bám sát
n
đời sống xã hội… được biểu hiện, chân thực, muôn hình muôn vẻ. Đặc biệt, chất liệu
và nghệ thuật sơn mài ngày càng được khẳng định là ngôn ngữ biểu hiện chủ yếu của
nền hội họa Việt Nam. Hầu hết các họa sĩ đều lao vào học hỏi, tìm tòi, khám phá, thể
m
nghiệm và sáng tác bằng chất liệu sơn mài. Nhiều tác phẩm sơn mài rất nổi tiếng trong
giai đoạn này mà cho đến hôm nay, những kiệt tác đó vẫn là mốc son tiêu biểu, là
niềm tự hào của nền mỹ thuật đương đại của Việt Nam. và cũng không lấy làm lạ,
t -
nhiều người đã khẳng định rằng: chất liệu, kỹ thuật và nghệ thuật sơn mài được xem
b
như “quốc hoạ’’ của người Việt Nam.
v
Qua số liệu 5 kỳ TLMTTQ giai đoạn này chúng ta thấy được sự phát triển của
tranh sơn mài Việt Nam qua tỷ lệ, số lượng tranh sơn mài trên tổng số tác phẩm của
h
triển lãm: TL 1954 là 7/818, (chiếm 1,35%), TL 1955: 27/239 (chiếm 11,3%), TL
1958: 77/687 (chiếm 11,2%), TL 1960: 50/398 (chiếm 12,6%), TL 1962 có 445 tác
phẩm, có 2 tranh sơn mài đoạt Giải nhất và nhì. Các giải thưởng dành cho các tác
t t
phẩm sơn mài tại các triển lãm này như: Các giải nhất là: Bộ 3 bức "Nhớ một chiều
d
Tây Bắc", "Gặt lúa ở Việt Bắc", "Du kích trên ngọn Khao Luông" của Phan Kế An;
"Ánh sáng đến" của Lê Quốc Lộc (TL 1955) / "Tát nước đồng chiêm" của Trần Văn
l .
Cẩn; "Qua cầu khỉ" của Nguyễn Hiêm (TL 1958) / "Năm 40" và "Đọc sách" của
n
Huỳnh Văn Gấm; "Giữ lấy hòa bình" của Lê Quốc Lộc (TL 1960) / "Mùa đông sắp v đến" của Trần Văn Cẩn (TL 1962).
94
w
Giải nhì bao gồm: "Đế quốc Mỹ lại thử bom nguyên tử" của Nguyễn Đức Nùng;
w
"Đón giao thừa" của Lê Quốc Lộc (TL 1958) / "Ra đồng" và "Thuyền Hồng Gai" của
Trần Đình Thọ (TL 1960); "Hành quân qua suối" của Nguyễn Khang (TL 1962).
w
Giai ba là: "Tổ đồi công miền núi" của Hoàng Tích Chù (TL 1958) / "Bản Nậm
Na" của Văn Bình; "Hành quân ở Tây Bắc trong kháng chiến" của Nguyễn Khang;
.
"Đánh chiếm Hóc Môn" của Lê Vinh; "Chúc thọ Bác Hồ" của Hoàng Tích Chù;
k
"Được mùa" của Nguyễn Tiến Chung, "Công trường số 9 ở suối Rút Hòa Bình" của
Nguyễn Đức Cường; "Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo" của Dương Hướng Minh (TL
h
1960).
Ngoài những bức tranh sơn mài đoạt giải thưởng thì những tranh sơn mài được
c
trưng bày gây chú ý như: Triển lãm 1955 có: "Một điệu múa" của Nguyễn Tư Nghiêm,
n
"Chùa Thầy" của Phạm Hậu; Triển lãm 1958: "Lò nồi tiểu thủ công" của Kim Đồng,
"Đi chợ Bắc Hà" của Mai Văn Nam, "Con nghé - quả thực" của Nguyễn Tư Nghiêm,
m
"Bình minh trên nông trang" của Nguyễn Đức Nùng, "Chợ Mương Khương" của
Nguyễn Trọng Niết, "Tre" của Trần Đình Thọ, "Cảnh nông thôn" của Nguyễn Văn Tỵ,
"Qua bản cũ" của Lê Quốc Lộc, "Xô Viết Nghệ Tĩnh" của Phạm Văn Đôn, Sỹ Ngọc,
t -
Nguyễn Đức Nùng, Trần Đình Thọ, Huỳnh Văn Thuận, Nguyễn Văn Tỵ. Triển lãm
b
1960 có: "Bụi nứa miền xuôi" của Phan Kế An, "Mùa gặt" của Nguyễn Tiến Chung,
"Kéo lưới" Nguyễn Kim Đồng, "Quán hàng dọc đường" của Trọng Kiệm, "Trong
v
vườn" của Dương Bích Liên; ở Triển lãm 1962 phải kể đến: "Hải cảng miền Bắc" của
Nguyễn Văn Trường, "Chuyển phân ra đồng" của Trần Đình Thọ, "Nghỉ trưa" của
h
Nguyễn Sáng, "Nam - Bắc một nhà" của Nguyễn Văn Tỵ, "Vườn Đai Phong" của Trần
Thị Thanh Ngọc, "Đổi ca" của Sĩ Ngọc, "Chiều vàng" của Dương Bích Liên / "Kết nạp
t t
Đảng tại chiến trường Điện Biên Phủ" (1963) của Nguyễn Sáng, "Trái tim và nòng
d
súng" (1963) của Huỳnh Văn Gấm. [21, tr 315 - 318]
Năm 1959 các bức tranh xuất sắc của TL MTTQ 1955, 1958 được gửi tham dự
"TL 12 nước XHCN" tại Matxcơva và "Triển lãm các nước XHCN Đông Âu" gây
l .
tiếng vang cho mỹ thuật Việt Nam nhất là tranh sơn mài, bạn bè quốc tế ấn tượng
n
mạnh trước nghệ thuật độc đáo của Việt Nam, có thể nói 1954 - 1964 là thời kỳ hoàng v
95
w
kim, cổ điển của tranh sơn mài Việt Nam. "Tát nước đồng chiêm" (Trần Văn Cẩn),
w
"Con nghé quả thực" và "Đêm giao thừa bên Hồ Gươm" (Nguyễn Tư Nghiêm), "Bình
minh trên nông trang" (Nguyễn Đức Nùng), "Tổ đổi công miền núi" (Hoàng Tích Chù),
w
"Trái tim và nòng súng" (Huỳnh Văn Gấm), "Đổi ca" (Sỹ Ngọc), "Kết nạp Đảng ở
chiến trường Điện Biên Phủ" (Nguyễn Sáng), "Nhớ một chiều Tây Bắc" (Phan Kế An),
.
"Qua bản cũ" (Lê Quốc Lộc), "Tre" (Trần Đình Thọ), "Hành quân đêm" (Nguyễn
k
Hiêm), "Vịnh Hạ Long" (Văn Bình), "Nhà tranh gốc mít" (Nguyễn Văn Tỵ), "Chiều
vàng" (Dương Bích Liên), "Hành quân qua Tây Bắc" (Nguyễn Khang), "Vườn Đại
h
Phong" (Trần Thanh Ngọc)... là những tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn này, đại diện
cho tranh sơn mài kinh điển của Việt Nam, là bộ sưu tập quý mà Bảo tàng mỹ thuật
c
Việt Nam lưu giữ.
n
e. Giai đoạn từ 1964 đến 1985: Thời kỳ chống Mỹ cứu nước và trước đổi mới:
Từ 1964 đến 30/4/1975 Đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, cả nước có
m
chiến tranh, toàn dân, toàn quân, trong đó có nhiều họa sĩ, nhà điêu khắc đi chiến
trường B, C góp xương máu, tài năng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất
nước. Giai đoạn mỹ thuật được các nhà chuyên môn gọi là giai đoạn thời kỳ chống Mỹ
t -
cứu nước và trước đổi mới, có 3 TLMT TQ (đúng nghĩa là toàn quốc) 1976, 1980,
b
1985.
TLMTTQ lần thứ 10 tại Nhà TL Vân Hồ - Hà Nội, 1976 có 672 tác phẩm của
v
421 tác giả. Có 63 tranh sơn mài trên 442 TP hội họa, đồ họa (chiếm 14,3%). Tác
phẩm "Lòng đất" của Trần Văn Cẩn đoạt giải A (có 8 giải A). Đặc biệt ở Triển lãm
h
này trưng bày 36 tranh tượng tiêu biểu của giai đoạn 1945-1963 trong đó có 14 tranh
sơn mài của các tác giả ghi dấu ấn cho sơn mài Việt Nam: Phan Kế An với "Gặt lúa ở
t t
Việt Bắc" (1955), "Nhớ một chiều Tây Bắc" (1955), "Bụi nước miền xuôi" (1960);
d
Trần Văn Cẩn với "Tát nước đồng chiêm" (1958); Hoàng Tích Chù có "Tổ đổi công
miền núi" (1958); Huỳnh Văn Gấm có "Trái tim và nòng súng" (1963); Nguyễn Tư
Nghiêm với con nghé quả thực" (1957), "Nông dân đấu tranh chống thuế" (1960),
l .
"Đêm giao thừa ở Hồ Gươm" (1957); "Bình minh trên nông trang" (1958) của Nguyễn
n
Đức Nùng; "Nghỉ trưa" (1959), "Kết nạp Đảng trong chiến hào Điện Biên Phủ" (1963) v
96
w
của Nguyễn Sáng; "Hành quân đêm" (1958) của Trần Đình Thọ; "Du kích Bắc Sơn về
w
bản" (1958), "Nam Bắc một nhà" (1961) của Nguyễn Văn Tỵ. Phương pháp sáng tác
vẫn tuân thủ theo Chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa.
w
TLMTTQ lần thứ 11, năm 1980 (Khai mạc 19/12/1980 tại TL Giảng Võ - Hà Nội)
có 825 tác phẩm của 507 tác giả. Ngôn ngữ tạo hình dần phát triển phong phú hơn
.
trước. Bên cạnh phương pháp thực hiện đã có những phong cách khác. Tác phẩm sơn
k
mài đoạt giải A có: "Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc" của Dương Bích Liên, "Xây trụ
cầu Thăng Long" của Lò An Quang, "Bà mẹ kháng chiến" của Hoàng Trầm, "Niềm
h
tin" của Dương Viên. Giải B có: "Lòng đất" của Phạm Việt, vậy là có 5 tranh sơn mài
c
trên 20 tác phẩm giải chính thức. Ngoài ra còn cần kể đến: "Tượng đài chiến sĩ vô
danh" của Quang Thọ, "Múa vòng" của Nguyễn Sáng là những tranh sơn mài gây ấn
n
tượng.
TLMTTQ lần thứ 12, năm 1985 (cuộc Triển lãm cuối của thời bao cấp) khai mạc
m
16/11/1985 tại Nhà Triển lãm Vân Hồ - Hà Nội. Có 716 tác phẩm của 506 tác giả, 589
tranh của 419 họa sĩ trong đó có 80 tranh sơn mài (chiếm 13,6% số tác phẩm hội họa,
đồ họa). "Phong cảnh" của Phạm Việt Hải, "Chợ hoa ngày tết" của Đặng Thu Hương,
t -
"Mặt trận phía nam cầu chữ Y" của Huỳnh Phương Đông đoạt Huy chương Bạc; "Về
b
phép" của Trần Đốc đoạt giải khuyến khích... Một số tranh sơn mài trong triển lãm gây
ấn tượng như: "Hàm Rồng quyết thắng" của Văn Bình, "Giải phóng" của Quách Phong.
v
Điều đáng nói ở triển lãm 1985 là có những tác phẩm có giá trị lịch sử chính luận, thể
h
hiện chân thực hiện thực đất nước đầy gian khó, có nhiều tác phẩm có chất lượng cao.
Trong 3 TLMTTQ (1976, 1980, 1985) giai đoạn mỹ thuật trước thời kỳ đổi mới
xuất hiện những bức tranh sơn mài cỡ lớn được sáng tác tập thể, đó là: "Chiếm phủ
t t
Khâm Sai" (153x314cm -1976) do Văn Bình, Nguyễn Trọng Cát, Đỗ Hữu Huề sáng
d
tác; "Phân xưởng tẩy nhuộm nhà máy dệt kim Đông Xuân" (120x250cm - 1976) của
Trần Cẩn, Nguyễn Văn Chư, Huỳnh Thị Triết; "Bác Hồ về thăm Pắc Pó" (120x240cm
l .
- 1976) của Nguyễn Văn Chung; "Đóng tàu" (151x324cm - 1976) của Nguyễn Văn
n
Chư, Nguyễn Cường Đệ, Tạ Diệu Tâm, Trần Tiến; "Một chặng nghỉ trên đường v Trường Sơn" (120x221cm - 1976) của Đinh Trọng Khang, Vũ Giáng Hương, Nguyễn
97
w
Tiểu Bạch; "Mùa gặt 1975 ở Củ Chi" (123x244cm - 1976), "Giải phóng" (125x245cm
w
- 1985) của Quách Phong; "Ngày 2-9-1945" (153x382cm - 1976) của Văn Thơ;
"Những người mẹ" (152x228cm - 1980) của Đỗ Xuân Doãn; "Niềm tin" (152x305cm -
w
1980) của Dương Viên; "Lòng đất" (205x153cm - 1980) của Phạm Việt; "Một chương
đánh mỹ" (120x760cm - 1980) của Huy Toàn; "Vịnh Hạ Long" (180x228cm - 1980)
.
của Nguyễn Văn Tỵ; "Hàm Rồng quyết thắng" (191x225cm - 1985) của Nguyễn Văn
k Như vậy có 15 tranh sơn mài / 27 tác phẩm cỡ lớn ở những triển lãm này. Thời
Bình.
h
bao cấp khó khăn mà vẫn làm được như vậy thật đáng khâm phục!.
Có thể thấy rằng qua giai đoạn hình thành, tìm tòi 1930-1954, giai đoạn phát
c
triển rực rỡ, khẳng định 1954-1964 thì đến giai đoạn 1964-1985 tranh sơn mài Việt
n
Nam thật vững vàng là một loại hình tạo hình đặc sắc. Từ phương pháp sáng tác hiện
thực nên thơ đến hiện thực xã hội chủ nghĩa và bổ sung thêm những phong cách mới,
m
những thủ pháp nghệ thuật hiện đại. Tuân thủ cách làm truyền thống, các tác phẩm sơn
mài giai đoạn này đã đề cập đến đề tài lịch sử có tính hoành tráng, mở rộng được khả
năng của ngôn ngữ tạo hình. Các tác giả nắm vững chất liệu, kỹ thuật thể hiện. Tranh
sơn mài giai đoạn này mang một sắc thái mới.
t -
g. Giai đoạn 1986 đến 1999: Thời kỳ Đổi mới - Mở cửa:
b
Năm 1986 đánh dấu đất nước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa, giao lưu hội nhập.
v
Nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường (theo
định hướng Xã hội Chủ nghĩa). Xuất hiện thị trường mỹ thuật. Bên cạnh phương pháp
h
hiện thực các phương pháp khác (lập thể, trìu tượng, siêu thực ...) được chấp nhận.
Trong nghệ thuật đã thấy cởi mở, cá tính, tự nhiên và phát triển phong phú hơn, như
họa sĩ Trần Lưu Hậu viết: "Khi sự sáng tạo được giải phóng, nhân cách nghệ sĩ được
t t
d
coi trọng, bản lĩnh nghệ thuật được trau dồi, thì nghệ thuật chúng ta sẽ phát triển mạnh
mẽ, phong phú, muôn màu muôn vẻ. Trong quỹ đạo tư tưởng và thẩm mỹ đúng đắn,
hãy trả lại cho nghệ thuật đời sống tự nhiên vốn có của nó ... nó sẽ tự điều chỉnh, cái gì
l .
là nghệ thuật sẽ tồn tại và cái gì phi nghệ thuật sẽ tự nó mất đi". (Lời giới thiệu trong
v
n
vựng tập TLMTTQ 1990).
98
w
TLMTTQ lẫn thứ 13, năm 1990 (khai mạc vào tháng 12/1990 tại Nhà Triển lãm
w
Vân Hồ - Hà Nội) bày 1353 tranh tượng của 822 tác giả. Trong số 1003 tác phẩm hội
họa có 175 sơn mài (chiếm 17,4% so với hội họa, 15,5% so với hội họa - đồ họa). Có 5
w
tranh khổ lớn ở triển lãm này đều là sơn mài: "Đồi cọ" (112x240cm), "Chủ tịch Hồ
Chí Minh thăm xí nghiệp may 10" (115x240cm) của Phan Kế An; "Đường mòn Hồ
Chí Minh" (100x300cm) của Lê Lam; "Chiến thắng Bạch Đằng" (180x360cm) của
.
k
Tuấn Thanh. Các tranh sơn mài đoạt giải thưởng: "Gióng" (90x120cm) của Nguyễn
Tư Nghiêm đoạt giải nhất, sau giải nhất, nhì, ba là Huy chương và giải khuyến khích.
h
Có tác phẩm: "Đi họp - Ngọn đèn chai - Tình đồng đội" của Vũ Duy Nghĩa, "Bác làm
thơ" của Đoàn Văn Nguyên, "Chống hạn" của Phùng Phẩm đoạt Huy chương vàng
c
(trong số 8 HCV). "Chị em" của Hồ Hữu Thủ, "Quê hương" của Trần Văn Bình, đoạt
n
Huy chương Bạc (trong số 11 HCB). "Dân công kháng chiến" của Trịnh Ngọc Lâm,
"Chuyện đồng áng" của Phạm Ngọc Sỹ đoạt Huy chương Đồng (trong số 17 HCĐ).
Như vậy có 8 tranh sơn mài đoạt giải / 37 giải thưởng (chiếm 21,6%), Tranh "Tây
m
Nguyên" sơn mài của Mai Văn Kế cũng gây ấn tượng.
TLMTTQ lần thứ 14, năm 1995 (Khai mạc 16/12/1995 tại Trung tâm Triển lãm
VHNT Vân Hồ - Hà Nội). Trong bối cảnh công cuộc đổi mới - mở cửa ở nước ta được
t -
9 năm, Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ (1994), hội nhập ASEAN (1995).
b
Trong nghệ thuật, các trường phái trở nên phong phú. Triển lãm trưng bày 977 tác
v
phẩm của 790 tác giả. Có 806 tác phẩm hội họa - đồ họa trong đó có 162 sơn mài
(chiếm 20,1% so với hội họa - đồ họa). Đây là giai đoạn phát triển đa dạng nhất của
h
Mỹ thuật Việt Nam từ trước đến nay. Các giải thưởng gồm có 5 giải nhì - Huy chương
Bạc (không có giải nhất - Huy chương Vàng) trong đó có: "Cõi nhân gian" sơn mài
của Hùng Khuynh, "Ông Ké cách mệnh" sơn mài của Nguyễn Thế Vị. 20 giải ba - Huy
t t
chương Đồng trong đó có tranh sơn mài: "Thu mua nông sản" của Nguyễn Văn Chư,
d
"Chợ Bắc Hà" của Trần Đốc, "Năm bơ xat" của Diệp Quý Hải, "Hoa quả" của Hoàng
Trầm, "Theo dòng thời gian" của Đào Minh Tri, "Phong cảnh" của Nguyễn Văn Tỵ. 31
l .
giải khuyến khích trong đó có tranh sơn mài: "Việc thường ngày ở bản" của Nguyễn
n
Tiểu Bạch, "Mùa thi" của Nguyễn Văn Bảng, "Phật" của Đinh Quân, "Gặp gỡ" của Vũ v Văn Quý, "Phố chợ vùng cao" của Hoàng Sùng, "Đường xuống chợ" của Phạm Ngọc
99
w
Sỹ. Ngoài ra còn có tác phẩm sơn mài đoạt Giải thưởng cho tác phẩm đề tài cách mạng,
w
đó là: "Đường Trường Sơn" của Bùi Tấn Hưng, "Hai Bà Trưng" của Nguyễn Thị Kim
(trong số 12 giải). Giải thưởng của Quỹ hỗ trợ và phát triển văn hóa Việt Nam - Thụy
w
Điển (viết tắt SIDA - dành cho tác phẩm có những tìm tòi mới) tranh sơn mài "Tế hội"
của Lưu Quang Lâm, "Đám cưới Chăm" của Nguyễn Minh Tuấn đoạt giải. Như vậy có
18 tranh sơn mài đoạt giải / 76 giải thưởng (chiếm 23,7%). Ngoài ra "Nhịp điệu" của
.
k h. Giai đoạn từ 2000 đến nay: Thời kỳ Công nghiệp hóa, Giao lưu hội nhập quốc tế.
Hoàng Tích Chù, "Tiếng diều" của Nguyễn Dũng An Hòa được chú ý. [22, tr 223]
h
Giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế (hậu đổi mới). Đây là
thời điểm kết thúc thế kỷ XX bước sang thiên niên kỷ mới. Công cuộc đổi mới và mở
c
của của Việt Nam đang đà thành công, có những thành tựu nhất định. Trong mỹ thuật
n
thị trường phát triển, nhiều nghệ sĩ sống được bằng nghề, các dịch vụ phát triển nên
tính chuyên nghiệp trong mỹ thuật ngày càng khẳng định, thể hiện rõ, chất nghiệp dư ít
m
đi nhiều. Nhà nước quan tâm, đầu tư cho mỹ thuật nhiều hơn. Trong xu thế giao lưu
hội nhập, "Thế giới phẳng", phong cách mỹ thuật đa dạng và có hướng tiếp thu nước
ngoài nhiều hơn (đó là thực tế) vì vậy vấn đề đặt ra là Bảo tồn bản sắc, bảo lưu truyền
thống bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa nghệ thuật hiện đại (vấn đề đã được Nghị quyết
t -
V của Đại hội Đảng CSVN lần thứ VIII chỉ rõ), tranh sơn mài Việt Nam cũng ở trong
b
bối cảnh như vậy.
v
TLMTTQ lần thứ 15, năm 2000 (khai mạc tháng 12/2000 tại Trung tâm Hội chợ
và Triển lãm Giảng Võ - Hà Nội) trưng bày 825 tác phẩm của 697 tác giả, có 571 tranh
h
trong đó tranh sơn mài là 152 (chiếm 26,7% so với hội họa, đồ họa, 18,4% so với tác
phẩm cả triển lãm). Trong 59 giải thưởng có tranh sơn mài "Cát Bà" của Trần Thành,
"Công xưởng" của Lê Quảng Hà, "Vì sự bình yên của đất nước" của Lê Thị Kim Bạch,
t t
d
"Một ngày ở Phù Lãng" của Nguyễn Đình Tuyên, "Lê cầu mưa" của Nguyễn Văn
Chuyên đoạt Huy chương Đồng (5/9 HCĐ hội họa, đồ họa - 5/19 HCĐ của Triển lãm);
Giải khuyến khích gồm có: "Phong cảnh chợ quê" của Nguyễn Phúc Lợi, "Ngày mùa"
l .
của Hoàng My, "Tây tiến" của Phạm Hoàng Văn, "Bảo vệ biên cương Tổ quốc" của
n
Lê Trí Dũng, "Phố Hiến ngày xuân" của Trần Duy Trúc, "Một ngày mới" của Trần v
100
w
Xuân Bình, "Đất trời" của Nguyễn Quốc Huy (chiếm 16/26 giải KK hội họa, đồ họa -
w
16/36 giải KK của Triển lãm).
Điều đáng chú ý ở TLMTTQ năm 2000 trong đó có tranh sơn mài là đề cao chủ
w
đề tư tưởng, nắm vững kỹ thuật và tạo hiệu quả, từ một phương pháp sáng tác Hiện
thực XHCN (đã chi phối mỹ thuật nửa thế kỷ) nay bên cạnh chủ nghĩa hiện thực là
.
nhiều chủ nghĩa, trường phái của nghệ thuật cận đại, hiện đại, đương đại trên thế giới
k
đã được ảnh hưởng làm phong phú phương pháp biểu hiện. Bên cạnh đó bắt đầu thể
hiện một trào lưu chung của giới trẻ là thể hiện tâm sự cá nhân trong nghệ thuật hiện
h
đại. Triển lãm này còn đánh dấu là cuộc chuyển giao thế hệ (TLMTTQ 2000 có 11 họa
sĩ trên 80 tuổi tham gia, TLMTTQ 2005 có 17 họa sĩ sinh từ 1930 trở về trước với 17
c
tác phẩm tham gia là tác giả danh dự, có 2 tranh sơn mài của họa sĩ Nguyễn Đức Toàn
n
và Ngọc Linh). Khuôn khổ của nhiều tác phẩm lớn, thể hiện tính chuyên nghiệp (đây
cũng có những ảnh hưởng từ cuộc thi Mỹ thuật ASEAN mà Việt Nam tham gia từ
m
1996).
TLMTTQ lần thứ 16, năm 2005 tổ chức tại TTTLVHNT Việt Nam - Vân Hồ -
Hà Nội: Thời gian này UNESCO công nhận và xếp hạng nhiều danh hiệu Di sản văn
t -
hóa Thế giới cho văn hóa Việt Nam cả vật thể và phi vật thể (mỹ thuật chưa có), Việt
b
Nam là điểm đến của du lịch thế giới. TLMTTQ 2005 có bước phát triển vượt bậc về
chất liệu mỹ thuật với khá nhiều chất liệu mới, kỹ thuật mới, tranh sơn mài trong triển
v
lãm có những sự thay đổi về cách thức biểu hiện, hình thức thể hiện phong phú, sự tinh
tế, phóng khoáng của bút pháp như: hiện thực, lập thể, trìu tượng ... Cách nhìn mới,
h
tạo hiệu quả mới, tuy vậy nếu theo thuật ngữ khái niệm về tranh sơn mài thì phải hiểu
rộng hơn, nhiều khi phần sơn mài chỉ là một phần của tác phẩm, kỹ thuật cẩn ghép
t t
phong phú (một số kỹ thuật kết hợp thử nghiệm như sơn mài + composit, gốm + sơn
d
mài, inox + gang + sơn mài, gỗ + sơn mài) sơn mài đắp cao ... làm cho ranh giới mỹ
thuật xâm lấn nhau giữa hội họa và điêu khắc). Có 751 tác phẩm của 659 tác giả, có
552 tranh trong đó có 168 tranh sơn mài (chiếm 30,43% hội họa - đồ họa, 22,37% tác
l .
phẩm triển lãm). Có 53 giải chính thức và 13 giải của Quỹ SIDA. Tranh sơn mài "Tan
n
ca" của Nguyễn Quốc Huy đoạt HCV (trong số 3 HCV); "Bài ca dựng nước" của v
101
w
Nguyễn Huy Hoàng, "Hội đêm" của Diệp Quý Hải đoạt HCB (trong số 8 HCB); "Chợ
w
quê tôi" của Nguyễn Văn Cường, "Nhịp sống vùng cao" của Trần Văn Đức, "Gia đình
miền quê" của Phạm Gia Hợp, "Hòa tấu" của Trần Hạo Nhiên, "Tổ ấm" của Văn Tơn,
w
"Hồi cù năm Dậu" của Trịnh Hoàng Tân đoạt giải khuyến khích (trong số 30 giải). Tác
phẩm được chú ý là "Thiên nhiên" của Công Kim Hoa. [22, tr 324, 325]
.
TLMTTQ lần thứ 17, năm 2010 (khai mạc 4/12/2010 tại TTTLVHNT Việt Nam
k
- Vân Hồ - Hà Nội). Trưng bày 836 tác phẩm của 735 tác giả, có 741 tác phẩm hội họa,
đồ họa trong đó 154 tranh sơn mài (chiếm 20,78% tác phẩm hội họa - đồ họa, 18,4%
h
tác phẩm triển lãm). Trong 48 giải thưởng có 6 tranh sơn mài (chiếm 12,5%), 1/3 Huy
chương Vàng, 1/6 Huy chương Bạc, 4/30 giải khuyến khích, đó là "Hà Nội có cầu
c
Long Biên" (120x240cm) của Nguyễn Trường Linh đoạt HCV, "Giấc xuân thì"
n
(153x240cm) của Võ Nam đoạt giải HCB; Giải Khuyến khích có: "Mạch nguồn sự
sống" của Trương Bé, "Huyền thoại bãi đá cổ" của Nguyễn Văn Chuyên, "Hạt gạo
m
làng ta" của Cao Trọng Thiềm, "Cảm xúc Tây Nguyên" của Trần Phi Trường (sở dĩ số
giải thưởng ở tranh sơn mài ít đi vì ở triển lãm này có tới 20 hạng mục chất liệu hội
họa - đồ họa). Ấn tượng về tranh sơn mài ở đây là phong cách đa dạng, đổi mới về
t -
cách nhìn hiện thực, các tác giả đã vận dụng thủ pháp của trường phái hiện thực, siêu
b
thực, ấn tượng, biểu hiện, ẩn dụ, tượng trưng, trìu tượng ... để thể hiện sáng tạo, quan
trọng là ý tưởng và thông điệp của tác giả. Đề tài tranh đa dạng từ lao động sản xuất
v
đến chiến tranh cách mạng, từ sinh hoạt đời thường, phong cảnh, lịch sử đến các vấn
đề xã hội như ô nhiễm môi trường, di chứng chiến tranh, tệ nạn, khủng hoảng xã hội ...
h
Rất nhiều tranh có khuôn khổ lớn thể hiện sự vững vàng trong xử lý bề mặt tranh của
các thế hệ tiếp nối và chứng tỏ các họa sĩ ngày nay có điều kiện để đầu tư tác phẩm. Sự
t t
xuất hiện những họa sĩ trẻ, mới cho ta thấy đã có thế hệ họa sĩ sơn mài kế tiếp, yêu
d
nghề, biết tiếp thu tinh hoa của nghệ thuật sơn mài của các bậc thày đi trước nhưng
cũng tìm tòi, sáng tạo để làm phong phú cho ngôn ngữ tạo hình và loại tranh sử dụng
chất liệu của dân tộc, vẫn giữ 'lửa" cho tranh sơn mài Việt Nam.
l .
Giai đoạn này, năm 2006 có Triển lãm Tranh sơn mài Việt Nam do Bộ Văn hóa -
n
Thông tin giao cho Vụ Mỹ thuật Nhiếp ảnh và Triển lãm - nay là Cục MTNA và Triển v
102
w
lãm tổ chức (tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chào mừng Hội nghị cấp cao APEC).
w
Triển lãm này có 96 tranh sơn mài của 81 tác giả tiêu biểu của các thời kỳ, các thể hệ.
Triển lãm Tranh sơn mài 2008 do Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức nhân kỷ niệm 57
w
năm ngày truyền thống của giới mỹ thuật Việt Nam (10/12/1951 - 10/12/2008) tại Nhà
TL 16 Ngô Quyền từ 10 đến 21/12/2008. Trưng bày 82 tác phẩm của 82 tác giả 3 miền,
.
trong đó có 7 tranh xuất sắc trong sưu tập của Hội MTVN.
Thời gian từ 1996 đến 2002 Việt Nam tham gia Cuộc thi Mỹ thuật ASEAN (do k Tập đoàn các công ty Philip Morris tài trợ). Nhiều tác phẩm tranh sơn mài Việt Nam
h
đã đoạt giải, thể hiện nghệ thuật độc đáo của Việt Nam. (Xem phần 3.2.1).
Trong lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam có điểm son đáng ghi nhớ, tự hào đó là
c
các tác giả có những tác phẩm xuất sắc được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải
n
thưởng Cao quý mang Danh hiệu: "Giải thưởng Hồ Chí Minh" "Giải thưởng Nhà
nước" dành cho tác phẩm Văn học Nghệ thuật. Có nhiều kiệt tác tranh sơn mài có giá
m
trị cao về tư tưởng và nghệ thuật của các họa sĩ tiêu biểu được trao giải thưởng.
Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Ngày 10/9/1996, Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký Quyết định số 991 KT/CTN tặng
b
t - trình văn học nghệ thuật. Mỹ thuật có 8 họa sĩ, nhà điêu khắc được nhận giải thưởng trong đó nhiều tác phẩm sơn mài. Họa sĩ Trần Văn Cẩn2 (1910 - 1994) với "Tát nước
Giải thưởng Hồ Chí Minh cho 33 công trình và cụm công trình khoa học; 44 cụm công
v
đồng chiêm" (60x92cm - 1958), "Thằng cu đất mỏ" (1962), "Mùa đông sắp đến" hay
"Mùa thu đan áo" (70x120cm - 1962), "Mưa mai trên sông Kiến" (1972). Họa sĩ
h
Nguyễn Tư Nghiêm (1922) với "Con nghé quả thực" (45x62cm - 1957), "Đêm giao
thừa" (70x150cm - 1957), "Nông dân đấu tranh chống thuế" (100x150cm - 1958),
t t
"Gióng" (100x120cm - 1976), "Tháng Gióng" (190x120cm - 1990), "Điệu múa cổ"
d
(1983). Họa sĩ Nguyễn Sáng (1923 - 1988) với "Kết nạp Đảng ở chiến hào Điện Biên
l .
v 2 Phần này người viết chỉ nêu tác phẩm sơn mài của tác giả có tranh sơn mài, tác phẩm chất liệu khác không dẫn ra ở đây.
n
Phủ" (112x180cm - 1963), "Thành đồng Tổ quốc" (112x200cm - 1978), "Bộ đội trú
103
w
mưa" (70x100cm - 1970). Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906 - 1954) với "Bộ đội nghỉ chân
w
bên đồi" (35x49,7cm - 1948).
Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký Quyết định số 392 KT/CTN ngày 1/9/2000 về
w
việc phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 2) cho 21 công trình và cụm công trình
khoa học; 40 tác phẩm và cụm tác phẩm VHNT. Có 10 họa sĩ và nhà điêu khắc được
.
trao tặng. Xin nêu ở đây các tác phẩm sơn mài đã góp phần làm nên vinh dự đó: "Tổ
k
đổi công cấy lúa miền núi" (75x100cm - 1958), "Bác Hồ trồng cây với thiếu nhi"
(112x270cm - 1971), "Mùa gặt" (100x150cm - 1970), "Đêm hậu cứ" (98x165cm -
h
1966) của Họa sĩ Hoàng Tích Chù (1912 - 2003). "Trái tim và nòng súng" (70x140cm
- 1960), "Cô Liên" (66x45cm - 1962), "Ngày chủ nhật" (58x87cm - 1972) của Họa sĩ
c
Huỳnh Văn Gấm (Võ Văn Tư) - (1922 - 1987). "Đánh cá đêm trăng" (80x190cm -
n
1943), "Hòa bình và hữu nghị" (90x90cm - 1958), "Hành quân qua suối" (1982), "Gia
đình mục đồng" (60x180 - 1982) của Họa sĩ Nguyễn Khang (1912 - 1989). "Bác Hồ đi
m
công tác" (102x183cm - 1980), "Chiều vàng" (63x92cm - 1962) của Họa sĩ Dương
Bích Liên (1924 - 1989). "Qua bản cũ" (93x131cm - 1957), "Ánh sáng đến" (1957),
"Tiểu thổ kháng chiến" (86x180cm - 1958), "Giữ lấy hòa bình" (70x120cm - 1962),
t -
"Từ trong bóng tối" (121x121cm - 1982) của Họa sĩ Lê Quốc Lộc (1918 - 1987).
b
"Tình quân dân" ("Cái bát" - 80x60cm - 1949), "Đổi ca" (75x100cm - 1962), "Chiến
dịch Điện Biên Phủ" (80x120cm - 1980), "Một ngày mới lại bắt đầu" (95x115cm -
v
1982) của Họa sĩ Nguyễn Sĩ Ngọc (1919 - 1990). "Nhà tranh gốc mít" (67x105cm -
1958), "Du kích Bắc Sơn" (80x121cm - 1958), "Bắc Nam một nhà" (86x56cm - 1961)
h
của Họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ (1917 - 1992).
Giải thưởng Nhà nước.
t t
174 tác phẩm và cụm tác phẩm VHNT xuất sắc được trao giải (theo Quyết định
d
số 611/2001/QĐ/CTN ngày 21/8/2001 do Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký). Có 32
họa sĩ và nhà điêu khắc được trao giải trong đó có 12 tác giả có tranh sơn mài. Đó là:
l .
Họa sĩ Phan Kế An (1923) với tác phẩm "Nhớ một chiều Tây Bắc" (1955), "Gặt ở
n
Việt Bắc" (1955), "Những đồi cọ" (1965). Họa sĩ Nguyễn Văn Bình (1917 - 2004) với v "Bản Nậm Nà" (1958), "Nhà tưởng niệm Bác Hồ trong rừng đước" (1979), "Bác Hồ
104
w
trong thời kỳ chống Mỹ" (1997), "Vá lưới" (1995), "Gặt" (1999). Họa sĩ Phạm Văn
w
Đôn (1918 - 2000) với "Ô Quan Chưởng" (1989). Họa sĩ Nguyễn Hiêm (1917 - 1976)
có "Hành quân đêm" (1955), "Hoa ban" (1963). Họa sĩ Đinh Trọng Khang (1935) có
w
tranh "Pắc Bó" (1982). Họa sĩ Nguyễn Trọng Kiệm (1934 - 1991) với "Những nẻo
đường kháng chiến" (1960). Họa sĩ Vũ Duy Nghĩa (1935) với "Ngọn đèn chai" (1989),
.
"Mùa thu năm ấy" (1995), "Vào mùa" (1993). Họa sĩ Trần Thị Thanh Ngọc (1925) với
k
tác phẩm "Vườn Địa Phong" (1962), "Nhà Bác Hồ trong kháng chiến" (1984). Họa sĩ
Nguyễn Đức Nùng (1914 - 1983) với tranh "Quay tơ dệt vải" (1957), "Bình minh trên
h
nông trang" (1958), "Mùa mưa trên công trường" (1963), "Đế quốc Mỹ lại thử bom
c
nguyên tử" (1958), "Nguyễn Du đi săn" (1973), "Kết nạp Đảng trong tù" (1968). Họa
sĩ Trần Huy Oánh (1937) với tác phẩm "Cầu Hàm Rồng" (1976), "Đêm Trường Sơn"
n
(1995). Họa sĩ Trần Đình Thọ với tác phẩm "Ra đồng" (1961), "Hành quân đêm"
(1974), "Tre" (1957), "Cấy ở miền núi" (1993), "Kéo pháo Điện Biên" (1994). Họa sĩ
m
Nguyễn Quang Thọ (1929) có tranh "Hà Nội những năm đánh mỹ" (1976), "Từ nhân
dân mà ra" (1980), "Tượng đài chiến sỹ vô danh" (1980). Họa sĩ Hoàng Trầm (1928)
với tác phẩm "Mẹ kháng chiến" (1980), "Tự vệ Hà Nội" (1975), "Nữ pháo binh Ngư
t -
Thủy" (1970), "Tình quân dân" (1980).
b
Năm 2007, 154 tác giả có công trình VHNT xuất sắc được tặng Giải thưởng Nhà
nước (đợt 2, theo Quyết định số 180/2007/QĐ-CTN ngày 8/2/2007 do Chủ tịch nước
v
Nguyễn Minh Triết ký). 17 họa sĩ và nhà điêu khắc được nhận vinh dự đó trong đó có
h
các tác giả có tác phẩm sơn mài. Họa sĩ Đoàn Văn Nguyên (1947) với tác phẩm "Bác
làm thơ" (1990), "Những cô gái Tây Nguyên" (1999), "Trên cao nguyên" (1995), "Đi
học chữ Bác Hồ" (1996), "Chọi trâu" (2000). Họa sĩ Quách Văn Phong (1938) có tranh
t t
d
"Xuống đường Mậu Thân 1968" (1973), "Tiến về Sài Gòn" (1985), "Mùa gặt mới ở
Củ Chi" (1985). Họa sĩ Lò An Quang (1947) có tác phẩm "Xây trụ cầu Thăng Long"
(1977). Họa sĩ Hoàng Đình Tài (1947) có tác phẩm "Nhảy múa" (2000), "Đêm núi
l .
v
n
rừng Trường Sơn" (2001), "Giữa hai trận đánh" (1978), "Kiếp người" (1999). Họa sĩ
105
w
Nguyễn Thế Vinh (1926 - 1997) có tranh "Đất này là của tổ tiên" (1970), "Chiến tranh
w
và những cây dừa" (1990), "Làm gạo" (1990). [13tr 602 – 639]
Như vậy:
w
Giải thưởng Hồ Chí Minh:
- Có 11 họa sĩ có tác phẩm sơn mài / 18 tác giả mỹ thuật được trao giải (chiếm
.
61,11%).
- Có 38 tranh sơn mài / 94 tác phẩm mỹ thuật (chiếm 40,42%). k Giải thưởng Nhà nước:
h
- Có 17 họa sĩ có tranh sơn mài / 49 họa sĩ, nhà điều khắc (chiếm 24,69%).
c
- Có 54 tranh sơn mài / 259 tác phẩm mỹ thuật (chiếm 20,84%).
So sánh số lượng, tỷ lệ % chúng ta thấy tranh sơn mài đoạt giải chiếm ưu thế, đó
n
là những kiệt tác của mỹ thuật Việt Nam, góp phần tôn vinh và làm giàu di sản văn
hóa Việt.
m
2.1.1.2. Thực trạng tranh sơn mài tạo hình
Có thể nói rằng, những nghệ sĩ, nghệ nhân một lòng gắn bó với chất liệu sơn mài
hẳn phải là những người kiên gan, bền chí. Ngoài chuyện có thể bị “lở sơn” ra thì việc
t -
thể hiện tác phẩm, sản phẩm đòi hỏi sự cẩn trọng, nghiêm túc, kỹ lưỡng và cũng rất kì
b
công, chịu đựng “tính khí thất thường” của chất sơn. Đã thế, những nguyên vật liệu
dùng cho sơn mài lại rất đắt tiền. Muốn thể hiện bức tranh cỡ trung bình (90 x 120cm),
v
người nghệ sĩ phải chi vào đấy cỡ gần một tháng lương để mua vóc, mua sơn, son,
h
vàng, bạc cùng nhiều vật dụng khác cho nên khi đến nhà, xưởng hoạ sĩ sơn mài ta sẽ
thấy ngổn ngang, bề bộn, trăm thứ, trăm loại, nghệ sĩ, nghệ nhân làm sơn mài phải sử
dụng mọi thứ "từ thượng vàng đến hạ cám” (Ý nói phải dùng đến vàng thật và cám
t t
d
mùn cưa để trát bó).
Trước đây, thời bao cấp, Hội Mỹ thuật Việt Nam có hẳn một đội ngũ lo các
nguyên vật liệu về sơn mài để bán cho hội viên với giá cung cấp, rẻ như cho không.
l .
Có đội ngũ cán bộ, chuyên chế biến sơn sống thành sơn cánh gián, sơn then, lo việc
n
lên Phú Thọ để mua sơn tận gốc, đảm trách liên hệ với làng Kiêu Kỵ (Gia Lâm - Hà v
106
w
Nội) để thuê dát vàng, dát bạc, liên hệ với những gia đình có nghề làm các loại son
w
thực sự được chế tác từ thần sa… Tóm lại, Hội Mỹ Thuật có cả một bộ phận lo toan
việc cung cấp cho các hội viên những nguyên vật liệu làm sơn mài có chất lượng tốt
w
nhất, từ sơn sống, sơn chín, gỗ dán của Liên Xô để làm vóc đến các loại son, vàng, bạc
thứ thiệt tạo điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất để cho nghệ sĩ sáng tạo. Điều này cũng
.
đóng góp một phần không nhỏ của sự ra đời và nở rộ rất nhiều tác phẩm mỹ thuật, sản
k
phẩm mỹ nghệ sơn mài có chất lượng cao đánh dấu một giai đoạn hoàng kim của sơn
mài Việt Nam trong những thập kỷ 60, 70, 80 của thế kỷ trước.
h
Từ khi “Cơ chế thị trường” chế ngự, mọi nguyên vật liệu đều phải mua ngoài,
c
các họa sĩ gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Đặt vóc không biết chỗ làm ở đâu đảm bảo
chất lượng tốt, mua vàng bạc, màu son thì thật giả lẫn lộn. Tình trạng sơn ta, sơn Phú
n
Thọ bị pha lẫn sơn hạt điều, sơn công nghiệp để “hạ giá thành” trở nên rất phổ biến.
Không ít nghệ sĩ, nghệ nhân đã phải chuyển sang dùng nguyên vật liệu của Nhật Bản.
m
Với trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, người Nhật đã nhanh
chóng đáp ứng và chế tác ra loại thay nguyên vật liệu truyền thống của sơn mài Việt
Nam. Từ loại ma - tít để hom bó cho cốt vóc mà trước đây ta dùng sơn ta trộn với mùn
t -
cưa, đất sét, đất phù sa… để trát bó, thì chất “ma - tít” của Nhật lại dễ sử dụng hơn
b
nhiều, vừa dễ khô vừa mịn màng “ngon tay”. Các loại sơn Pô - li - sai có màu sắc, tính
chất tương tự như sơn cánh gián, sơn then, sơn quang dầu của ta. Các loại màu để pha
v
với son hết sức phong phú đến các loại vàng quỳ, bạc quỳ vừa to bản hơn, dễ sử dụng
h
hơn, các loại nhũ đủ màu dễ bắt mắt cho người “dễ tính”.
Tất cả những nguyên vật liệu của Nhật đều có chung một đặc điểm là rẻ và dễ sử
dụng. Chất ma - tít dùng để hom, trát, bó rất mịn, dễ làm mà lại mau khô. Chất sơn Pô
t t
- li - sai thay cho sơn cánh gián, sơn quang dầu, sơn then vừa dễ khô (Không cần phải
d
cho vào buồng ủ như sơn của ta) mà pha với các loại bột màu dường như không bị
phân huỷ, biến sắc. Các loại vàng lá, bạc lá vừa rẻ lại dễ sử dụng. Các loại nhũ vàng,
l .
nhũ bạc, nhũ xanh có thể tạm thay thế cho vàng, bạc rây nhỏ. Mới sơ qua vài thứ
n
nguyên vật liệu chính, chúng ta đã thấy tính “ưu việt” của nguyên vật liệu của Nhật v như thế nào!?. Sử dụng chúng, người nghệ sĩ, nghệ nhân đã gạt bỏ được biết bao nhiêu
107
w
phiền toái mà chất liệu cổ truyền của chúng ta thường tạo ra. Vẽ không cần phải ủ mà
w
vẫn khô. Pha màu gì cũng được, cũng tươi chứ không như sơn cổ truyền chỉ pha được
với một số màu nhất định, rất hạn chế. Mặt khác giá vật liệu của Nhật rẻ hơn rất nhiều
w
lần so với vật liệu sơn cổ truyền của chúng ta. Trong thương trường, họ thật sự là
những bậc kỳ tài. Rất mau lẹ, kịp thời đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của khách hàng
.
và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trong địa hạt nguyên vật liệu dùng cho cái gọi là “sơn
k
mài kiểu mới”!. Còn chúng ta sao không học tập họ phát huy tính ưu việt, hạn chế
nhược điểm để chế biến tạo nguyên liệu chất lượng tốt, tiếp thị cho sản phẩm?!
h
Với những nguyên vật liệu của Nhật, hoạ sĩ nào cũng sử dụng được. Không còn
lo lắng gì về những sự cố bất ngờ, pha màu nào thì ra màu ấy, sơn vẽ xong là khô chứ
c
không phải phụ thuộc và ôn độ, ẩm độ. Không lấy làm lạ là nhiều hoạ sĩ đã quay sang
n
vẽ bằng sơn Nhật, màu Nhật. Nhiều cơ sở thủ công mỹ nghệ sơn mài cũng chuyển
sang dùng nguyên vật liệu của Nhật vừa thuận tiện lại vừa hạ giá thành rất nhiều.
m
Người Nhật bán sơn Pô - li - sai và các vật liệu khác cho Việt Nam đồng thời lại mua
nhựa sơn của Việt Nam để về chế biến, kinh doanh. Các nhà khoa học, các cơ sở
nghiên cứu của Việt Nam chỉ “khoanh tay đứng nhìn” thành quả và lợi nhuận khổng lồ
t -
của người khác. Những tác phẩm, sản phẩm thủ công mỹ nghệ “sơn mài kiểu mới” hay
b
còn gọi là “sơn mài giả cầy” đã ra đời ngày càng nhiều. Những bức tranh vừa có màu
sắc rất phong phú, tươi tắn “xanh đỏ loè loẹt” mà lại có độ bóng có thể soi gương được.
v
Những hàng thủ công mỹ nghệ bằng chất liệu sơn Nhật, màu Nhật tràn lan khắp thị
trường trong nước và cả trong lĩnh vực xuất khẩu.
h
Sự xâm nhập của sơn Nhật, màu Nhật là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự
suy giảm, biến chất của sơn mài truyền thống Việt Nam. Ta hãy thử so sánh phẩm chất
t t
của hai loại chất liệu này: sơn Nhật, màu Nhật rất thuận tiện cho người sử dụng lại rẻ
d
tiền hơn nguyên vật liệu của sơn mài truyền thống của ta. Màu sắc rất tươi. độ bóng rất
cao. dễ bắt mắt với những khách hàng có trình độ thẩm mỹ “tầm tầm”. Bởi màu sắc
tươi tắn, rực rỡ, loè loẹt mà giá thành lại hạ nên loại tranh và hàng thủ công mỹ nghệ
l .
này rất được đông đảo người mua. Những “tác phẩm” loại này thấy treo nhan nhản ở
n
trong các gia đình, kể cả các công sở, nhà khách, nhà truyền thống, hội trường của các v
108
w
cơ quan, xí nhiệp, doanh trại quân đội v.v. Thậm chí, nhiều cơ quan cấp cao cũng
w
thường mua loại “sơn mài giả cầy” này đi làm quà tặng cho bạn trong, ngoài nước
nhân những chuyến công du nước ngoài.
w
Tất nhiên, đôi khi với chất liệu “lai tạp” này cũng hoạ hoằn có những tác phẩm,
sản phẩm đạt được những thành công nào đấy, nhưng đối với những người sành điệu,
.
tinh tường trong nghệ thuật thì phẩm chất của sơn Nhật không thể so sánh với chất
k
sơn mài truyền thống của Việt Nam. Rất nhiều du học sinh Việt Nam tại đất nước Hoa
Anh đào đã kỳ công tìm mua những bức tranh sơn mài Việt Nam bằng sơn ta chính
h
hiệu, truyền thống để tặng các giáo sư Nhật Bản dạy mình bởi vì các thầy cô rất thích
c
sơn mài Việt Nam!
Như vậy, với sự xâm nhập của một chất liệu ngoại lai “giả cầy” này, không
n
những danh của sơn mài truyền thống, sơn mài đích thực Việt Nam bị tổn hại mà còn
tác động không tốt với sự nghiệp bồi dưỡng và giáo dục thẩm mỹ cho quần chúng
m
nhân dân. Sự lĩnh hội, thưởng ngoạn, trình độ nhận thức thẩm mỹ của mỗi con người
là do cả một quá trình làm quen, tìm hiểu, giáo dục về nghệ thuật. Những người ít
được tiếp cận, giáo dục, đào tạo thường khó có thể cảm nhận thưởng thức được những
t -
tác phẩm nghệ thuật đích thực. Những người có thị hiếu nghệ thuật không cao khó có
b
thể thưởng thức được một bản giao hưởng, một bài thơ hay, một bức tranh đẹp; "cái
đẹp tầm thường” lại là sự “hợp gu” đối với những con người có thị hiếu thẩm mỹ như
v
vậy. Khoảng cách giữa công chúng với tác phẩm nghệ thuật dường như ngày một xa
h
cách bởi chúng ta chưa có một chiến lược giáo dục về thẩm mỹ và phản thẩm mỹ (còn
gọi là phản cảm) một cách toàn diện. Trên các Chương trình truyền hình có lúc phát
thanh viên còn nhầm tranh với ảnh. Các câu hỏi trong chương trình "Đường lên đỉnh
t t
Olympia", "Đi tìm triệu phú" v.v. cứ câu hỏi về mỹ thuật là thí sinh lung túng, trả lời ít
d
khi đúng có đúng thì nhiều khi ăn may, cứ tranh lại bảo ảnh. Bức tranh "Thiếu nữ bên
hoa Phù dung" của họa sĩ Nguyễn Gia Trí lại bảo là chất liệu lụa, "Thiếu nữ bên hoa
l .
huệ" của Tô Ngọc Vân lại nói bằng chất liệu sơn mài… Nhiều nước tiên tiến có chủ
n
trương giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho con người ngay từ khi còn nhỏ, từ bậc tiểu học v
109
w
để làm quen, tìm hiểu, thưởng ngoạn những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, đích thực.
w
Sự lan tràn những “tác phẩm giả cầy” cũng góp một phần làm tổn hại tới nhận thức
thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ của quần chúng nhân dân, làm "ô nhiễm" văn hóa.
w
Trở về vấn đề chất lượng, ở nghệ thuật và chất liệu sơn mài truyền thống, sơn
mài đích thực tuy rất kỳ công và tốn kém, tuy khó sử dụng, điều khiển nhưng những
.
kỹ năng, công đoạn thể hiện lại rất độc đáo. Phải vẽ nhiều lớp rồi mới mài ra, chính
k
điều này đã tạo ra những hiệu quả, những chất màu, sắc nhị sâu thẳm, ẩn hiện lung linh,
kỳ ảo… mà sơn Nhật hoặc các chất liệu khác không thể nào có được. Chất sơn then,
h
sơn cánh gián của ta vừa có độ trong cần thiết lại vừa có độ sâu trầm, kín đáo, tạo nên
sắc thái vô cùng tinh tế, ảo huyền. Đặc tính ưu việt của chất sơn ta khi đã khô thì rất
c
bền, rắn đanh nhưng lại vẫn có độ co giãn cần thiết nên chịu được mọi điều kiện thời
n
tiết, khí hậu, môi trường khắc nghiệt kể cả việc ngâm dưới nước lâu ngày cũng không
bị cong vênh, sứt nẻ và phai màu. Vậy chúng ta có cần bảo tồn, gìn giữ, phát huy
m
không?!
Rõ ràng là, những tác phẩm, tranh sơn mài có chất lượng nghệ thuật cao và độc
đáo thì không thể bỏ qua kỹ thuật, chất liệu sơn mài truyền thống nên cũng dễ hiểu khi
t -
danh hoạ Nguyễn Gia Trí trước đây đã ra điều kiện với chính quyền Sài Gòn khi họ
b
đặt ông vẽ tranh là phải có sơn Phú Thọ thì ông mới nhận vẽ. Những họa sĩ chân chính,
có lòng tự trọng, có trách nhiệm lớn đối với những tác phẩm của mình thì không mấy
v
ai từ bỏ chất liệu sơn mài truyền thống, không mấy ai chạy theo thị hiếu tầm thường,
không mấy ai chịu chạy theo thị trường ngổn ngang những thật, giả, hạ thấp giá trị của
h
tác phẩm, trở thành những thương phẩm để phục vụ cho những khách hàng thường là
những người nước ngoài không sành sỏi hoặc là những loại “triệu phú” mới phất hợm
t t
của nhưng thị hiếu thẩm mỹ có khi không cao, nhiều người còn tỏ ra kệch kỡm, lố lăng.
d
Tình trạng hiện nay, hai tiếng “sơn mài” đang bị lạm dụng rất ngang nhiên và
đáng lo ngại. Dùng sơn Nhật, màu Nhật vẽ không theo bài bản cổ truyền, thậm chí
không cần mài chút nào mà cũng cứ mệnh danh là sơn mài. Nghề sơn quang dầu cổ
l .
v
n
truyền của chúng ta trước đây nay rất nhiều nơi thay thế bằng sơn Pô - li - sai của Nhật,
110
w
dầu bóng “Toa” của Thái Lan hoặc sơn hạt điều nhưng vẫn cứ ngang nhiên gọi là hàng
w
sơn mài!
Những thứ gọi là “sơn mài giả cầy” thì thường ở trong nghề mới phân biệt được
w
một cách dễ dàng. Nó vẫn đang giả danh và trà trộn cùng với nghệ thuật sơn mài đích
thực. Nó đã làm tổn hại, suy giảm danh tiếng và uy tín của sơn mài chính gốc. Những
.
thứ “sơn mài rởm" này không thể bền đẹp được lâu. Khi mang đến những nơi thời tiết
k
giá rét, khô hanh của xứ lạnh, nó sẽ bị cong vênh, bong tróc và quan trọng hơn là chất
lượng tác phẩm, sản phẩm không còn mang được cái độc đáo, cái “Duyên thầm” quý
h
hiếm của sơn mài truyền thống Việt Nam. Mặt khác, trong cách gọi cũng cần phải
phân biệt khái nhiệm một cách rạch ròi các thể loại như: Sơn khắc, sơn đắp nổi, sơn
c
khảm, sơn quang dầu, sơn Nhật (Pô - li - sai) v.v. không nên gộp chung một cách tuỳ
n
tiện các thể loại đó vào hai tiếng “Sơn mài”.
Những hoạ sĩ vẽ tranh sơn mài theo đúng bài bản truyền thống quả là những
m
người không biết tiếc công, tiếc của. Những lớp màu, lớp sơn, lớp vàng, lớp bạc được
vẽ chồng lên nhau nhiều lần và cũng mài đi mài lại nhiều lần, chỉ còn giữ lại một phần
rất nhỏ, rất ít. Hầu hết số vật liệu quý đã dùng sẽ phải loại bỏ, mài đi ..., nhưng vẫn
t -
phải làm như thế, biết là rất tiếc mà vẫn phải tuân thủ theo quy trình mới mong tạo ra
b
được những hiệu quả, những sắc nhị, những hoà sắc biến ảo rất khôn lường đồng thời
cũng xuất hiện những thành công đến bất ngờ khiến người nghệ sĩ vui sướng đến bàng
v
hoàng khôn tả.
Có thể lấy ví dụ: Hoạ sĩ Hoàng Tích Chù (Người được Nhà nước tặng Giải
h
thưởng Hồ Chí Minh năm 2000) thể hiện tác phẩm nổi tiếng “Tổ đổi công cấy lúa
miền núi” (1958). Ròng rã cả năm trời không biết đến ngày chủ nhật, ngày lễ với một
t t
niềm say mê đến quên ăn, quên ngủ. Với một cường độ làm việc nghiêm túc trong lao
d
động nghệ thuật. Vẽ rồi mài, mài rồi lại vẽ cứ như thế, nhiều tầng, nhiều lớp. Nói về sự
tốn kém, thì chỉ tính riêng số lượng vàng quỳ, bạc quỳ đã dùng cho tác phẩm này cũng
phải ngang với nhiều lượng vàng hiện nay. Vàng, bạc được rây nhỏ để rắc hoặc vàng
l .
lá để thếp, hết đến đâu vợ của hoạ sĩ lại đi mua đến đấy, làm đi làm lại, mài đi thếp lại
n
cho đến khi đạt hiệu quả nghệ thuật mới thôi. Riêng những khóm tre và đám mây vàng v
111
w
cũng làm tới cả chục lần. Thếp vàng hoặc rắc vàng vụn thành mảng lớn sau đó “vẽ”
w
bằng “mài” nên tạo được sự nhuần nhuyễn, chỉ để lại những chỗ theo cảm xúc, theo sự
ước lượng tinh tế của con mắt, tâm hồn, bàn tay nghệ sĩ. Sự kỳ công, tốn kém này rõ
w
ràng là không uổng phí vì đã tạo được hiệu quả lung linh, ẩn hiện, tầng tầng, lớp lớp
sâu thẳm của một không gian miền núi thơ mộng và một thứ ánh sáng ảo huyền như
.
thực, như mơ, khó có chất liệu nào có thể diễn tả nổi. Tác phẩm “Tổ đổi công cây lúa
k
miền núi” đã được giải thưởng cao của Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1958 và
góp phần cho tác giả được Giải thưởng Hồ Chí Minh. Và, cho đến hôm nay vẫn là một
h
trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, tiêu biểu nhất cho giai đoạn phát triển rực rỡ của
nghệ thuật sơn mài Việt Nam. Thế mới biết, nghệ thuật chân chính, nghệ thuật đích
c
thực thì không thể tính đếm đến chuyện “hạ giá thành” cho tác phẩm được.
n
Có thể nhấn mạnh rằng nghề sơn ta cổ truyền trước đây và nghệ thuật sơn mài
sau này là một di sản quý giá mà chúng ta được thừa hưởng, được “trời ban” cho. Với
m
nguồn nhựa sơn dồi dào và có chất lượng cao nhất so với những nước có cây sơn, với
bản chất cần cù, sáng tạo của người Việt Nam cộng với điều kiện lý tưởng về thời tiết
của vùng nhiệt đới có ôn độ và độ ẩm rất thích hợp cho việc làm sơn, sơn mài truyền
t -
thống cần phải được quan tâm, đầu tư, khai thác và phát triển.
b
2.1.2. Thủ công mỹ nghệ sơn mài, tranh sơn mài mỹ nghệ (xem phụ lục 6 phần B mục k)
Đề cập đến tranh sơn mài mỹ nghệ, chúng tôi có mở rộng thêm nói đến thủ công
v
mỹ nghệ sơn mài vì đối với nghề sơn ở làng nghề, phường nghề, cơ sở sản xuất, hợp
tác xã, công ty thủ công mỹ nghệ thì tranh sơn mài mỹ nghệ chỉ chiếm một phần,
h
khoảng 1/3 các sản phẩm (xem phụ lục 2); trước đây các sản phẩm thủ công mỹ nghệ
sơn ta, sơn mài đều có mặt tại các triển lãm mỹ thuật (TLMTTQ từ năm 1976 trở về
t t
trước đều có tác phẩm mỹ nghệ như khay, hộp, bình phong v.v). Như vậy trước đây
d
các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng và mỹ thuật tạo hình triển lãm chung sau này mới
tách ra.
Cũng phải nói thêm rằng trước đây chúng ta chỉ có nghề sơn ta làm đồ gia dụng,
l .
thủ công mỹ nghệ, sơn thếp các pho tượng, đồ thờ cúng, trang trí đình chùa, lăng tẩm,
n
cung điện mà chủ yếu là sơn son, thếp vàng, thếp bạc phủ hoàn kim, chúng ta có tranh v
112
w
sơn nhưng là sơn quang dầu v.v. Từ ngày các sinh viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật
w
Đông Dương khai phá, sáng tạo ra kỹ năng vẽ sơn mài thì lĩnh vực thủ công mỹ nghệ
mới có thêm kỹ năng làm sơn mài, mới có hàng mỹ nghệ sơn mài chủ yếu làm tranh
w
trang trí, lọ hoa, khay, chén, đĩa trang trí, hộp sơn mài, bình phong v.v.tranh sơn mài
mỹ nghệ là thế mạnh của lĩnh vực này, các bức tranh được sản xuất hàng loạt, nhiều
.
bức thể hiện kỹ thuật điêu luyện tinh tế thể hiện vẻ đẹp tinh xảo, sự khéo tay, giỏi nghề
k Từ ngày hòa bình lập lại (1954) cùng với sự nở rộ, thăng hoa của mỹ thuật sơn
sơn ta của nghệ nhân. (Xem 1.1.3) phần a. Thể hiện tranh sơn mài mỹ nghệ.
h
mài thì đồ mỹ nghệ sơn mài cũng bước vào giai đoạn mới với sự phát triển mạnh mẽ.
Hàng nghìn cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ sơn mài thu hút hàng triệu lao động
c
và nghệ nhân, thợ giỏi. Những yếu tố giúp cho sự phát triển này, có thể nhìn khái quát
n
như sau: một lý do khách quan phải kể đến là Nhà nước quan hệ trao đổi thương mại
với các nước bằng Nghị định thư, chủ yếu là với các nước XHCN. Thị trường lớn nhất
m
của chúng ta lúc đó là Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu như: Ba lan, Rumani, Cộng
hòa dân chủ Đức và một số nước khác như Pháp, Ý, Canada…
Hàng mỹ nghệ sơn mài của ta đã có uy tín trên thị trường quốc tế, để có được
t -
thành quả đó là do có cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, tất nhiên không loại
b
trừ những điểm yếu của cơ chế này nhưng phải khẳng định tính tích cực của cơ chế ở
thời kỳ này.
v
Vào giai đoạn đó, Nhà nước khuyến khích phát triển mọi ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp để xuất khẩu lấy ngoại tệ. Liên hiệp xã Trung ương phối hợp với Bộ Giáo
h
dục và Đào tạo để các cơ sở, các địa phương gửi người đi học chính quy, tại chức ở
các trường nghệ thuật, dạy nghề để về làm nòng cốt kỹ thuật, mỹ thuật cho cơ sở, từ
t t
trung ương đến các tỉnh mở các trường dạy nghề. Tổng công ty Xuất nhập khẩu thủ
d
công mỹ nghệ phối hợp với Hội Mỹ Thuật Việt Nam, với Trường Mỹ thuật Công
nghiệp, sáng tác mẫu cho xuất khẩu. Tổng công ty Artexport (là đơn vị độc quyền nắm
đầu ra lúc đó) từ năm 1965 đã lập ra một xí nghiệp chuyên sáng tác mẫu nói chung,
l .
chủ yếu hàng sơn mài nói riêng trong đó có tranh sơn mài. Nhà nước giao kế hoạch
n
năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước, người sản xuất không phải lo tiền vốn. v
113
w
Phương thức sản xuất hàng xuất khẩu lúc bấy giờ là Nhà nước bán nguyên liệu mua
w
thành phẩm. Mọi vấn đề chất lượng, giá thành đã có Ủy ban vật giá Nhà nước và
phòng giá ở ngay trong Tổng công ty tính đúng, tính đủ đầu vào từng mã hàng ra đến
w
cửa khẩu. Phòng vật tư có nhiệm vụ nhập vật tư, nguyên liệu để cấp phát kịp thời,
đúng chủng loại. Phòng kỹ thuật tính toán mọi nhu cầu cần thiết về vật tư, nguyên liệu,
.
quy trình, công đoạn sản xuất sao cho sản phẩm đến người sử dụng có chất lượng tốt,
k
không bị khiếu nại. Để tránh tình trạng ăn bớt nguyên vật liệu, rút bớt quy trình sản
xuất, các địa phương, các cơ sở không cho làm cá thể, hình thức làm tập trung thành tổ
h
sản xuất, đội sản xuất, hợp tác xã có người giám sát hàng ngày. Tổng công ty cũng cử
cán bộ kỹ thuật, nghiệp vụ về kiểm tra từng công đoạn sản xuất cho đến lúc thành
c
phẩm. Nhờ có nhận thức về tầm quan trọng của khu vực kinh tế này cùng những tiềm
n
năng to lớn về nhân tài vật lực nên Nhà nước đã có nhiều chính sách, biện pháp cụ thể
nhằm nâng cao giá trị sơn mài mỹ nghệ xuất khẩu trong đó có tranh sơn mài nói riêng,
m
hàng hóa tiểu thủ công nghiệp nói chung. Phương thức sản xuất là: Nhà nước bán
nguyên vật liệu, mua thành phẩm, Nhà nước nắm độc quyền về vật tư, nguyên liệu và
bao tiêu hàng hóa, người sản xuất không phải lo lắng đến đầu ra cho những sản phẩm
t -
mỹ nghệ. Nhà nước còn có chính sách khuyến khích những người trồng cây sơn, thu
b
hoạch sơn như cung cấp đèn pin, áo mưa, ủng để khai thác sơn vào ban đêm (hồi đó
những đồ dùng này phải được phân phối, không bán tự do). Thời bao cấp trung bình
v
người dân được phân phối mua 13 đến 15kg gạo theo giá mậu dịch/tháng, trong khi đó
1kg sơn đổi lấy từ 3 đến 5 kg gạo (tùy theo chất lượng sơn). Chính sách thỏa đáng với
h
người trồng đã tạo điều kiện cho cây sơn phát triển. Nhiều cơ sở sản xuất sơn mài mỹ
nghệ ra đời đã thu hút một số lượng lớn lao động, nhiều tỉnh, thành phố thi đua phát
t t
triển sản xuất sơn mài mỹ nghệ. Ngoài Bắc: ở Hà Nội có 3 cơ sở lớn là HTX Thống
d
Nhất, HTX Hồng Hà, HTX Thăng Long. Tỉnh Hà Sơn Bình (cũ) có hơn 20 hợp tác xã
như: Bình Minh có tới 500 lao động, cả tỉnh có trên 2000 lao động. Hà Bắc (cũ) có 3
hợp tác xã lớn là Đình Bảng, Tân Hồng, Phù Lưu, tổng cộng có trên 1000 lao động.
l .
Hải Phòng có HTX Bắc Sơn, Vĩnh Bảo với hơn 1000 lao động. Thái Bình có HTX Vũ
n
Thư. Thanh Hóa có HTX Thắng Lợi, Công ty mỹ nghệ thương binh trên 500 lao động. v
114
w
Vĩnh Phú (cũ) có HTX sơn mài lớn thu hút hàng ngàn lao động v.v. Miền Nam có các
w
cơ sở sơn mài lớn như: Thành Lễ, Sông Bé, Thiện Mỹ, Lam Sơn…
Điều quan trọng nhất là chất lượng sản phẩm đã quyết định sự sống còn cho mặt
w
hàng mỹ nghệ sơn mài trong đó có tranh sơn mài xuất khẩu. Để đảm bảo chất lượng
cả về kỹ thuật lẫn mỹ thuật, Tổng công ty Artexport đã có riêng một xí nghiệp
.
chuyên vẽ mẫu và thường xuyên cử cán bộ về cơ sở để kiểm tra chất lượng. Đỉnh cao
k
của ngành nghề này được đánh dấu bằng Hội nghị sản xuất và triển lãm hàng Thủ
công Mỹ nghệ toàn quốc năm 1987 do Bộ Văn hóa (Cục Mỹ thuật) phối hợp với
h
Liên Hiệp Xã Trung ương tổ chức tại Hà Nội. Tại Hội nghị và Triển lãm này, hàng
sơn mài mỹ nghệ xuất khẩu trong đó có tranh sơn mài được đánh giá cao bởi vì
c ngạch xuất khẩu của toàn ngành ngoại thương.
n
ngành nghề này đã giúp nước ta thu được hàng triệu rúp - đô la, chiếm phần lớn kim
Thời kỳ này, không chỉ riêng ngành ngoại thương mới đóng vai trò quan trọng
m
nhằm đưa ngành nghề mỹ nghệ sơn mài, tranh sơn mài nói riêng và nghề sơn ta nói
chung có những bước phát triển vượt bậc mà nhiều bộ, ngành khác cũng có những
phối hợp rất chặt chẽ. Bộ Văn hóa có xưởng mỹ thuật, tập hợp được đông đảo các
t -
nghệ sĩ, nghệ nhân, thợ giỏi để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng, thường
b
xuyên có thêm những sản phẩm mới về sơn mài, tranh sơn mài. Có riêng một phòng
vẽ mẫu mới, góp phần tạo ra những tác phẩm, sản phẩm sơn mài mỹ nghệ có chất
v
lượng cao, lưu lại tiếng hay cho đến tận hôm nay.
h
Trường Đại học Mỹ thuật Công Nghiệp là nơi đào tạo quan trọng, Khoa Sơn mài
đã cung cấp cho xã hội hàng ngàn nghệ sĩ, nghệ nhân tài giỏi nắm vững kỹ năng và
chất liệu sơn mài.
t t
Liên Hiệp Xã Trung ương có một viện chuyên nghiên cứu về thủ công mỹ nghệ
d
nói chung và mỹ nghệ sơn mài (trong đó có tranh sơn mài) nói riêng. Cũng sáng tác ra
nhiều mẫu mới, sản phẩm mới của mỹ nghệ sơn mài đồng thời Liên Hiệp Xã luôn có
l .
những hoạt động khuyến khích các cơ sở sản xuất, các làng nghề truyền thống, thường
n
xuyên tổ chức những cuộc triển lãm lớn mang tính toàn quốc về thủ công mỹ nghệ. v Liên Hiệp Xã Trung ương cũng có nhiều hình thức để động viên tôn vinh các nghệ
115
w
nhân, thợ giỏi, như cùng Bộ Văn hóa (Cục Mỹ thuật) nghiên cứu Danh hiệu "Bàn tay
w
vàng" cho những người xuất sắc ở lĩnh vực này. Đã tạo điều kiện để các "Bàn tay
vàng" có điều kiện thi thố tài năng, tham gia nhiều cuộc triển lãm quốc tế về thủ công
w
mỹ nghệ, tại các nước XHCN như CHDC Đức, Mông Cổ, Liên Xô (cũ). Rất nhiều tác
phẩm, sản phẩm đã giành được những giải thưởng xứng đáng ở những cuộc thi, triển
.
lãm này.
Cục Mỹ thuật của Bộ Văn hóa ngày ấy cũng có riêng một phòng "Mỹ thuật đời k sống" (vào những năm 70, 80 TK XX) để chăm lo, phát hiện những nghệ nhân tài giỏi,
h
động viên, tạo điều kiện cho họ trong sáng tác và triển lãm. Các địa phương cũng
c
thành lập những trường đào tạo nghề, những lớp bồi dưỡng ngắn hạn để nâng cao chất
lượng sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong đó có tranh sơn mài mà tiêu biểu là Trường
n
Thủ Công Mỹ Nghệ của Hà Sơn Bình - Hà Tây (cũ) tại thị xã Hà Đông nay là Trường
Trung cấp Nghề tổng hợp Hà Nội.
m
Tóm lại, những thập kỷ 60, 70, 80 của thế kỷ XX, cùng với sự phát triển rực rỡ
của mỹ thuật sơn mài, tranh sơn mài tạo hình thì lĩnh vực mỹ nghệ sơn mài, tranh sơn
mài mỹ nghệ cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ chưa từng có. Thời kỳ này có những
t -
sản phẩm, tác phẩm tranh mỹ nghệ sơn mài có chất lượng cao, xứng đáng là niềm tự
b
hào của những "Bàn tay vàng" của Việt Nam. Được Nhà nước quan tâm sử dụng, các
bộ ngành phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ, biết đề cao, tôn vinh những nghệ nhân, thợ
v
giỏi và đặc biệt là luôn trung thành với quy trình sản xuất, công đoạn kỹ thuật, những
h
bài bản kỹ thuật truyền thống, tuân theo những kỹ năng cổ truyền của nghề sơn nên
gây được uy tín, sự hâm mộ nể trọng của người sử dụng ở nhiều nước trên thế giới,
đồng thời cũng giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người vốn có truyền thống
t t
lao động cần cù, khéo léo.
d
Một sự kiện tưởng chừng như "Vô thưởng vô phạt" nhưng lại có tác động sâu sắc
đến chất liệu sơn mài truyền thống của Việt Nam, nó tạo ra như một "bước ngoặt"
l .
đáng lo ngại trong quy trình vẽ tranh, làm đồ thủ công mỹ nghệ của chúng ta. Vào
n
những năm 1972-1975 đúng lúc kinh tế nước ta vô cùng khó khăn, công cuộc kháng v chiến chống Mỹ cứu nước đang hồi ác liệt, các hãng sơn hóa học của Nhật Bản đã
116
w
tiếp cận thị trường Việt Nam. Họ cử chuyên gia sang trực tiếp hướng dẫn việc sử
w
dụng sản phẩm của họ và sơn công nghiệp của Nhật Bản đã nhanh chóng được sử
dụng, truyền bá rộng rãi. Các loại sơn Pô - li - sai, vừa rẻ hơn sơn ta rất nhiều mà sử
w
dụng lại vô cùng thuận lợi. Chính sự "ưu việt" này nên vật liệu làm sơn của Nhật đã
nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường. Các họa sĩ, nghệ nhân, các cơ sở sản xuất
.
thủ công mỹ nghệ (kể cả những có sở do Nhà nước quản lý) đua nhau chuyển sang
k
dùng sơn Nhật. Sự kiện này không những làm cho kỹ thuật và vật liệu làm sơn mài,
sơn quang truyền thống của Việt Nam bị chao đảo mà còn tác động xấu tới những
h
vùng trồng sơn nguyên liệu không bán được nên người dân thu hẹp diện tích và
chuyển hướng sản xuất.
c
Trong giai đoạn nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, với sự tham gia của
n
nhiều thành phần kinh tế, hàng sơn mài xuất khẩu cũng chịu chung tình cảnh với các
mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác, đều rơi vào khủng hoảng. Kể từ năm 1993 trở đi,
m
các mô hình sản xuất theo hợp tác xã dần dần bị tan rã, thay vào đó là hình thức sản
xuất của tư nhân. Các cơ sở, các công ty tư nhân với tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh, cố tình rút ngắn quy trình sản xuất, rút bớt nguyên vật liệu, dùng nguyên liệu
t -
kém phẩm chất, nhựa sơn ta không đủ độ tiêu chuẩn cho phép, thậm chí còn thay thế
b
bằng các loại sơn công nghiệp, dầu bóng của Thái, Đài Loan hoặc sơn hạt điều v.v.
Chất lượng gỗ để làm cốt vóc cũng không tốt. Các cấp, các ngành liên quan thiếu đi
v
sự kết hợp đồng bộ, dẫn đến tình trạng nảy sinh nhiều thủ tục phiền hà như muốn có
gỗ tốt để làm cốt thì phải có dấu của kiểm lâm, phải đóng thuế môi trường, phải
h
chứng minh nguồn gốc. Rồi thủ tục vận chuyển cộng với giá thành cao. Rồi sự sáo
mòn về đề tài mẫu mã v.v và v.v.
t t
Các sản phẩm sơn hiện nay (sơn mài, sơn quang, sơn khảm …) trong đó có tranh
d
sơn mài mỹ nghệ rơi vào tình trạng làm theo bài bản kỹ thuật cổ truyền thì không đến
nơi đến chốn còn thoát khỏi cổ truyền thì bộc lộ rõ những yếu kém cả về kỹ thuật lẫn
thẩm mỹ. Các đồ sơn mỹ nghệ, lọ, bình phong, tranh khảm trai, tranh sơn mài, các loại
l .
tráp, hộp, bát, đĩa … Về kỹ thuật thì sơ sài, rút ngắn công đoạn, bớt xén vật liệu, về
n
thẩm mỹ thì thô kệch, đường nét, hoa văn thiếu sự tinh xảo, chắt lọc, màu sắc tuy v
117
w
nhiều nhưng lòe loẹt, thiếu tinh tế, đôi khi còn bôi phết khá tùy tiện, kệch cỡm. Kiểu
w
dáng sản phẩm đơn điệu, thậm chí ăn cóp của nước ngoài. Thật sự là đang thiếu những
họa sĩ có tâm huyết để sáng tác, thiết kế mẫu mã như xưa kia. (Xem phụ lục 6 phần k)
w
Qua triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ ASEAN tại Hà Nội gần đây chúng ta thấy
rõ cần phải suy nghĩ về hàng mỹ nghệ sơn mài của Việt Nam so với hàng sơn của
.
Myanma, Thái Lan, Indonesia, các đồ sơn của họ tiến xa ta về thẩm mỹ và chất lượng!
k Một hiện trạng khác mà dư luận đang bức xúc là việc xây dựng, tôn tạo các di
Chúng ta có thấy sự "đi xuống" so với trước là đáng báo động không?
h
tích văn hóa lịch sử, các đình, chùa, đền, miếu … Thực ra chính nhờ công việc đó mà
nghề trang trí sơn thếp, tô tượng, ngai thờ, cửa võng, kiệu và các đồ thờ cúng khác
c
được dịp phục hồi để phát triển, phát huy bản sắc nghệ thuật dân tộc, tôn trọng tự
n
do tín ngưỡng của nhân dân. Có nhiều công trình, di tích có giá trị được Nhà nước
đầu tư đúng lúc, đúng chỗ đã được bàn tay khéo léo, tài giỏi của các nghệ nhân, thợ
m
giỏi tái tạo một cách nghiêm túc, công phu, trung thành với những giá trị vốn có từ
xưa. Đó là những công trình có đầu tư của Nhà nước, có sự chỉ đạo sát sao về kỹ
thuật và nghệ thuật nhưng những công trình như trên không nhiều.
t -
Trong cả nước, ngoài những di tích như cung điện, lăng tẩm mang tính quốc gia,
còn có biết bao nhiêu đình, chùa, đền, miếu có giá trị về văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng.
b
Trong số đó cũng có nhiều di tích đã được Nhà nước xếp hạng, đang cần được trùng tu,
v
nâng cấp. Do nguồn vốn, ngân sách của Nhà nước có hạn nên việc đầu tư, chỉ đạo
không nhiều, hầu hết việc xây dựng, sửa chữa chủ yếu đều do dân đóng góp cho nên
h
việc tu bổ, tôn tạo hoặc xây dựng di tích thì mạnh ai nấy làm, không có ai chỉ đạo,
hướng dẫn về kỹ thuật và mỹ thuật. Vì vậy nhiều công trình tu bổ xong lại xấu đi,
t t
không xứng đáng với nơi thờ tự tôn nghiêm hoặc không ăn nhập với tổng thể kiến trúc.
d
Có nhiều ngôi đình, ngôi chùa tự dân đóng góp tiền của để xây mới, chẳng theo một
quy chuẩn kiến trúc nào hết, việc trang trí, sơn thếp thì cũng tùy tiện, họ tự thuê thợ
sơn thếp, sơn tượng, trang trí đồ thờ … Những người được thuê để làm các công trình
l .
tôn nghiêm đó hầu hết là những thanh niên mới vào nghề kể cả những nơi nổi tiếng về
n
nghề sơn thếp truyền thống lâu đời như: Sơn Đồng, Võ Lăng (Hà Nội), họ làm theo cái v
118
w
gọi là "cơ chế thị trường", rẻ thì làm kiểu rẻ, đắt thì làm kiểu đắt, về công đoạn, kỹ
w
thuật, mỹ thuật cũng theo cách "tiền nào của ấy". Những công trình ít tiền thì họ dùng
nguyên liệu ít tiền, tiện dùng như: sơn Nhật, vàng, bạc Nhật hoặc thiếc thậm chí còn
w
dùng cả những loại sơn nhũ công nghiệp, phủ lên nước dầu bóng là xong. Trình độ của
những người chủ công trình rất non kém, thậm chí có thị hiếu nghệ thuật tầm thường,
sai lệch. Họ không hề có hiểu biết gì về kỹ thuật sơn thếp, tô tượng, sơn son thếp
.
k
vàng … theo bài bản cổ truyền nên bảo sao nghe vậy, miễn là rẻ (thực ra sơn Nhật,
màu Nhật có những giá trị riêng nhưng khi sử dụng không biết cách lại kém về chuyên
h
môn sẽ gây sự phản cảm, làm hỏng công trình, môi trường văn hóa). Sử dụng nguyên
liệu ngoại nhập chính chúng ta tự hại đến văn hóa, kinh tế trong nước).
c
Nhiều Việt Kiều ở nước ngoài hoặc người giàu có ở các thành phố cũng thường
n
công đức tiền của để xây dựng đình, chùa cho quê hương. Nguồn kinh phí này rất
quan trọng nhưng việc xây dựng, trang trí, tô vẽ lại phải làm theo ý của những người
chi tiền, họ bảo sao, muốn gì là phải theo ý của họ. Nếu là người có trình độ thì tốt,
m
còn không gặp phải kẻ cậy tiền ta đây, thì sẽ cho "ra đời" những công trình lòe loẹt,
lai căng, chắp vá đến kệch cỡm, phản cảm.
Như ta đã biết, nhờ có nghề sơn cổ truyền đã phát triển với những nghệ nhân, thợ
t -
giỏi cộng với nguồn nguyên liệu quý, chất lượng là cây sơn Phú Thọ nên chúng ta đã
b
có rất nhiều những công trình trang trí nội thất bằng sơn đẹp, trong các cung điện, đền,
v
chùa, lăng tẩm, các đồ thờ cúng, các bức tranh sơn mài tuyệt mĩ, tồn tại lâu bền qua
bao thế kỷ. Tiếc thay, đến hôm nay, vì thiếu sự chỉ đạo, hướng dẫn vì không theo đúng
h
quy trình, bài bản của nghề sơn, chất sơn cổ truyền nên đã sản sinh ra khá nhiều công
trình thiếu tính thẩm mỹ thậm chí còn phá hỏng những thành quả của mà ông cha ta đã
để lại.
t t
Những vấn đề nhức nhối kể trên cũng đã bị dư luận không đồng tình, nhưng xem
d
ra cũng chưa thấy có giải pháp nào để ngăn chặn sự hủy hoại đáng sợ của một trào lưu
mới, tổn hại và triệt tiêu dần những giá trị kỹ thuật và nghệ thuật từ xa xưa để lại.
l .
Một hiện trạng đáng báo động là số nghệ nhân, thợ giỏi của nghề sơn ta truyền
n
thống, mỹ nghệ sơn mài truyền thống ngày càng thưa vắng. Nhiều người đã chuyển v sang lĩnh vực khác để kiếm sống vì thực tế, sản xuất, sáng tạo theo phương thức, kỹ
119
w
thuật sơn cổ truyền thì lợi nhuận không cao, chỉ khi nào có đơn đặt hàng thì mới làm
w
theo quy trình, kỹ thuật tuyền thống, sau đó lại quay lại bài "hạ giá thành", rút bớt
công đoạn hoặc thậm chí làm bằng các nguyên vật liệu rẻ tiền và ngoại lai khác.
w
Nhiều cơ sở sơn mài tư nhân cũng có những tìm tòi, tháo gỡ. Họ kết hợp sơn mài
với gốm (hầu hết là sơn mài "kiểu mới") cũng có hiệu quả kinh tế khả quan. Nhiều nơi
thay thế cốt vóc bằng chất liệu composite cũng có hiệu quả tốt, vừa rẻ lại vừa dễ chế
.
k
tác theo ý muốn có thể làm vóc để vẽ cỡ to, có thể làm cốt cho tượng, khay, hộp, lọ,
bát, đĩa … rất thuận lợi nhưng về độ bền và chống chọi với thời gian, khí hậu khắc
h
nghiệt thì chưa được kiểm chứng.
Hiện trạng các làng nghề truyền thống bị mất đi, teo lại hoặc chuyển đổi sang
c
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác là đáng báo động. Đơn cử như làng nghề rất nổi
n
tiếng Tương Bình Hiệp ở Thủ Dầu Một (có cơ sở lớn như Thành Lễ, Trần Hà) trước
đây có trên 500 hộ sống bằng nghề mỹ nghệ sơn mài nhưng đến nay chỉ còn lại vài
m
trăm hộ sản xuất cầm chừng "gối vụ".
Các làng nghề truyền thống ở phía Bắc, cái nôi của nghề sơn ta, sơn mài truyền
thống cũng cùng chung số phận. Nhiều làng nghề đã chuyển sang làm đồ vàng mã, làm
t -
hàng nhái, hàng giả như thuốc lá, xà phòng, thuốc đánh răng v.v.
Tại các Gallery mỹ thuật bên cạnh những cơ sở bày bán tác phẩm tranh sơn mài
b
có chất lượng, chủ gallery biết phối hợp với họa sĩ để giới thiệu, quảng bá tác phẩm,
v
tác giả tranh sơn mài, tạo không gian nghệ thuật (số này không nhiều) thì còn nhiều
cửa hàng bán các tranh sơn mài kém về giá trị thẩm mỹ, trông rất "rởm", nhiều tranh
h
nhái theo những tranh "xịn" bán chạy trên thị trường như vậy là vi phạm bản quyền tác
giả.
t t
Tuy vậy phải khẳng định ở nước ta, nghệ thuật sơn mài có thời kỳ hoàng kim,
d
cùng với sự phát triển rực rỡ của chất liệu sơn mài trong hội họa, chất liệu và nghệ
thuật sơn mài còn phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực tranh trí ứng dụng, thủ công
mỹ nghệ. Nhiều công trình trang trí nội thất cho các cơ quan của Đảng và Nhà nước,
l .
cho các công trình văn hóa, nghệ thuật cũng được thi công, thể hiện qua chất liệu sơn
n
mài, tranh sơn mài được mua và treo tại công sở, nơi sinh hoạt cộng đồng… Tranh sơn v
120
w
mài tạo hình và tranh sơn mài mỹ nghệ giúp làm đẹp cho công trình. Hàng loạt cơ sở
w
nghiên cứu, sáng tác và sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, tranh sơn mài của Bộ Văn
hóa, Bộ Ngoại thương, Liên hiệp xã Trung ương đã góp phần thúc đẩy nghệ thuật sơn
w
mài Việt Nam phát triển. Hàng loạt hợp tác xã, xưởng mỹ nghệ, tổ sản xuất về sơn mài
cũng được thành lập và hoạt động sôi nổi để phục vụ cho quốc kế dân sinh, nhu cầu
thẩm mỹ của nhân dân và đặc biệt là cho xuất khẩu. Những bức tranh sơn mài, tác
.
k
phẩm về sản phẩm thủ công mỹ nghệ bằng sơn mài như: bình phong, các loại lọ hoa,
hộp, khay, đĩa, tranh trang trí, đồ trang sức v.v. đã đến với thị trường nhiều nước rất
h
được hoan nghênh, ái mộ. Trong những lần tham gia Hội chợ quốc tế, Triển lãm quốc
tế, nhiều tác phẩm, sản phẩm sơn mài của Việt Nam cũng đã giành được những giải
c
thưởng xứng đáng. Chất liệu sơn mài (đích thực) đã mang lại "Danh hiệu" cho Việt
n
Nam đồng thời cũng mang lại nhiều lợi ích về kinh tế và giải quyết công ăn việc làm
cho hàng triệu người.
Có thể nói rằng, tranh sơn mài Việt Nam đã có bước phát triển đầy tự hào về chất
m
liệu và nghệ thuật. Sơn mài trong hội họa cùng với những thành tựu của sơn mài trong
lĩnh vực trang trí và thủ công mỹ nghệ đã tạo nên một bản hòa tấu, sống động trong
nền mỹ thuật của Việt Nam.
t -
2.2. Thực trạng vấn đề đào tạo nghề tranh sơn mài
b
Đào tạo nghề làm tranh sơn mài do những đặc thù của chuyên môn mà liên quan
v
đến việc đào tạo họa sĩ (sáng tác, thể hiện), nghệ nhân, thợ lành nghề. Hình thức đào
tạo phong phú như đào tạo tại các trường trung cấp, đại học, làng nghề, xưởng vẽ v.v.
h
Khi trao đổi vấn đề này với các họa sỹ sáng tác, giảng viên, nghệ nhân tại các trường,
làng nghề thì hầu hết mọi người đều băn khoăn về việc dạy cho thế hệ kế tiếp hiểu biết,
giỏi về nghề biết yêu và tự hào những giá trị văn hóa của ông cha.
t t
Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta hãy khảo sát tại các trung tâm đào tạo mỹ thuật,
d
trong đó có đào tạo nghề làm tranh sơn mài đại diện cho các vùng miền:
2.2.1. Đào tạo sơn mài tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam (xem phụ lục 6 phần B
l .
mục l)
n
Trường ĐHMT Việt Nam tiền thân từ trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, v đây là "cái nôi" sáng tạo, nuôi dưỡng, phát triển tranh sơn mài Việt Nam bắt nguồn từ
121
w
nghệ thuật sơn ta truyền thống. Trường được thành lập 1925 thì bộ môn sơn ta đã được
w
đưa vào chương trình giảng dạy (xếp vào ngành hội họa) lúc đầu chỉ là môn học thử
nghiệm.
w
Nhà nghiên cứu Claude Mahoudot nhận định: "Trường Mỹ thuật Hà Nội bắt
đầu hoạt động năm 1926 khóa đầu tốt nghiệp năm 1931. Mười lăm năm trong cuộc
sống nghệ thuật của một nước có ý nghĩa gì? Tuy nhiên công việc làm được rất lớn.
.
k
Một Giáo sư Inguimberty đã thực sự tạo ra một phong trào hội họa và đã đưa ra cái
gọi là "sơn ta" (laque) vào phục vụ các họa sỹ. Chất sơn sau này hình như sẽ có một
h
vị trí rất lớn trong lịch sử tương lai của nghệ thuật Đông Dương". [70, tr 42-45]
Năm 1934, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã chính thức mở xưởng kỹ
c
thuật nghiên cứu sơn ta đặt cơ sở cho sự hoàn thiện về kỹ thuật và phát triển của tranh
n
sơn mài. Năm 1938 Trường được lấy tên là trường Cao đẳng Mỹ thuật và nghệ thuật
thực hành Đông Dương, nhà trường có hai ban chính là hội họa điêu khắc và sơn mài.
m
Như vậy sơn mài từ một môn học thử nghiệm đã trở thành một môn học cơ bản.
Từ kỹ thuật sơn ta cổ truyền đến kỹ thuật làm tranh sơn mài hiện đại là một
quá trình, là bước ngoặt lớn: "Sự kiện đặc biệt quan trọng ở thời kỳ đầu xây dựng
t -
nền hội họa hiện đại Việt Nam - đánh dấu kỷ nguyên về mặt chất liệu mới mang
tính đặc thù dân tộc có khả năng áp dụng vào hội họa" [22, tr.17]. Các tác phẩm
b
sơn mài của các họa sỹ Việt Nam có thể nói là đã giúp các họa sỹ "vững bước"
v
trên chất liệu ngàn năm của dân tộc. Các họa sĩ ngày càng tìm ra những kỹ thuật
mới, sáng tạo thay đổi làm phong phú cho chất liệu tạo hình. Trường CĐMTĐD
h
đã tạo ra đột phá mang tính lịch sử: sáng tạo tranh sơn mài.
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương 20 năm lịch sử (1925 - 1945) đã có
t t
128/142 sinh viên, 118 người khoa hội họa, 10 người khoa điêu khắc tốt nghiệp.
d
Trường đã đào tạo được thế hệ thứ nhất họa sỹ sơn mài Việt Nam. Các họa sĩ với
sự tìm tòi sáng tạo đã tạo nên những tác phẩm kinh điển của sơn mài Việt Nam.
Nhà Phê bình Mỹ thuật Thái Bá Vân đã viết trong lời giới thiệu mỹ thuật Việt
l .
Nam tại cuộc thi Mỹ thuật ASEAN: "Tranh sơn mài, được lấy từ cây sơn, rất thân
n
thuộc với mỹ thuật trang trí từ ngày xưa. Trong thập kỷ 40 (thế kỷ XX), thế hệ họa sỹ v
122
w
đương đại Việt Nam đầu tiên đã nâng lên một tầm cao mới trong các tác phẩm như:
w
"Thiếu nữ trong vườn" (1943), "Thiếu nữ bên hoa phù dung" (1944), của Nguyễn Gia
Trí (1909 - 1993); "Tát nước dưới trăng" (1943) của họa sĩ Nguyễn Khang (1919 -
w
1989); "Điệu múa cổ" (1956), "Thánh Gióng" của họa sỹ Nguyễn Tư Nghiêm (1922);
"Nghỉ trưa" của họa sỹ Nguyên Sáng. Với họa sỹ Nguyễn Gia Trí ngôn ngữ tranh sơn
.
mài đã trở nên điêu luyện, siêu hình, cuộc sống thực của chất liệu này". [64] (xem phần 1.2)
Số khóa đào tạo về hội họa, đồ họa tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam gồm: k 1 khóa kháng chiến, 1 khóa Tô Ngọc Vân, 26 khóa hội họa sơ, trung cấp, 54 khóa Đại
h
học hội họa, đồ họa chính khóa, 13 khóa Đại học Sư phạm Mỹ thuật, 32 khóa Đại học
tại chức hội họa, 12 khóa cao học. Với hàng ngàn sinh viên được đào tạo mỹ thuật
c
ngành hội họa trong đó có hàng trăm người là những họa sỹ sơn mài. Ngoài những
n
giảng viên giàu kinh nghiệm giỏi nghề sơn mài, là các họa sỹ nổi tiếng về sơn mài còn
có nghệ nhân sơn mài. Kỹ thuật sơn mài truyền thống kết hợp với những sáng tạo các
họa sỹ sơn mài được đào tạo tại trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam có tay nghề chắc,
chất tạo hình được phát huy trên một chất liệu truyền thống của dân tộc. m
Những thầy dạy và là họa sĩ sơn mài nổi tiếng có công dạy về sơn mài tại đây
phải nhắc đến đó là Tô Ngọc Vân, Joseph Inguimberty, Yamé, Trần Văn Cẩn, Trần
t -
Quang Trân, Nguyễn Khang, Lê Phổ, Phạm Hậu, Hoàng Tích Chù, Trần Đình Thọ,
b
Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Đức Nùng, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Tư Nghiêm, Hoàng
Trầm, Lê Kim Mỹ, Lý Trực Sơn, Nguyễn Trần Đốc, Ngô Văn Duyên, Đoàn Văn
v
Nguyên, Trần Hoàng Sơn, Chu Anh Phương… Nghệ nhân Đinh Văn Thành, Công
h
Văn Nghĩa v.v.
2.2.2. Đào tạo sơn mài tại Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp (xem phụ lục 6
phần B mục l)
t t
Ngay từ khi Trường Quốc gia Mỹ nghệ được thành lập năm 1949 (tiền thân của
d
Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp) thì Ban vẽ sơn ta là một ban mạnh trong các
ban của Nhà trường thời bấy giờ. Hơn 60 năm qua từ ban vẽ sơn ta, khoa sơn mài,
l .
ngành sơn mài nằm trong khoa mỹ thuật truyền thống ngày càng lớn mạnh. Mục đích
n
là đào tạo các họa sĩ mỹ thuật sơn mài truyền thống ứng dụng; phục vụ đời sống trên v các mặt văn hóa, tiêu dùng, xuất khẩu…
123
w
Qua các thời kỳ, trường luôn tìm cách xây dựng nội dung chương trình sao cho
w
mang lại hiệu quả tốt nhất đối với học sinh, sinh viên ngành sơn mài. Từ cách dạy
nghề kèm cặp theo phường hội mà các cụ ta trước đây vẫn thường làm đến phương
w
pháp giảng dạy có chương trình bài giảng.
"Xây dựng một chương trình cho ngành sơn mài truyền thống phải thể hiện rõ
được nhiều kỹ năng, kỹ xảo cổ nhân đã làm. Việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và học
.
k
tập bạn bè trên thế giới là một vấn đề phải lựa chọn, Người Nhật Bản rất giỏi về vấn đề
này, về phương diện giữ gìn và đào tạo lớp người kế thừa các ngành nghề truyền thống.
h
Nét đẹp tế nhị của sơn mài Việt Nam chỉ có cách làm của Việt Nam mới sản sinh ra nó,
không thể thay thế bằng cách khác vào được. Sẽ có ý kiến cho rằng như vậy là bảo thủ!
c
Chúng tôi nghĩ giữ được nét riêng, đặc biệt đối với ngành nghề truyền thống phải có
n
tính bảo thủ". [54, tr.182-184]
Chương trình giảng dạy sơn mài của trường Mỹ thuật Công nghiệp chia thành 3
m
giai đoạn:
- Từ 1949 đến 1955 - thời kỳ mà trường mới thành lập. Các họa sĩ như giảng viên
Phạm Hậu, nghệ nhân Đinh Văn Thành… kết hợp với nhau để truyền đạt những kiến
thức về nghệ thuật, kỹ thuật truyền thống sơn mài cho sinh viên. Dành thời gian thực
t -
hành chuyên môn bằng chất liệu. Quá 50% thời gian của chương trình được dành cho
b
khâu kỹ thuật chuyên ngành.
v
- Từ 1956 đến 1959 thời kỳ xây dựng trường, khoa sơn mài có thêm các thầy Lê
Quốc Lộc, Nguyễn Khang, Dương Hướng Minh, Phạm Đức Cường, nghệ nhân Trần
h
Văn Chạm. Thời kỳ này mục tiêu, phong cách, chất liệu được khẳng định rõ nét hơn
trong chương trình. Bên cạnh các môn chung đối với một sinh viên mỹ thuật ứng dụng,
t t
môn mỹ thuật truyền thống sơn mài được coi trọng. Đây là thời kỳ tập trung nhiều
d
nghệ nhân giỏi của các ngành nghề mỹ thuật truyền thống nhất từ thời kỳ thành lập
trường đến nay.
- Từ 1960 đến nay thời kỳ ra đời của trường Mỹ thuật Công nghiệp Việt Nam. Sự
l .
gặp gỡ của mỹ thuật công nghiệp, mỹ thuật ứng dụng, mỹ thuật truyền thống. Khoa
n
sơn mài trang trí truyền thống vững vàng phát triển bên cạnh các khoa khác trong v
124
w
trường, tính hiện đại và công nghiệp triển khai, nhưng truyền thống dân tộc vẫn được
w
tôn vinh.
Các giảng viên trẻ luôn tìm sự đổi mới, cập nhật thông tin, hội nhập với thời đại,
w
tuy vậy vốn quý giá các thế hệ đã dày công nghiên cứu để lại luôn được trân trọng, gìn
giữ. Nhìn lại lịch sử của Trường Đại học mỹ thuật công nghiệp thì chuyên ngành sơn
.
mài cũng có lịch sử dài như lịch sử của nhà trường. Giáo dục kết hợp với lao động sản
k
xuất, nhà trường gắn liền với xã hội là phương châm cơ bản về đường lối đào tạo của
Nhà nước ta. Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp - trong đó có Khoa Mỹ thuật
h
truyền thống - Ngành Sơn mài đã đem cái đẹp phục vụ trực tiếp cho đời sống, gắn liền
với sản xuất và nhiều mặt sinh hoạt vật chất, tinh thần của nhân dân.
c
Ngành sơn mài đã góp phần vào việc bảo tồn giá trị nghệ thuật truyền thống và
n
đổi mới chất lượng sản phẩm mỹ nghệ, chất liệu sơn mài được phát huy trong đó có
tranh sơn mài. Các bậc thầy và giảng viên có nhiều công đóng góp cho sơn mài Việt
m
Nam đã và đang giảng dạy tại trường phải kể đến Lê Quốc Lộc, Nguyễn Khang, Phạm
Hậu, Dương Hướng Minh, Phạm Đức Cường, Nguyễn Kim Đồng, Trần Huy Quang,
Nguyễn Quyến, Nguyễn Yêm, Trần Đạo Uyển, Trần Khánh Chương, Trần Gia Bình,
t -
Đặng Vũ Đạt, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Chính Trung, Ngô Thành Nhân, Trần
b
Phương Thảo, Trần Anh Tuấn… Nghệ nhân Trần Văn Chạm, Đinh Văn Thành …
2.2.3. Đào tạo nghề sơn mài tại Trường Trung cấp Nghề tổng hợp Hà Nội
v
Trường Trung cấp Nghề Tổng hợp Hà Nội, trước đây có tên gọi là Xưởng Mỹ
nghệ giải phóng, ra đời từ tháng 12 năm 1961 trực thuộc Liện hiệp Xã Trung Ương
h
đóng tại huyện Thanh Trì Hà Nội. Thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước ác liệt Xưởng
trường phải sơ tán về Làng Đa Sĩ thuộc Hà Tây cũ. Sau chiến tranh kết thúc Liên hiệp
t t
Xã Trung Ương bàn giao lại cho Tỉnh Hà Tây quản lý và đổi tên thành Trường Thủ
d
công Mỹ nghệ Hà Tây, Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo các nghề thủ công mỹ nghệ,
trong đó có nghề trang trí sơn mài truyền thống. Đầu tiên chỉ là trang trí các sản phẩm
thủ công mỹ nghệ, tranh sơn mài mỹ nghệ phục vụ cho xuất khẩu và một phần tiêu thụ
l .
trong nước. Thời kỳ đó rất phát triển, bởi vì xuất khẩu hàng thủ công mà trong đó có
n
sản phẩm về sơn mài, ký theo hiệp định thương mại với các nước trong phe Xã hội v
125
w
Chủ nghĩa lúc bấy giờ, đầu ra không phải lo, thật là dễ dàng. Học sinh đào tạo chủ yếu
w
là cho các hợp tác xã sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ trong tỉnh và một số tỉnh bạn.
Vào thời kỳ đổi mới, cơ cấu kinh tế thay đổi, các hiệp định thương mại với các
w
nước Xã hội Chủ nghĩa cũng không còn. Hàng hóa về thủ công mỹ nghệ bị ngưng trệ,
sản xuất đình đốn vì vậy công tác đào tạo nghề cũng bị hệ lụy theo, rất khó khăn trong
.
trong đào tạo nghề thủ công mỹ nghệ, nhất là nghề sơn mài nói chung và nghề vẽ tranh
k
sơn mài nói riêng. Một giai đoạn chuyển đổi, tự do hóa kinh tế tư nhân, các xưởng sản
xuất tư nhân ra đời, tự đào tạo và tự tìm đầu ra, mỗi nghề phát triển theo cách riêng và
h
phát triển trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường trong nước cũng như bối
cảnh toàn cầu hóa.
c
Đào tạo nghề trang trí sơn mài bước đầu nhà trường cũng gặp một số khó khăn
n
về công tác tuyển sinh, đối tượng học nghề trước đây không còn như trước mà đã được
các doanh nghiệp hoặc làng nghề tự đào tạo lấy nhân công cho mình. Do vậy nhà
m
trường đã mở rộng địa bàn đào tạo và đào tạo theo hướng thị trường cần và có chọn
lọc hơn.
- Đào tạo nghề vẽ tranh sơn mài tại Trường Trung cấp Nghề Tổng hợp Hà Nội là
t -
đào tạo theo lối truyền thống, tuân thủ đúng các quy trình đầy đủ, khoa học. là nơi đào
b
tạo cho học sinh làm chủ được những kỹ thuật pha chế sơn cũng như các công đoạn
trong nghề sơn mài. Từ quy trình làm vóc, như tiêu chuẩn về ván gỗ để làm vóc cho
v
đến các khâu kỹ thuật về hoàn thiện một tấm vóc để có thể vẽ được tranh sơn mài.
Phải nói rằng nhà trường đào tạo toàn diện, học sinh ra trường có thể tự tin vẽ được
h
tranh sơn mài mà không cần phải trợ giúp từ người khác. Khâu đào tạo hoàn toàn khép
kín, không giấu nghề như các nghệ nhân trước đây thường đào tạo truyền nghề đó là
t t
học đâu biết đấy, không học không biết, lối dạy đó có rất nhiều hạn chế, học xong chỉ
d
để làm thợ.
Ở đây nên hiểu nghề sơn mài truyền thống dùng chất liệu sơn ta của Việt Nam
khác với sơn Nhật. Sơn mài truyền thống, tức là nguyên liệu lấy từ nhựa cây sơn được
l .
trồng và khai thác từ miền trung du tỉnh Phú Thọ hoặc một số nơi khác. Còn sơn Nhật
n
là sơn cũng có nguồn gốc từ cây sơn, nhưng đã được chế biến biến không còn nguyên v
126
w
chất sơn của nhựa sơn nữa. Các công đoạn vẽ cũng khác với sơn ta. Đào tạo nghề vẽ
w
sơn ta, nếu không được học đến nơi đến chốn sẽ không vẽ được sơn mài. Còn vẽ sơn
Nhật chỉ hướng dẫn sơ qua bước đầu cũng có thể vẽ. Hiện nay nhiều họa sĩ yêu thích
w
vẽ tranh sơn mài đã tìm đến Trường Trung cấp Nghề Tổng hợp Hà Nội học kỹ thuật vẽ
sơn mài truyền thống để bổ sung vào kiến thức cũng như tay nghề cho thể loại chất
.
liệu này. Đó là sự bổ sung cần thiết cho sự nghiệp cầm bút vẽ của mình.
- Hiện nay hướng đào tạo nghề vẽ sơn mài đang thay đổi về hình thức, đó là đào k tạo cái mà người học cần; tức là người học cần công đoạn nào thì Nhà trường đáp ứng
h thuộc vào từng công đoạn.
theo công đoạn đó, việc đó cũng gắn với thời gian học, có thể ngắn có thể dài, phụ
c
Hiện nay khoa có 6 giảng viên, đều là người có tay nghề vững vàng tâm huyết
n
như họa sĩ Nguyễn Đình Lâm, Nguyễn Văn Bảng, Nguyễn Thị Tiến, Nguyễn Xuân
Thủy, Lê Thị Dậu, Nguyễn Thị Thu. Ngoài việc giảng dạy theo chương trình, các thày
m
cô còn giúp các địa phương "nhân, cấy" nghề sơn mài. Năm 1996-1998 Trường đã
tham gia viết được 6 giáo trình dạy nghề cho Bộ giáo dục và Đào tạo trong đó có giáo
trình dạy nghề sơn mài theo phương pháp mô-đun và kỹ năng hành nghề (theo đúng
công nghệ làm sơn truyền thống) được đánh giá cao, đây là giáo cụ trực quan sinh
t -
động cho việc dạy nghề sơn mài đã được đúc kết từ kinh nghiệm của các bậc tiền bối
b
cộng với thực tế từ lý thuyết và thực tiễn của đạo tạo nghề. Trước đây việc dạy sơn
v
mài ở trường thu hút đông học viên. Nay do biến động của thị trường kinh tế, xã hội và
có nhiều nơi đào tạo (như Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Đại học Mỹ thuật công nghiệp,
h
Viện Đại học Mở Hà Nội, Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương...) nên hiện nay số
người theo học sơn mài tại trường Trung cấp Nghề tổng hợp Hà Nội giảm đi rất nhiều.
Tuy vậy các giảng viên đã rất tích cực làm phong phú các hình thức đào tạo, phát huy
t t
d
sở trường của trường đó là chú trọng việc dạy nghề, ai đã qua học với trường đều có
thể nắm chắc nghề sơn mài (trong khi các trường đại học chú trọng về mặt sáng tác
nhiều hơn đó cũng là đặc thù của cấp học), bộ đồ dùng giảng dạy rất có hiệu quả.
l .
Trường mở các lớp đào tạo theo các lớp dài hạn, ngắn hạn. Học viên có thể đăng ký
n
học rất linh động về thời gian cho nên có nhiều sinh viên các trường đại học mỹ thuật v
127
w
hay những người yêu thích vẽ tranh sơn mài có thể bổ túc kiến thức, thực hành vẽ
w
tranh sơn mài tại trường một cách chắc chắn.
2.2.4. Trường Đại học Nghệ thuật Huế - Nghề sơn và tranh sơn mài Huế
w
a. Trường Đại học Nghệ thuật Huế
Trường Đại học Nghệ thuật Huế hình thành từ sự hợp nhất của hai trường:
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế thành lập năm 1957 - Trường Quốc gia Âm nhạc và
.
k
Kịch nghệ thuật Huế thành lập năm 1962. Sau ngày đất nước thống nhất cả hai trường
đều thuộc Bộ Văn hóa - Thông tin, năm 1986 Bộ Văn hóa - Thông tin sáp nhập hai
h
trường và đổi tên thành Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Năm 1994 trở thành trường
Đại học Nghệ thuật Huế là thành viên của Đại học Huế thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo.
c
Trường có chức năng đào tạo cán bộ thuộc lĩnh vực nghệ thuật có trình độ trên đại học,
n
đại học và các cấp thấp hơn, tổ chức nghiên cứu khoa học; đào tạo trực tiếp là khu vực
Huế và các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên. Mục tiêu của trường là phấn đấu trở thành
trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật chất lượng
m
cao giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, góp phần cùng cả nước xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng vào bảo vệ đất nước.
t -
Trường có quan hệ hợp tác với nhiều trường Đại học, Học viện lớn trong nước và
b
của các nước như: Thái Lan, Pháp, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Úc… Việc đào tạo họa sỹ
v
sơn mài được nhà trường chú trọng, Khoa Sơn mài góp phần tạo sắc thái cho
trường, qua nét độc đáo trong các tranh sơn mài ở đây, thể hiện văn hóa vùng miền.
h
b. Nghề sơn và sơn mài ở Huế
Nghề sơn mài ở Huế xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVI khi chúa Nguyễn Hoàng
đưa người vào xứ Thuận Hoá xây dựng vùng cát cứ mới, trong số đó có những nghệ
t t
nhân đầu tiên từ phía Bắc đến xứ Huế và sau đó đã trở thành nghệ nhân dân gian trong
d
các làng xã ven Huế. Gần như cả cuộc đời những lớp nghệ nhân này và con cháu họ
chuyên trang trí cho các phủ đệ ở Huế, làm nên những bức hoành phi rực rỡ, những bộ
l .
đồ dùng trong Tứ bảo văn phòng trang nhã, những công trình trang trí lộng lẫy sơn son
v
n
thếp vàng trong các lăng tẩm sau này.
128
w
Sau khi lên ngôi, vua Gia Long tiếp tục trưng tập các thợ tài hoa đến trang trí
w
cung đình và biên chế trong Tượng cục Tất hoạ Tượng Ty chuyên làm sơn thiếp của
triều đình. Khi Triều Nguyễn sụp đổ đa số thợ giỏi trở về nguyên quán, nhưng một số
w
khác vẫn ở lại Huế và lập nên các làng nghề sơn khác nhau. Chỉ mới cách đây 50 năm,
người Huế vẫn còn biết đến các làng làm nghề sơn như làng Triều Sơn, Địa Linh,
.
Tiên Nộn, Dương Nổ, nhưng nay còn ít người biết đến khi nghề này dần phôi pha theo
k
thời gian. Sơn mài ở Huế lúc đầu cũng như ở Bắc chỉ có sơn quang và sơn son thếp
vàng, sơn đắp nổi, về sau đến những năm 60 khi trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế ra đời
h
thì mới có sáng tác tranh sơn mài hiện đại. Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế có
khoảng gần 100 sản phẩm sơn mài mỹ nghệ như lọ, đĩa, hộp quả, đồ uống trà và một
c
số tranh khắc sơn mài, trong đó có bức "Trấn phong" sáng tác năm 1937 với kích
n
thước khá lớn 170 x 300cm là 10 tấm vóc sơn mài ghép lại bằng bản lề hai chiều để
dựng gấp dễ dàng. Bức tranh thuộc dạng tranh khắc sơn mài, một mặt là đề tài cảnh trí
m
sinh hoạt đồng dao của trẻ em xưa như rước đèn Trung thu, múa rồng, nhào lộn và mặt
kia là cảnh các thiếu nữ áo dài tha thướt bên cầu đá, hồ sen. Theo một số nhà nghiên
cứu, tranh này do một nhóm hoạ sĩ miền Bắc vẽ tặng vua Bảo Đại, trong đó có Hoàng
t -
Lập Ngôn, Nguyễn Đức Nùng và một số hoạ sĩ khác. Có lẽ sáng tác tranh này có mục
b
đích rõ ràng với chủ đề vừa hiện đại vừa dân gian và cảnh cung đình xưa nên các tác
giả đã đưa vào tranh các “dấu hiệu” cung đình bằng dải đường diềm trên dưới và hai
v
bên. Các hình thể trang trí cung đình Tứ thời bằng hoa lá cách điệu gần như trong sách
"L Art à Hue" của linh mục Cadiere và các hình thể, motif bát bửu như cuốn thư, quạt
h
vả, lá kim chi cùng các con cóc, con cua và vài cổ vật khác.
Nói đến từ nghề sơn thủ công dân gian trở thành nghề tranh sơn mài hiện đại ở
t t
Huế là nói đến họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàng, một người con xứ Huế. Ông sinh năm 1931, tốt
d
nghiệp trường Quốc gia cao đẳng Mỹ thuật Gia Định năm 1960. Năm 1962 hoạ sĩ Đỗ
Kỳ Hoàng triển khai một xưởng sơn mài mỹ nghệ có tính tạo hình nghệ thuật và đặt
xưởng tại cung Trường Sanh(nơi ở của Thái Hoàng Thái Hậu trước đây tại Đại Nội).
l .
Là người có kinh nghiệm và sự học hỏi từ các làng nghề sơn thếp ở Thủ Dầu Một và
n
các cơ sở sơn thếp dân gian ở Sài Gòn nên khi về Huế, lập xưởng ông đặt cho xưởng v
129
w
cái tên mà về sau rất quen thuộc là "Trung tâm khuếch trương Tiểu công nghệ Huế" để
w
áp dụng sơn thếp, sơn mài trên nhiều vật dụng thủ công mỹ nghệ như các hộp gỗ sơn,
đồ trang trí xương, đồi mồi và cả trên đồ gốm. Hoạ sĩ Đỗ Kỳ Hoàng cũng có công lớn
w
khi đưa sơn mài vào dạy ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Huế bấy giờ và nhờ vậy dần
dần tạo nên những lớp hoạ sĩ làm tranh sơn mài và tạo nên phong cách Huế trong loại
.
tranh này. Chính sau này ông đã hướng dẫn họ trong tham gia phục chế, trùng tu sơn
k
son thếp vàng tại các công trình như điện Thái Hoà, Lầu Ngũ Phụng, cung Trường
Sanh, Triệu Miếu... Bức tranh Lễ truyền Lô của ông treo ở lầu Ngũ Phụng (Đại Nội -
h
Huế) và bức Ngày Hoàng Đạo là những tranh nói về các sinh hoạt tâm linh và nghi
thức quan trọng trong các lễ nghi của triều đình. Hầu như du khách nào khi bước lên
c
lầu Ngũ Phụng cũng dừng chân trước những bức tranh này. Gần 40 năm say mê sáng
n
tạo, giảng dạy, họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàng đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý, tất cả tác
phẩm được giải đều là tranh sơn mài, đó là các giải: Giải thưởng Bông Sen Trắng của
m
Hội Liên hiệp VHNT Bình Trị Thiên (1980-1985), Giải thưởng VHNT Cố Đô (1993),
Giải thưởng VHNT hằng năm (1995)...
Ngày nay nghề sơn truyền thống Huế đã phôi pha, chỉ còn vài hộ làm sơn quang
t -
ở các làng nghề xưa, nhưng dấu ấn và tiếng vọng thời gian vẫn còn đó trong nhiều tác
b
phẩm sơn và sơn mài trong các phủ đệ, hoạ thất xưa, trong các bảo tàng ở Huế. Nhiều
hoạ sĩ Huế vẫn say mê vẻ đẹp của tranh sơn mài và các sản phẩm sơn mài mỹ nghệ cao
v
cấp như Đỗ Kỳ Huy, Nguyễn Thiện Đức, Hà Văn Chước, Võ Xuân Huy, Trần Đình
Dàng, Nguyễn Thị Thanh Mai, Nguyễn Tuấn và cả một số hoạ sĩ quốc tế đã và đang
h
học sơn mài ở Trường Đại học Nghệ thuật Huế.
2.2.5. Đào tạo sơn mài tại Trường Đại học Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh và sơn mài
t t
Miền Nam
d
a. Sự hình thành và phát triển sơn mài Miền Nam
Cuối thế kỷ XVIII theo dòng di dân từ xứ Ngũ Quảng ngoài Bắc vào lập nghiệp
tại huyện Bình An - Thủ Dầu Một. Cùng thời gian này thợ sơn mài từ đất Quảng Bình
l .
v
n
- Thuận Hóa vào Đồng Nai, Gia Định chuyên làm sơn son thếp vàng và pha chế sơn
130
w
then (Bí quyết đánh sơn then của các phường thợ này rất nổi tiếng, sơn rất đen và
w
bóng).
Vào năm 30 của thế kỷ XX hai ông Năm Nhường và Ba Lắm, sau đó có ông Lê
w
Văn Có mở lớp kỹ thuật sơn mài. Từ thời điểm đó các lớp đào tạo kỹ thuật sơn mài
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
.
Đến năm 50 thế kỷ XX xuất hiện xưởng sơn mài Thành Lễ do hai ông Trương
k
Văn Thanh và Nguyễn Thanh Lê tạo mốc son cho sơn mài Miền Nam bởi sự đóng góp
của các nghệ nhân tài hoa như: Thái Văn Ngôn, Ngô Từ Sâm, Trương Văn Cang, Trần
h
Văn Nam và một số thầy giáo trường mỹ nghệ thực hành Thủ Dầu Một như: Châu Văn
Trí, Nguyễn Văn Yên, Nguyễn Văn Tuyền góp phần đưa sơn mài bước sang giai đoạn
c
mới. Các sản phẩm ngày càng đa dạng về thể loại như: sơn lộng, sơn mài, vẽ lặn, vẽ
n
phẳng, vẽ nổi, thếp vàng bạc, sơn mài cẩn ốc, cẩn trứng và sơn khắc.
Chất sơn được pha chế giữa sơn Nam Vang với sơn Phú Thọ. Kỹ thuật pha chế
m
sơn cũng tương tự cách pha chế sơn ngoài miền Bắc như: sơn then được đánh từ sơn
sống trộn trong chảo sắt và dùng chày sắt đánh. Sơn cánh gián là dung chày gỗ đánh
từ sơn sống trong chậu gỗ. Thời gian đánh sơn khoảng 48 tiếng.
t -
b. Lịch sử hình thành Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
b
Miền Nam Việt Nam là xứ Nam kỳ, vào đầu thế kỷ XX Nhà cầm quyền Pháp đã
nhận thấy nghệ nhân ta khéo tay và thông minh, thợ thủ công có thể sáng tạo nên các
v
mẫu đẹp do vậy họ đã thành lập một số trường mỹ thuật thực hành (ngày nay gọi là mỹ
thuật ứng dụng). Năm 1901 chính quyền Pháp mở Trường Mỹ nghệ đồ mộc ở Thủ
h
Dầu Một; năm 1903 thành lập Trường Mỹ nghệ Biên Hòa. Hai trường này chương
trình đào tạo chủ yếu là dạy thực hành. Bổ xung cho chương trình giáo khoa cho hai
t t
trường trên, năm 1913 nhà cầm quyền Pháp mở thêm trường vẽ Gia Định lấy tên là
d
Trường dạy vẽ (E' cole de Dessin).
Năm 1917 trường vẽ Gia Định phát triển trở thành một trường Mỹ thuật duy nhất
ở Miền Nam, trường được xếp vào Trung học chuyên nghiệp đệ nhất và được gia nhập
l .
Hội viên của Hội Trung ương trang trí mỹ thuật Paris (Membre perpe' tuel de L' union
v
n
central des Arts de' coratifs de Paris).
131
w
Năm 1954 Trường Quốc gia cao đẳng Sài Gòn cùng với Trường mỹ nghệ thực hành
w
Gia Định chương trình đào tạo có bộ môn sơn mài (năm thứ 3 hệ 3 năm).
Từ năm 1971 trường mở thêm cấp II Cao đẳng mỹ thuật, theo chế độ học xưởng,
w
chương trình học có các môn: sơn dầu, sơn mài, tranh lụa, điêu khắc.
Năm 1975 hai Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn và Trường Quốc gia
.
Trang trí Mỹ thuật Gia Định sáp nhập thành trường Cao đẳng Mỹ thuật TP Hồ Chí
k Nhìn lại chặng đường hoạt động đào tạo trường, có bề dầy thành tích có thể nói
Minh nay là Trường Đại học Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh.
h
trường Đại học Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm đào tạo lớn nhất miền
Nam (trong đó có đào tạo họa sỹ sơn mài).
c
c. Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh và việc đào tạo họa sỹ sơn
n
mài
- Đào tạo:
m
+ Quá trình đào tạo các chất liệu nói chung và chất liệu sơn mài nói riêng của
trường Đại học Mỹ thuật TP HCM trong khuôn khổ của phần viết chúng tôi xin đi sâu
vào đào tạo chất liệu sơn mài của trường từ sau 1975 đến nay:
t -
Sau ngày giải phóng 30-4-1975 cùng với đoàn quân tiến vào Sài Gòn, cán bộ mặt
b
trận thuộc Phòng Mặt trận giải phóng Trung ương Cục Miền Nam vào tiếp quản hai
trường (Trường Quốc gia Trang trí Mỹ thuật Gia Định và Trường Quốc gia Cao đẳng
v
Sài Gòn) tiếp quản trong bối cảnh trường sở còn nguyên vẹn, viên chức, giảng viên,
học sinh còn khá đầy đủ.
h
Ngày 26-6-1975 Bộ Thông tin Văn hóa Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam chính thức phê chuẩn cho hai ông Nguyễn Phước Sanh và Cổ
t t
Tấn Long Châu phụ trách trường, từ đây trường mở ra một thời kỳ mới là đào tạo
d
những nghệ sĩ họa sĩ, điêu khắc gia cho nền mỹ thuật cách mạng Việt Nam.
+ Ngành sơn mài nằm trong khoa Hội họa. Khoa tại chức và khoa Sư phạm mỹ
thuật cũng có hệ thống bài học về chất liệu sơn mài. Đội ngũ giảng viên có: Nhà giáo
l .
Nhân dân Hoàng Trầm, cố họa sĩ Nguyễn Văn Tâm, họa sĩ Ca Lê Thắng, họa sĩ Đào
n
Minh Tri, họa sĩ Hoàng Thị Bích Hạnh, họa sĩ Nguyễn Bích Trâm, có người đã mất, có v
132
w
thầy cô về hưu. Giảng viên sơn mài hiện nay của trường có Họa sĩ Võ Nam, họa sĩ
w
Nguyễn Dũng An Hòa (khoa hội họa), họa sĩ Xuân Chiểu, họa sĩ Nguyễn Minh Quang
(khoa sư phạm mỹ thuật), họa sĩ Lâm Chí Trung (khoa tại chức)…
w
+ Phương châm đào tạo của trường là tạo điều kiện tốt nhất cho người học.
Phương pháp đào tạo nhằm mục đích cho sinh viên nghiên cứu sâu về chất liệu như
ngành sơn mài trong khoa hội họa sinh viên học cơ bản hết năm thứ 2 của hệ đại học 5
.
k
năm, đầu năm thứ 3 phân khoa, tùy theo học lực của sinh viên nhà trường phân theo
các khoa sơn dầu, sơn mài, lụa, đồ họa ứng dụng, đồ họa tạo hình. Khác với khoa hội
h
họa Khoa tại chức và khoa sư phạm mỹ thuật hình thức đào tạo mang tính chất cho
sinh viên hiểu biết và làm được tất cả các chất liệu trong đó có chất liệu sơn mài.
c
+ Ngành sơn mài trong khoa hội họa đã đào tạo sinh viên sơn mài từ năm 1975
n
cho đến nay khoảng 202 người. Khoa tại chức thành lập 1978, bắt đầu đưa vào chương
trình đào tạo từ năm 2000 số sinh viên hiểu biết và làm sơn mài khoảng 250 người.
m
Khoa sư phạm mỹ thuật thành lập từ năm 1998 cho đến nay đã đào tạo khoảng 300
sinh viên biết và làm sơn mài, con số thống kê như vậy họa sĩ sơn mài tại đây được
đào tạo không nhiều so với Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam và Trường Đại học
Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội.
t -
+ Về chất lượng có phần hạn chế như không nhiều họa sĩ vẽ theo lối cổ truyền.
b
- Một số họa sĩ sơn mài Miền Nam:
v
Trong số họa sĩ sơn mài Miền Nam họa sĩ Nguyễn Gia Trí một trong những cây
đa, cây đề trong nền hội họa Việt Nam, trong cuộc đời sáng tác của họa sĩ có rất nhiều
h
tác phẩm nổi tiếng như: bức "Thiếu nữ bên hoa phù dung", "Trong vườn"… thời kỳ
sau 30/4/1975 ông có tác phẩm "Vườn xuân Bắc Trung Nam" hiện nay đang nằm
trong bộ sưu tập Bảo tàng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
t t
Lớp họa sĩ sơn mài cao tuổi có Cố Họa sĩ Huỳnh Văn Gấm có tác phẩm "Em
d
Liên", "Trái tim và nòng súng" … Họa sĩ nhà giáo nhân dân Hoàng Trầm có những tác
phẩm "Tự vệ Hà Nội", "Mẹ kháng chiến" … Một số họa sĩ vẽ tranh sơn mài đang sống
l .
và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh họ có nhiều tác phẩm nổi tiếng có trong sưu
n
tập trong và ngoài nước như các họa sĩ: Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Lâm, Nguyễn Xuân v Việt, Đào Minh Tri, Ca Lê Thắng, Nguyễn Bích Trâm, Hoàng Bích Hạnh, Ngọc Linh,
133
w
Dương Sen, Khánh Toàn, Xuân Chiểu, Võ Nam, Nguyễn Dũng An Hòa, Lâm Chí
w
Trung, Nguyễn Minh Quang…
Gần đây nhiều sự kiện trưng bày những tác phẩm của nhiều họa sĩ sơn mài như
w
nhóm "Màu phương Nam", "Rơm vàng nắng tháng 10", đặc biệt tại Appliel Gallery
Trường Đại học Mỹ thuật TP HCM, 2 năm liền vào tháng chạp nhân ngày giỗ Tổ nghề
sơn mài, đã trưng bày nhiều tác phẩm về sơn mài truyền thống của nhiều tác giả, thông
.
k Trường Đại học Mỹ thuật TP HCM trở thành trung tâm lớn phía nam của hội họa
qua nhiều phong cách biểu đạt khác nhau.
h
Việt Nam. Từ sau 1975 nhà trường luôn coi trọng việc đào tạo những lớp sinh viên mỹ
thuật trong đó có sinh viên học ngành sơn mài, tiếp thu truyền thống về sơn mài của
c
những lớp họa sĩ đi trước, đào tạo nên đội ngũ họa sĩ sơn mài lấy kỹ thuật truyền thống
n
làm nền tảng, phát triển đa dạng phong cách làm cho sơn mài miền Nam có một vị trí
xứng đáng trong lòng người yêu nghệ thuật trong nước và ngoài nước.
2.3. Đánh giá tranh sơn mài Việt Nam qua thông tin trong nước và nước ngoài
2.3.1. Kết quả khảo sát xã hội học qua người dân đối với tranh sơn mài m
"Muốn hiểu được nghệ thuật thì phải được giáo dục về nghệ thuật", "Phải là cầu
nối giữa sáng tạo, nghệ sỹ với công chúng", "Phải đưa nghệ thuật đến với công chúng"
t -
v.v.đó là những cái đích cần phải đạt tới để nghệ thuật phát huy tác dụng đối với xã
b
hội, con người. Vậy chúng ta thông qua số liệu điều tra xã hội học để xem thực trạng
v
người dân hiểu biết, tiếp cận với loại tranh được đánh giá là giàu bản sắc dân tộc này.
2.3.1.1. Thông tin chung
h
Nghiên cứu về Tranh sơn mài Việt Nam - Thực trạng và Phát triển chúng tôi tiến
hành khảo sát thực tế bằng bảng hỏi lựa chọn mẫu một cách ngẫu nhiên với 200 phiếu
ở một số tỉnh, thành phố như Tp Hồ Chí Minh, Bình Dương, Nam Định, Hà Nội 1, Hà
t t
d
Nội 2 (Hà Tây), Nghệ An, Phú Thọ, Bắc Ninh. Kết quả điều tra qua xử lý bằng phần
mềm SPSS - một phần mềm chuyên dụng trong nghiên cứu xã hội học đã thu được. Cơ
cấu mẫu nghiên cứu cụ thể như sau:
l .
Chúng tôi đã đề nghị mọi người trả lời câu hỏi ở phiếu điều tra, 72 người dưới 20
n
tuổi (chiếm 36%), 86 người từ 21 đến 30 tuổi (chiếm 43%), 42 người 31 tuổi trở lên v
134
w
chiếm 21%: Chọn 8 tỉnh đại diện cho vùng miền, ở thành phố Hồ Chí Minh là 40 (40
w
phiếu cho 40 người) chiếm 20%, Bình Dương là 40 chiếm 20%, Hà Nội 1 là 40 chiếm
20%, Hà Nội 2 (Hà Tây cũ) là 36 chiếm 18%, Phú Thọ là 10 chiếm 5%, Nam Định 11
w
chiếm 5,5%, Nghệ An 15 chiếm 7,5%, Bắc Ninh là 8 chiếm 4%. Tổng cộng là 200
phiếu cho 200 người, số phiếu thu lại là 200 (xem Bảng 1, Phụ lục 4)
.
2.3.1.2. Nội dung chính
a. Biết về tranh sơn mài Việt Nam k Bảng kết quả trên cho thấy người dân hiểu biết về tranh sơn mài Việt Nam ở
h
nhiều khía cạnh. Tỷ lệ cao nhất người dân cho rằng tranh sơn mài Việt Nam là tranh
truyền thống, kết hợp chất liệu sơn và bàn tay nghệ sĩ có tới 20 người chọn phương án
c
này tương đương (10.0%). Thứ hai, có (7.0%) cho rằng tranh sơn mài màu sắc đẹp,
n
tranh đặc sắc của Việt Nam, dùng để trang trí đền chùa, cung đình. Thứ ba, có (6.0%)
cho rằng tranh sơn mài màu sắc đẹp và thể loại tranh đặc sắc của Việt Nam. Ngoài ra
m
còn một số ý kiến khác về tranh sơn mài như: Sử dụng các vật liệu vỏ trứng, sò, vỏ trai
để giáp vào tranh; Tranh đi đầu, tiên phong, nghệ thuật mới, thể hiện được màu sắc
thật; Là loại tranh nguồn gốc ở Việt Nam, chất liệu chính để vẽ là sơn ta… (xem Bảng
2, Phụ lục 4)
t -
b. Một số làng nghề sơn truyền thống
b
Kết quả điều tra cho thấy phần lớn người dân khi được hỏi về một số làng nghề
v
sơn truyền thống trả lời không biết, có tới 182 người lựa chọn phương án này chiếm
(91.0%). Bên cạnh đó, có một số người dân cho biết tên một số làng nghề sơn mài
h
truyền thống như Làng Hạ Thái (Hà Nội), Cát Đằng (Nam Định) có 13 người chọn,
chiếm (6.5%), hoặc (2.5%) cho biết làng nghề Đình Bảng (Bắc Ninh), Kiêu Kỵ (Gia
Lâm) Hà Nội. Đây là những làng nghề tranh sơn mài nổi tiếng được nhiều người dân
t t
d
biết đến. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu thể hiện nhiều người dân chưa biết được
những làng nghề tranh sơn mài ở Việt Nam. Vậy nguyên nhân tại sao người dân không
biết đến những làng nghề truyền thống? có thể có nhiều lý do khác nhau, điều này thể
l .
hiện việc phổ biến quảng bá những làng nghề tranh sơn mài ở Việt Nam còn hạn chế.
v
n
(xem Bảng 3, Phụ lục 4)
135
w
c. Tên nghệ nhân trong nghề sơn
w
Kết quả điều tra cho thấy người dân đã kể ra một số tên nghệ sỹ trong nghề sơn
truyền thống. Tiêu biểu có Nghệ sĩ Tô Ngọc Vân có 30 trong số những người được hỏi
w
kể tên nghệ sĩ này, chiếm (15.0%). Đây là một nghệ sĩ nổi tiếng được nhiều người biết
đến. Thứ hai, nghệ sĩ Nguyễn Gia Trí, có 18 người lựa chọn, chiếm (9.0%). (4.5%)
.
chọn nghệ sĩ Minh Trí, Dương Sen. Ngoài ra còn một số nghệ sĩ trong nghề sơn như
k
Phan Kế An, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Sáng, Đoàn Văn Nguyên… Mặc dù người
dân kể ra được một số tên nghệ sĩ trong nghề sơn truyền thống, nhưng vẫn còn một tỷ
h
lệ lớn trả lời không biết khi được hỏi về vấn đề này, chiếm tới 76.0% trong số những
c d. Biết gì về tranh sơn mài Việt Nam
người được hỏi. (xem Bảng 4, Phụ lục 4)
n
Tìm hiểu sự hiểu biết của người dân về tranh sơn mài Việt Nam, có nhiều cách
trả lời về tranh sơn mài Việt Nam. Nhận định chung của người dân là tranh sơn mài
m
đẹp (5.0%) chọn phương án này. Thứ nữa, theo người trả lời, tranh sơn mài là loại
tranh diễn tả cuộc sống đời thường dễ xem gần gũi, có 8 người lựa chọn, chiếm (4.0%).
Bên cạnh đó, có người cũng cho rằng tranh sơn mài Việt Nam là loại tranh sử dụng
t -
chất liệu thiên nhiên, thể hiện phong cảnh làng quê Việt Nam, loại tranh truyền thống
b
kết dính cùng các loại sơn, vỏ trai. Bên cạnh đó, vẫn có nhiều người trả lời không biết
khi được hỏi về tranh sơn mài Việt Nam, chiếm tới (79.5%). (xem Bảng 5, Phụ lục 4)
v
e. Biết về cách vẽ tranh sơn mài
Vì không có nhiều người biết về tranh sơn mài Việt Nam, nên tỷ lệ khá cao
h
người dân trả lời không biết về cách vẽ tranh sơn mài, có tới 180 người chọn phương
án này, chiếm (90.0%). Có một số ít người dân trả lời một số cách vẽ tranh sơn mài
t t
như sau: 3 giai đoạn: bó hom vóc, vẽ mài, đánh bóng, Vẽ trên chất liệu gỗ, gốm, sau đó
d
mài đi; Kết hợp các loại vật liệu với nhau chiếm (2.5%). (xem Bảng 6, Phụ lục 4)
g. Chất liệu để vẽ tranh sơn mài
l .
Tỷ lệ cao nhất trong số những người được hỏi biết chất liệu để vẽ tranh sơn mài
n
là gỗ, có 35 người lựa chọn phương án này, chiếm (17.5%). Thứ hai, có (7.0%) cho v rằng chất liệu từ sơn, vàng, bạc, khảm vỏ trai ốc, vỏ trứng để vẽ tranh sơn mài. Chất
136
w
liệu từ thiên nhiên cũng có 7 người lựa chọn. Đồng thời, có một tỷ lệ khá cao trong số
w
những người được hỏi không biết chất liệu để vẽ tranh sơn mài là gì có tới 125 người
trả lời không biết, chiếm (62.5%). (xem Bảng 7, Phụ lục 4)
w
h. Nhìn thấy tranh sơn mài ở đâu
Nơi xuất hiện tranh sơn mài cũng rất quan trọng bởi gây chú ý và phổ biến đến
người dân. Theo kết quả điều tra, người dân phản ánh có ba nơi nhìn thấy tranh sơn
.
k
mài Việt Nam là từ triển lãm, tivi, internet và sách báo. Tỷ lệ cao nhất lựa chọn biết
được từ các triển lãm, có 72 người lựa chọn phương án này, chiếm (36.0%). Thứ hai từ
h
tivi, internet chiếm (23.0%). Còn lại có (12.0%) biết được từ sách báo. (xem Bảng 8,
Phụ lục 4)
c
Bảng kết quả trên cho thấy nơi người dân nhìn thấy tranh sơn mài Việt Nam
n
nhiều ở các triển lãm, tỷ lệ này ở Hà Nội 1 là (47.5%), tiếp theo Hà Nội 2 (Hà Tây cũ)
với (47.2%), thứ ba là Thành phố Hồ Chí Minh (37.5%). Thấp nhất ở Bình Dương chỉ
có (15.0%). Trong khi đó tỷ lệ biết qua ti vi, internet ở Hà Nội 1 cao nhất với (32.5%),
m
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội 2 là (25.0%). Tỷ lệ biết tranh sơn mài Việt Nam
qua sách báo ở Thành phố Hồ Chí Minh cao nhất với (20.0%), Bình Dương chiếm
(12.5%), thấp nhất ở Hà Nội 2 là (8.3%). Như vậy, giữa các địa điểm với nơi nhìn thấy
t -
tranh sơn mài Việt Nam có mối tương quan với nhau, nhưng chủ yếu tranh sơn mài
b
vẫn được nhiều người dân nhìn thấy qua các cuộc triển lãm tranh. (xem Bảng 9, Phụ
v
lục 4 - Do Nam Định, Bắc Ninh, Nghệ An, Phú Thọ không đủ 30 mẫu nêu không đưa
địa điểm này vào phân tích tương quan).
h
Kết quả xử lý tương quan giữa tuổi của người trả lời với nơi nhìn thấy tranh sơn
mài Việt Nam cho thấy tỷ lệ cao nhất ở nhóm 31 tuổi trở lên nhìn thấy tranh sơn mài ở
triển lãm (40.5%), thứ hai nhóm từ 20 tuổi trở xuống có (37.5%) cũng thấy tranh sơn
t t
mài từ các cuộc triển lãm; thấp nhất nhóm từ 21-30 tuổi là (32.6%). Ngược lại, tỷ lệ
d
thấy tranh sơn mài trên tivi, internet chiếm tỷ lệ thấp nhất (18.1%), cao nhất nhóm 31
tuổi trở lên chiếm (26.2%) trong số những người được hỏi. Nhóm 21-30 tuổi chỉ có
l .
(5.8%) cho biết họ thấy được tranh sơn mài Việt Nam từ sách báo, thấp nhất trong số
n
các nhóm tuổi khác. Có thể nói, có mối tương quan chặt chẽ giữa tuổi của người trả lời v với nơi nhìn thấy tranh sơn mài Việt Nam. (xem Bảng 10, Phụ lục 4)
137
w
i. Tên họa sĩ tranh sơn mài nổi tiếng
w
Tên họa sĩ tranh sơn mài nổi tiếng nhiều người biết đến là nghệ sĩ Tô Ngọc Vân
với 71 người đưa ra chiến (35.5%), thứ hai, nghệ sĩ Nguyễn Gia Trí có (12.0%) người
w
dân kể đến, thứ ba, nghệ sĩ Nguyễn Khang với (6.5%). (44.0%) không biết nghệ sĩ
tranh sơn mài nào. (xem Bảng 11, Phụ lục 4)
.
Kết quả xử lý tương quan giữa địa điểm với biết tên họa sĩ tranh sơn mài nổi
k
tiếng có một số điểm nổi bật như sau: nghệ sĩ Tô Ngọc Vân là nghệ sĩ được nhiều
người biết đến nhất, đặc biệt ở tỉnh Bình Dương có tới (62.5%) trong số những người
h
được hỏi biết tên họa sĩ này; Thứ hai, ở Hà Nội 2 có (41.7%) người biết đến nghệ sĩ Tô
Ngọc Vân; Thành phố Hồ Chí Minh (32.5%), thấp nhất Hà Nội 1 có (20.0%).
c
Nghệ sĩ Nguyễn Gia Trí cũng được nhiều người ở Thành phố Hồ Chí Minh,
n
Hà Nội1, Hà Nội 2 biết đến chiếm trên (11.0%), riêng Bình Dương chỉ có (2.5%)
người dân biết đến nghệ sĩ này. Ngoài ra, còn một số nghệ sĩ khác cũng được người
m
dân ở các địa điểm Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hà Nội 1, Hà Nội 2 biết
đến như nghệ sĩ Phan Kế An, Nguyễn Khang, Nguyễn Tư Nghiêm… (xem Bảng 12,
Phụ lục 4)
t -
Bảng số liệu trên cho thấy, cả ba nhóm tuổi đều biết đến nghệ sĩ Tô Ngọc Vân
b
tương đương nhau, không có sự khác biết đáng kể giữa 3 nhóm tuổi trên tương ứng (20
tuổi trở xuống: 33.3%, 21-30 tuổi là 30.2% và nhóm từ 31 tuổi trở lên là 35.7%).
v
Riêng nhóm tuổi từ 21-30 tuổi biết đến nghệ sĩ Nguyễn Gia Trí chiếm tỷ lệ cao nhất so
với hai nhóm tuổi còn lại là (14.0%), trong khi đó tỷ lệ này ở nhóm 20 tuổi trở xuống
h
chỉ có (5.6%) và nhóm trên 31 tuổi là (4.8%). Một số nghệ sĩ như Trần Quang Trân,
Phạm Hậu, Trần Văn Cẩn, Đinh Văn Thành, Lê Quốc Lộc... ở nhóm dưới 20 tuổi
t t
chiếm tỷ lệ cao nhất (5.6%), bên cạnh đó không có ai ở nhóm 21-30 tuổi biết đến các
d
nghệ sĩ này. Nghệ sĩ Nguyễn Khang ít được nhóm dưới 20 tuổi biết đến nhầt, tỷ lệ này
ở nhóm 21-30 tuổi là (4.7%), 31 tuổi trở lên là (4.8%). Còn lại, tỷ lệ biết đến các nghệ
sĩ tranh sơn mài nổi tiếng ở Việt Nam giữa các nhóm tuổi không có sự khác nhau
l .
v
n
nhiều. (xem Bảng 13, Phụ lục 4)
138
w
k. Tên tác phẩm tranh sơn mài nổi tiếng
w
Khi được hỏi về tên tác phẩm tranh sơn mài nổi tiếng ở Việt Nam, tỷ lệ cao
nhất có 71 người lựa chọn là tác phẩm “Nghỉ chân bên đồi”, chiếm (35.5%). Tác
w
phẩm “Dọc mùng” có 28 người lựa chọn chiếm (14.0%). Ngoài ra còn một số tác
phẩm khác như “Bắc Trung Nam” (3.0%), “Rước quan trạng”... Còn lại, có tới
.
(48.5%) trả lời không biết tác phẩm tranh sơn mài nổi tiếng nào ở Việt Nam. (xem
k Tác phẩm “Nghỉ chân bên đồi” được nhiều người lựa chọn nhất ở các địa điểm.
Bảng 14, Phụ lục 4)
h
Tuy nhiên, giữa các địa điểm có sự khác nhau căn bản, Bình Dương có tỷ lệ chọn tác
phẩm này cao nhất với (62.5%); thứ hai, Hà Nội 2 (41.7%); Thứ ba, Thành phố Hồ
Chí Minh (27.5%) và cuối cùng Hà Nội 1 (17.5%). c
n
Ngược lại, Hà Nội 1 là nơi có nhiều người dân lựa chọn tác phẩm “Dọc mùng”
nhất (20.0%), tỷ lệ này ở Thành phố Hồ Chí Minh là (15.0%), Hà Nội 2 (13.9%).
m
Trong khi đó, Bình Dương chỉ có (2.5%). Còn lại, tác phẩm khác giữa các địa điểm
không có sự khác biết đáng kể. (xem Bảng 15, Phụ lục 4)
e. Các bức tranh sơn mài
t -
Nghiên cứu đưa ra một số tên tác phẩm, hỏi để tìm hiểu nhận biết của người dân
b
đâu là những bức tranh sơn mài Việt Nam, kết quả có 3 tác phẩm được nhiều người
lựa chọn nhất là “Mưa” - Nguyễn Thụ, “Em nào cũng được học cả” - Sỹ Tốt, “Em
v
Thúy” - Trần Văn Cẩn đều chiếm tỷ lệ (53.5%). Tác phẩm được nhiều người lựa chọn
nữa là “Kết nạp Đảng” của Nguyễn Sáng chiếm (30.5%). “Nhớ một chiều Tây Bắc” -
h
Phan Kế An có (19.5%) người dân lựa chọn. “ Nhà tranh gốc mít” - Nguyễn Văn Tỵ
có (16.5%). Thấp nhất có (2.5%) lựa chọn tác phẩm “Cái Bát” - Sỹ Ngọc. (xem Bảng
t t
16, Phụ lục 4)
d
Xét tương quan giữa địa điểm với việc nhận biết một số tác phẩm là tranh sơn
mài Việt Nam kết quả có một số tác phẩm được nhiều người lựa chọn và giữa các địa
điểm có một số điểm khác nhau như: “Kết nạp Đảng” - Nguyễn Sáng ở Thành phố Hồ
l .
Chí Minh, Hà Nội 1 và Hà Nội 2 có trên (30.0%) trong số những người được hỏi lựa
n
chọn phương án này, tỷ lệ này ở Bình Dương chỉ có (17.5%) người dân lựa chọn. Tác v
139
w
phẩm “Con nghé” - Nguyễn Tư Nghiêm được nhiều người ở Bình Dương lựa chọn
w
nhất (17.5%), thấp nhất Hà Nội 2 chỉ có (8.3%) trong số những người được hỏi lựa
chọn phương án này. Tác phẩm “Nhớ một chiều Tây Bắc” - Phan Kế An được nhiều
w
người ở Hà Nội 2 biết đến nhất (22.0%), thấp nhất ở Bình Dương chỉ có (15.0%).
Tương tự tác phẩm “ Nhà tranh gốc mít” - Nguyễn Văn Tỵ có (20.0%) người dân
.
Thành phố Hồ Chí Minh lựa chọn phương án này, trong khi đó Hà Nội 1 và Bình
k
Dương chỉ có (15.0%). Không có ai ở cả 4 địa điểm Thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Hà Nội 1 và Hà Nội 2 lựa chọn tác phẩm “Mưa” - Nguyễn Thụ, “Em nào cũng
h
được học cả” - Sỹ Tốt và “Em Thúy” - Trần Văn Cẩn. (xem Bảng 17, Phụ lục 4)
m. Quan điểm về tranh sơn mài Việt Nam
c
Khi được hỏi về việc có thích tranh sơn mài Việt Nam không, kết quả có 69
n
người tương đương (34.5%) trả lời không thích. Chỉ có tỷ lệ thấp người dân trả lời có
thích chiếm (24.0%). Đặc biệt, có (41.0%) không biết khi được hỏi về vấn đề này.
m
Trong số những người thích tranh sơn mài Việt Nam, chúng tôi có hỏi tại sao họ
thích tranh sơn mài. Kết quả nghiên cứu cho thấy một số lý do chủ yếu sau đây: vì thu
hút được thị giác, màu sắc phong phú, tranh không cầu kì mà tinh tế, tác phẩm đặc sắc,
kỳ công, đậm chất dân tộc, vì các mảng màu trong tranh ấn tượng và mạnh mẽ, màu
t -
sắc phong phú tự nhiên. Đó là những lý do người dân thích tranh sơn mài Việt Nam.
b
(xem Bảng 18, Phụ lục 4)
v
Khi được hỏi về việc yêu thích tranh sơn mài Việt Nam ở cả 4 nơi Hà Nội 1,
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Hà Nội 2 kết quả Hà Nội 1 là nơi có tỷ lệ
h
yêu thích tranh sơn mài Việt Nam cao nhất với (30.0%), thứ hai Thành phố Hồ Chí
Minh (27.5%), thứ ba, là Hà Nội 2 (19.4%), riêng Bình Dương chiếm tỷ lệ thấp nhất
(10.0%). Như vậy, giữa các địa điểm với quan điểm có yêu thích tranh sơn mài Việt
t t
d
Nam có mối tương quan có ý nghĩa thống kê với nhau. (xem Bảng 19, Phụ lục 4).
Khi so sánh giữa các độ tuổi với có yêu thích tranh sơn mài Việt Nam không có
sự khác biệt nhiều giữa hai nhóm tuổi 20 tuổi trở xuống và 21-30 tuổi tương ứng (20
l .
v
n
tuổi trở xuống 26.4% và 21-30 tuổi 25.6%). Riêng chỉ có nhóm 31 tuổi trở lên chỉ có
140
w
(16.7%) yêu thích tranh sơn mài Việt Nam, thấp nhất so với hai nhóm tuổi trên. (xem
w
Bảng 20, Phụ lục 4)
n. So sánh tranh Việt Nam với một số nước
w
Từ bảng số liệu trên cho thấy nhiều người không biết khi được hỏi những thông
tin về loại tranh có cùng một gốc chất liệu (sơn ta) ở một số nước (như Trung Quốc,
Nhật Bản, các nước Đông Nam Á) khác tranh Việt Nam như thế nào (87.0%). Chỉ một
.
k
số ít người biết được những thông tin như tranh của Nhật, Trung Quốc không sống
động bằng Việt Nam; điểm khác căn bản nữa là kỹ thuật mài tranh; Tranh nước ngoài
h
màu công nghiệp, tranh Việt Nam màu thiên nhiên; Sản phẩm của nước ngoài tiện
dùng hơn, những cách sử dụng sơn Việt Nam ưu việt hơn… (xem Bảng 21, Phụ lục 4)
c
o. Đề xuất cho sự phát triển và bảo tồn tranh sơn mài Việt Nam
n
Để phát triển và bảo tồn tranh sơn mài Việt Nam người dân có nhiều ý kiến đóng
góp bổ ích cho nghề tranh sơn mài nước ta. Nhiều ý kiến cho rằng nên đưa tranh sơn
mài vào trường phổ thông như môn học, có như vậy học sinh được tiếp xúc cũng như
m
có hiểu biết nhiều về tranh sơn mài thì mới yêu thích cũng như bảo tồn nghề tranh sơn
mài Việt Nam chiếm tới (6.5%). Đồng thời, phải phổ biến tranh sơn mài nhiều hơn để
người dân biết đến, có (6.5%) người dân đề xuất phương án này, dưới nhiều hình thức
t -
quảng bá phổ biến tranh đến người dân làm cho nhiều người biết đến ví như mở thêm
b
các triển lãm tranh sơn mài, thời gian hợp lý thu hút người dân đến nhiều. Không chỉ
v
quảng bá, phổ biến bằng hình thức suông mà còn cho người dân trực tiếp tiếp xúc sẽ
thấy được sự thú vị của tranh sơn mài, ví như cho sinh viên tiếp xúc và làm trực tiếp
h
để hiểu sâu. Rồi cho vào chương trình học của sinh viên các ngành mỹ thuật, hội họa...
môn học tranh sơn mài Việt Nam. Ngay cả đối với cấp tiểu học cũng nên đưa vào sách
giáo khoa, in nhiều tranh sơn mài sinh động hơn trong sách giáo khoa tiểu học để các
t t
em được biết và nhìn thấy. (xem Bảng 22, Phụ lục 4)
d
2.3.1.3. Nhận xét chung về kết quả điều tra
Từ những phân tích kết quả của cuộc điều tra khảo sát trên có thể rút ra một số
l .
nhận xét như sau:
n
Thứ nhất, Hiểu biết về tranh sơn mài Việt Nam có ít người hiểu được sâu sắc về v dòng tranh truyền thống này.
141
w
Thứ hai, tỷ lệ người dân biết về những làng nghề cũng như nghệ nhân nổi tiếng
w
trong làng tranh sơn mài Việt Nam rất thấp.
Thứ ba, hầu như rất ít người biết được cách vẽ tranh sơn mài Việt Nam, tuy
w
nhiên đã có một tỷ lệ nhất định người dân biết được chất liệu vẽ tranh sơn mài nên đã
kể ra được một số chất liệu.
Thứ tư, chủ yếu người dân biết được tranh sơn mài qua hội chợ, triển lãm và
.
k
phương tiện truyền thông như ti vi, internet, ngoài ra các phương tiện khác chưa phát
huy được tác dụng phổ biến tranh sơn mài đến người dân.
h
Thứ năm, khá nhiều người có quan điểm yêu thích tranh sơn mài Việt Nam, nên
mong muốn được tiếp cận và dòng tranh sơn mài mài được phổ biến hơn nữa.
c
Thứ sáu, tuy không có nhiều người biết đến tranh sơn mài Việt Nam, nhưng
n
những người biết đến tranh sơn mài đã đánh giá cao dòng tranh này ở Việt Nam so với
một số nước như Trung Quốc, Nhật Bản ở một số khía cạnh như chất liệu.
Thứ bảy, người dân đã đưa ra một số giải pháp cho việc bảo tồn và phát triển
m
tranh sơn mài Việt Nam, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến giải pháp cần phải phổ biến
rộng rãi hơn nữa dòng tranh này đến với người dân, cũng như cần đưa vào chương
trình môn mỹ thuật trong các trường phổ thông, tiểu học và đào tạo tại các trường
t -
chuyên ngành về hội họa, mỹ thuật để khuyến khích thế hệ tương lai bảo tồn tranh sơn
b
mài Việt Nam.
v
2.3.2. Các thông tin trong nước, ngoài nước đánh giá tranh sơn mài Việt Nam
Ngày từ khi xuất hiện tranh sơn mài Việt Nam đã được dư luận, báo chí đánh giá:
h
Claude Mahoudot (Giảng viên Trường CĐ MTĐD, nhà báo bút danh C.L.M) đã
viết: "Trường Mỹ thuật Hà Nội bắt đầu hoạt động từ năm 1926. Khóa đầu tốt nghiệp
năm 1931. Mười lăm năm trong cuộc sống nghệ thuật một nước có ý nghĩa gì? Tuy
t t
d
nhiên công việc làm được rất lớn ... đã thực sự tạo ra một phong trào hội họa và đã đưa
cái gọi là "sơn ta" (laque) vào phục vụ các họa sĩ. Chất sơn sau này hình như sẽ có một
vị trí rất lớn trong lịch sử tương lai của nghệ thuật Đông Dương (đăng trên tạp chí
l .
v
n
Indochise số 171 ngày 9/12/1943) [23, tr.16, 17]
142
w
Năm 1948, Danh họa Tô Ngọc Vân tiên đoán: "... Thấy sơn mài vừa xuất hiện,
w
hầu hết giới nghệ sĩ Việt hoan nghênh ... Người ngoại quốc đến nước ta hoàn toàn
hoan nghênh sơn mài, coi nó là một phát minh mới nhất trong hội họa ... Song cũng
w
một số người Pháp thực dân thấy SƠN TA vừa ra khỏi địa vị trang trí, vội kêu lên:
"đứng lại". Tờ Voilon té indochinoise hồi ấy tuyên bố rằng SƠN TA không nên và
.
cũng không có thể đi vào con đường hội họa, không nên vì nó đang được việc cho
k
trang trí, đưa nó đi chỗ khác làm gì, không có thể vì phương tiện của nó nghèo nàn,
không đủ màu sắc để diễn tả tạo vật một cách xác thực. Ngay hồi đó, trên một tờ báo,
h
chúng tôi đã bàn những lý không vững ấy đi rồi. và những tác phẩm SƠN MÀI trình
bày trước mắt chúng ta từ 1935 tới nay đã chứng tỏ rằng SƠN MÀI vào hội họa là đi
c
đúng đường mình, đường hội họa không nhằm mục đích truyền lại tạo vật mà chuyên
n
về diễn đạt đời sống bên trong con người nghệ sỹ, cũng như hội họa thủy mạc Tàu và
hội họa SƠN DẦU hiện đại của thế giới.
m
Ngày nay sau nhiều lần theo dõi các bạn nghệ sĩ sơn mài, sau khi chính mình đã
thực nghiệm ít lâu, chúng tôi tin tưởng mà tuyên bố rằng: không những SƠN MÀI đã
là một ngành hội họa, SƠN MÀI sẽ còn là một ngành hội họa đủ năng lực cách mạng
t -
hội họa thế giới hiện nay đang mắc nghẽn trong một đường cụt không lối thoát ...
b
Màu của SƠN MÀI đằm thắm, sắc nhị âm vang sâu rộng, rung tới tận đáy lòng
người xem ... SƠN MÀI có sắc phẩm, có chất phẩm đủ năng lực để làm tan cái mâu
v
thuẫn giữa hình, sắc chất, ... SƠN MÀI, một ngành hội họa mới, do tay người Việt
Nam dựng lên, sẽ đem lại cho thế giới hội họa sự điều hòa hình, sắc, chất đang mong
h
đợi, và sự điều hòa những khuynh hướng trái ngược nhau ... SƠN MÀI được điêu
luyện trong tay người Việt Nam, sẽ trao như kỷ niệm của những người đã chiến đấu
t t
cho tự do hòa bình, trao sang tay các nhà nghệ sỹ trong thế giới, góp một phần vào sự
d
xây dựng một nền văn nghệ mới cho nhân loại ... [66, tr.11, 12]
Như vậy tranh sơn mài trở thành hội họa sơn mài Việt Nam cũng trải qua nhiều
thăng trầm, nhưng những họa sĩ Việt Nam đã bằng lao động sáng tạo đã tạo nên các
l .
v
n
tác phẩm để khẳng định giá trị nghệ thuật sơn mài Việt Nam.
143
w
Danh họa - Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Nguyễn Đỗ Cung viết: "... Chất nhựa sơn
w
bắt đầu nhấc cánh. Tôi muốn nhận thấy cái sinh lực đầu mối của sự tiến hóa đó. Đen,
đỏ, vàng, tím. Với những màu hơn kém nhau chút ít của nghề sơn, họa sĩ đã cho ra một
w
cuộc sống mà sự giàu sang tương tự như cuộc sống thực của chúng ta. Sự tạo tác bao
giờ cũng đẹp ..." (Báo Thanh Nghị số 79 ngày 19/8/1944 bài viết về tác phẩm sơn mài
.
của họa sĩ Nguyễn Gia Trí tại phòng Triển lãm 1944).
- Trên báo Văn Nghệ ( 8/1956 ), hoạ sĩ Lê Quốc Lộc đã viết: “… Sơn mài Việt k Nam tuy sinh sau nhưng mau lớn … Những bài học của người xưa, chúng ta phải tìm
h
tòi, nghiên cứu, phải tự ta khai thác. Sự đóng góp của chúng ta có kết quả thật rất quý
báu. Riêng tôi tin tưởng, đặt nhiều hy vọng ở nghệ thuật sơn mài của ta, một nghệ
thuật bắt nguồn ở vốn cũ, nó đang lớn mạnh …’’ c
n
- Cũng trên báo Văn nghệ, nhạc sĩ, nhà thơ, hoạ sĩ Văn Cao đã phân tích: “Người
ưa chuộng riêng về chất sẽ thấy sơn mài đến nay càng có nhiều khả năng diễn tả.
Nguyên nhân của sự phát triển đó là do cuộc sống biến diễn quanh ta ảnh hưởng vào
m
mỗi họa sĩ. Cuộc sống càng phong phú thì càng có nhiều sáng tạo, càng cần có nhiều
chất liệu có nhiều khả năng để thể hiện …".
- Trên báo Văn hóa (11/1968), họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ đã nhận định: "… Bản thân
t -
chất liệu sơn mài vốn có những khả năng diễn tả rộng rãi; lúc kỳ thú thì ghi rõ chi ly
b
được từng lá tre, bụi chuối, từng nét viền đen nổi rõ như trên tranh khắc gỗ; lúc tung
v
hoành thì phóng bút được mềm mại như thủy mạc trên giấy bản … Cái hay, cái đẹp
của tranh sơn mài Việt Nam là luôn phối hợp được (hoặc trên được tìm kiếm để phối
h
hợp) những yêu cầu về nội dung tư tưởng của tác phẩm với những yêu cầu hoàn chỉnh
về nghệ thuật tạo hình … Sơn mài đang tỏ ra có khả năng diễn tả những chủ đề cách
mạng, chủ đề lịch sử có nghệ thuật cao và có tính tư tưởng sâu sắc … Tranh sơn mài
t t
Việt Nam đã làm xôn xao dư luận nghệ thuật phương Tây và gợi lên con đường đi
d
đúng đắn của nghệ thuật hội họa …".
- Họa sĩ Nguyễn Oanh Phi Phi (Việt kiều Mỹ) đã học sơn dầu 2 năm ở Pháp, 2
l .
năm tại Hoa Kỳ nhưng sau gần 3 năm trở về quê gốc Việt Nam đã bị cuốn hút bởi
n
nghệ thuật, kỹ thuật sơn mài truyền thống. Họa sĩ đã tổ chức triển lãm tại Bảo tàng v Mỹ thuật Việt Nam, các tác phẩm sơn mài của Phi Phi gây ấn tượng mạnh bởi đã thể
144
w
hiện tính hiện đại kết hợp nhuần nhuyễn với chất liệu truyền thống, thể hiện cái mới
w
của sơn mài, bà phát biểu: "Tôi đã khám phá ra nghệ thuật sơn ta, chất liệu sơn mài
rất huyền bí và gợi cảm, rất độc đáo, rất riêng, rất Việt Nam mà không chất liệu tạo
w
hình nào thuộc Phương Tây có thể sánh được…"
Nhiều tác phẩm hội họa sơn mài của Việt Nam cũng đã có mặt ở nhiều cuộc
Triển lãm quốc tế. Đáng chú ý nhất là ở cuộc Triển lãm Nghệ thuật tạo hình của 12
.
k
nước XHCN được tổ chức tại Mát - xcơ - va (nước Nga - Liên Xô cũ) năm 1959, sau
đó được bày tiếp ở nhiều nước khác. Qua những phát biểu của các đại biểu đến tham
h
dự Triển lãm và những bài viết trên các phương tiện truyền thông, nền nghệ thuật sơn
mài của Việt Nam được đánh giá rất cao, được coi như một sự kiện bất ngờ, một cống
c
hiến to lớn cho kho tàng nghệ thuật tạo hình của thế giới:
n
"… Các nghệ sĩ Việt Nam đã vận dụng một cách tài tình những hình thức và
những truyền thống dân tộc để xây dựng những tác phẩm hội họa tuyệt tác, đạt tới một
m
trình độ tinh vi kỳ lạ và tuyệt vời với lối tô màu, tô sơn để làm người ta xúc động …".
(Ni-cô-lai Sơ-mi-ghen, Bungari).
"… Cái đáng ghi nhớ trước tiên là những bức tranh sơn mài đủ các màu vàng,
màu bạc, đánh bóng và những bức khảm (bằng xà cừ và vỏ trứng). Với những phương
t -
tiện đặc biệt đó của nghệ thuật, các họa sĩ Việt Nam đã đạt tới trình độ nghệ thuật
b
tuyệt mỹ và thật là muôn hình muôn vẻ. Các bức tranh sơn mài óng ánh như kim loại,
v
như đá quý … Họ vẽ cảnh thiên nhiên, vẽ cảnh sinh hoạt và chiến đấu với một vẻ đẹp
khác thường …". (A-chi-khô-mi-rốp).
h
"… Tôi chỉ chọn ngành hội họa sơn mài trong số vô vàn những phong cách của
nghệ thuật Việt Nam. Đối với tôi, nó là môn phong phú và độc đáo nhất, Với chất
t t
lượng không thể chối cãi đó, những bức tranh sơn mài Việt Nam là cánh cửa rộng để
d
tìm hiểu cuộc sống của một dân tộc yêu lao động và nhiếu tài năng…". (Nhà thơ Xô
Viết P.An-tô-côn-ski).
"… Chỉ cần lọt tới đây là người ta sẽ đứng mê mẩn vì sự hài hòa đặc sắc, những
l .
v
n
màu sắc lạ kỳ và sự hấp dẫn nghệ thuật của nó … Tôi đã thấy, dưới những bàn tay tài
145
w
hoa, các bức sơn mài đó đã được hình thành như thế nào, đã ngời sáng lên với tất cả
w
những màu sắc của nó …". (Nhà văn Xô Viết nổi tiếng Bô-rit Pô-lê-vôi).
"… Các tác giả Việt Nam sử dụng sơn mài pha lẫn màu vàng (kim loại) và màu
w
đỏ (son), màu bạc và màu xanh làm cho bề mặt của những bức tranh có một hòa sắc
huỳnh quanh kỳ lạ, không phải là những bề nổi rực rỡ mà giống như sự sâu thẳm của
.
bóng nước. Cái đó không thể tìm thấy trong bất cứ một chất liệu nghệ thuật nào, cứ
k Trên tờ Nhân dân nhật báo Bắc Kinh (Trung Quốc) số ra ngày 22/11/1962, Tác
như có sức thôi miên vậy …". (Báo Ar-gu-men-ti, Ba Lan).
h
giả Ngải Trung Tín đã bày tỏ cảm tình nồng nhiệt và ca ngợi nghệ thuật sơn mài của
Việt Nam:
c
"… Những thành tựu của nền nghệ thuật sơn mài của nước Việt Nam Dân chủ
n
Cộng hòa là một niềm cổ vũ đến với chúng ta. Qua các tác phẩm nghệ thuật ta nhìn
thấy sự cố gắng tiếp thu, trau dồi giữa nghệ thuật cổ truyền và hiện đại, để miêu tả con
m
người mới, cuộc sống mới không gượng gạo mà hòa hợp các kỹ xảo trong sơn, tạo nên
một thành công thật mới mẻ trong hội họa … Nền nghệ thuật sơn mài đẹp đẽ đó đã để
lại cho chúng ta những bài học quý báu, nó sẽ biến thành tình cảm anh em nồng thắm
t -
trong lòng người dân Trung Quốc. Nó sẽ có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài trong giới
b
mỹ thuật của chúng ta …".
Từ cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX đã có khá nhiều nghiên cứu
v
sinh của Bungari, Indonesia, Trung Quốc sang học nghệ thuật và kỹ thuật vẽ sơn mài
tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam (lúc đó là Trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà
h
Nội). Xem ra, hầu hết trong số họ không theo được nghề. Họ phải bỏ nghề vì nguyên
vật liệu dùng cho sơn mài rất quý hiếm, đắt đỏ, rất khó chế biến. Họ phải bỏ nghề vì
t t
điều kiện khí hậu, thời tiết không thích hợp như trường hợp của hai hoạ sĩ Bungari là
d
Đô - Sô và Ni - Ki - Pho, theo chúng tôi, có thể họ thiếu sự kiên trì, cần mẫn đôi khi
đến tỷ mẩn của người làm sơn mài, phải vừa là một nghệ sĩ lại vừa là một người thợ,
vừa phải rất say đắm lại phải vừa tỉnh táo để điều hành, sai khiến một “Nàng tiên khó
l .
v
n
tính”.
146
w
Trong số những nghiên cứu sinh đến học về sơn mài của Việt Nam thời ấy chỉ có
w
hoạ sĩ Thái Khắc Chấn (Trung Quốc) là theo đuổi được nghề, phát triển được nghề.
Chúng tôi nhắc lại bức thư ông gửi cho hoạ sĩ Hoàng Tích Chù (để nhấn mạnh):
w
“…Em là nghiên cứu sinh sơn mài do thầy đã dạy cách đây ba chục năm. Suốt ba
mươi năm qua, dù trải qua bao nhiêu thăng trầm, sóng gió nhưng trước sau em cũng
.
không thể quên được sự dạy dỗ của Ân Sư. Khi về nước, em luôn cố gắng sáng tác,
k
giảng dạy và tiếp tục nghiên cứu về sơn mài… Em đã mở được nhiều khoá học sơn
mài, đã tạo được nhiều sinh viên và không ngừng tổ chức những cuộc triển lãm ở trong
h
và ngoài nước và có được giải thưởng. Em hết sức mong muốn có dịp thăm lại Việt
Nam, thăm Thầy Kính Mến Nhất Của Em và những bạn bè trong thế giới Mỹ thuật để
c
trao đổi học thuật, tăng cường mối tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước…"
n
Cho đến hôm nay, ngoài sự yêu mến, cảm phục hâm mộ đến bất ngờ trước những
tác phẩm, những thành quả của nghệ thuật sơn mài Việt Nam, đã có hàng trăm hoạ sĩ,
m
nghiên cứu sinh, người hâm mộ của rất nhiều nước ở các châu lục đến học tập rất nhiệt
tình, say mê về cách sử dụng chất liệu sơn mài đầy bí hiểm và hấp dẫn này.
Những năm gần đây số hoạ sĩ, nghiên cứu sinh kể cả những thành viên trong các
t -
Đại sứ quán của các nước tại Việt Nam như: Đức, Bỉ, Thuỵ Điển, Na Uy, Singapore,
b
Malaisia, Nhật Bản, Mỹ… đến học. Nhiều người rất say mê và có kết quả tốt như
Nghiên cứu sinh Della (Phần Lan), Dellis (Thuộc Trường Mỹ Thuật Colorado của Mỹ
v
cử sang học).
Hoạ sĩ Thuỵ Điển Ingela Wenneber đã học sơn mài tại Trường Đại học Mỹ thuật
h
Hà Nội được 4 năm. Bà từng học nhiều năm về gốm và hội hoạ ở Học viện Mỹ thuật
Bắc Kinh. Họa sĩ đã bộc lộ: “Hồi đầu tôi đi thăm rất nhiều phòng tranh trên phố và các
t t
triển lãm, tôi đã bị tranh sơn mài của các hoạ sĩ Việt Nam quyến rũ. Việt Nam là nước
d
duy nhất mà kỹ thuật sơn mài được ứng dụng vào hội hoạ. Và, Hà Nội đối với tôi là
Trung tâm nghệ thuật Châu Á”.
Triển lãm mỹ thuật của Việt Nam mang tựa đề “Đối thoại giữa các nền văn
l .
minh” đã được trưng bày giới thiệu tại Genève (Thuỵ Sĩ) nhân kỷ niệm 25 năm ngày
n
Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc. Ấn tượng mạnh đối với các đại biểu của hơn một v
147
w
trăm nước về cuộc triển lãm này là những tác phẩm sơn mài truyển thống. Trên tạp chí
w
Mỹ thuật và Nhiếp ảnh, đã phản ánh như sau: “Các tác phẩm sơn mài Việt Nam đã làm
người xem ngạc nhiên bởi chất liệu và kỹ thuật làm tranh độc đáo, tạo nên những tác
w
phẩm có chiều sâu không gian, vừa hiện thực vừa trừu tượng. Đó là các tác phẩm của
Nguyễn Văn Tỵ, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Khang.
.
Hầu hết thuộc trường phải hiện thực, được làm theo kỹ thuật sơn mài truyền thống,
k
Cũng có một số tác phẩm của các tác giả trẻ mang tính tìm tòi, thử nghiệm, đắp các
chất liệu khác lên sơn mài hoặc đục đẽo lên bề mặt tác phẩm như tranh của Nguyễn
h
Văn Chuyên, Nguyễn Hồng Sơn, Minh Quân v.v.nhưng tại triển lãm, các tác phẩm này
chỉ là những điểm xuyết, còn ấn tượng mạnh vẫn thuộc về các tác phẩm sơn mài
c
truyền thống” (Chu Thu Hằng).
n
Tại Triển lãm tranh sơn mài nhân dịp chào mừng Hội nghị APEC (tổ chức tại Hà
Nội), có 96 tranh sơn mài của 81 tác giả, là một phòng trưng bày tranh sơn mài chất
m
lượng gồm các tác phẩm kinh điển của họa sĩ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
và những sáng tác mới của thế hệ họa sĩ vẽ tranh sơn mài kế tiếp. Triễn lãm này như
một bức tranh toàn cảnh về lịch sử phát tranh sơn mài Việt Nam. Kiến trúc sư Lisa
t -
Surprenant (Whashington - Mỹ - là người mê và học vẽ sơn mài) đã nói bằng sự
b
ngưỡng mộ. "Việt Nam có một di sản nghệ thuật vô cùng độc đáo, đó là sơn mài. Tôi
đã từng thăm Nhật Bản, Trung Quốc, Indonexia là những đất nước cũng có nghề sơn
v
và cây sơn. Nhưng phải nói rằng cây sơn Phú Thọ đã ban tặng cho các nghệ sĩ Việt
Nam một chất liệu có đặc tính hoàn toàn riêng biệt. Phú Thọ - một chấm nhỏ duy nhất
h
trên bản đồ thế giới. Thế mạnh đó lại được tâm hồn các nghệ sỹ Việt Nam nâng lên
thành một chất liệu hội họa độc đáo trên thế giới mà Nhật Bản và Trung Quốc chưa
t t
làm được, các bạn hoàn toàn có quyền tự hào! nên tôn vinh tranh sơn mài là Quốc họa
d
của Việt Nam và đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa Thế giới …".
Tuy vậy, sau giai đoạn hoàng kim của tranh sơn mài Việt Nam, những biến động
xã hội, sự chuyển đổi của nền kinh tế đã ảnh hưởng tới văn hóa, nghệ thuật, tranh sơn
l .
v
n
mài cũng bị những tác động.
148
w
Tác giả Laurent Colin trong bài "Sơn mài hay lối mòn" đã đề cập đến tác phẩm
w
của hai nghệ sĩ Việt Nam bày tại một Gallery trên đảo Saint - Louis - Pháp từ 15 đến
31/1/2004: "… Tóm lại đây là loại hàng từ nhiều năm nay đã bày ra đầy rẫy tại các
w
Gallery Hà Nội. Các bạn hãy thử ra phố Tràng Tiền chẳng hạn, số 24 là Gallery
Tonkin, Gallery Văn (số 25 - 27), số 27 là Gallery Opera, phòng nào cũng bày y hệt
.
những tấm sơn mài ấy. Đảo qua khu phố cổ, Hàng Bông Gallery Apricot, bán các loại
k
tranh này cho du khách; phố Tô Tịch, Gallery Dragon đầy bức sơn mài loại này, khách
hàng chưa kịp mang ra khỏi cửa, người ta đã mang từ trong kho một tấm y chang để
h
thay thế … Hiện tượng này cũng xảy ra ở Thành phố Hồ Chí Minh và đã lan tràn sang
Hoa Kỳ và Singapore. Thử hỏi Paris sức mấy mà tránh né được đợt sóng thương mại
c
này? … Còn bảo rằng những khuôn mặt sao đi sao lại kia chẳng còn biểu hiện được gì,
n
rằng những đôi mắt kia đờ đẫn như mắt phỗng đá, rằng những thân thể kia đứng ngồi
như trong tấm bưu thiếp, rằng cái thứ sơn mài này chẳng còn gì là truyền thống cả (trái
m
với lời chào mời của các nhà tổ chức triển lãm …".
Tác giả bài viết nhận định tranh sơn mài Việt Nam tường tận và sắc sảo: "… Sơn
mài thực sự trở thành nghệ thuật với những tác phẩm của Nguyễn Gia Trí, kết hợp vận
t -
động với độ sâu, hình tượng và trìu tượng. Đặc trưng của sơn mài dẫu sao vẫn là công
b
phu lao động thể chất (nhất là khâu mài), đòi hỏi khổ công và thời gian. Vì vậy mà
những tên tuổi lớn của sơn mài như Phan Kế An, Nguyễn Văn Tỵ hay Nguyễn Sỹ
v
Ngọc hàng năm chỉ sáng tác rất ít tác phẩm và mỗi tác phẩm chỉ có một bản duy nhất.
Khi một nghệ sĩ như Dương Bích Liên tạo ra nhiều bản (Chiều vàng), thì mỗi bản đều
h
có sắc thái riêng biệt …".
Một hiện tượng có thể chưa là đại diện, nhưng hiện tượng lặp lại nhiều lần sẽ trở
t t
thành hiện trạng, Laurent Colin đã để tâm quan sát, nhận định: "Một nghịch lý thú vị
d
của hội họa Việt Nam là thoạt trông, nó rất dễ tiếp cận (vì những liên hệ qui chiếu của
nó với hội họa phương Tây) nhưng thực ra nó đòi hỏi ta phải đi tới một cách vi tế và
tiệm tiến. Loại triển lãm thương mại dăm bữa nửa tháng, treo bảng hiệu nghệ thuật
l .
v
n
Việt Nam để bày bán những tác phẩm không mấy liên quan tới sáng tạo nghệ thuật
149
w
Việt Nam như thế này, không đóng góp được gì cho việc tiếp cận hội họa Việt Nam,
w
mà ngược lại chỉ tăng sự ngộ nhận". [34, tr.15, 16]
Điều này không phải chúng ta không nhận ra, nghiêm túc nhìn nhận mặt được,
w
mặt yếu kém của tranh sơn mài Việt Nam hiện nay, nhìn thấy sự phát triển của tranh
sơn Trung Quốc, gần đây có Nhật Bản, Triều Tiên. Dù sao thì cũng khiến chúng ta
.
phải suy nghĩ nhiều hơn về chiến lược phát triển và những đầu tư về nhân tài vật lực
k
để khắc phục, khai thông hiện trạng trì tuệ và có phần sa sút về chất lượng, về quy
trình thể hiện, về phẩm chất ngày một giảm đi của các nguyên vật liệu dùng cho kỹ
h
thuật sơn mài cổ truyền. Có thể nhìn thấy rõ khi đem so sánh những tác phẩm sơn mài
đỉnh cao trước đây với những tác phẩm sơn mài những năm gần đây thì càng thấy phải
c
cảnh báo kịp thời, đúng như nhận xét của hoạ sĩ Đoàn Văn Nguyên - Nguyên Trưởng
n
Khoa Sơn mài của Trường Đại Học Mỹ Thuật Việt Nam: “Người làm sơn mài đích
thực phải là người tuân thủ và phát huy những truyền thống quý báu của nghệ thuật
m
dân tộc, không được phép bớt xén bất cứ công đoạn nào của ông cha truyền lại. Bớt đi
tức là làm giảm tính độc đáo và nó không còn nguyên giá trị nữa. Tập hợp toàn bộ sơn
mài thời kỳ này bày cùng với sơn mài thời kỳ Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương chắc
t -
sẽ là một triển lãm thú vị. Song những tác phẩm đỉnh cao, tính khái quát lớn của thời
kỳ này e còn rất hạn chế. Nghệ thuật cần người tài, mà người tài thì hiếm, tìm đâu ra
Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng thời kỳ đổi mới bây giờ?" b
(Văn nghệ trẻ) v Lo lắng cho sự tồn tại của tranh sơn mài, tác giả Mai Đắc Linh viết: "… Sơn mài
h
là một chất liệu có giới hạn nhất định. Hạn chế của sơn mài là phụ thuộc quá nhiều vào
những nguyên liệu làm ra nó; bị chi phối bởi nguồn nguyên liệu không đồng nhất do
t t
được làm từ người thợ thủ công. Do kỹ thuật làm tranh phức tạp … hao tổn nhiều công
d
sức, cũng vì thế sơn mài không có khả năng đáp ứng tức thời mạch tư duy của họa sĩ…
Nguyên liệu đầu vào đắt đỏ … nhưng hiệu quả mua bán không hơn tranh giấy hay
tranh sơn dầu … Có thể thấy rõ tương lại ảm đạm của chất liệu này trước con sóng của
l .
thị trường …". Tuy vậy tác giả vẫn khẳng định giá trị của sơn mài truyền thống:
n
"Nhưng những họa sĩ đã và đang làm việc với chất liệu sơn mài đều là những con v
150
w
người khéo léo với ngọn lửa sống đang âm ỉ cháy bên trong. Sử dụng chất liệu của dân
w
tộc Việt, diễn tả bằng ngôn ngữ hội họa hiện đại để bộc lộ tình cảm của một dân tộc
hay để khẳng định những giá trị tinh thần của nhân loại là giá trị nghệ thuật của hội
w
họa Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm. Cách làm đó không khi nào lạc hậu và mãi là
con đường sáng để ta đi … hình như có một cái gì đó đã trở thành chân lý, trở thành
.
giá trị để còn lại với thời gian". [35, tr.24]
Nữ Hoạ sĩ Saeko Ando rất tâm huyết với chất liệu và nghệ thuật sơn mài của Việt k Nam. Bà cũng nhìn ra một thực trạng đáng phải suy nghĩ của một số hoạ sĩ Việt Nam
h
trong sự chi phối của “Cơ chế thị trường: “Ngày nay có những hoạ sĩ chỉ muốn đáp
ứng nhanh những đòi hỏi của thị trường. Họ tận dụng kỹ thuật thể hiện sơn mài sao
c
cho nhanh để còn mở rộng lĩnh vực hoạt động thương trường. Nếu điều đó đáp ứng
n
được mong muốn của họ thì e rằng vốn hiểu biết quý giá về nghệ thuật sơn mài truyền
thống sẽ bị xâm hại cùng thời gian…”. Nữ hoạ sĩ (nói tiếng Việt khá rõ) đã phát biểu
m
trong cuộc hội thảo tại trường Đại học Mỹ Thuật Hà Nội nhân triển lãm "Chuyên đề
tranh sơn mài" do Bộ Văn hoá - Thông tin tổ chức. Saeko đã trao tặng Bảo tàng Mỹ
Thuật Việt Nam một tác phẩm sơn mài của mình. Qua phát biểu của họa sĩ tại Hội thảo
t -
b
v
h
t t
d
l .
v
n
chứng tỏ chị rất am hiểu về nghệ thuật sơn mài, chất liệu sơn mài của Việt Nam!
151
w
Chương 3
w
XU HƯỚNG THẨM MỸ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRANH SƠN MÀI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA GIAO LƯU HỘI NHẬP
3.1. Khảo sát về cách thể hiện, phương pháp sáng tác xu hướng thẩm mỹ qua các giai đoạn của tranh sơn mài Việt Nam tại một số Triển lãm lớn
w.k h
2
3
4
1
8
9
10
11
12
13
14
5
6
7
c
KT thể hiện
Tên Triển lãm
Quan niệm sáng tác
n
Năm, thời kỳ
SM chiếm %
Phương pháp sáng tác
Xu hướng TM
SM chiếm %
Số TPTL
GT TL
Số tranh SM
Số tranh TL
GTSM chiếm %
Giải thưởng tranh SM
SM truyền thống
SƠN MÀI hiện đại
Nghệ thuật là đẹp
1930-1945 TK: Trường CĐMTĐD
TL tranh SM của họa sĩ trường CĐMTĐD trong và ngoài nước
Vẻ đẹp thiên nhiên phụ nữ thành thị
Xuất hiện tranh sơn mài
Sáng tạo, tìm tòi NT tranh SM
Đưa sơn ta từ NT trang trí đến NT tạo hình hiện thực nên thơ, biểu hiện, trìu tượng
mt-b
- TL MTTQ lần 1, 1945
100
v
100%
Nghiên cứu để hoàn thiện nghệ thuật tranh sơn mài
Hiện thực, lập thể trìu tượng lãng mạn
Vẻ đẹp thiên nhiên con người
- TL MTTQ lần 2, 1946
9
96
9,4%
100
9%
2
18
11%
- TL MTTQ lần 3, 1948
nt
Ko có SM
Hiện thực cách mạng
Danh họa Tô Ngọc Vân phát biểu khẳng định ưu việt tranh SMVN
1945-1954 TK nước Việt Nam DCCH được thành lập và Kháng chiến chống Pháp
- TL MTTQ lần 4, 1951
nt
nt
Hiện thực lãng mạng CM
httdl.v
n
152
w
3
4
5
6
7
8
9
10
11
1
2
12
13
14
w
- TL MTTQ lần 5, 1954
518
1,35%
nt
7
509
1,4%
nt
- TL MTTQ lần 6, 1955
239
11,3%
2
6
33,3% Hiện thực XHCN
100%
27
Đối tượng phản ánh mở rộng hơn
Vẻ đẹp của người lao động công nông binh
12,2%
633
77
- TL MTTQ lần 7, 1958
11,2%
4
15 26,7% Hiện thực XHCN
687
nt
nt
100%
1954-1964 TK Hòa bình lập lại (ở miền Bắc)
w.k h
- TL MTTQ lần 8, 1960
50
304
15
6,7% Hiện thực XHCN
16,4%
1
328
15,2%
nt
nt
100%
c
445
- TL MTTQ lần 9, 1962
Hiện thực XHCN
nt
nt
100%
n
63
442
14,3%
672
2
9,4%
17 11,8%
nt
85%
15%
- TL MTTQ lần 10, 1976
Vẻ đẹp cuộc sống
Hiện thực XHCN, hiện thực lãng mạn
825
25%
20
5
nt
Cái đẹp
80%
20%
HTXHCN, cực thực, lập thể
- TL MTTQ lần 11, 1980
Có sự thay đổi chấp nhận
mt-b
1976-1985 TK chống Mỹ cứu nước và trước đổi mới
nt
Đẹp
80
589
13,6%
716
11,2%
4
54
7,5%
75%
25%
- TL MTTQ lần 12, 1985
v
HTXHCN và 1 số phong cách hiện đại
Chấp nhận một số phong cách hiện đại
Đẹp
175
1003
17,4%
1353
15,5%
8
37 21,6%
78%
22%
- TL MTTQ lần 13, 1990
Vẻ đẹp cuộc sống con người
Phong cách đa dạng phong phú hơn, đổi mới
Hiện thực tượng trưng lập thể, ngây thơ, biểu hiện, cực thực
1986-1999 TK Đổi mới - Mở cửa
Đẹp
nt
65%
35%
162
806
20,1%
977
16,6%
18
96 18,8%
- TL MTTQ lần 14, 1995
Phong cách đa dạng
Hiện thực tượng trưng trìu tượng, biểu hiện
httdl.v
n
153
w
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
w
152
571
26,7%
825
18,4%
16
36 44,4%
60%
40%
- TL MTTQ lần 15, 2000
Hiện thực cùng các trường phải
Tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
Đa phong cách - chuyển giao thế hệ
Đẹp, 1 số TP thể hiện tâm sự cá nhân
w.k h
30,4%
552
168
751
22,4%
8
53 15,1%
58%
42%
- TL MTTQ lần 16, 2005
Thể hiện đổi thay của đất nước; cuộc sống nhiều chiều
c
Hiện thực (tính mô phỏng, minh họa giảm) các trường phải, bước phát triển vượt bậc về chất
Bản sắc dân tộc và hiện đại / Vẻ đẹp cuộc sống, trách nhiệm nghệ sĩ
Đa phong cách thể nghiệm kết hợp các chất liệu với SM. Đề cao ý tưởng tư duy
2000-nay TK Công nghiệp hóa, giao lưu hội nhập quốc tế
n
154
741
20,8%
836
nt
55%
45%
18,4%
6
48 12,5%
- TL MTTQ lần 17, 2010
Thể hiện cuộc sống đa dạng
Hiện thực và các trường phái hiện đại
Đa phong cách, tìm tòi cái mới. Đề cao tư tuy triết lý
mt-b
v
httdl.v
n
154
w
3.2. Tranh sơn mài đương đại Việt Nam tại một số triển lãm quốc tế gần đây
w
3.2.1. Tranh sơn mài Việt Nam trong cuộc thi và triển lãm mỹ thuật ASEAN (Tập
đoàn các công ty Philip Morris tài trợ, Bộ Văn hóa - Thông tin kết hợp với Hội Mỹ
thuật Việt Nam tổ chức)
w
Cuộc thi và Triễn lãm mỹ thuật ASEAN là một hoạt động văn hóa, mỹ thuật
lớn của Việt Nam và các nước Đông Nam Á những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
.
XXI. Với mục đích tạo nên một diễn đàn cho các họa sỹ của từng quốc gia và của
k
ASEAN thể hiện với sự sáng tạo nhằm nuôi dưỡng tài năng, tìm ra những đỉnh cao
h
mới. Với chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, nghệ thuật, Nhà nước ta đã tạo
điều kiện cho Tập đoàn các công ty Philip Morris, một tập đoàn kinh tế lớn tài trợ
c
cuộc thi này. Cuộc thi bắt đầu được tổ chức từ 1994 tại các nước ASEAN nhưng
n
đến năm 1996 Việt Nam mới bắt đầu tham gia. Có thể nói đây là cuộc thi hội họa
có uy tín giúp cho các họa sĩ các nước không ngừng sáng tạo, đổi mới đồng thời
m
giúp cho mỹ thuật Việt Nam có cơ hội tốt hội nhập cùng khu vực, giới thiệu một
phần hội họa đương đại Việt Nam với ASEAN và thế giới.
Cuộc thi với tinh thần sáng tạo và tự do thể hiện. Tiêu chuẩn để đánh giá tác
t -
phẩm là:
b
1: Sáng tạo về phương tiện và chất liệu sử dụng
2: Biểu hiện và kỹ thuật độc đáo
v
3: Độc đáo về cảm nhận nghệ thuật và phong cách diễn đạt
4: Thể hiện rõ tính châu Á và đáp ứng các vấn đề của cuộc sống đương đại
h
Cuộc thi được chia làm 2 cấp: Vòng bán kết ở mỗi nước ASEAN: Ban giám
khảo sẽ chọn 60 tranh, từ đây sẽ chọn 5 tranh để trao Giải cấp Quốc gia - trị giá giải
t t
thưởng là 50 triệu VND và tặng phẩm lưu niệm. Vòng chung kết ở khu vực: Năm
d
tác phẩm đoạt giải cấp quốc gia đủ tư cách tham dự cuộc thi Mỹ thuật ASEAN. Giải
thưởng cấp khu vực bao gồm: Một Giải thưởng Lớn trị giá 10.000 USD và tặng
l .
phẩm lưu niệm, bốn giải tiếp theo trị giá 5000 USD và tặng phẩm lưu niệm (Đây
cũng là nguồn động viên cho tác giả về vật chất, cũng như tinh thần). Việc tổ chức v Triển lãm là luân phiên các nước trong khu vực. Năm 1998 Cuộc thi và Triển lãm
n
Mỹ thuật ASEAN được tổ chức tại Việt Nam đã trở thành một sự kiện văn hóa lớn.
155
w
Việt Nam đã tham dự năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2002. Xét về mặt
toàn cục cái được cuộc thi là đã tạo một diễn đàn cho họa sỹ thể hiện tài năng và
w
cũng tạo chất kích thích, đột phá cho mỹ thuật ASEAN nói chung mỹ thuật Việt
Nam nói riêng đó là các tranh khổ lớn được chuẩn bị công phu (do tự tác giả), các
w
đề tài lớn của cuộc sống đương đại như vấn đề ô nhiễm môi trường, biến đổi khí
hậu, sự gia tăng dân số, bản sắc văn hóa v.v. được đề cập; việc xử lý kỹ thuật, cũng
.
khá điêu luyện; tìm tòi những cái mới khi thể hiện nội dung và hình thức một cách
k
chủ động sáng tạo; thể hiện bản sắc văn hóa để hội nhập chứ không hòa tan; tạo nên
h
diện mạo của mỹ thuật ASEAN đương đại; xuất hiện nhiều tác giả trẻ. Các hạn chế
của cuộc thi này như theo cố PGS - họa sỹ Vũ Giáng Hương - người đã nhiều lần
c
tham gia Hội đồng giám khảo đã nhận xét: "… Các tác giả trẻ tuổi đời nhưng nhiều
khi có cái nhìn cuộc sống quá bi thảm!...". Chủ đề lớn, có tính khái quát, khuôn khổ
n
tranh sử dụng phần lớn là tối đa (quy định mỗi chiều không quá 2m) nếu họa sĩ
không nắm vững kỹ thuật, làm chủ nghề nghiệp thì nhiều khi tác giả sẽ bị "sa lầy" ở
tác phẩm của mình hoặc bị choáng ngợp ... m Các họa sĩ các nước ASEAN: Brunây, Indonexia, Lào, Malayxia, Mianma,
Philippin, Singapore, Thái Lan thường vẽ chất liệu sơn dầu, tổng hợp riêng Việt
t -
Nam bên cạnh các chất liệu khác thì chất liệu sơn mài nổi lên vì vẻ độc đáo, về khả
b
năng biểu đạt, giá trị thẩm mỹ riêng biệt, vẻ đẹp lộng lẫy, bí ẩn không nước nào có
được đã gây sự chú ý của Hội đồng nghệ thuật.
v
Vòng chung kết 1996 có 35 tranh của 7 nước, Việt Nam có 5 tranh trong đó có
h
Trịnh Quốc Chiến với tác phẩm sơn mài "Vũ trụ Phương Đông" (120x80cm). Năm
1997 có 7 nước với 35 tác phẩm, Việt Nam có 5 tranh trong đó có 2 tác phẩm sơn
mài là "Ám ảnh của lời nguyền" (160x120cm) của Nguyễn Quang Đức, "Con
t t
đường tri thức" (80x120cm) của Lê Hoàng Nguyên. Năm 1998 có 9 nước tham gia
d
với 39 tác phẩm, nước ta có 3 tranh sơn mài / 5 tranh dự Giải mỹ thuật ASEAN, đó
là: "Trở về" (180x200cm) của Nguyễn Huy Hoàng, "Âm nhạc truyền thống"
l .
(171x90cm) của Lê Hữu Ích, "Hóa mã" (145x90cm) của Chu Anh Phương. Năm
2000 có 41 tác phẩm của 10 nước ASEAN lọt vào chung kết, tranh sơn mài "Trở về v cội nguồn" (170x190cm) của Nguyễn Văn Chuyên đã lọt vào top 5 tranh của Việt
n
Nam. Trong 6 lần tham gia chung kết giải ASEAN mặc dù chưa đoạt Giải
156
w
thưởng Lớn (Grand Prix) nhưng Việt Nam đã có 5 tranh đoạt giải đồng hạng, 1
bằng danh dự (tiếp sau Giải thưởng Lớn), trong đó có 2 tác phẩm sơn mài. Năm
w
1998 cuộc thi giải thưởng mỹ thuật ASEAN tổ chức tại Việt Nam, chúng ta đã có
2 tác phẩm trên tổng số 5 giải của 9 nước tham dự. Tranh sơn mài là điểm nhấn
w
và khẳng định vị trí tại Cuộc thi và Triển lãm cấp khu vực này. Tác phẩm "Trở
về" của Nguyễn Huy Hoàng thể hiện màu đỏ của son là chủ đạo, hai bên là hình
.
cánh cửa, người đứng lặng lẽ bên những lồng chim ở giữa bức tranh. Những bộ
k
mặt và bàn tay màu vàng và son kết hợp kỹ thuật khắc vạch tạo chất, tạo sự
h
tương phản. Lê Hữu Ích đã sử dụng không gian đồng hiện trong "Âm nhạc cổ",
kỹ thuật tuân thủ lối làm sơn mài truyền thống nhưng tạo chất ở chất liệu mới
c
(sơn răn), kỹ thuật bôi dầy sơn chín và sơn cánh gián để khô. Chu Anh Phương
đã sử dụng toàn tranh màu vàng thể hiện cõi Phật trong bức "Hóa mã". Tranh
n
chia 3 phần giữa là màu vàng thiếp mờ tỏ hình các cô tiên, ngọn lửa hóa tiền
vàng, ngựa giấy; xung quanh có màu tối tạo sự tương phản, bí ẩn của cõi tâm
m
linh. Kỹ thuật sơn mài công phu. Đây là những tác phẩm xứng đáng đoạt giải và
được đánh giá cao, các tác giả có tay nghề vững vàng đã góp phần cho nghệ
thuật sơn mài có điểm để phát triển hơn nữa. Cuộc thi Mỹ thuật ASEAN giúp
t -
sơn mài Việt Nam thể hiện thế mạnh độc đáo, các họa sĩ có cơ hội thể hiện.
Nhìn vào tác phẩm, tác giả, chúng ta tin tưởng vào thế hệ họa sĩ sơn mài trẻ, b đa số tuổi từ 30 đến 40, đã biết kế thừa truyền thống, biết phát huy các giá trị lịch sử
v
để tạo nên những tác phẩm giàu bản sắc dân tộc. Màu sắc lộng lẫy, thấm sâu của
h
chất liệu sơn mài; tìm tòi bố cục, mảng, đường nét để phục vụ chủ đề, nêu bật tính
tư tưởng! Các tác giả thể hiện sự nắm vững chất liệu, mở rộng không gian trong
tranh, tạo nên một tổ chức thẩm mỹ hiện đại mà không xa lạ với người Việt Nam,
t t
tạo tiếng nói riêng nhưng lại hòa nhập với nền văn hóa chung của ASEAN.
d
Trong lời giới thiệu của "Giải thưởng Mỹ thuật ASEAN 1999" với tiêu đề
"Nghệ thuật ASEAN bên thềm thế kỷ XXI" có đoạn: "Người ta nói rằng nơi nào
l .
nghệ thuật càng phát triển thì nơi đó vấn đề nhận dạng nghệ thuật càng tăng. Có một
thứ như nghệ thuật ASEAN đang ảnh hưởng đến văn hóa chung, ý tưởng chung và v lịch sử chung và đóng vai trò trong sự phát triển quốc gia hay khu vực hay không?
n
Tiến sĩ Vishakha N. Desai, Phó Chủ tịch cấp cao của Hiệp hội Châu Á ở New York
157
w
với tư cách là Trọng tài trưởng trong Giải thưởng Mỹ thuật ASEAN 1999 tai Kuala
Lumpur đã phát biểu: "Thế giới toàn cầu hóa ngày nay, về bề ngoài nó như là tất cả
w
những thể hiện bằng mắt đang mất dần tính văn hóa của chúng. Tại các triển lãm
nghệ thuật quốc tế, những nhà phê bình thường bình luận rằng hầu hết các tác phẩm
w
nghệ thuật trông quá Tây, và có lẽ quá tương tự" (vấn đề này ở mỹ thuật Việt Nam
cũng đang mắc phải) hay "Giải thưởng mỹ thuật ASEAN (tập đoàn các công ty
.
Philip Morris tài trợ) là một trong những sự kiện nghệ thuật thị giác quan trọng nhất
k
trong khu vực hiện nay. Đây là một trong số ít những cuộc thi nghệ thuật hạn chế
h
trong phạm vi hội họa, chống lại những khuynh hướng đang thịnh hành hiện nay
như sắp đặt, trình diễn hay nghệ thuật điện tử (bao gồm cả video). Tôi là người tin
c
tưởng mạnh mẽ vào giá trị căn bản của kỹ năng vẽ truyền thống, dựa vào khả năng
vẽ và sáng tạo hình tượng, bất kể họa sĩ sáng tác trừu tượng hay ấn tượng hay đơn
n
thuần là vẽ phong cảnh hay chân dung!. Các cuộc thi ở mỗi quốc gia hàng năm thu
hút nhiều họa sỹ trẻ trong cả nước. Điều này có lợi cho việc quảng bá nghệ thuật,
m
tập hợp các họa sỹ, nhà phê bình mỹ thuật từ các nước thành viên ASEAN thảo luận
những vấn đề liên quan đến nghệ thuật. Những trao đổi này có thể tạo chất xúc
tác… khuyến khích những ý tưởng mới, những bài viết phê bình mới và hơn hết là
t -
sự am hiểu văn hóa của nhau" (Neil Manton Nhà phê bình mỹ thuật người
b Nói về "Đôi nét về mỹ thuật đương đại Việt Nam" Cố Nhà Phê bình mỹ thuật
Australia).
v
Thái Bá Vân viết: "… Tranh sơn mài được lấy từ cây sơn lắc, rất thân thuộc với mỹ
h
thuật trang trí ngày xưa. Trong thập kỷ 40 (thế kỷ XX), thế hệ họa sĩ đương đại Việt
Nam đầu tiên đã nâng loại tranh này lên một tầm cao mới…", ông kể tên những họa
sĩ sơn mài nổi tiếng thời đó bắt đầu từ Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Khang, Nguyễn Tư
t t
Nghiêm, Nguyễn Sáng những người làm ngôn ngữ tranh sơn mài đã trở nên điêu
d
luyện, siêu hình. Tiếp đó ông nêu tên những họa sĩ thế hệ kế tiếp đã tạo nên "Con
đường mà nền mỹ thuật đương đại Việt Nam từ khi khai sinh là một con đường trên
l .
đó mỹ thuật không ngừng nhận thức được trách nhiệm của mình đối với đất nước và
nhân loại. Đây là con đường tự đánh thức và vẽ một bức chân dung tự họa thành v công về những giá trị nhân văn thực sự" [64]. Nói về triển vọng Việt Nam Nhà Phê
n
bình mỹ thuật - Họa sỹ Phan Cẩm Thượng viết: "… Trong giai đoạn phát triển này,
158
w
các họa sĩ từ 50 tuổi trở xuống đặc biệt là những họa sĩ trong độ tuổi từ 20 đến 40
đóng một vai trò quan trọng đi đầu… Tiếp nối trường phái mỹ thuật chính là hiện
w
thực (QN), Chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa trìu tượng, các họa sĩ thể hiện những
khía cạnh và phương diện khác nhau của con người sau chiến tranh, đặc biệt là số
w
phận, địa vị và mối quan hệ của họ cũng như quá khứ lâu dài và đáng tự hào của
dân tộc… Các họa sĩ đã khái quát hóa mô típ của mình trong quá trình sáng tạo
.
nghệ thuật để tạo ra những tác phẩm mang đậm phong cánh cá nhân… Dường như
k
các họa sĩ Việt Nam vẫn muốn giữ lại phương pháp vẽ trên giá của mình với những
h
cảm xúc phương Đông truyền thống gần gũi với thiên nhiên. Sau bom mìn, súng
đạn của chiến tranh, con người tìm kiếm những giây phút yên bình trong những
c
ngôi chùa, ngôi đền, trước những bức tượng Phật và giữa những bức tranh tươi sáng
và sống động". [59]
n
3.2.2. Tranh sơn mài Việt Nam tại một số triển lãm quốc tế khác
a. Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam tựa đề "Đối thoại giữa các nên văn minh" do
m
Bộ Văn hóa - Thông tin (Vụ Mỹ thuật và Nhiếp ảnh) tổ chức tại trục sở Liên Hiệp
Quốc tại Giơnevơ - Thụy Sỹ 2002.
Trưng bày 78 tác phẩm mỹ thuật hiện đại trong đó có 61 tranh, 40 tranh sơn
t -
mài. Các tác phẩm sơn mài được sáng tác từ 1955 trở lại đây của các thế hệ họa sĩ
b
với nhiều phương pháp sáng tác, lối vẽ theo truyền thống và thể hiện những tìm tòi
để làm phong phú chất liệu. Tuy vậy những tranh sơn mài truyền thống thực sự gây
v
ấn tượng mạnh.
h
b. Triển lãm Hội họa đương đại Việt Nam do Bộ Văn hóa - Thông tin (Vụ Mỹ
thuật và Nhiếp ảnh) tổ chức tại Bắc Kinh - Trung Quốc năm 2005 nhân kỷ niệm 55
năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc. Triển lãm trưng bày 45
t t
tác phẩm sơn dầu, sơn mài của 32 tác giả có độ tuổi từ 30 đến 50, đây là thế hệ họa
d
sĩ thời kỳ đổi mới đang làm việc sung sức. 28 tranh sơn mài là tác phẩm trong có
những tác giả nổi tiếng trong nền mỹ thuật Việt Nam đương đại, trong đó có một
l .
vài thể nghiệm đổi mới của kỹ thuật sơn mài.
c. Tham gia Triển lãm Tranh sơn Quốc tế lần thứ nhất (2007) tại Hạ Môn - v Phúc Kiến - Trung Quốc (xem phần 1.3.2.1): Việt Nam có 38 tranh sơn mài / 190
n
tác phẩm Triển lãm (27 của Hàn Quốc, 125 của Trung Quốc).
159
w
d. Triển lãm Tranh sơn mài Việt Nam tại Bắc Kinh - Trung Quốc (do Bộ Văn
hóa - Thể thao và Du lịch - Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm tổ chức khai
w
mạc 22/4/2011 tại Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Bắc Kinh. Triển lãm là
hoạt động trong chương trình Giao lưu hợp tác văn hóa Việt Nam - Trung Quốc
w
2009-2012. 40 tranh sơn mài của 26 tác giả thể hiện nghệ thuật sơn mài đương đại
Việt Nam đã được nước bạn đón nhận nồng nhiệt và được đánh giá "Nếu như tranh
.
thủy mặc được coi là "Quốc họa" Trung Quốc thì tranh sơn mài được coi là "Quốc
k
họa" Việt Nam". Tháng 9/2011 các tác phẩm này lại được triển lãm dưới tiêu đề:
h
"Triển lãm tranh sơn mài đương đại Việt Nam 2011" tại Tân Cương - Trung Quốc
nhân hoạt động Chào mừng lần thứ 65 Quốc khánh Việt Nam và tham dự Triển lãm
c
Á - Âu Trung Quốc lần thứ nhất tại Tân Cương. Ở đây tranh sơn mài được đánh giá
cao, được coi là "đặc sản" của văn hóa Việt Nam.
n
3.3. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam với việc lưu giữ, bảo quản, tu sửa phục chế
tranh sơn mài
m
3.3.1. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam với việc sưu tầm, bảo quản tranh sơn mài
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (66 Nguyễn Thái Học Hà Nội - thuộc Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) được thành lập năm 1966, trải qua 45 năm hoạt động, Bảo
t -
tàng đã có nhiều đóng góp cho việc xây dựng và phát triển nền mỹ thuật Việt Nam
b
trên các mặt sưu tầm lưu giữ, bảo quản, quảng bá tác phẩm, tạo nên "Dòng chảy của
nghệ thuật dân tộc". Đây là Bảo tàng Mỹ thuật đầu tiên của nước ta, các tác phẩm
v
mỹ thuật quý giá trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam đã tạo "cái nhìn" tổng quát về
h
nhận thức thẩm mỹ của dân tộc và sự phát triển của nền mỹ thuật quốc gia. Bộ sưu
tập tranh sơn mài Việt Nam được lưu giữ tại Bảo tàng là những tác phẩm xuất sắc
của các tác giả tiêu biểu của từng thời kỳ qua đó chúng ta có thể thấy được thực
t t
trạng và phát triển của mỹ thuật sơn mài Việt Nam. Bảo tàng vinh dự lưu giữ được
d
tác phẩm "Dọc mùng" (160x400cm - 8 tấm) sáng tác 1939 của Danh họa sơn mài
Nguyễn Gia Trí - tác phẩm được đánh giá là bức tranh sơn mài đẹp nhất Việt Nam
l .
bởi trong nó hội đủ những gì tinh tế của nghệ thuật sơn mài Việt Nam… và bức sơn
mài "Kết nập Đảng trong chiến hào ở Điện Biên Phủ" (112x180cm - 1963) của v Danh họa Nguyễn Sáng tác phẩm hội tụ chủ đề tư tưởng thời đại Hồ Chí Minh, Chủ
n
nghĩa anh hùng cách mạng trong một hình tượng giản dị mà hoành tráng. Tác phẩm
160
w
được bình chọn là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài Chiến tranh cách mạng Việt Nam ở
thế kỷ XX.
w
Các tranh sơn mài đề tài chiến tranh cách mạng như: "Xô Viết Nghệ Tĩnh",
"Nhớ một chiều Tây Bắc", "Qua Bản cũ", "Kéo pháo", "Qua cầu khỉ", "Hành quân
w
qua suối", "Trái tim và nòng súng", "Kết nạp Đảng trong chiến hào ở Điện Biên
Phủ" ... Đề tài kiến thiết, xây dựng đất nước là: "Đi chợ Bắc Hà", "Con nghé", "Lò
.
nồi thủ công", "Tát nước đồng chiêm", "Bình minh trên nông trang", "Nhà tranh gốc
k
mít", "Đổi ca", "Bản Nậm Nà", "Đập lúa đêm" ... Các tác phẩm sơn mài thể loại
h
chân dung, tĩnh vật, sinh hoạt, phong cảnh có tầm khái quát điển hình được Bảo
tàng sưu tập như: "Giao thừa bên Hồ Gươm", "Tre", "Chợ Mường Khương", "Tĩnh
c
vật", "Cô Liên", "Phong cảnh Thủy Nguyên" v.v.
Những năm đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX đánh dấu sự vận động chuyển hướng ở
n
chất liệu sơn mài, thể hiện phương pháp diễn đạt mới với cách nhìn hiện đại. Áp
dụng đường nét khỏe, mạnh, dứt khoát trong tạo hình. Bổ sung sắc độ sáng, trung
m
gian để hoàn thiện hơn ngôn ngữ biểu đạt của sơn mài qua các tác phẩm "Xưởng
đóng tàu Bạch Đằng", "Quê biển", "Bác đi công tác ở Việt Bắc", "Từ trong bóng
t - Bảo tàng MTVN có 2 cơ sở, cơ sở 1 rộng 4300m2 ở 66 Nguyễn Thái Học, cơ sở 2 có diện tích 5000m2 ở phố Hoàng Cầu - Hà Nội. Hiện nay đã sưu tầm và lưu
b
tối", "Mẹ kháng chiến", "Gióng", "Chống hạn", "Phiên chợ vùng cao" v.v.
giữ khoảng 20.000 hiện vật có giá trị nghệ thuật từ xưa tới nay. So với nhiều Bảo
v
tàng thế giới, BTMTVN lịch sử còn quá trẻ, diện tích thật khiêm tốn. Ở đây trưng
h
bày thường xuyên khoảng hơn 2000 hiện vật chọn lọc từ hơn 18000 hiện vật, (trong
đó sưu tập hội họa là 6310 tác phẩm; điêu khắc: 993 hiện vật; mỹ thuật truyền thống:
2012 hiện vật; gốm: 6455 hiện vật; Mỹ thuật nước ngoài: 400 hiện vật). Trong đó
t t
tranh sơn mài chiếm một vị trí, một giá trị cao cho bộ sưu tập bảo tàng. Họa sỹ Cao
d
Trọng Thiền - nguyên Giám đốc BTMTVN viết: "Những bộ sưu tập của BTMT về
tranh tượng… được hình thành thường xuyên bổ sung những tác phẩm có chất
l .
lượng cao… nói riêng sưu tập tranh sơn mài: đây chính là thành công to lớn trong
mỹ thuật thế kỷ XX. Từ những làng nghề sơn Then Đình Bảng (Bắc Ninh), sơn v cánh gián, quang dầu Trôi gôi (Nam Định), người họa sĩ đã phát hiện một nguồn lực
n
màu sắc dồi dào cho nghệ thuật tạo hình - chất liệu sơn mài trở thành tiếng nói độc
161
w
đáo của hội họa Việt Nam… Với hàng trăm tác phẩm tiêu biểu cho từng giai đoạn
sáng tạo của lớp họa sĩ đã góp phần xác lập diện mạo một nền nghệ thuật dân tộc
w
hiện đại, tranh sơn mài là một trong các sưu tập chọn lọc có giá trị bậc nhất của
BTMTVN… Tranh sơn mài cùng tranh, tượng các chất liệu khác nằm trong sưu tập
w
của BTMTVN là sáng tạo của đội ngũ họa sĩ, nhà điêu khắc cống hiến cho sự
nghiệp cách mạng của đất nước, làm giàu thêm kho tàng văn hóa dân tộc. Đó là di
.
sản văn hóa không chỉ cần thiết ở thế kỷ XX mà còn có ý nghĩa cho các thế hệ mai
h
sau". [57, tr 28-31] k Sưu tầm tác phẩm mỹ thuật cho BTMT là công tác vô cùng quan trọng để tạo
nên bộ sưu tập giá trị, tiêu biểu; phát hiện ra những nhân tố mới. Nguồn tác phẩm
c
chủ yếu là được tặng, qua trao đổi hợp tác quốc tế, mua tác phẩm.
Tổ chức hoạt động văn hóa, mỹ thuật ở Việt Nam đặc biệt hơn ở nước khác,
n
đó là Nhà nước bảo trợ cho hoạt động. Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc định kỳ,
Triển lãm chuyên đề chất liệu, cuộc Vận động Sáng tác và Triển lãm Toàn quốc Đề
m
tài Chiến tranh và cách mạng, liên hoan và triển lãm mỹ thuật khu vực (hàng năm)
do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức hoặc phối hợp
tổ chức là "nguồn nguyên liệu" dồi dào cho sưu tập của bảo tàng (họa hoằn có một
t -
vài tác giả không tham gia các triển lãm này thì bảo tàng đã cử đội ngũ đi phát hiện,
b
thỏa thuận mua tác phẩm), mặt khác việc có tác phẩm trong BTMT là một vinh dự
cho nghệ sĩ nên việc đóng góp cho sưu tập BTMT dù giá cả có giảm đi chút ít tác
v
giả vẫn sẵn lòng.
h
Bảo tàng thành lập Hội đồng tư vấn gồm những người có uy tín trong ngành
(độc lập với Hội đồng giám khảo của Triển lãm). Các tác phẩm đoạt giải thưởng
được chú ý đầu tiên bên cạnh những tác phẩm khác trong triển lãm được các thành
t t
viên hội đồng đề xuất, tiêu chí đáp ứng yêu cầu của Bảo tàng MT quốc gia.
d
Sau khi sưu tầm sẽ tiến hành kiểm kê hiện vật: các tác phẩm sưu tầm được sẽ
đánh số ký hiệu, đăng ký vào hệ thống sổ sách (có lý lịch tác phẩm), cất vào kho
l .
bảo quản. Kho hiện vật của Bảo tàng có hệ thống giá, bục, bệ, tủ. Tranh sơn mài
n
được xếp theo chất liệu, chủ đề. Môi trường trong kho phải thích hợp, ánh sáng v không có tia cực tím làm hại tranh, có độ ẩm thích hợp, sơn mài để trong môi trường từ 45% đến 60% độ ẩm, nhiệt độ tối ưu là 210C (giao động từ 18 đến 240C).
162
w
Kho hội họa có số lượng hiện vật lớn nhất, chiếm 35% hiện vật bảo tàng, là kho có
số lượng hiện vật được khai thác nhiều nhất từ bảo quản tu sửa, nghiên cứu, sưu tầm,
w
trưng bày, giáo dục…
Hiện nay kho đã được đầu tư lắp đặt bổ sung hệ thống máy điều hòa, máy hút
w
ẩm, tăng cường công tác kiểm kê, tin học hóa việc quản lý hiện vật… Trong tương
lai sẽ hiện đại hóa trang thiết bị như có hệ thống điều hòa tổng, hệ thống đèn chiếu
.
sáng để tạo môi trường lý tưởng cho hiện vật trong đó có tranh sơn mài, bổ sung
k
diện tích kho, có nơi để xử lý bảo vệ tác phẩm khi xuất và nhập kho, đào tạo trình
độ cán bộ quản lý kho, có chuyên gia bảo quản tu sửa, phục chế tác phẩm.
h
3.3.2. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam với việc tu sửa, phục chế tranh sơn mài
c
Hiện nay BTMTVN đã thành lập Trung tâm bảo quản tu sửa tác phẩm mỹ
thuật (TTBQTSTPMT), sắp tới sẽ có trung tâm giám định tác phẩm mỹ thuật
n
(TTGĐTPMT). Một số dự án TTBQTSTPMT thực hiện gần đây cho sơn mài là:
+ Thực hiện dự án tu sửa tranh sơn mài bị hỏng nặng của BTMTVN (do Đại
m
sứ quán Mỹ tài trợ kinh phí).
+ Phiên bản một số tác phẩm sơn mài chọn lọc của BTMTVN để trang trí
Trung tâm Hội nghị quốc gia 2006.
t -
+ Tham gia tư vấn và thực hiện phục hồi bộ tranh sơn mài cổ trong dự án
b
Bảo tồn cổ vật của Bảo tàng tỉnh Nam Định (do Đại sứ quán Mỹ tài trợ kinh phí
2008).
v
+ Tu sửa tác phẩm "Vua Lý Nam Đế và Hoàng hậu" là tranh làm từ sơn ta
truyền thống thế kỷ XVIII (hoàn thành tháng 4/2011).
h
+ Thực hiện "Dự án bảo quản, tu sửa, phục hồi các tác phẩm mỹ thuật tại Hội
trường Thống Nhất (trong tổng thể khu Di tích Dinh Độc lập) từ TP Hồ Chí Minh
t t
(5/2010 - 4/2011)". Tổng số có 32 tác phẩm chia 3 nhóm là tranh màu dầu, tranh
d
sơn mài, các chất liệu khác… (những tác phẩm được sáng tác từ những năm 60, 70
thế kỷ XX).
Việc tu sửa, bảo quản đã tiến hành khoa học theo quy trình chuẩn đã giúp phục
l .
hồi tác phẩm gần như nguyên trạng, tăng uy tín của Bảo tàng MTVN.
n
Làm tốt công tác bảo quản, tu sửa TPMT nói chung, tranh sơn mài nói riêng v đã góp phần cho BTMTVN thực hiện tốt chức năng, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
163
w
Bên cạnh BTMTVN Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật của cả nước thì BTMT
TP Hồ Chí Minh cũng là một trung tâm lớn về Văn hóa Nghệ thuật ở các tỉnh phía
w
Nam cũng đang nâng cao việc sưu tầm, bảo quản tác phẩm mỹ thuật trong đó có
tranh sơn mài. Bức "Vườn xuân Trung - Nam - Bắc" (200x540cm) của danh họa
w
sơn mài Nguyễn Gia Trí đã được Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mua
tặng cho Bảo tàng mỹ thuật (cùng 61 phác thảo - với giá 600.000.000 VNĐ tương
.
đương 100.000 USD theo tỷ giá hồi đó). Hiện nay Bảo tàng có 134 tác phẩm và
k
phác thảo tư liệu của họa sĩ được mệnh danh "Nhất Trí Nhì Vân Tam Lân Tứ Cẩn".
h
3.4. Đào tạo nghề tranh sơn mài và nghiên cứu khoa học cần thiết và khó khăn
a. Vấn đề đào tạo
c
Khẳng định tranh sơn mài là sáng tạo, "đặc sản" của mỹ thuật, văn hóa Việt
Nam thì trong sự bảo tồn, phát triển vấn đề đào tạo vô cùng cần thiết, chúng tôi tìm
n
hiểu trong thực trạng đào tạo nghề tranh sơn mài để tìm ra những khó khăn, vướng
mắc gì trên cơ sở đó đề ra các giải pháp.
m
Nói đến đào tạo nghề tranh sơn mài, những vấn đề liên quan, mối quan hệ qua
lại là:
Thày: bao gồm họa sĩ, nghệ nhân.
t -
Trò: bao gồm sinh viên, thợ.
b
Đầu vào và đầu ra của đào tạo.
Nguồn nguyên liệu để thực hành.
v
Trong quá trình tìm hiểu thực trạng về đào tạo tại các trường đại học mỹ thuật,
h
trường dạy nghề, làng nghề, chúng tôi thấy chúng ta có đội ngũ họa sĩ giảng viên
yêu nghề, giàu kinh nghiệm; nhiều học trò đam mê, khắc phục khó khăn để đến với
nghề. Ở phần này chúng ta có thể tham khảo qua lời phát biểu của lãnh đạo, giảng
t t
viên, họa sĩ, nghệ nhân, sinh viên.
d
Về chương trình giảng dạy, các cơ sở đào tạo đã xây dựng dựa trên yêu cầu và
thực tế, kinh nghiệm hàng chục năm. Ví dụ ở Trường Đại học Mỹ thuật Công
l .
nghiệp chương trình đào tạo của chuyên khoa sơn mài như sau:
Nói về kiến thức, kỹ năng đào tạo của sinh viên đại học chuyên ngành sơn mài v của trường ta thấy: Về kiến thức: sinh viên nắm được toàn bộ phần lý thuyết và kỹ
n
thuật thể hiện các loại sơn truyền thống Việt Nam cũng như các loại sơn khác / Nắm
164
w
vững lý thuyết quy trình chế biến từ nhựa cây sơn thành các sản phẩm sơn như sơn
then, sơn cánh gián, sơn quang dầu… / Nắm vững quy trình công thức chế tác các
w
sản phẩm sơn mài từ khâu đầu đến khâu cuối / có khả năng nghiên cứu… Về kỹ
năng: Thực hiện thành thạo các kỹ thuật thể hiện sơn mài truyền thống / Sử dụng
w
thành thạo các dụng cụ máy móc liên quan đến nghề sơn mài / có khả năng thể hiện
các kỹ thuật sơn mài truyền thống / có khả năng sáng tạo ra các kỹ thuật thể hiện
.
mới. Về kiến thức cơ sở ngành: Lịch sử sơn mài; đặc tính, kỹ thuật chế biến; ngôn
k
ngữ nghệ thuật; kỹ thuật làm vóc, kỹ thuật vẽ và làm sơn mài, sơn khắc, sơn đắp,
sơn khảm và sơn quang dầu / Về Kiến thức chuyên sâu ngành: Thiết kế và thể hiện
h
sản phẩm chuyên dụng sơn mài; thiết kế và thể hiện sản phẩm sơn mài trong nội
c
thất; thiết kế và thể hiện các thể loại tranh sơn mài, sơn khắc và tranh sơn đắp nổi...
Ngoài việc học lý thuyết sinh viên còn được thực hành tại Xưởng thực nghiệm
n
của Nhà trường (nếu trường có), thực tập tốt nghiệp tại các cơ sở sản xuất, các làng
nghề truyền thống, liên kết nghiên cứu khoa học và công nghệ với cơ sở sản xuất,
m
trong và ngoài nước...
Họa sĩ sơn mài Trần Gia Bình (phụ trách xưởng thực nghiệm Trường
ĐHMTCN) trao đổi: "Chúng tôi gắn với ngành hàng chục năm nay rồi, sự đam mê
t -
và ý muốn trao truyền những hiểu biết về nghề sơn mài cho thế hệ sau, góp phần
b
tôn vinh những giá trị của văn hóa Việt Nam đã làm nên kết quả hôm nay, qua các
tác phẩm và các thế hệ nghệ sỹ được đào tạo tại Khoa - Trường đã đóng góp nhiều
v
cho mỹ thuật Việt Nam. Nỗi băn khoăn của những người trực tiếp giảng dạy của
khoa, nhà trường là làm sao giới thiệu và quảng bá hoạt động của ngành mỹ thuật
h
truyền thống trong đó có việc đào tạo nghề sơn mài để thu hút sinh viên. Nỗi băn
khoăn về vai trò của Nghệ nhân - di sản văn hóa về Con Người rất cần thiết trong
t t
việc đào tạo của mỹ thuật truyền thống mà hiện nay do chế độ, tiêu chuẩn đào tạo
d
không có vị trí tại trường đại học. Nỗi băn khoăn về việc bảo tồn, gìn giữ các
phương pháp, kỹ thuật công nghệ truyền thống đang bị những giá trị của thị trường
làm ảnh hưởng, rồi các cấp độ đào tạo từ cơ sở đến cao học… Đào tạo nghệ sỹ sơn
l .
mài truyền thống thật cần thiết nhưng đầy khó khăn, tuy vậy chúng tôi hết sức cố
v
n
gắng để Khoa ngày càng cố gắng phát triển".
165
w
Họa sĩ Lê Xuân Chiểu - Giảng viên khoa sơn mài Trường Đại học Mỹ thuật
thành phố Hồ Chí Minh và là người hơn 40 năm gắn bó với tranh sơn mài, lo lắng
w
" Nguyên nhân như việc vận chuyển sơn Phú Thọ vào trong Miền Nam khó
cho nguồn nguyên liệu vẽ tranh:
w
khăn, tuy hiện nay các phương tiện vận chuyển khá nhiều, giá sơn Phú Thọ cũng
như các nguyên vật liệu vàng bạc khá đắt đỏ do vậy số họa sĩ vẽ theo lối cổ truyền
.
ít, phần đông vẽ sơn bằng sơn Nhật hay sơn điều vừa mau khô ít tốn kém không
k
phải phụ thuộc vào các kỹ thuật nghiêm ngặt như làm sơn ta. Một khó khăn nữa là
trước năm 1975 và thời kỳ sau này vì khó khăn do chiến tranh việc vận chuyển sơn
h
Phú Thọ vào Miền Nam, một số thợ sơn và họa sĩ tạo ra một nguồn sơn thay thế sơn
c
Phú Thọ, đó chính là sơn Nam Vang khá dồi dào khai thác từ Căm Pu Chia, một số
họa sĩ đem pha chế hai loại sơn với nhau trở thành loại sơn cánh gián dùng cho vẽ
n nguồn sơn trên hầu như không còn.
tranh và làm các sản phẩm chất liệu mau khô, bóng, đẹp. Nhưng thời gian gần đây
m
Vấn đề đặt ra trong nhà trường hiện nay, để bảo tồn chất liệu sơn mài truyền
thống một mặt những người thấy cần truyền bá, hướng dẫn sinh viên hiểu được cái
hay cái đẹp của việc sử dụng sơn, kỹ thuật làm tranh sơn mài theo lối cổ truyền.
t -
Mặt khác về phía Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích người trồng cây
b
sơn như phục hồi và mở rộng diện tích trồng cây sơn, cây sơn Phú Thọ chính là
nguyên liệu quý chỉ có trồng ở vùng đất hợp thổ nhưỡng cây mới phát triển và cho
v
mủ sơn nhiều và tốt".
Trưởng phòng Đào tạo Trường Trung cấp Nghề tổng hợp Hà Nội - Họa sĩ sơn
h
mài Nguyễn Xuân Thủy nêu lên những bất cập trong đào tạo và đề xuất các vấn đề
cần giải quyết trong việc dạy nghề sơn mài:
t t
" Nghề sơn mài đang có xu hướng thu hẹp dần, do công việc sản xuất cầm
d
chừng, vì thị trường xuất khẩu không còn được như trước. Con cháu của các nghệ
nhân nghề sơn không còn muốn theo nghề của ông, bà để lại nữa mà chuyển sang
nghề khác có cơ hội kiếm tiền dễ hơn. Nghệ nhân không truyền lại cho con cháu
l .
được, nguy cơ thất truyền ngày càng lớn. Đó là trong các làng nghề, còn ở nhà
n
trường thì sao? Đó là câu hỏi không dễ gì trả lời. Bởi vì số người học được đao tạo v đến nơi đến chốn không nhiều, để có những người yêu nghề và muốn làm nghề thầy
để dạy lại người khác là rất khó. Bởi vì thủ tục tuyển vào đã khó cộng với chế độ
166
w
tiền lương lại thấp, không đủ trang trải cho cuộc sống bản thân. Cũng vì những lý
do đó mà Trường trung nghề Tổng hợp Hà Nội đang trong trong tình trạng không
w
có giáo viên thay thế thế hệ đã sắp sửa nghỉ hưu.
Vấn đề bảo tồn và gìn giữ nghề sơn mài truyền thống là một bài toán khó. Nếu
w
không có một biện pháp kịp thời, cũng như một chính sách đúng đắn của cấp có
thẩm quyền. Hiện nay Nhà trường cũng rất quyết tâm tìm nhiều giải pháp để chứng
.
hưng các nghề mỹ nghệ nói chung, nghề vẽ sơn mài nói riêng.
k
Có hai vấn đề cần giải quyết:
h
1. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là vấn đề, duy trì và phát triển được kỹ
thuật làm vóc truyền thống, bởi nó liên quan đến vấn đề kỹ thuật mang tính chất
c
truyền nghề. Đặc biệt là chỉ tập trung nhiều ở các làng nghề tỉnh Hà Tây cũ.
2. Vẽ sơn mài bằng sơn ta, tức là vẽ sơn mài đúng nghĩa (xịn). Hiện nay một
n nhiều, thực hành ít, do vậy rất hạn chế về tay nghề.
số trường mỹ thuật đào tạo ngành này chưa được bài bản, sinh viên học chay là
m
Đào tạo tại Trường trung cấp nghề Tổng hợp Hà Nội, môi trường đào tạo rất
tốt, có đội ngũ giáo viên giỏi về nghề. Nhưng đào tạo lại không hấp dẫn người học,
chỉ một số ít họa sĩ hoặc các sinh viên các trường mỹ thuật tìm đến xin học để bổ
t -
sung những phần còn thiếu trong qúa trình học. Đào tạo nghề sơn mài, hay nghề vẽ
b
tranh sơn mài cũng như để bảo tồn lâu dài mang đậm bản sắc sơn mài Việt Nam
không chỉ riêng các cơ sở đào tạo làm được mà phải có sự hỗ trợ của các cơ quan
v
chuyên ngành, cũng như các trường đào tạo mỹ thuật hoặc các họa sĩ tâm huyết với
h
nghề vẽ trang sơn mài truyền thống.
Nói đến Mỹ thuật Việt Nam, cái đặc trưng nhất vẫn là tranh sơn mài. Trên thế
giới chỉ có Việt Nam đầu tiên đưa chất liêu sơn ta lên tranh sơn mài. Do vậy sự cần
t t
thiết phải giữ gìn và phát triển một cách bền vững".
d
Cụ Chính - Nghệ nhân sơn mài ở làng nghề, người đã truyền dạy nữ họa sĩ
Nhật Bản Saeko Ando thành nghề phát biểu trên truyền hình: "Đây là một người rất
l .
ham học, cảm thụ nghề tốt, tôi tự hào vì có người học trò như vậy! Nghề sơn mài
truyền thống đòi hỏi sự yêu nghề, chịu khó, chăm chỉ, hiện nay ít người theo học. v Nghề này không truyền lại có mang theo mãi bên mình được đâu. Cô họa sĩ Nhật
n
Bản này gặp tôi đề nghị thật tha thiết là được học nghề, tôi sao từ chối được. Tìm
167
w
được người lĩnh hội nghề sơn mài, tâm đắc với nghề mình thấy kiến thức, kinh
nghiệm của mình có ý nghĩa ..."
w
Họa sĩ sơn mài Đặng Trần Sơn đã phát hiện và bùi ngùi: "Trớ trêu thay, đa số
những người nước ngoài đến học sơn mài ở cơ sở đào tạo lại chỉ học vẽ sơn Nhật
w
với lý do là học sơn mài Việt Nam sợ sẽ bị lở sơn (sơn ăn) đồng thời vẽ bằng sơn
Nhật thì dễ học hơn nhiều, điều khiển chất liệu không quá phức tạp như với sơn mài
.
truyền thống Việt Nam! Theo tôi không nên chấp nhận một mô hình đào tạo “giả
k
cầy” như vậy! Nếu thực sự muốn truyền bá một loại hình nghệ thuật truyền thống,
h
vô cùng quý giá của Việt Nam thì không thể “chiều” theo các học viên để “tiếp tay”,
góp phần làm tổn hại, tới giá trị cao quý của chất liệu đặc sắc của sơn mài truyền
c
thống Việt Nam...".
Hãy thử xem lại mô hình và phương pháp đào tạo chuyên khoa sơn mài của
n
Trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương trước kia xem sao. Từ cái nôi ấy đã sản
sinh ra những hoạ sĩ sơn mài rất nổi tiếng như: Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn,
m
Nguyễn Khang, Lê Quốc Lộc, Phạm Đức Cường v.v. Những sinh viên thời ấy ngoài
tài năng ra, họ có sự say mê, tìm tòi, khám phá không biết mệt mỏi. Họ hiểu biết về
chất liệu rất am tường, bài bản. Họ thông thạo từ khâu chế biến sơn, kỹ thuật về
t -
hom bó, gắn trai, gắn trứng. Họ “sai khiến” chất liệu rất vững vàng, chủ động như
b
những tướng tài lúc cầm quân. Họ đều phải học và chế biến các loại sơn cánh gián,
sơn then, sơn quang dầu, phân biệt được đâu là sơn có thể ngả màu cánh gián, sơn
v
then để có chất lượng tốt nhất. Phải có trong tay nhiều loại sơn khác nhau và dùng
h
vào từng việc cho phù hợp, cho đắc địa. Loại nào chậm khô, loại nào mau khô, loại
nào có độ trong, độ bóng cần thiết để pha màu, để quang, để phủ. Mặt khác các
nguyên liệu làm sơn thời bấy giờ có chất lượng rất cao. Các loại sơn sống đủ tiêu
t t
chuẩn chất lượng để có thể ngả thành sơn then, sơn cánh gián cực tốt. Các loại son
d
được chế biến từ đá thần sa thứ thiệt. Ngày trước các cụ kể lại rằng son được nhiều
người buôn bán gánh hàng gánh giao cho các cửa hàng bán sơn, nay muốn có son
l .
đẹp các họa sĩ mua của bác Khánh - vợ họa sĩ Hoàng Đạo Khánh, bây giờ bác đã
già yếu có truyền cho con là anh Toàn (nhưng anh cũng không làm thường xuyên), v khoa sơn mài Trường Trung cấp Nghề tổng hợp Hà Nội có ý muốn mua công nghệ
n
chế biến son nhưng bác không bán. Còn một số cơ sở có làm son nhưng chất lượng
168
w
chưa đạt yêu cầu. Ngày nay ta thiếu màu son nên thay thế bằng những loại bột đỏ
công nghiệp. Đơn cử như màu đỏ dùng bằng màu son (thần sa) thì khi mài ra nó có
w
một độ đằm thắm, óng ánh của bột đá quý mà không một màu đỏ nào sánh được.
Mầu nâu sẫm của son nhì cũng không có màu nâu nào của bột màu, sơn dầu nào
w
sánh được. Màu đen của sơn then loại tốt cũng không có một màu đen nào của bột
màu, của sơn dầu nào có được cái thăm thẳm, quyến rũ của sơn then.
.
Ngày nay, nhìn chung các sinh viên chuyên khoa sơn mài vẫn được học một
k
cách cơ bản, thấu đáo. Bây giờ, hầu hết các sinh viên kể cả các họa sĩ chỉ dùng sơn,
h
dùng vóc, các vật liệu, dụng cụ do những thợ sơn làm sẵn, chế biến sẵn. Như vậy
bên cạnh việc thuận lợi cho người sáng tác thì cũng có một số hạn chế về vật liệu.
c
Biết bao điều làm cho chúng ta không thể không trăn trở, băn khoăn cho sự phát
triển của chất liệu và nghệ thuật sơn mài Việt Nam.
n
Tuy vậy, chúng ta đừng vội thất vọng trước thực tế và những khó khăn do chủ
quan và khách quan, vẫn có nhiều người tìm đến học sơn mài và thành tài. Nguyễn
m
Thị Thu Hiền - Thủ khoa Đại học Mỹ thuật Việt Nam 2007 tâm sự: "Sơn mài là loại
tranh quý của Việt Nam, chúng tôi may mắn được làm nghề ở thời họa phẩm phong
phú, xã hội có nhiều đổi mới, tinh thần thoải mái. Chúng tôi rất kính trọng những
t -
người đi trước, được các thầy, cô chỉ bảo tận tình. Sự kế thừa là tất nhiên, tuy vậy
b
phải tìm cho mình con đường riêng - điều này chính là thử thách đối với thế hệ trẻ.
Dựa trên truyền thống nhưng với tư duy hiện đại, chúng tôi mạnh dạn thể hiện các
v
thể nghiệm của mình, tìm tòi các bố cục, xử lý chất liệu tạo hiệu quả hấp dẫn với
h
"cái nhìn" đương đại… Khi làm tranh các họa sĩ cố gắng nghĩ, cố gắng làm để tạo ra
các hiệu quả khác nhau. Làm sơn mài thật thú vị, các lớp sơn vẽ chồng lên nhau rồi
mài đi tạo vẻ đẹp bất ngờ, rất hấp dẫn người vẽ…".
t t
PGS - TS Nguyễn Văn Đỉnh - Hiệu trường Trường ĐHMTCN rất tin tưởng:
d
"Chúng tôi thật tự hào với một trung tâm giáo dục, đào tạo lớn của Việt Nam
có đầy đủ các ngành mỹ thuật ứng dụng trong đó có sơn mài nằm trong khoa mỹ
l .
thuật truyền thống. Đào tạo được họa sỹ cho ngành này rất công phu, ngoài việc chi
phí đào tạo (mua nguyên vật liệu quý, đắt) cao hơn ngành khác thì giáo viên phải v hướng dẫn rất tỷ mỷ. Khi ra trường các em nắm nghề vững vàng, độc lập đáp ứng
n
tốt nhu cầu xã hội. Cái khó hiện nay khoa mỹ thuật truyền thông trong đó có ngành
169
w
sơn mài rất kén người học, không đào tạo tràn lan hay hạ chất lượng đầu vào để thu
hút nhiều học sinh, nên để phát triển được ngành Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí để
w
đào tạo, nhiều khi phải bao cấp, bên cạnh đó Nhà trường sẽ quảng bá tuyên truyền,
có chế độ khuyến khích, đa dạng hóa mô hình đào tạo. Điều đáng mừng các sinh
w
viên ở đây khi tốt nghiệp là đã có nhiều nơi nhận vì các em đã trưởng thành trong
thực tế, có tay nghề vững vàng đây có là nét hấp dẫn rất đáng lưu ý...".
.
PGS – NGND - Họa sỹ Lê Anh Vân - Hiệu trường Đại học Mỹ thuật Việt
k
Nam nói: "Sắp tới trường sẽ thành lập Trung tâm mỹ thuật truyền thống, trong đó
h
chú ý mạnh đến tranh sơn mài ..." thật đáng mừng!.
b. Vấn đề nghiên cứu khoa học
c
Bên cạnh đào tạo, vấn đề nghiên cứu khoa học cần được chú trọng.
Chất liệu sơn mài, nghệ thuật, sơn mài truyền thống (cả trong hội họa và thủ
n
công mỹ nghệ) thực sự là một vốn quý, một thế mạnh và cũng rất giàu tiềm năng
cần phải được nhìn nhận, khẳng định, đánh giá cho đúng. Phải được đầu tư, nghiên
m
cứu và có chiến lược phát triển. Làm tốt việc này thì chẳng những tiếng vang và uy
tín của sơn mài Việt Nam không bị chững lại và giảm sút mà còn tận dụng được
nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho
t -
hàng triệu con người trong các cơ sở sản xuất. Trong các phường nghề, làng nghề
b
vốn là một thế mạnh của con người Việt Nam, xã hội Việt Nam từ nhiều thế kỷ qua.
Có lẽ nào cái thế mạnh và vốn liếng kỳ diệu này lại để cho kỹ thuật và chất liệu
v
ngoại lai, pha tạp làm cho biến dạng, xuống cấp.
h
Đã đến lúc chúng ta phải có tầm nhìn mang tính chiến lược để đầu tư và phát
triển cho sơn mài mà vai trò của Nhà nước, các cơ quan quản lý và nghiên cứu khoa
học rất quan trọng. Cần phải có một (hoặc nhiều) cơ sở nghiên cứu và thể nghiệm.
t t
Cần phải nghiên cứu một cách thấu đáo chất nhựa sơn để chỉ rõ nguyên nhân "trái
d
tính, trái nết" và tìm ra biện pháp khắc phục. Vừa nghiên cứu vừa thể nghiệm, vừa
sản xuất và tiêu thụ. Các họa sĩ nghệ nhân, thợ thủ công, các cơ sở sản xuất rất hoan
l .
nghênh nếu có những nguyên vật liệu dùng cho sơn mài được "thuần hóa", được chế
n
biến sẵn, tạo sự an toàn, thuận lợi cho người sử dụng, vừa đảm bảo được những đặc v tính cơ bản, độc đáo của chất liệu truyền thống, sơn mài truyền thống mà giá bán lại
170
w
không quá đắt, tạo thuận lợi cho các nghệ sĩ sáng tác và các nghệ nhân làm sơn mài
thủ công mỹ nghệ, tranh sơn mài.
w
Muốn khai thác và phát triển tiềm năng của ngành nghề sơn mài, nghệ thuật
sơn mài để mang lại hiệu quả to lớn cho xã hội, cho nghệ thuật, cho kinh tế thì phải
w
có một sự đầu tư, chỉ đạo của Nhà nước và sự tham gia của các nhà khoa học, các
cơ quan nghiên cứu, thử nghiệm và sản xuất. Trong xu thế hội nhập và phát triển,
.
trong kinh tế tri thức, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không
k
thể duy trì, tồn tại một phương thức thủ công, lạc hậu. Cần phải khai thác, phát huy
h
triệt để cái thế mạnh của chất liệu và nghệ thuật sơn mài truyền thống của Việt Nam.
Vấn đề này không phải bây giờ mới được đề cập mà đã được nêu lên từ những năm
c
60 của thế kỷ XX đã có khá nhiều ý kiến đề xuất. Thời ấy Viện Mỹ thuật, Viện Mỹ
nghệ của Bộ Văn hóa, Liên hiệp Xã Trung ương cũng đã có một bộ phận làm công
n
tác nghiên cứu khoa học về chất liệu sơn mài, sau đó lại buông trôi. Trường Đại học
Bách khoa cũng đã có một bộ phận nghiên cứu làm cốt vóc cho sơn mài nhưng cho
m
đến kết quả chưa thấy đâu!
Các minh chứng cụ thể: Cố họa sĩ Trần Đình ThọNguyên Hiệu trưởng
CĐMTVN đã có những đề xuất rất khẩn thiết trên báo Văn hóa mà cho đến nay, đã
t -
qua gần nửa thế kỷ rồi mà dường như tính thời sự vẫn còn đang nóng hổi:
"... Sự cố gắng của các họa sĩ Việt Nam trên địa hạt sơn mài đã làm phong phú b nền nghệ thuật hội họa của chúng ta nhưng quá trình nghiên cứu về chất liệu này
v
của các họa sĩ mới chỉ là những tìm tòi, mày mò theo lối thủ công nghiệp. Muốn
h
chất liệu sơn mài được phong phú hơn, tôi thấy cần phải đặt ra vấn đề nghiên cứu
chất liệu này một cách khoa học hơn, nghĩa là phải nghiên cứu tính chất hóa học của
nó. như vậy mới có thể điều khiển chất liệu này một cách dễ dàng, theo ý muốn,
t t
người nghệ sĩ mới chủ động được trong việc sử dụng và sáng tạo... Chất liệu sơn
d
dầu (Peinture) trước đây, việc sử dụng cho có nhiều màu sắc cũng bị hạn chế theo
trình độ khoa học lúc bấy giờ; về sau, càng ngày các chất để chế tạo thành màu sắc
l .
càng được phát minh nên chất liệu sơn dầu ngày nay đã có nhiều màu sắc phong
n
phú, cách sử dụng dễ dàng trong việc nghiên cứu cũng như diễn tả con người và v thiên nhiên...".( Báo Văn hóa Nghệ thuật 1962)
171
w
Những năm sau đó, Viện Mỹ thuật - Mỹ nghệ Bộ Văn hóa đã có kế hoạch và
cử người lo việc nghiên cứu về chất liệu sơn mài, chất liệu sơn ta. Đến đây, chúng
w
ta cần phải nhắc tới vai trò và công lao của một họa sĩ, một nhà nghiên cứu đồng
thời là một kỹ sư hóa chất Trần Ngọc Quang - một con người uyên bác, nhiệt thành,
w
thông thạo nhiều ngoại ngữ như: Pháp văn, Anh văn, Espéranto, Trung Quốc, Triều
Tiên . . . Những công trình tổng hợp và nghiên cứu của Trần Ngọc Quang bị dang
.
dở vì cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước và sau đó là căn bệnh hiểm nghèo đã
k
chấm dứt sự nghiệp trọng đại của đời ông, trong thời gian ông phải chăm lo, bảo
h
quản những hiện vật và tác phẩm quý giá của Bảo tàng Mỹ thuật, sơ tán vào tận Đà
Lạt, tỉnh Lâm Đồng (vì cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc). Dù sao, những đóng
c
góp bước đầu của Trần Ngọc Quang cộng với những công trình đã được công bố
cũng đã hé mở được phần nào những bí ẩn của chất liệu sơn mài, đặc biệt là đối với
n
chất nhựa sơn ta rất trái tính trái nết này như :Tại sao bị lở sơn lại dùng nước vôi
trong hoặc lá khế, thạch cao, hàn the, . . .xoa vào thì khỏi ? Tại sao khi trời khô
m
hanh mà lạnh quá hoặc nóng quá thì sơn không chịu khô ? Tại sao một số phẩm,
một số màu khi pha với sơn thì không những không chịu khô mà còn bị chết màu,
biến sắc ? ...
t -
Làm sao đây khi người ta chỉ chú trọng những gì có lợi ích trước mắt, có lợi
b
nhuận tức thì mà bỏ rơi những lợi ích lâu dài có thể mang lại niềm kiêu hãnh cho
non sông đất nước.
v
Phải nói thêm rằng, vấn đề nghiên cứu khoa học về chất sơn thì hiện nay nhiều
h
nước như Trung Quốc, Nhật Bản đã làm. Những người làm sơn mài ở Trung Quốc
đã có thể mua sơn đã được đóng hộp như các loại sơn công nghiệp khác. Thế nhưng
ta không thể "Nhập khẩu" các loại sơn đã được chế biến, thuần hóa của nước ngoài
t t
bởi vì chất sơn Phú Thọ của ta có tính ưu việt khác họ, cách làm của ta, quy trình kỹ
d
thuật của ta khi làm sơn mài cũng khác họ rất nhiều. Đó mới là nhân tố tạo ra sự độc
đáo, giá trị cổ truyền của người Việt Nam của bản sắc Việt Nam.
l .
3.5. Tranh sơn mài Việt Nam trong bối cảnh văn hóa giao lưu, hội nhập quốc tế
v
và thời kỳ nghệ thuật hậu hiện đại
n
3.5.1. Xu hướng hiện đại và hậu hiện đại trong mỹ thuật
172
w
Tìm tòi, thử nghiệm, đổi mới đó là xu hướng tất yếu của văn hóa trong đó có
mỹ thuật, nhìn vào bảng khảo sát ở phần 3.1 chúng ta thấy được xu thế phát triển về
w
phong cách, xu hướng thẩm mỹ của mỹ thuật trong đó có tranh sơn mài. Nếu như ở
năm 1980 phương pháp sáng tác về cơ bản vẫn là hiện thực XHCN nhưng bên cạnh
w
đó đã xuất hiện một số tác phẩm có phong cách táo bạo, cách tân (lập thể, cực thực),
phải 10 năm sau chúng ta mới chấp nhận đa phong cách. Năm 1990 sự đổi mới lại
.
tiến lên một bước có các trường phái như: tượng trưng, lập thể, ngây thơ, biểu hiện,
k
cực thực ... bên cạnh các tác phẩm hiện thực, đây là minh chứng cho bước phát triển
h
đa dạng hóa mỹ thuật Việt Nam. Năm 2000, trong mỹ thuật nhiều chủ nghĩa, trường
phái song hành cùng chủ nghĩa hiện thực XHCN, CNHTXHCN là phương pháp
c
231) đã tồn tại được nửa thế kỷ cho đến bấy giờ; thêm vào đó những năm
khởi đầu thế kỷ XXI đánh dấu cuộc chuyển giao thể hệ tất yếu và trào lưu chung
n
sáng tác đã từng được cho là “con đường duy nhất đúng cho mỹ thuật” [ 22 tr
của giới trẻ làm nghệ thuật hiện đại muốn thể hiện tâm sự cá nhân.
m
Chúng ta đang sống trong một thế giới "phẳng", công nghệ thông tin phát
triển, thời đại khoa học kỹ thuật có bước tiến vượt bậc, nền văn minh của loài người
đã giúp cho cuộc sống thay đổi đến chóng mặt, đô thị hóa ồ ạt làm đảo lộn, thay đổi
t -
"bộ mặt" của không gian sống v.v mặt tích cực là làm đời sống có cảm giác được
b
nâng cao hơn, trang thiết bị tiện nghi hơn, phương tiện đã giúp làm "nhàn hóa" lao
động của con người, như vậy cuộc sống rất hạnh phúc !? Ngược lại mặt tiêu cực thì
v
sao? Vấn đề ô nhiễm môi trường, nạn gia tăng dân số, khai thác kiệt quệ nguồn tài
h
nguyên thiên nhiên làm mất cân bằng sinh thái, khoảng cách giàu nghèo tăng, tha
hóa về đạo đức v.v qua các phương tiện truyền thông chúng ta thấy hàng ngày hàng
giờ thế giới đầy rẫy những cuộc xung đột tàn khốc, khủng hoảng kinh tế, các căn
t t
bệnh xã hội tràn lan… trẻ em phải đi học "Kỹ năng sống"! Rủi ro, bất trắc luôn rình
d
rập… Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội nên chúng ta đều bị ảnh
hưởng!
l .
Lớp tác giả trẻ trên con đường tìm cái mới muốn phủ định cái cũ, những tưởng
n
tìm ra cái khác nên đã phủ định cái đẹp hình, hòa sắc, bố cục (những nguyên lý cơ v bản về tạo hình mà thế hệ trước đây dày công nghiên cứu bị cho là lạc hậu) đề cao
tư duy, ý tưởng. Nghệ thuật đương đại giờ đây không làm cân bằng tâm hồn con
173
w
người nữa mà lại đẩy con người vào những bức bối của đời sống, các họa sĩ trẻ đi
tìm cái mới nên chính họ bị đưa đẩy vào trào lưu này.
w
Nhìn nhận về xu hướng hiện đại và hậu hiện đại trong mỹ thuật, sự ảnh hưởng
của thế giới với Việt Nam chúng ta thấy lớp tác giả trẻ tìm tòi, cách tân là điều đáng
w
khuyến khích vì đây là quy luật tất yếu của sự vận động và phát triển. Hiện nay xu
hướng nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại ảnh hưởng trong giới nghệ sỹ trẻ thế giới
.
trong đó có Việt Nam, đó là xu thế chung (ở nước ta hình thức nghệ thuật này chỉ
k
đến được với một số người còn lại cũng khó chấp nhận với nhiều người).
h
Để hiểu được nghệ thuật "tiên phong" đương đại người ta phải thay đổi một số
quan niệm cơ bản, "đảo lộn" nhận thức tạo hình, đó là: sự chuyển đổi về phương
c
tiện tạo hình và phương thức tạo hình. Những chất liệu truyền thống mất vị trí độc
tôn, sử dụng chất liệu truyền thống nhưng mở rộng phạm vi dùng cùng nhiều chất
n
liệu tổng hợp, sử dụng vật liệu, sản phẩm có sẵn (kể cả cơ thể người) / phương thức
tạo hình đa dạng, đa phương tiện, sắp xếp theo ý tưởng chủ quan của nghệ sĩ / tác
m
phẩm không để thưởng ngoạn cái đẹp mà chỉ là môi giới để gợi lên một ý niệm, một
khám phá nên không cần tồn tại lâu dài / tác phẩm không mang dấu ấn rõ nét cá tính
như những tác phẩm làm bằng tay của tác giả với các chất liệu và công cụ truyền
t -
thống.
Một học giả Mỹ nhận định: Chủ nghĩa hậu hiện đại không phải là một phong b cách đặc biệt mà là những thử nghiệm để vượt qua chủ nghĩa hiện đại. Trong một số
v
trường hợp, nó làm sống lại những phong cách mà chủ nghĩa hiện đại đã chối bỏ,
h
mặt khác nó lại phản đối mọi yếu tố mang tính khách thể, kể cả bản thân người
nghệ sỹ đồng thời ra sức khai thác tâm trạng lạnh lùng, cô độc, hư vô ... Nghệ thuật
hiện đại đưa ra câu khẩu hiệu: "Chúa đã chết", nghệ thuật hậu hiện đại (phát sinh từ
t t
giữa thế kỷ XX) đưa ra triết lý: "Con người đã chết"?!
d
Xu hướng nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại cũng có thế mạnh là mở ra
những cái mới về ngôn ngữ hình thức làm cho nghệ thuật mang tính đại chúng, phổ
l .
cập, có khả năng biểu đạt phạm trù tư duy triết lý ... kích thích tự do sáng tác. Tuy
vậy sự tìm tòi về hình thức biểu đạt nếu không biết dừng, cân đối giữa nhận thức, v tình cảm, lý trí lành mạnh; kết hợp tình yêu sáng tạo, rung động, niềm tin cuộc
n
sống ... lao động nghệ thuật làm nên sự gắn kết giữa cá nhân và cộng đồng ... thì dễ
174
w
sa vào chủ nghĩa cá nhân cực đoan nghệ thuật khó có thể coi là một giá trị đích thực
mang tính nhân văn của cuộc sống.
w
Tranh sơn mài Việt Nam không phải không có những ảnh hưởng. Hiện nay có
những tác phẩm sơn mài được thể hiện rất hiện đại ở màu sắc và kỹ thuật, nhiều
w
màu tươi, đa dạng, có thể không mài (cho nên thuật ngữ tranh sơn mài hiện nay có
những biến đổi), giá trị nghệ thuật và độ bền của loại tranh này có nhiều vấn đề phải
.
bàn. Nhận xét về sơn mài của một số họa sĩ trẻ (thập kỷ 90 thế kỷ XX) một bài báo
k
viết: "... Sáng tạo thỏa thích đẩy sơn mài từ cực nọ đến cực kia sức sáng tạo của họ
h
rất đáng khâm phục, phong cách thể hiện vô cùng đa dạng từ hiện thực đến siêu
thực, trìu tượng... nội dung không bó hẹp, họa sĩ có thể thể hiện những ước vọng
c
sáng tạo với nhiều đề tài tâm linh tôn giáo, tình yêu ... và họ đặt rất nhiều thứ lên
mặt vóc từ thạch cao, gỗ, mùn cưa, đá, sỏi ... hóa chất được sử dụng nhiều là xăng,
n
dầu tây ... các họa sĩ trẻ khai thác rất kỹ vẻ đẹp bí ẩn của sơn mài trong các nghi lễ
tín ngưỡng ... nhưng đa phần thể hiện tính gợi ý nhiều hơn sự trình bày cụ thể sự vật
m
theo mắt nhìn, điều này gần như trái ngược với các thế hệ trước. Các họa sĩ sơn mài
ngày nay thường sáng tác vào những bức tranh sơn mài khổ lớn mà các thế hệ trước
ít có điều kiện để làm, nhưng đôi khi chính các họa sĩ bơi lội trong chính tác phẩm
t -
của mình. Kỹ thuật sơn mài là một thế mạnh nhưng họ làm theo phong cách giống
b
nhau khó có thể biết tác giả chúng là ai và khó nhận định "ai bắt chước ai". Các họa
sĩ biến đổi bút pháp, kỹ thuật để khai thác vẻ đẹp, kỹ thuật tốt, tinh vi nhưng hơi
v
lạm dụng phô diễn chất liệu đôi khi thấy trái ngược với sơn mài truyền thống" (Văn
h
nghệ trẻ 11/12/1999). [55, tr.118]
Như vậy trong xu thế mỹ thuật hiện nay vấn đề bảo tồn và phát huy truyền
thống, tạo nên bản sắc văn hóa là quan trọng, sống còn, chúng ta "hội nhập" chứ
t t
không "hòa tan".
d
3.5.2. Tranh sơn mài truyền thống Việt Nam trong bối cảnh văn hóa giao lưu hội
nhập quốc tế
l .
Lâu nay chúng ta làm quen với các khái niệm "Toàn cầu hóa", "Thế giới
n
phẳng" "Giao lưu" "hội nhập" v.v Chúng ta đang sống trong xu thế toàn cầu hóa, về v mặt kinh tế, Việt Nam chuyển đổi từ cơ chế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
175
w
trường (theo định hướng XHCN). Ra nhập WTO là chấp nhận những luật lệ, những
tiêu chuẩn chung để phát triển.
w
Người ta lo ngại một "thế giới phẳng" về mặt văn hóa, sẽ xóa đi văn hóa vùng
miền, dân tộc, quốc gia chăng? Nếu như vậy văn hóa sẽ chết! Văn hóa không thể
w
giống nhau, có mặt tương đồng, có mặt khác biệt. Hội nhập quốc tế là xu hướng tất
yếu "Nói hội nhập quốc tế về văn hóa là đưa các nền văn hóa lại gần nhau, tiếp xúc,
.
cọ sát với nhau, bổ sung cho nhau" đây là hiện tượng có tính quy luật, thường xuyên
k
diễn ra, sự ảnh hưởng, tiếp thu (tự nguyện hay áp đặt) là quy luật tất nhiên nhưng
h
hội nhập chứ không hòa tan, tiếp thu một cách có chọn lọc đó còn phải phụ thuộc
vào bản lĩnh hay bản sắc văn hóa. Nghìn năm Bắc thuộc, gần 1 thế kỷ đô hộ của
c
Thực dân Pháp không thể đồng hóa được văn hóa Việt Nam, ngược lại người Việt
lại tiếp thu những giá trị của 2 nền văn hóa lớn của nhân loại để làm giàu, phong
n
phú cho văn hóa bản địa, làm nảy sinh các thành tựu văn hóa, danh nhân văn hóa,
đặc biệt xuất hiện trong nền văn hóa nước nhà các danh họa, điêu khắc gia có các
m
tác phẩm tạo nên nền mỹ thuật Việt Nam đương đại thoát thai từ văn hóa truyền
thống, văn hóa phương Đông kết hợp với tinh hoa mỹ thuật văn hóa phương Tây,
cũng từ nơi đây hội họa sơn mài ra đời đã tạo nên một giá trị đặc sắc của văn hóa
t -
Việt Nam (từ truyền thống và biến đổi của nghệ thuật, kỹ thuật sơn ta, tranh sơn ta).
Trong xu thế mỹ thuật hiện nay, trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế thì b vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới,
v
tạo nên bản sắc là quan trọng, là sống còn. Chúng ta cần gìn giữ, tôn vinh giá trị của
h
tranh sơn mài truyền thống để cho thế hệ sau thành tựu đặc sắc, thành quả của văn
hóa Việt Nam.
Tranh sơn mài tạo hình: Có thể nói rằng sự giao lưu văn hóa Trung Hoa, tranh
t t
sơn hình thành phát triển và sự giao lưu với văn hóa Pháp, các họa sỹ Việt Nam đã
d
sáng tạo nên tranh sơn mài tạo hình. GS-TS Trần Văn Bính viết "Hội nhập hay giao
lưu văn hóa là sự tiếp xúc giữa các hiện tượng văn hóa thuộc các vùng miền, giữa
l .
các quốc gia… Trong giao lưu, có thể là vô thức hoặc có ý thức, có thể là tự nguyện
hay cưỡng bức. Nhưng dù gì đi nữa thì kết quả chủ yếu vẫn phụ thuộc vào bản lĩnh v của các nền văn hóa dân tộc" [6, tr.23-24]. Khi tiếp xúc với họa sỹ Victor Tardieu,
n
họa sỹ Nam Sơn - Nguyễn Vạn Thọ đề xuất ý tưởng mở trường dạy vẽ ở Việt Nam,
176
w
khi họa sỹ Victor Tardieu đề xuất với Chính phủ Pháp, tất nhiên chính quyền thực
dân đồng ý cho mở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương nhưng với ý tưởng là
w
đào tạo ở xứ thuộc địa An Nam thợ vẽ. Nhưng với bản lĩnh dân tộc, từ đây một loạt
danh họa xuất hiện Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tư Nghiêm, Trần Văn
w
Cẩn, Nguyễn Phan Chánh... các nghệ sỹ Việt Nam đã kết hợp lối tạo hình phương
Đông với hình họa và viễn cận Phương Tây để tạo nên "phong cách Việt Nam,
.
trường phái hội họa Hà Nội". Sơn ta được các họa sĩ Việt Nam sáng tạo trở thành
k
chất liệu của hội họa, xuất hiện tranh sơn mài tạo hình một sản phẩm văn hóa đặc
h
sắc của Việt Nam.
Trải qua lịch sử hơn 80 năm hình thành, đội ngũ họa sỹ Tranh sơn mài ngày
c
càng phát triển, thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước. Chúng ta có thể chia 5 thế hệ họa sỹ
vẽ tranh sơn mài: Thế hệ thứ nhất: họa sỹ Mỹ thuật Đông Dương; thế hệ thứ hai:
n
họa sỹ thời kỳ Chống Pháp và 10 năm đầu hòa bình lập lại ở miền Bắc; thế hệ thứ
ba: họa sỹ thời kỳ chống Mỹ; thế hệ thứ tư: họa sỹ thời kỳ đổi mới; thế hệ thứ năm:
m
họa sỹ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Qua các tác phẩm
sơn mài tiêu biểu được lưu giữ tại Bảo tàng mỹ thuật, tại các cuộc TLMTTQ, Triển
lãm khu vực, triển lãm chuyên đề, triển lãm quốc tế ta thấy được diễn trình phát
t -
triển của tranh sơn mài Việt Nam.
Nói về tranh sơn mài mỹ nghệ, ta không nên nghĩ theo thói quen của một số b người cho rằng tranh tạo hình ở "đẳng cấp" cao hơn, bởi vì mỗi một loại tranh đều
v
có vẻ đẹp riêng, có ý nghĩa với xã hội, đáp ứng thị hiếu thẩm mỹ của các tầng lớp
h
khác nhau. Tranh sơn mài mỹ nghệ và tranh sơn mài tạo hình đều có chức năng, kỹ
thuật thể hiện, khả năng biểu cảm riêng biệt. Tranh sơn mài mỹ nghệ kỹ thuật thể
hiện được đề cao, nghệ nhân thường phô diễn kỹ thuật điêu luyện tinh xảo của nghề
t t
sơn mài, đề tài thường theo những mẫu nhất định, bình dị, dễ hiểu, tính trang trí
d
được đề cao. Nhiều nghệ nhân ở các làng nghề, hay công ty, hợp tác xã sơn mài mỹ
nghệ đã thể hiện những tranh sơn mài cỡ lớn để tranh trí công sở, hội trường, nơi
l .
công cộng tạo cảnh quan vẻ đẹp trang trọng, tạo nên nét riêng của văn hóa vùng
v
n
miền.
177
w
Trong quá trình phát triển tìm hiểu thực tế, thị hiếu người dân, nghệ nhân nâng
cao sản phẩm bằng cách khai thác những đề tài mới, tìm cách thể hiện mới, thay đổi
w
kỹ thuật, bổ sung chất liệu, giá cả phù hợp.
Việc đưa sơn Nhật, sơn công nghiệp, sơn hạt điều là những đổi thay về chất
w
liệu trong quá trình giao lưu hội nhập. Các chất sơn này khi vẽ tranh sơn mài mỹ
nghệ người vẽ tiết kiệm thời gian, mau khô, không bị "ăn sơn" bảng màu phong
.
phú, giá thành rẻ đáp ứng thị trường. Tuy vậy mặt hạn chế của các loại sơn này tạo
k
cho bề mặt tranh bóng loáng, màu trơ, trông khô cứng không hồn, không bền dễ bị
cong vênh v.v. trong khi tranh vẽ bằng chất liệu sơn ta vẽ bằng cách chồng nhiều
h
lớp rồi mài, quá trình mài chính là vẽ, ngừng ở độ nào do trình độ điêu luyện của
c
nghệ nhân, nghệ sỹ, làm công phu, tranh có độ thẳm sâu tinh tế.
Tranh sơn mài mỹ nghệ có mặt trên thị trường trong nước, ngoài nước, mỗi
n
loại chất liệu với sự tài tình của người sử dụng sẽ tạo cho tranh sự thích ứng. Cũng
không nên kêu lên rằng đây là mặt trái của cơ chế thị trường! Mà nên nói rằng cơ
m
chế thị trường, sự giao lưu, hội nhập về văn hóa đã giúp cho sự phát triển phong
phú của chất liệu, phát huy sự sáng tạo của nghệ sĩ để tìm ra những tinh hoa mới.
Tuy vậy, cần phải giúp làng nghề bảo tồn phương pháp, chất liệu truyền thống để
t -
làm tranh sơn mài.
b
Tranh sơn mài tạo hình đi từ truyền thống, các họa sỹ tiếp thu đầu tiên là
cách chế biến nhựa sơn, quy trình nghiêm ngặt nếu không nắm vững được chất liệu,
v
cách chế tác thì đừng làm họa sỹ sơn mài! Bảng màu truyền thống của sơn mài rất
hạn chế, từ sơn then, sơn cánh gián với những sắc nhị, sắc độ khác nhau, điều quan
h
trọng là nghệ sĩ sử dụng như thế nào trong tác phẩm. Tranh sơn mài mỹ nghệ là vẽ
theo mẫu, sản xuất hàng loạt; còn tranh sơn mài tạo hình do họa sỹ sáng tạo, với
t t
chất liệu đặc trưng được họa sỹ sắp xếp trong một tổ chức thẩm mỹ, thể hiện cái
d
nhìn với hiện thực để mô tả với trái tim rung động, thổi hồn vào tác phẩm kết hợp
tính dân tộc và hiện đại, quan trọng hơn là ý tưởng sáng tạo, chủ đề tư tưởng mang
phong cách cá nhân không lặp lại.
l .
Bảng màu sơn mài được bổ sung gam màu lạnh thêm phong phú, ngoài việc
n
cẩn, ghép vỏ trứng, vỏ trai, ốc, xà cừ hiện nay còn sử dụng cả vỏ dừa, cốt bằng v composit. Trong điều kiện nào đấy họa sĩ vẫn dùng sơn Nam Vang, sơn Nhật, sơn
178
w
Điều… để vẽ tranh, hay có người do bị lở sơn mà lại đam mê nghệ thuật sơn mài
đành chấp nhận không dùng sơn ta, nhiều họa sỹ thấy nhựa sơn Phú Thọ do người
w
dân khai thác đã bán cho tư thương Trung Quốc mà không khỏi xót xa chỉ lo mai
kia vẽ tranh phải mua sơn ta chế sẵn từ Trung Quốc, Nhật Bản. Trong quá trình giao
w
lưu hội nhập, trong sự khắt khe của cơ chế thị trường thì sự thay đổi là tất yếu. Như
tác giả Nguyễn Văn Minh nhân định: "Sự phân hóa từ đồ sơn cổ truyền đến sơn mài
.
ứng dụng và tranh sơn mài đã tạo nên diện mạo phong phú cho sơn mài Việt Nam.
k
Chúng ta chấp nhận hiện thực sinh động này như một yếu tố ngoại sinh để làm động
lực cho nguồn lực nội sinh tiếp tục và khẳng định". [44, tr.12-17]
h
Quả vậy tranh sơn mài được vẽ theo lối truyền thống, chất liệu sơn ta thể hiện
c
sự vượt trội hơn hẳn. Trong đội ngũ họa sỹ vẽ tranh và chuyên tranh sơn mài đa
phần là tuân thủ, kế thừa người đi trước, họ làm vậy vì yêu vốn quý dân tộc, thấy
n
được sự ưu việt của chất liệu và trên hết họ muốn bằng sự lao động sáng tạo, tác
phẩm tranh sơn mài của mình tôn vinh nghệ thuật góp phần bảo tồn phát huy và làm
m
giàu bản sắc văn hóa Việt Nam.
3.6. Tranh sơn mài - Quốc họa Việt Nam
Xem xét tranh sơn mài Việt Nam ở khía cạnh thực trạng và phát triển ta thấy
t -
diện mạo của nghệ thuật sơn mài, tranh sơn mài Việt Nam có những giá trị quý giá
b
tạo bản sắc văn hóa, có bề dày lịch sử, góp phần nâng cao vị thế mỹ thuật Việt Nam
là di sản văn hóa dân tộc.
v
Cố Nhà Phê bình mỹ thuật Thái Hanh sinh thời rất yêu quí, tâm đắc với tranh
h
sơn mài, ông đau đáu một điều: "Đã đến lúc không chỉ có nhận thức mà cần phải
thực sự hành động, mà trước hết cần phải có sự thống nhất khẳng định vị thế của
tranh sơn mài là "Quốc họa", là loại tranh chính thống, là đặc sản nghệ thuật tiêu
t t
biểu nhất của nền hội họa quốc gia".
d
Triển lãm tranh sơn mài Việt Nam tại Bắc Kinh (4/2011) và tại Tân Cương -
Trung Quốc (9/2011) đã gây tiếng vang lớn. Trong bài phát biểu của Giám đốc Sở
l .
Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Tân Cương tại Lễ khai mạc "Triển lãm tranh sơn mài Việt
Nam đương đại 2011" có đoạn: "Tranh sơn mài có thể nói là "Quốc họa" của Việt v Nam. Công nghệ mài tranh rất phức tạp yêu cầu tuân thủ những nguyên tắc chặt chẽ
n
đồng thời sử dụng những nguyên liệu màu sắc tự nhiên như Đen, Đỏ, Vàng,
179
w
Trắng… tất cả hợp thành những bức tranh đẹp, một dòng tranh vô cùng ấn tượng,
đồng thời đã trở thành niềm cảm hứng nghệ thuật độc đáo phương Đông…". [8, tr
w
6, 7]
Họa sỹ sơn mài Nguyễn Quốc Huy đề nghị:
w
"Trong bối cảnh xã hội ngày nay, với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa thì
những giá trị tinh thần mang tính đặc sản địa phương, vùng miền luôn được đề cao
.
và coi trọng. Đất nước càng phát triển, xã hội càng đi lên thì những giá trị mang tính
k
truyền thống càng được đề cao và càng cần phải gìn giữ và phát triển. Tranh sơn
h
mài truyền thống cũng có thể coi là một món ăn tinh thần đặc sắc của Việt Nam. Và
chúng ta có quyền tự hào với những gì mà các lớp họa sĩ đi trước đã tìm tòi và biến
c
sơn mài - chất liệu chỉ sử dụng trong mỹ nghệ và đồ thờ cúng thành một chất liệu
quý, sang trọng, lộng lẫy, rựa rỡ và sâu thẳm, độc nhất vô nhị của nền Mỹ thuật Việt
n
Nam. Trong thời kỳ đổi mới này họa sĩ đã có điều kiện để làm việc tốt hơn trước rất
nhiều. Chính vì vậy họ vẽ nhiều hơn và vật liệu quý như vàng bạc để đầu tư cho
m
tranh cũng nhiều hơn nên sự tìm tòi, thực hiện trong chất liệu và trong kỹ thuật đã
được đẩy lên và phát huy rất mạnh… Và một lần nữa tôi lại xin đề cử cho sơn mài
truyền thống Việt Nam là Di sản Văn hóa Thế giới. Rất mong là đề cử của tôi nhận
t -
thêm nhiều sự hưởng ứng của giới cũng như các nhà quản lý để một Nghệ thuật sơn
b Cách đây hơn 60 năm, khi mà nghệ thuật tranh sơn mài Việt Nam bắt đầu có
mài Việt Nam được gìn giữ và phát huy rực rỡ". [25, tr. 22-23]
v
những bước đi ban đầu đầy hứa hẹn, danh họa Tô Ngọc Vân đã tiên đoán:
h
"… nhưng chưa một nước nào nghĩ đến tìm tòi, sử dụng nguyên liệu sơn một
cách khác cổ truyền, phiêu lưu trong nghệ thuật sơn để tìm một con đường nào tăng
phẩm gia mỹ thuật sơn bằng cách phát minh thêm khả năng của nó… Song từ 1931
t t
trở đi, nhờ sự tìm tòi thiết tha của một số họa sĩ có tài bỏ SƠN DẦU để chuyên hẳn
d
về SƠN TA, SƠN TA vượt được ra ngoài nơi cầm hãm, ngang nhiên trên đường
bao la của hội họa, cứ phương trời xa lạ mà tiến. Từ cái tráp, chiếc guốc, nó vượt
l .
lên bức hội họa lồng khung quý giá, từ một phương tiện phụ thuộc làm tôn vẻ đồ
vật, nó trở nên một phương tiện độc lập diễn đạt nổi tâm hồn người nghệ sĩ, một v phương tiện phong phú lấn át cả SƠN DẦU - Quên dĩ vãng, SƠN TA đổi tên nhũn
n
nhặn là SƠN MÀI. Thấy SƠN MÀI vừa xuất hiện, hầu hết giới nghệ sĩ Việt hoan
180
w
nghênh. Họ thấy ở SƠN MÀI một kỹ thuật mới, sáng tạo do tay người mình thích
hợp với thủy thổ nước mình, thuận tiện để diễn đạt những nhu cầu nghệ thuật của
w
mình. Người ngoại quốc đến nước ta hoàn toàn hoan nghênh SƠN MÀI, coi nó là
một phát minh mới nhất trong hội họa, và nhiệt liệt khuyến khích".
w
… SƠN MÀI được điêu luyện trong tay người Việt Nam, sẽ trao như kỷ niệm
của những người đã chiến đấu cho tự do, hòa bình, trao sang tay các nhà nghệ sĩ
.
trong thế giới, góp một phần vào sự xây dựng một nền văn nghệ mới cho nhân loại".
k
[66, tr 10 - 12]
h
Xin nhắc lại câu nói của kiến trúc sư người Mỹ - Lisa Surprenant: "Việt Nam
có một di sản nghệ thuật vô cùng độc đáo, đó là sơn mài. Tôi đã từng thăm Nhật
c
Bản, Trung Quốc, Indonexia là những đất nước cũng có nghề sơn và cây sơn.
Nhưng phải nói rằng cây sơn Phú Thọ đã ban tặng cho các nghệ sĩ Việt Nam một
n
chất liệu có đặc tính hoàn toàn riêng biệt. Phú Thọ - một chấm nhỏ duy nhất trên
bản đồ thế giới. Thế mạnh đó lại được tâm hồn các nghệ sỹ Việt Nam nâng lên
m
thành một chất liệu hội họa độc đáo trên thế giới mà Nhật Bản và Trung Quốc chưa
làm được, các bạn hoàn toàn có quyền tự hào, nên tôn vinh tranh sơn mài là Quốc
họa của Việt Nam và đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa Thế giới …".
t -
Vậy chúng ta còn chờ gì nữa!
b Tranh sơn mài Việt Nam do Người Việt Nam sáng tạo trên cơ sở nghệ thuật
v.v. và v.v.
v
truyền thống dân tộc, kết hợp lý thuyết tạo hình phương Đông - phương Tây trở nên
h
một giá trị nghệ thuật đặc trưng của Việt Nam, tạo cho Mỹ thuật Việt Nam một sắc
thái mới, bản sắc và tiên tiến hiện đại. Tranh sơn mài Việt Nam xứng đáng là "Quốc
họa Việt Nam".
t t
Chúng tôi tha thiết đề nghị Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam kiến nghị Bộ
d
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị UNESCO công nhận Tranh sơn mài Việt
Nam là Di sản Văn hóa Thế giới (Hiện nay Tranh dân gian Đông Hồ đã được lập
l .
Hồ sơ đề nghị).
3.7. Các giải pháp, đề xuất, kiến nghị để khôi phục, chấn hưng, phát triển nghề v sơn ta cổ truyền, mỹ nghệ sơn mài đích thực, tranh sơn mài truyền thống Việt
n
Nam
181
w
Nghiên cứu thực trạng và phát triển của tranh sơn mài - Quốc họa Việt Nam
chúng ta thấy tự hào về sáng tạo của các bậc tiền bối và thấy trách nhiệm của thế hệ
w
sau cần phải bảo tồn, phát huy di sản văn hóa không để mai một. Chúng ta cần chú
trọng các vấn đề sau:
w
3.7.1. Bảo tồn và phát huy chất liệu truyền thống
Qua thử thách của thời gian, những công trình được thể hiện, được thi công
.
bằng chất liệu, kỹ thuật sơn ta truyền thống, sơn mài đích thực thì quả tình chất liệu
k
này đã chứng tỏ giá trị lâu bền mà khó có chất liệu nào sánh nổi. Chất sơn ta, chất
h
sơn Phú Thọ vừa tạo ra bản sắc nghệ thuật tuyệt vời lại vừa bảo vệ lớp cốt, vóc bên
trong được lâu bền. Rất nhiều tác phẩm sơn ta như tranh thờ, ngai, kiệu, cửa võng,
c
hoành phi, câu đối, tượng thờ. Và các đồ mỹ nghệ khác đã tồn tại nhiều thế kỷ nay,
bất chấp điều kiện khí hậu và thời tiết khá khắc nghiệt tại xứ sở nhiệt đới này. Do
n chúng ta một loại nhựa sơn tốt vào bậc nhất thế giới.
điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu nên giống cây sơn ở vùng trung du Phú Thọ đã cho
m
Những năm gần đây, các cơ sở đổ xô đi dùng sơn Polisai, sơn điều, sơn Nam
Vang, dầu bóng toa … nên diện tích trồng cây sơn lại bị thu hẹp lại, chuyển đổi cây
trồng. Khi nghề sơn truyền thống, sơn mài mỹ nghệ được chấn hưng, phát triển thì
t -
lượng sơn Phú Thọ phải sử dụng sẽ tăng lên gấp nhiều lần. Kế sách này cũng phải
b
lo toan cho sớm bởi trồng cây sơn không thể "Một sớm một chiều" mà có thể thu
hoạch được nhựa sơn.
v
Bên cạnh việc lo đến thứ nguyên liệu chính và quan trọng nhất là nhựa sơn,
h
cũng cần có những nghiên cứu khoa học để phát hiện ra những nguyên vật liệu mới
dùng cho sơn mài truyền thống.
Nhà nước cần có vùng quy hoạch cho việc trồng cây sơn. Đặc biệt là cây sơn
t t
Phú Thọ, cây sơn Phú Thọ từ lâu đã là loại sơn rất tốt và đã cung cấp nguyên liệu
d
sơn cho các làng nghề có nghề sơn mài truyền thống.
Có chính sách thỏa đáng với nghề trồng cây sơn, người trồng sơn có thể sống
l .
được bằng nghề của mình. Có như vậy thì nghề trồng cây sơn mới phát triển trở lại
như trước đây. Hiện nay các nghệ nhân, họa sĩ muốn mua một lạng sơn tốt để vẽ rất v là khó, có mua được cũng rất đắt. Thực chất mà nói một khi làng nghề đã bị thu hẹp,
n
sơn sản xuất ra cũng không có nơi tiêu thụ. Do vậy mà diện tích trồng sơn ở Phú
182
w
Thọ đã bị thu hẹp dần giống sơn tốt, thay vào đó là giống sơn trắng có năng suất cao
cho mủ nhiều, loại sơn này thường xuất sang thị trường Trung quốc. Một điều trớ
w
trêu thay là sau khi doanh nghiệp Trung quốc mua về họ chế biến thành sơn chín
xong quay trở lại Việt Nam bán cho chính quốc gia trồng ra cây sơn đó. Họa sĩ và
w
những người làm nghề sơn phải mua về dùng, chẳng còn cách nào khác họa sĩ, nghệ
nhân chúng ta vẫn phải dùng một thứ sơn kém hơn nhiều loại sơn tía đã có và trồng
.
nhiều trước đây. Cũng vì lợi ích kinh tế trước mắt mà người trồng sơn đã bỏ đi
h
giống sơn quý giá đó. k Để lấy lại thương hiệu sơn mài truyền thống Việt nam, gìn giữ và bảo tồn nghề
vẽ sơn mài không những chỉ dựa vào Nhà nước, mà phải xã hội hóa, phải những
c
doanh nghiệp biết khai thác nghề trồng sơn quý giá này. Có như vậy thì may ra mới
phục hồi nghề trồng cây sơn, để phát triển nó phải có chính sách phù hợp. Kết hợp
n
giữa trồng rừng với khai thác nguyên liệu, thúc đẩy xóa đói giảm nghèo, đảm bảo
an sinh xã hội. cùng đưa các làng nghề phát triển, trong đó có nghề vẽ sơn mài.
m
Không phải gần đây người Trung Quốc mới "dòm ngó" tới kỹ thuật, chất liệu
của sơn mài Việt Nam mà từ những thập kỷ 50, 60 của thế kỷ XX họ đã cử chuyên
gia sang tìm hiểu, học tập về sơn mài của Việt Nam. Những năm gần đây kỹ thuật
t -
sơn mài, hội họa sơn mài ở khắp các địa phương của Trung Quốc phát triển rất rầm
b
rộ và hiệu quả cao. Người Nhật Bản cũng rất chú ý đến sơn mài Việt Nam, điển
hình là việc nữ họa sĩ Nhật Bản Saeko - Ando rất say mê và "quên mình" với chất
v
liệu sơn mài Việt Nam. Gallery "Cây sơn" trên đường Nghi Tàm (Hà Nội) đã thu
h
hút rất nhiều học viên nước ngoài đến học tập, nghiên cứu về sơn mài đích thực.
Saeko tâm sự: "… Tôi đã đi nhiều nước nhưng không có duyên, như gia đình tôi nói:
Chắc kiếp trước Saeko là người Việt Nam … Đa số họa sĩ Việt Nam vẽ sơn mài vì
t t
dễ bán hay vì đây là đặc sản của Việt Nam nhưng không nhiều người hiễu kỹ về sơn
d
mài. Người giỏi, có kinh nghiệm về sơn mài thì lại thường không biết ngoại ngữ.
Một vấn đề nữa, Việt Nam đến bây giờ vẫn chưa có điều kiện nghiên cứu khoa học
l .
sâu về sơn mài, chẳng hạn như về chất sơn …".
Một số người Nhật sang Việt Nam là đến thẳng Gallery "Cây sơn" để học, để v vẽ. Một tổ chức phi chính phủ của Nhật đang hợp tác với Saeko trong việc nâng cấp
n
kỹ thuật sơn mài Việt Nam để xuất hàng sang Nhật. Riêng Saeko sẽ tổ chức triển
183
w
lãm cá nhân tại Nhật. Có ai đó đã thốt lên rằng: Một lúc nào đó chính người Việt sẽ
phải học người Nhật về kỹ thuật sơn mài Việt Nam! ?
w
Không còn nghi ngờ gì nữa, nếu chúng ta "đang tâm" để cho một ngành nghề,
một chất liệu vô cùng quý giá này mai một đi sẽ là một tội lớn đối với Tổ tiên dân
w
tộc. Liệu chừng mai sau các con cháu của chúng ta sẽ nghĩ thế nào khi lại phải cày
cục đi học nghề này ở các nước khác! Khi có trong tay một vật gì đó, dù là bảo vật
.
thì người ta hay xem thường nhưng đến khi bỗng nhiên bảo vật ấy mất đi thì mới
k
thấy "đứt ruột, đứt gan" ra mà nuối tiếc.
h
3.7.2. Công tác đào tạo dạy nghề
Có hai hình thức đào tạo, dậy nghề:
c
a. Đào tạo truyền nghề: Những làng nghề truyền thống thì có người thợ cả
đứng đầu, người này vừa có trình độ tổ chức sản xuất, thi công lại vừa có kỹ
n
năng nghề nghiệp giỏi nhất. Những thành viên trong các phường nghề đều theo
phương thức vừa làm, vừa học. Phương pháp truyền nghề "miệng nói tay làm"
m
này cũng mang lại nhiều thành tựu đáng quý.
b. Đào tạo ở nhà trường:
Từ ngày có Trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương thì việc học nghề sơn ta,
t -
sơn mài mới đi vào bài bản chính quy. Từ ngày hòa bình lập lại 1954 việc đào tạo
b
chuyên khoa sơn mài được Trường Mỹ thuật Việt Nam (Nay là Đại học Mỹ thuật
Việt Nam) và Trường Mỹ nghệ (nay là Trường Đại học Mỹ Thuật Công Nghiệp Hà
v
Nội) đào tạo chuyên khoa sơn mài một cách bài bản, kỹ lưỡng. Nhiều họa sĩ thông
h
thạo về kỹ thuật sơn mài và các nghệ nhân giỏi về nghề sơn được mời về để trực
tiếp giảng dạy, hướng dẫn chuyên khoa.
Về sau công tác đào tạo chuyên khoa sơn mài có phần xem nhẹ. Các học viên,
t t
sinh viên vừa học, vừa mày mò, tìm tòi, khám phá. Xem ra mấy trường còn giữ
d
được truyền thống đào tạo bài bản, kỹ lưỡng.
Hiện nay có trường mỹ thuật đào tạo ngành này không được bài bản, sinh viên
l .
học chay là nhiều, thực hành ít, do vậy rất hạn chế về tay nghề. Do thiếu về người
hướng dẫn có chuyên môn sâu, kinh nghiệm và tâm huyết với nghề. Đào tạo nghề v sơn mài, hay nghề vẽ tranh sơn mài cũng như để bảo tồn lâu dài, sơn mài Việt Nam
n
không chỉ riêng các cơ sở đào tạo làm được mà phải có sự hỗ trợ của các cơ quan
184
w
chuyên ngành, cũng như các trường đào tạo mỹ thuật hoặc các họa sĩ tâm huyết với
nghề vẽ tranh sơn mài truyền thống.
w
Các trường Mỹ thuật có đào tạo về sơn mài truyền thống phải xây dựng đội
ngũ giảng viên giỏi, liên kết với các nghệ nhân tại các làng nghề truyền thống để
w
chung sức đào tạo ra những người thầy vững về chuyên môn, hiểu sâu về kỹ thuật
sơn mài để chấn hứng về nghề sơn mài đang có nguy cơ bị thất truyền. Một khi
.
nghề sơn ta cổ truyền, sơn mài mỹ nghệ nghề vẽ tranh sơn mài được quan tâm,
k
được đầu tư, được chấn hưng thì cần rất nhiều nghệ sĩ, nghệ nhân, thợ giỏi. Kế sách
h
này phải sớm lo toan bởi không thể ngày một ngày hai mà có được một lực lượng
hành nghề to lớn như thế. Song song với việc đào tạo và dạy nghề là phải có kế
c
sách, khuyến khích sáng tạo ra những mẫu mã mới.
3.7.3. Chế độ chính sách đối với nghệ nhân, thợ giỏi
n
Trong nghề sơn mài, nghệ nhân, thợ làm sơn, cốt, vóc rất quan trọng. Hiện nay
nghề này đã có dấu hiệu bị mai một, một phần vì các nghệ nhân làng nghề đã già và
m
qua đời gần hết, số người được gia đình truyền lại không nhiều, đa phần chuyển đổi
sang nghề khác có thu nhập tốt sơn. Số ít còn lại muốn giữ lại nghề truyền thống gia
đình thì cũng trong tình trạng lay lắt, do tình trạng giá cả vật liệu ngày một tăng cao
t -
cao không đủ chi phí sản xuất. Tóm lại với những lý do trên dẫn đến nguy cơ có thể
b
xóa sổ nghề làm vóc sơn mài truyền thống mà bao đời các thế hệ nghệ nhân đã tạo
dựng nên.
v
Nghề sản xuất bạc quỳ, vàng quỳ, son và các phụ liệu khác, vật liệu dụng cụ
h
chủ yếu của nghề vẽ sơn mài (như dụng cụ mo, thép …) cũng ở tình trạng khó khăn
do nguyên liệu đắt đỏ, lương thợ thấp, nhu cầu cuộc sống tăng cao v.v. Do vậy để
duy trì sản xuất quy mô lớn như trước kia bị giảm dần. Vật liệu son cũng vậy, chỉ
t t
còn 1 nghệ nhân nay Cụ đã truyền nghề cho con nhưng son làm ra chất lượng chưa
d
đạt (Cụ lại không muốn bán công thức chế tác), một số người thử làm son nhưng
chưa như ý … (Một thông tin đáng mừng là ở Kiêu Kỵ - Gia Lâm - Hà Nội nơi có
l .
nghề truyền thống làm vàng quỳ, bạc quỳ đã có người đầu tư để vực dậy nghề -
v Ở nhiều nước, nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, nghệ nhân và thợ giỏi rất được
Thông tin này đã được Đài phát thanh truyền thông).
n
ưu ái, đề cao và bảo trợ. Đối với những nghệ nhân tiêu biểu cho các ngành nghề
185
w
truyền thống độc đáo và đặc sắc thì được Nhà nước trả lương rất cao. Số tiền tài trợ
này có thể mở những xưởng nghiên cứu, sáng tác và thử nghiệm để phát triển, nâng
w
cao chất lượng của ngành nghề, có thể mở các lớn dạy nghề cho những học viên có
tâm huyết với nghề tổ với tấm lòng "tôn sư trọng đạo". Những nghệ nhân tiêu biểu
w
luôn được tổn vinh là "Tài sản văn hóa sống của quốc gia, của dân tộc" và họ cũng
xứng đáng như vậy.
.
Ở Việt Nam xưa kia, những nghệ nhân tài giỏi cũng được trọng vọng, được
k
phong tước "cửu phẩm" miễn trừ phu phen tạp dịch. Ngay thời Pháp thuộc, nghệ
h
nhân nổi tiếng Đinh Văn Thành rất điêu luyện, tinh thông trong nghề sơn ta truyền
thống, đã được mời về dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nghệ nhân
c
Đinh Văn Thành đã được cử sang Paris (Pháp) dự triển lãm, mang theo dụng cụ, đồ
nghề để "biểu diễn", thao tác những kỹ xảo của nghề sơn ta và sơn mài của Việt
n
Nam. Từ ngày hòa bình lập lại (sau 1954) nghệ nhân Đinh Văn Thành lại được mời
về dạy nghề tại trường Mỹ Nghệ (nay là Trường Đại học mỹ thuật Công nghiệp).
m
Nói về nghệ nhân Đinh Văn Thành, họa sĩ Lê Quốc Lộc đã nhận xét và đánh giá:
"… Bác Đinh Văn Thành vốn là người ưa tìm tòi, cải tiến. Suốt cả cuộc đời, bác
luôn chú ý nâng cao tay nghề, cách chế biến sơn làm sao cho thật tốt. Bác hay nói
t -
tới lương tâm nhà nghề, bác cho rằng có lương tâm lại yêu nghề thì công nghệ sẽ
b
tiến. Còn kẻ bất lương, thích làm giả dối để kiếm tiền là mạt nghệ … Bác Đinh Văn
Thành thật xứng đáng với danh hiệu Người Nghệ nhân chân chính. Qua các thứ mỹ
v
nghệ mà bác cho xem, mỗi thứ đều xứng đáng được gọi là tác phẩm. Nó vượt lên
h
trên thứ hàng gọi là thủ công bình thường. Nhìn từng sản phẩm do bác tạo ra, thấy
được công phu lao động rất kỳ công, kỹ từ trong cốt cách, từ nước sơn đến tạo hình,
tạo dáng và trang trí., đó là tiêu chuẩn để mỹ nghệ sơn mài của nội địa hay xuất
t t
khẩu phải noi theo. Làm sao cho đồ thủ công mỹ nghệ sơn mài cũng được tín
d
nghiệm như trong lĩnh vực sơn mài của nghệ thuật tạo hình … Nghệ nhân Đinh Văn
Thành luôn suy nghĩ về nghề, luôn sáng tạo và đã được kết nạp vào Hội Mỹ thuật
l .
Việt Nam từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước …".
Thời bao cấp, những cơ quan chức năng cũng rất quan tâm, giúp đỡ, tôn vinh v các nghệ nhân. Liên hiệp Xã trung ương, Cục Mỹ thuật Bộ Văn hóa, Hội Mỹ thuật
n
Việt Nam cũng thường xuyên động viên, tạo điều kiện cho các nghệ nhân dồn tâm
186
w
huyết cho nghề nghiệp. Nhiều nghệ nhân đã được cử đi nước ngoài để tham gia
những hội chợ triển lãm để có điều kiện giao lưu, học hỏi kỹ năng và nghệ thuật của
w
các nước khác. Nhiều nghệ nhân đã được tuyển chọn và tôn vinh "Nghệ nhân Bàn
tay Vàng".
w
Hiện nay, trong có chế thị trường, đội ngũ nghệ nhân nghề sơn truyền thống,
sơn mài đích thực ngày một thưa vắng, họ không được trọng dụng như trước. Điều
.
kiện để làm nghề chân chính bị ảnh hưởng vì thu nhập không đủ nuôi nổi bản thân
k
nên hầu hết đã chuyển sang nghề khác, có thu nhập ổn định hơn. Chất liệu sơn ta
h
truyền thống, sơn mài truyền thống không được đề cao. Chẳng có cơ quan chức
năng nào chăm lo cho những "Tài sản văn hóa sống" này cả. Tìm đâu ra những nghệ
c
nhân tâm huyết với nghề Tổ, có sự chuyên sâu, từng trải, có tài năng, kỹ năng điêu
luyện như bác Thành, bác Số, bác Đoan ngày xưa. Cứ cái đà này, với sự xâm nhập
n
của nguyên vật liệu ngoại lai thì dần dần nguy cơ thất truyền "Nghề Tổ" là điều có
thể xảy ra.
m
Con người là vốn quý nhất, các nghệ nhân, thợ giỏi là quan trọng bậc nhất của
nghề truyền thống. Nếu không có chế độ, chính sách, sự bảo trợ xứng đáng và chiến
lược cụ thể đối với các nghệ nhân, thợ giỏi thì vài thập kỷ nữa nếu có kịp nhận ra
t -
thì cũng đã quá muộn, nếu cố vớt vát thì cũng chẳng còn được bao nhiêu.
Những nghệ nhân giỏi, tài ba thường thường đã ở tuổi "Xưa nay hiếm". Họ b không thể "đợi" đến vài ba chục năm nữa đâu!
v
3.7.4. Nghiên cứu khoa học và công nghệ
h
Vấn đề này đã có nhiều người đề xuất từ hơn nửa thế kỷ nay rồi nhưng
không có cơ quan nào chịu trách nhiệm chính nên việc nghiên cứu cứ bị "thả nổi",
"việc ai người ấy làm" có người còn nói quá lên là "cha chung không ai khóc".
t t
Mục tiêu của công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ là phải giải quyết, khai
d
thông được những trở ngại của chất liệu mà chủ yếu là chất sơn ta. Nhưng mặt
khác lại phải giữ nguyên được những tính chất ưu việt, đặc sắc của chất liệu cổ
l .
truyền. Tại sao nhiều người, nhiều nơi đang chuyển dần sang dùng nguyên vật liệu
ngoại nhập?. Đơn giải vì nó rẻ hơn, dễ điều khiển, sử dụng hơn. Nhưng so với chất v liệu cổ truyền thì làm sao chất lượng có thể so được. Tại sao lại lơ là với một chất
n
liệu rất quý này!
187
w
Các cơ quan chức năng nếu để tâm chắc chắn là sẽ rất tốt bởi trình độ của các
nhà khoa học Việt Nam thừa sức có thể làm được việc này. Mặt khác để quan tâm,
w
việc này kinh phí đầu tư không phải quá lơn, thấm tháp gì so với nhiều "lễ hội"
mang tính bề nổi đã được tổ chức.
w
Những năm qua, nhiều cơ sở sản xuất cũng áp dụng một số công nghệ mới vào
nghề cổ truyền nhưng chưa thành công. Nhiều nơi dùng máy để đánh sơn, ngả sơn
.
nhưng tiếc thay chất lượng sơn then, sơn cánh gián làm bằng máy (tuy thời gian
k
được rút ngắn hơn một nửa) không thể tốt được bằng lối làm thủ công. Có nhiều nơi
h
dùng máy phun sơn, rất nhanh mà lại đều, mịn. Nhưng máy phun son chỉ có thể
dùng cho sơn Nhật, dầu bóng thôi chứ sơn ta thì không phun được.
c
Việt Nam cần nghiên cứu để khắc phục được tình trạng người sử dụng chất
sơn ta hay bị sơn ăn (lở sơn), khắc phục được tình trạng sơn khó khô (phải cho
n
vào buồng ủ mới khô), khắc phục được tình trạng khi pha sơn với màu thì hầu hết
các loại màu đều bị "chết", bị biến sắc, xỉn đi… Bên cạnh đó còn có những khâu
m
chế biến, gia công những vật liệu khác dùng cho nghề sơn như chế biến các loại
son, các loại vàng quỳ, bạc quỳ … Cũng cần áp dụng công nghệ tiên tiến thì mới
hạ giá thành được.
t -
Mục tiêu cuối cùng của công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ là tạo điều
b
kiện thuận lợi nhất cho người sử dụng chất liệu nhưng lại phải giữ được những đặc
tính ưu việt, độc đáo và huyền bí của chất liệu sơn mài Việt Nam, đồng thời phải
v
nhằm được mục tiêu hạ giá thành cho các nguyên vật liệu.
h
3.7.5. Vai trò của Quản lý Nhà nước
Yếu tố này mang tính chất quyết định. Chỉ có Nhà nước với các bộ, ban,
ngành chức năng mới đủ tiềm lực và quyền hạn khai thông những bế tắc, lệch lạch
t t
hiện nay. Nếu không có sự chỉ đạo, tổ chức, đầu tư chiều sâu, bảo trợ, nghiên cứu,
d
sáng tác và tiêu thụ tác phẩm, sản phẩm thì tình trạng "thả nổi" vẫn sẽ tồn tại và
phát triển.
l .
Giai đoạn "hoàng kim" của nghề sơn ta truyền thống, thủ công mỹ nghệ sơn
mài đích thực lại được nở rộ trong thời bao cấp. Tất nhiên chúng ta không thể quay v lại các mô hình, phương thức của thời bao cấp; trong cơ chế thị trường, trong xu thế
n
giao lưu, hội nhập quốc tế chúng ta muốn bảo tồn và phát triển ngành nghề truyền
188
w
thống độc đáo và đặc sắc này thì cần có chiến lược lâu dài. Nhà nước phải trở thành
một "bà đỡ" hào phóng và thiết thực. Chỉ có Nhà nước với các bộ, ban, ngành chức
w
năng mới làm nổi những việc về chỉ đạo tổ chức một hệ thống đồng bộ về đào tạo,
sản xuất và đầu ra cho nghề làm tranh sơn mài, thủ công mỹ nghệ sơn mài truyền
w
thống. Chỉ có Nhà nước mới tổ chức nổi những cuộc thi, triển lãm để động viên lực
lượng, mới có được những chế độ chính sách đối với nghệ sĩ, nghệ nhân, thợ giỏi.
.
Chỉ có Nhà nước mới có thể thành lập được một số tổ chức (như Tổng công ty
k
chẳng hạn) để có một bộ máy hoàn chỉnh chăm lo các lĩnh vực: đào tạo, nghiên cứu
h
khoa học, sáng tác và thể nghiệm mẫu mã mới, kỹ thuật mới, giới thiệu sản phẩm,
ký kết các hợp đồng tiêu thụ tác phẩm, sản phẩm với các nước trên thế giới. Trước
c
mắt có thể chịu thiệt, chịu lỗ nhưng về lâu về dài chúng ta sẽ được những cái lớn là
khôi phục, chấn hưng một ngành nghề mang bản sắc dân tộc Việt Nam, vô cùng độc
n
đáo, đồng thời khuyến khích, khôi phục những làng nghề và giải quyết công ăn việc
làm cho hàng triệu lao động vốn có những "bàn tay vàng" từ xa xưa.
m
Chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước, sự tự do phát triển ngành nghề
tạo điều kiện thuận lợi nhưng cần phải có chính sách phù hợp, có tính định hướng
tránh tình trạng "thả nổi", cạnh tranh không lành mạnh của thị trường (có vấn đề cần
t -
bao cấp vẫn phải được Nhà nước đầu tư).
b - Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, tổ chức các cuộc hội thảo các cấp.
3.7.6. Một số đề nghị khác
v
- Đưa các thông tin nghề nghiệp, giới thiệu tranh sơn mài, làng nghề sơn mài,
h
triển lãm sơn mài … truyền thông tin các phương tiện thông tin đại chúng để cho
người dân tiếp cận, hiểu biết, yêu thích nghệ thuật sơn mài - một giá trị đặc sắc của
mỹ thuật, văn hóa Việt Nam.
t t
- Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của làng nghề, xưởng sáng tác, Bảo
d
tàng … để phát triển văn hóa, du lịch gọi là những "Địa chỉ Văn hóa" (lấy làng sơn
mài Hạ Thái - Duyên Thái - Thường Tín - Hà Nội để bảo tồn).
- Nghiên cứu, tổng hợp, lưu giữ, phổ biến công nghệ và nguyên vật liệu truyền
l .
v
n
thống bên cạnh đó cần nghiên cứu đánh giá những cải tiến, nguyên vật liệu mới.
189
w
- Khi tổ chức trưng bày tác phẩm có thể phân rõ các tác phẩm thể hiện theo
truyền thống và các tác phẩm tìm tòi mới (cần có phân tích, đánh giá), các giải
w
thưởng cũng phân chia như vậy để người xem có khái niệm.
- Tập hợp đội ngũ tác giả chuyên sâu về sơn mài (nghệ nhân, họa sĩ) để thành
w
lập "Hiệp hội Tranh sơn mài Việt Nam".
- Nhà nước đầu tư mua tác phẩm tranh sơn mài cho Bảo tàng Mỹ thuật, cho
.
các công sở của trung ương và địa phương.
k
- Thành lập Bảo tàng Văn hóa sơn và tranh sơn mài Việt Nam tại tỉnh Phú Thọ
hoặc ở Bảo tàng Hà Nội (mới xây).
h
- Giúp Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam lập lại Xưởng sơn ta (đã có từ
c
Trường CĐMTĐD) và chế tác son (một chất liệu cơ bản để vẽ tranh sơn mài).
- Đưa kiến thức về sơn mài, tác giả tác phẩm sơn mài nổi tiếng vào chương
n
trình phổ thông (dưới dạng bài đọc, bài văn hoặc câu chuyện mỹ thuật trong chương
trình mỹ thuật).
m
Một lần nữa chúng tôi tha thiết đề nghị Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
kiến nghị Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch đề nghị UNESCO công nhận Tranh sơn
t -
b
v
h
t t
d
l .
v
n
mài Việt Nam là "Di sản văn hóa Thế giới".
190
w
KẾT LUẬN
w
Tranh sơn mài Việt Nam có lịch sử gần một thế kỷ. Với vẻ đẹp riệng biệt ẩn
chứa tài năng, tâm hồn, sáng tạo của người Việt Nam đã tạo nên giá trị đặc sắc của
w
Văn hóa góp phần đưa mỹ thuật Việt Nam có vị trí trong mỹ thuật khu vực và thế giới.
Nghiên cứu Tranh sơn mài Việt Nam thực trạng và phát triển cho chúng ta
.
thấy được lịch sử văn hóa sơn Việt Nam trong sự tương đồng và khác biệt với các
k
nước láng giềng, cùng Châu lục để thấy được sự ảnh hưởng lẫn nhau, thấy được
tinh hoa văn hóa trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác để tạo nên bản sắc văn
h
hóa. Trong quá trình vận động và phát triển đã có những phát kiến, những sáng tạo
c
làm nên những điểm son chói sáng, một trong những điểm sáng đó là Tranh sơn mài
Việt Nam.
n
Trên bình diện của vấn đề nghiên cứu đó là: Những vấn đề khái quát, thực
trạng, xu hướng thẩm mỹ và sự phát triển của tranh sơn mài Việt Nam trong bối
m
cảnh văn hóa giao lưu, hội nhập. Đề tài đã triển khai đề cập đến một số khía cạnh để
tạo nên cái nhìn tổng thể về tranh sơn mài Việt Nam:
- Tìm hiểu sự ra đời của nghệ thuật độc đáo này với vai trò lịch sử của Trường
t -
CĐMTĐD.
- Qua diễn trình lịch sử chúng ta thấy tranh sơn mài mỹ nghệ, tranh sơn mài
b
tạo hình - 2 dòng chảy từ một nguồn của mỹ thuật dân tộc đã có những chuyển biến,
v
thăng trầm để tạo nên lịch sử bởi những chuỗi tác giả, tác phẩm (và những sản
phẩm liên quan đến sơn mài).
h
- Việc người dân tiếp cận, hiểu biết, yêu thích tranh sơn mài của chính người
mình sáng tác đến đâu. Thông tin trong và ngoài nước đánh giá tranh sơn mài Việt
Nam cho ta thấy giá trị độc đáo của loại tranh sử dụng chất liệu dân tộc này.
t t
- Qua việc khảo sát về cách thể hiện, phương pháp sáng tác, xu hướng thẩm
d
mỹ chúng ta thấy được sự phát triển, thấy được những chuyển biến trong lịch sử
tranh sơn mài nói riêng, trong mỹ thuật nói chung, thấy rằng tranh sơn mài đã góp
l .
phần tạo vị trí cho mỹ thuật Việt Nam, góp phần bảo tồn bản sắc trong bối cảnh văn
v - Để trao truyền nghệ thuật được tôn danh là "Quốc họa Việt Nam" cho các thế
hóa giao lưu hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa.
n
hệ kế tiếp, để "ngọn lửa" sáng tạo được tiếp sức mãi mãi thì vấn đề đào tạo vô cùng
191
w
quan trọng đó là đội ngũ thày và trò của họa sĩ, nghệ nhân, sinh viên, thợ, nguyên
liệu để làm nghề … là những mối quan hệ cho nghề phát triển.
w
Kỹ thuật và nghệ thuật của sơn mài truyền thống còn ẩn giấu những tiềm năng
kỳ diệu và vô hạn. Chúng ta đâu phải đã đi đến tận cùng của sự khám phá, sáng tạo.
w
Sứ mệnh tiếp thu và phát triển "kho báu" này đang đặt lên vai những thế hệ hôm
nay. Những thành tựu rực rỡ, những tác phẩm tiêu biểu của nghệ thuật sơn mài đã
.
chứng tỏ và khẳng định khả năng diễn tả tuyệt vời đối với mọi đề tài, mọi phong
k
cách nghệ thuật. Cái óng ả, sâu trầm mà lộng lẫy cùng với sự bền chắc bất chấp mọi
điều kiện thời tiết, khí hậu, môi trường và thời gian … hỏi ai mà không ngưỡng mộ!
h
Làng nghề sơn truyền thống nơi giữ gìn những nét văn hóa, những di sản văn hóa về
c
con người về nghề nghiệp thật đáng trân trọng. Bảo tồn, tôn vinh làng nghề sơn mài
truyền thống cũng góp phần phát triển văn hóa kinh tế, du lịch.
n
Để khôi phục, chấn hưng, phát triển nghề sơn ta cổ truyền, mỹ nghệ sơn mài,
tranh sơn mài thì các vấn đề như nguồn nguyên liệu, chất liệu / Công tác đào tạo
m
dạy nghề / Chế độ chính sách đối với nghệ nhân, thợ giỏi / Nghiên cứu Khoa học và
Công nghệ / Công tác Quản lý Nhà nước … rất liên quan để giúp việc bảo tồn và
phát triển Tranh sơn mài Việt Nam.
t -
Những thành quả, kỹ năng, sáng tạo tuyệt vời về chất liệu và nghệ thuật sơn
b
mài là do biết bao tâm huyết, tài năng của những người đi trước đã dày công khai
phá, tìm tòi, đúc kết … mà có. Ví thử một ngày nào đó, do sự thờ ơ, vô trách nhiệm
v
của chúng ta mà thành quả này, vốn quý này lại được "trao sáng tay" những quốc
gia khác mà họ thực sự biết đầu tư thích đáng, khai thác triệt để, biến thành thế
h
mạnh và lợi ích lớn lao của họ? Lúc đó, chắc chắn rằng, những chủ nhân của di sản
cực kỳ quý báu này sẽ phải vô cùng, nuối tiếc!.
t t
Tin tưởng bản lĩnh của "Văn hóa Việt" những người Việt Nam chúng ta có
d
những quyết sách bảo vệ Di sản văn hóa của mình.
Chúng tôi hy vọng những công sức của cá nhân và tập thể thực hiện Đề tài
"Tranh sơn mài Việt Nam - Thực trạng và Phát triển" sẽ là một hành động để bảo
l .
v Tranh sơn mài Việt Nam, Di sản văn hóa Việt Nam; hy vọng gần đây sẽ được
tồn, tôn vinh Tranh sơn mài - nghệ thuật sáng tạo của Người Việt Nam.
n
tôn vinh là Di sản Văn hóa Thế giới.
192
w
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
w
1. Đặng Mai Anh (2011), Nghệ thuật sơn mài với cuộc sống hiện đại, T/CMT, số
w
219, tr.19-21.
2. Đặng Mai Anh (2011), Vật liệu Compozit với nghệ thuật sơn mài, T/C NCMT
số 1 (37).
.
k thuật Việt Nam.
3. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam 30 năm, 1966 - 1996 (1996), Kỷ yếu Bảo tàng Mỹ
h
4. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam 45 năm, 1966 - 2011 (2011), Kỷ yếu Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam.
c
5. Văn Bảy (2009), Chưa có khoa tu sửa, phục chế nghệ thuật, báo Văn hóa Thể
n
thao số 70, tr.18.
6. Trần Văn Bính (2001), Văn hóa Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế …
T/CDSVH 3 (28), tr.23-24.
m
7. Trần Thị Biển (2002), Sơn mài truyền thống và sự phát triển, Kỷ yếu hội thảo
“Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam”, Trường ĐHMTHN, Hà Nội,
tr.115-120.
t -
8. Hạnh Chi (2011), "Quốc họa" Việt Nam tại Tân Cương, Trung Quốc -
b
Đ/S.MTNA số 4, tr.6-7.
v
9. Nguyễn Văn Chiến (2003), Xác định đặc trưng sáng tạo mỹ thuật ứng dụng để
phát triển, T/C NCMT số 1 (5), tr.3 - 11.
h
10. Nguyễn Văn Chiến (2003), Dạy và học với đào tạo mỹ thuật - T/CNCMT số 3
(7), tr.11-15.
11. Nguyễn Thị Chỉnh (2008), Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, Nxb ĐHSP, tr.170-172.
t t
d
12. Trần Khánh Chương (2008), Đôi nét về triển lãm tranh sơn quốc tế tại Phúc
Kiến - Trung Quốc - T/CMT số 184, tr.26-29.
13. Trần Khánh Chương (2012), Sách Mỹ thuật Hà Nội thế kỷ XX, Nxb MT
l .
14. Nguyễn Văn Chuyên (2009), Tranh sơn mài một không gian độc đáo,
v
T/CNCMT số 189, tr.18- 19.
n
15. Phạm Đức Cường (2005), Kỹ thuật sơn mài, Nxb VHTT.
193
w
16. Hoa Cương, Quang Việt (2002), Văn Bình một cá tính trong NT Sơn mài truyền
thống,T/CMT số 56 (41), tr.25 - 26.
w
17. Nguyễn Thanh Giang (2010), Thuật ngữ "Sơn mài Việt Nam" - những vấn đề
nghệ thuật, T/CMT số 211, tr.15 - 16.
w
18. Thái Hanh (2006), Hãy nâng tầm vị thế tranh sơn mài, T/CNCMT số 4 (18),
tr.3 - 5.
.
19. Bảo Hân (2008), Sơn ta từ nghệ thuật trang trí đến nghệ thuật tạo hình, T/CMT
h
số 183. k 20. Trang Thanh Hiền (2008), Sơn mài VN đi giữa truyền thống và hiện đại,
T/CNCMT số 4 (18), tr.6 - 10.
c
21. Viết Hiền (2009), "Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ" một kiệt tác của hội họa
Việt Nam - T/CTCDL - SK, số 226, tr.21.
n
22. Nguyễn Đức Hòa (2011), Lịch sử các TL MTTQ (17 kỳ từ 1945 đến 2010) Sách
MT 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Nxb MT. Hội MTVN - Nxb MT, tr.311-
m
328.
23. Hội họa sơn mài Việt Nam (2006), Nxb MT, Hà Nội.
24. Lê Huyên (2003), Nghề sơn cổ truyền Việt Nam, Nxb MT, Hà Nội.
t -
25. Nguyễn Quốc Huy (2006), Sơn mài - Di sản văn hóa thế giới tại sao không?,
b
T/CMT số 156 (96), tr.22-23.
26. Nguyễn Lan Hương (2001), Thực trạng và những vấn đề … phát triển nghề sơn
v
quang dầu ở Cát Đằng, T/CVHDG, số 1, tr. 47-54.
h
27. Nguyễn Lan Hương (2009), Nghề sơn quang Cát Đằng - Luận án tiến sĩ văn hóa
học, MS: 62317005, TV Viện NCVH.
28. Nguyễn Lan Hương (2007), Mấy suy nghĩ về phát triển các nghề thủ công mỹ
t t
nghệ truyền thống Việt Nam, T/C Đông Nam Á số 11, tr.66 - 72.
d
29. Nguyễn Thị Lan Hương (2008), Thực trạng và giải pháp của nghề sơn mài
truyền thống, T/CNCMT số 3 (27).
l .
30. Nguyễn Thị Lan Hương (2010), Sơn mài nghề thủ công truyền thống ở Nhật
v 31. Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Vài nét khái lược về sơn mài Trung Hoa,
Bản, T/CNCMT số (33), tr.41-46.
n
T/CNCMT số 3 (31), tr.55-58.
194
w
32. Lê Thanh Hương (2007), Đôi nét về nghệ thuật sơn mài Việt Nam, T/CMT, số
172, tr.12 - 14.
w
33. Lê Thanh Hương (2011), Một số biến đổi chất liệu các sản phẩm sơn mài mỹ
nghệ hiện nay, T/CMT, số 228, tr.11-13.
w
34. Laurent Colin (2006), Sơn mài hay lối mòn, T/CMT, số 154 (90), tr.15- 16.
35. Mai Đắc Linh (2006), Tranh sơn mài phù thủy ban đêm, T/CMT số 156 (91),
.
tr.27.
k tr.23-24.
h
36. Mai Đắc Linh (2011), Tranh sơn mài tồn tại hay không?, T/CMT 156 (91),
37. Mai Đắc Linh (2011), Huyền thoại sơn mài Nhật Bản, T/CMT 156 (91), tr.25-
c
27.
38. Phạm Long (2010), Chủ nghĩa Hậu hiện đại: Cuộc khủng hoảng văn hóa không
n
thể giải quyết, T/CMT số 211, tr.40-43.
39. Lời giới thiệu (1999), Nghệ thuật ASEAN bên thềm thế kỷ XXI, (Vựng tập triển
m
lãm mỹ thuật ASEAN 1999 Philip Morris).
40. Nguyễn Thanh Mai (2008), Triển lãm tranh sơn mài Việt Nam, T/CNCMT số 4
(18), tr.11-17.
t -
41. Vũ Tuyết Mai (2009), Nghệ thuật sơn Ryukyu, T/CNCMT số 2 (30), tr.65-70.
b
42. Đặng Thế Minh (1996), Bảo tàng mỹ thuật 30 năm hoạt động, T/CMT số 11,
tr.16-19.
v
43. Nguyễn Văn Minh (2009), Nghề sơn mài ở Bình Dương, T/CDSVH số 4 (29),
h
tr.57-60.
44. Nguyễn Văn Minh (2008), Nhận diện sơn mài truyền thống Việt Nam ra trong
bối cảnh văn hoá giao lưu hội nhập, T/CMT số 189, tr.12 - 17.
t t
45. Võ Nam (2008), Thăm chuyên khoa sơn mài Trường Đại học Mỹ thuật Phúc
d
Châu, T/CTTMT số 21-22.
46. Nguyễn Đức Năng (2000), Về thủ công mỹ nghệ truyền thống ở Việt Nam hiện nay,
l .
T/CVHNT, số 08 (194), tr.65 - 68.
n
47. Trần Thị Quỳnh Như (2011), Ấn tượng tranh sơn mài Việt Nam trong triển lãm v mỹ thuật toàn quốc 2010, T/C DĐVNVN số 193.
195
w
48. Trần Thị Quỳnh Như (2011), Đào tạo Nghệ sỹ mỹ thuật truyền thống cần thiết
và khó khăn, T/CMT, số …..
w
49. Nguyễn Xuân Nghị (2008), Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây - Luận án Tiến
sĩ Văn hóa học - Thư viện Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn, MS: 62317005.
w
50. Phoebe Scott (2011), Hiểu thêm về họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, T/CMT số 221,
tr.37-41.
.
51. Chu Anh Phương (2011), Vài nét về màu sơn trong nghệ thuật sơn mài truyền
h
thống, /TCMT 222, tr.39-41. k 52. Trần Huy Quang (2002), Sơn mài Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa của thiên
niên kỷ thứ 3, Kỷ yếu: "Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam, Trường
c
ĐHMTHN, Hà Nội. tr.125-131
53. Phạm Côn Sơn (2004), Làng nghề truyền thống Việt Nam, Nxb VHDT.
n
54. Phúc Sơn (2010), Sơn mài và bước đầu thay đổi cảm xúc, T/CMT số 206, tr.
34- 35.
m
55. Sơn ta và Nghề sơn truyền thống Việt Nam (2002), Trường Đại học Mỹ thuật
Việt Nam, Viện Mỹ thuật, NXBMT.
56. Trần Hậu Yên Thế (2011), Hoa sen trên bức cổ họa truyền thống và lịch sử,
t -
T/CMT số 222, tr.15-16.
b
57. Cao Trọng Thiềm (2011), Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX nhìn từ góc độ Bộ sưu
tập của BTMTVN, Kỷ yếu 45 năm BTMTVN, Hà Nội, tr.28-31.
v
58. Trần Thức (2010), Tô Ngọc Vân người mở hướng tương lai sơn mài, nhà sư
h
phạm, nhà lý luận nghệ thuật, T/CNCMT, số 4 (36), tr.74-77.
59. Thu Thủy (1999), Giao lưu mỹ thuật giữa các nước ASEAN qua Philip Morris,
T/CMT số 21, tr.34.
t t
60. Pham Cẩm Thượng (1996), Lời giới thiệu mỹ thuật Việt Nam tại cuộc thi Mỹ
d
thuật ASEAN 1996, Vựng tập Triển lãm Mỹ thuật ASEAN 1996 (Philip Morris).
61. Vũ Từ Trang (2001), Nghề cổ nước Việt, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
l .
tr.246.261.
62. Trần Trí (2007), Cuộc đối thoại của bảng màu sơn mài, T/CMT số 173, tr. 40- v 44.
n
63. Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông (2007), Nxb Giáo dục.
196
w
64. Từ điển họa sĩ Việt Nam (2008), Nxb MT.
65. Thái Bá Vân (1997), Đôi nét về mỹ thuật đương đại Việt Nam, Vựng tập cuộc
w
thi Mỹ thuật ASEAN 1997 (Tập đoàn Philip Morris tài trợ).
66. Tô Ngọc Vân (2006), Sơn mài, T/CMT số 156 (91), tr.10-12.
w
67. Đặng Thanh Vân (2002) Vài nét về lịch sử phát triển tranh sơn mài Việt Nam,
Kỷ yếu hội thảo "Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam" Trường ĐHMTHN,
.
Hà Nội, tr.105-108.
k Nam, T/CVHNT, số 08 (182), tr. 65 - 67.
h
68. Đăng Thanh Vân (1999), Đôi nét về tiến trình phát triển của tranh sơn mài Viêt
69. Đỗ Quốc Vị (2001), Báo động của nghệ thuật sau "Chủ nghĩa Hậu hiện đại"
Đ/SMTNA số 4, tr.46-48. c 70. Quang Việt (2009), Sự ra đời của tranh sơn mài, TCMT số 204, tr. 42-45.
n Pháp, T/CMT số 203, tr.41-43.
71. Quang Việt (2009), Nghề sơn và đồ sơn ta cổ truyền trong cách nhìn của người
m
72. Nguyễn Yêm (2002), Dạy nghệ thuật và kỹ thuật sơn mài truyền thống …, Kỷ
yếu hội thảo "Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam", Trường ĐHMTHN,
Hà Nội, tr.185-188.
t -
b
v
h
t t
d
l .
v
n
73. Nguyễn Hải Yến (2006), Tranh sơn mài Việt Nam, T/CMT số 156 (96), tr.20-21.