Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm 1990, tốc độ toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh
tế đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng gây ra sự lo ngại rộng rãi
trong nền kinh tế thế giới. Đây là những đặc điểm quan trọng nhất của
sự phát triển của xã hội loài người trong thế kỷ 20, một xu hướng không
thể đảo ngược vào thế kỷ 21. Những đặc điểm này dẫn tới những mối
quan hệ gần gũi hơn giữa tất cả các nước và khu vực cũng như sự phụ
thuộc lẫn nhau và cạnh tranh lớn hơn trên quy mô toàn cầu. Vì vậy, liệu
một nước có thể duy trì được tăng trưởng kinh tế liên tục và lành mạnh
hay không được quyết định bởi việc nước này có thể đối phó lại với xu
hướng phát triển kinh tế thế giới đúng lúc và điều chỉnh hướng phát triển
của mình.
Trong bối cảnh sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng sâu sắc ở
tầm khu vực và toàn cầu và việc các nước ASEAN đã gần thực hiện
xong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), câu hỏi đặt ra là liệu
ASEAN sẽ đi theo định hướng hội nhập khu vực nào sau AFTA. Trong
khi đó, mối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc ngày càng
phát triển, việc Trung Quốc gia nhập WTO, những gần gũi về địa lý và
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 1 -
văn hoá giữa ASEAN và Trung Quốc, thì sự lựa chọn thiết lập một Khu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc – ACFTA (ASEAN –
China Free Trade Area) có thể là một câu trả lời về một trong những
định hướng hợp tác phát triển kinh tế tiếp theo của ASEAN.
Thật vậy, ASEAN và Trung Quốc là những nước đang phát triển
và đang ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau song cùng đang
phải đối mặt với những cơ hội và thách thức trong một thế giới đang
thay đổi nhanh chóng. Việc thành lập một hiệp định thương mại tự do và
tăng cường quan hệ song phương là một quyết định sáng suốt của hai
bên trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới. Trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại và nhiều năm suy thoái của
cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
- Trung Quốc sẽ đặc biệt có lợi đối với tiềm năng tăng trưởng kinh tế
của hai bên. Hơn nữa, điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng nhằm
bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu vực và cho phép ASEAN và Trung
Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thương mại quốc tế. Bên
cạnh những cơ hội đó, việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc trong vòng 10 năm tới chắc chắn sẽ tạo ra nhiều thách thức
lớn đối với các nước tham gia, đặc biệt đối với các thành viên mới của
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 2 -
ASEAN trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những cơ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hội và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là
một trong những vấn đề có tính thời sự và có ý nghĩa thiết thực trong bối
cảnh hiện nay để có thể giúp các nước thành viên, nhất là Việt Nam, có
thể chuẩn bị đầy đủ để tham gia có hiệu quả vào Khu vực mậu dịch tự
do này.
Do vậy, em mạnh dạn chọn đề tài "Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của
Việt Nam” với mong muốn đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ những
mảng sáng tối của bức tranh kinh tế các nước ASEAN nói chung và Việt
Nam nói riêng trong bối cảnh một khu vực mậu dịch tự do được thiết lập
giữa ASEAN và Trung Quốc, từ đó giúp Việt Nam hội nhập thành công
vào khu vực này.
Khoá luận sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu bao
gồm phương pháp lý luận biện chứng, phương pháp nghiên cứu tài liệu,
có sự tổng hợp, phân tích và so sánh, nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần
nghiên cứu.
Bố cục của khoá luận, ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 3 -
liệu tham khảo và Phụ lục, bao gồm 3 chương chính:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Chương 1 phân tích những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và tóm tắt quá trình hình thành
khu vực này, đồng thời khái quát hoá những nội dung cơ bản nhất của
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc
(FAACCEC).
Chương 2 đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức nói chung
của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với các nước
thành viên.
Chương 3 là chương cuối cùng, tập trung vào những tác động của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với Việt Nam, từ đó
đưa ra một số kiến nghị để thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào Khu
vực mậu dịch tự do này.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu tài liệu và tiến hành tổng hợp, phân tích,
so sánh, khoá luận đã có những cố gắng nhất định nhằm đưa ra một cái
nhìn tổng quan về những cơ hội và thách thức đối với các nước thành
viên, đặc biệt là đối với Việt Nam, một khi Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc được thành lập, từ đó đưa ra một số đề xuất để
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 4 -
tăng cường sự hội nhập của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do này.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Tuy vậy, do tính mới mẻ của đề tài cũng như những hạn chế về
thời gian, kiến thức và tài liệu nghiên cứu, khoá luận không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của của
các thầy cô và các bạn. Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
cô giáo, Tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh, đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho
em trong suốt thời gian thực hiện khoá luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn
đến các cô, chú và anh, chị đang công tác tại Vụ hợp tác kinh tế đa
phương (Bộ Ngoại giao), Trung tâm thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Trung tâm thông tin tư liệu thuộc Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương (CIEM), và Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đã giúp đỡ em
hoàn thành khoá luận này.
Hà nội, tháng 12/ 2003
Sinh viên
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 5 -
Đinh Thị Việt Thu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHU VỰC MẬU DỊCH
TỰ DO ASEAN - TRUNG QUỐC (ACFTA)
1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA)
trên toàn cầu
Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi chưa từng thấy trong
nửa cuối những năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã
được toàn cầu hoá mạnh mẽ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), sự sáp nhập và mua lại (M&As) xuyên biên giới và thông qua các
kênh giao dịch quốc tế khác nhau. Cùng với cuộc cách mạng công nghệ
thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã được thiết lập ở các lĩnh vực
như kiểm soát quản lý, quản lý công nghệ, nội địa hoá và mối quan hệ
giữa các hãng, tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài và sử dụng các chính
sách thương mại quốc tế.
Mục đích và nội dung của các thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA)
cũng đã thay đổi mạnh mẽ. Trong quá trình hình thành khu vực mậu
dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Liên minh Châu Âu (EU) vào nửa đầu
những năm 1990, cuộc thảo luận kinh tế về những quan điểm thuận và
chống PTA phần lớn chỉ giới hạn ở những đánh giá mang tính lý thuyết Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 6 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam và chiêm nghiệm về sức sáng tạo thương mại của J. Viner [1] và các tác
động méo mó của thương mại. Tuy nhiên, không khí xung quanh ý
tưởng chủ nghĩa khu vực đã thay đổi mạnh mẽ vào nửa cuối những năm
1990.
Một đối tác tích cực là EU. Sau khi hoàn thành sự hội nhập sâu sắc
giữa các nước thành viên, EU bắt đầu đàm phán một loạt khu vực mậu
dịch tự do (FTA – Free Trade Area) với một số thành viên của Hội đồng
thương mại tự do Châu Âu (EFTA), với các nước Đông Âu và các nước
ven Địa Trung Hải. Các đối tác tích cực khác là những nước tương đối
nhỏ bao gồm Mehico, Chile và Singapore. Những nước này đã đàm
phán và ký kết một số FTA với cả những nước trong khu vực cũng như
những nước cách xa về địa lý. Bị kích thích bởi các bước phát triển này,
trong suốt những năm 80, Mỹ đã tích cực theo đuổi khả năng thành lập
khu vực mậu dịch tự do với các nước khác ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. Bước đi đầu tiên của nước này là việc đưa ra đề nghị thành
lập khu vực mậu dịch tự do với Australia. Năm 1987, Mike Mansfield -
đại sứ Mỹ tại Nhật Bản đã đưa ra đề nghị nghiên cứu khả năng thành lập
Khu vực mậu dịch tự do Mỹ – Nhật Bản. Năm 1989, báo cáo cuối cùng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 7 -
về “Sáng kiến ASEAN – Mỹ” đã được cùng nghiên cứu và đưa ra kêu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam gọi thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Mỹ. Gần đây
hơn, năm 1997, Mỹ đã đưa ra đề nghị thành lập khu vực mậu dịch tự do
P5 (Pacific 5 – nhóm 5 nước ở Thái Bình Dương, bao gồm Australia,
Chile, New Zealand, Singapore và Mỹ). Sang đến năm 2002, quá trình
thành lập các khu vực mậu dịch tự do đã được Mỹ đẩy mạnh. Ngoài
những FTA với Mehico, Canada, Jordan và Israel, trong năm 2003, Mỹ
đã ký FTA với Singapore, Chile và các hiệp định khung về thương mại
và đầu tư với Thái Lan, Philippines và Indonesia. Đầu tháng 6/ 2003,
Mỹ cũng bắt đầu thương thảo để ký FTA với Liên hiệp quan thuế miền
nam châu Phi (gồm các nước Nam Phi, Boswana, Lesotho, Namibia và
Swaziland). Ngoài ra, Mỹ cũng đang xem xét khả năng ký kết FTA với
Colombia và Bahrain (xem bảng 1).
Bảng 1: Các khu mậu dịch tự do lớn của 1 số nước
Các khu mậu dịch tự do đã ký kết
EC/ EU * Singapore Mehico Chile Mỹ
Mỹ và Canada Malta, Cyprus,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 8 -
(NAFTA), EU, Canada, Andora, Thổ Nhĩ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
EFTA, Chile, Mehico, Kỳ, Thuỵ Sỹ,
Israel, Các nư Trung Mỹ (Costa Canada và Liechtenstein,
New Zealand, thuộc khối tam Rica, El Mehico Ireland, Norway,
Nhật Bản, giác phía bắc Salvador, (NAFTA), Séc, Hungary, Ba
EFTA (El Salvador, Honduras, Israel, Jordan Lan, Slovak,
Honduras, Guatamela, Rumania, Bulgaria,
Nicaragoa), Nicaragoa), Lithuania, Estonia,
Dominica, Venezuela, Latvia, Faeroes,
Nicaragoa, Columbia, Slovenia, Mehico,
Costa Rica, Equdor, Chile, Palestine,
Bolivia, G3. MERCOSUR, Tunisia, Israel,
Peru, Bolivia Jordan
Các khu mậu dịch tự do đang đàm phán hay có kế hoạch bắt
đầu đàm phán
Mü, Mehico, MERCOSUR,
Singapore Chile, FTAA, Canada, C¸c níc khèi Mü, EU, EFTA,
Singapore Australia Andean (Bolivia, Hµn Quèc, Panama,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 9 -
Columbia, Peru, Cuba, MERCOSUR
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Venezuela)
C¸c khu mËu dÞch tù do ®ang ë giai ®o¹n ®Ò xuÊt
NhËt, New NhËt, Singapore, Pacific 5 Chile, EU, Hàn
Zealand Pacific 5 Quốc, Pacific 5
Nguån: Bé Kinh tÕ, Th¬ng m¹i vµ C«ng nghiÖp NhËt B¶n (METI),
2001, http://www.meti.go.jp/policy/trade-policy/epa/html.
Theo Sách trắng về thương mại quốc tế của JETRO (Tổ chức xúc
tiến thương mại Nhật Bản), cho đến tháng 5/ 2003 đã có khoảng 250
hiệp định mậu dịch tự do (FTA) song phương và khu vực đã được thông
báo cho GATT/ WTO, trong đó có 130 hiệp định được thông báo sau
tháng 1/ 1995. Khoảng trên 170 FTA đang có hiệu lực và 70 FTA khác
đã có hiệu lực mặc dù chưa được thông báo cho WTO. Dự kiến đến cuối
năm 2005, sẽ có 300 hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực
có hiệu lực [2]. Chính tổng giám đốc WTO Sapuchai Panitchpakdhi
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 10 -
cũng phải thừa nhận xu thế đàm phán hiệp định mậu dịch tự do song
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phương và khu vực đã trở nên phổ biến, và nghi ngại rằng xu thế này có
thể phá vỡ các hoạt động đa phương trong khuôn khổ WTO [3].
Ở khu vực Đông Á, tính đến tháng 12/ 2002 chỉ có 4 khu vực như
vậy được ký kết (tham khảo Phụ lục 1), nhưng điều cần nói là xu hướng
này mới chỉ xuất hiện ở Đông Á từ năm 1999. Vào cuối năm 1998, Hàn
Quốc đã đề nghị Nhật Bản nghiên cứu khả năng thành lập khu vực mậu
dịch tự do giữa hai nước. Tháng 9/ 1999, Singapore đã nhất trí với New
Zealand về việc bắt đầu đàm phán thành lập khu vực mậu dịch tự do,
nước này cũng đưa ra đề nghị tương tự đối với các nước Chile, Mehico
và Hàn Quốc. Tháng 10 năm đó, Singapore đã đưa ra đề nghị thiết lập
quan hệ giữa Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với Hiệp định
quan hệ kinh tế gần gũi hơn giữa Australia và New Zealand (CER).
Tháng 11 năm đó, Singapore bắt đầu đàm phán với Chile và tháng 12,
nước này đề nghị đi đến một hiệp định với Nhật Bản.
Chỉ đến năm 1999 và 2000, các cuộc đàm phán và nghiên cứu ở
cấp chính phủ mới thật sự có được động lực, và đi tiên phong là
Singapore khi nước này đưa ra sáng kiến đàm phán và nghiên cứu về
khu vực mậu dịch tự do với một loạt các nước khác trong khu vực. Khái
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 11 -
niệm về khu vực mậu dịch tự do đại Đông Á (EAFTA) đã được đưa ra
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 tổ chức vào tháng 12/
2000 và các nước đã đi đến nhất trí thành lập một nhóm nghiên cứu về
vấn đề này. Năm 2001, Singapore và New Zealand đã đạt được thoả
thuận và đó là khu vực mậu dịch tự do đầu tiên ở Đông Á phù hợp với
Điều 24 của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Tháng
11 năm đó, ASEAN và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận về nguyên tắc
đối với việc thành lập 1 khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN
và Trung Quốc trong vòng 10 năm.
Lý do khiến cho hàng loạt FTA nói trên được ký kết là bởi lẽ
thực tế đã cho thấy, ở một mức độ nhất định, nguồn lợi mà FTA
mang lại cho các quốc gia là rất lớn:
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, các FTA gần như bao gồm toàn
bộ các lĩnh vực trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên:
không chỉ thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu
tư liên quan đến thương mại, … mà cả các vấn đề khác như du lịch,
thương mại điện tử, doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát thanh truyền hình …
(tham khảo Phụ lục 2). Với phạm vi bao quát rộng như vậy, FTA sẽ đem
lại nhiều lợi ích như mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo công ăn việc làm,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 12 -
xúc tiến đầu tư và chuyển giao công nghệ, tăng cường đàm phán đối với
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam một nước thứ ba. Hơn thế nữa, tự do thương mại thông qua FTA sẽ càng
làm tăng sức cạnh tranh của các nhà xuất khẩu và các tổ chức thương
mại của các nước thành viên, tạo điều kiện cho họ dễ dàng thành công
trong các vòng đàm phán đa phương. Với ý nghĩa như vậy, FTA chính là
cánh cửa để một nước hội nhập thương mại với thế giới, khởi đầu cho
quá trình tự do hoá cạnh tranh, từ đó các nước có nhiều cơ hội để lựa
chọn đối tác thích hợp.
Thứ hai, mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn rất nhiều so
với WTO, với những ưu đãi cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới tự
do hoá tối đa và triệt tiêu hoàn toàn những trở ngại đối với thương mại
hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, đặc biệt là vấn đề triệt tiêu thuế suất nhập
khẩu xuống 0% và các ưu đãi mở cửa thị trường đầu tư. Ngoài ra, bản
chất của các FTA không chỉ đơn thuần là việc tự do hoá thương mại, mà
còn bao gồm cả việc hợp tác trong tất cả các lĩnh vực ngoài thương mại,
ví dụ: hợp tác trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong
việc phát triển công nghệ thông tin, đơn giản hoá thủ tục hải quan, xúc
tiến thương mại và đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, … Nói
cách khác, do hầu hết các FTA, đặc biệt là những FTA mới được ký kết
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 13 -
gần đây, đã đa dạng hoá nội dung bên cạnh nội dung loại bỏ thuế quan
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam và tự do hoá khu vực dịch vụ nên mỗi khi con đường đa phương bị tắc
nghẽn hay cản trở, các nước liền tìm đến những dàn xếp song phương
hay khu vực.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là các FTA luôn đi ngược
lại với tiến trình của các vòng đàm phán đa phương, bởi cho đến nay vẫn
chưa có nghiên cứu nào chứng minh được các Khu vực mậu dịch tự do
hỗ trợ hay ngăn cản tự do hoá thương mại trên phạm vi toàn cầu. Nhưng
có thể thấy thành viên của hai khối mậu dịch tự do lớn nhất là EU và
NAFTA đều là thành viên của WTO mà nguyên tắc cơ bản của tổ chức
này là tối huệ quốc (không phân biệt đối xử) được nêu rõ ở điều khoản I,
nên khả năng các FTA ngăn cản tiến trình tự do hoá toàn cầu là khó xảy
ra.
Thật vậy, tuy GATT và WTO đề cao nguyên tắc không phân biệt
đối xử trong ngoại thương nhưng vẫn có những điều khoản cụ thể cho
phép các thành viên tham gia FTA, với điều kiện phải thông báo về
những FTA đó. Điều 24 của GATT quy định về việc thành lập và hoạt
động của FTA và liên hiệp thuế quan đối với trao đổi hàng hoá. Điều 5
của GATS (Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ) cho phép lập các
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 14 -
FTA về trao đổi dịch vụ. Ngoài ra còn có một điều khoản đặc biệt cho
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phép ký kết FTA về trao đổi hàng hoá giữa các thành viên là nước đang
phát triển. Các quy định này có thể không bắt buộc trong các vụ giải
quyết tranh chấp nhưng có tác dụng như là nguyên tắc ứng xử ở một
chừng mực nào đó. Tuy nhiên, còn vượt xa phạm vi của những điều
khoản này là việc không tồn tại bất kỳ một quy định chính sách nào khác
được quốc tế thừa nhận. Vì thế, các thoả thuận khu vực có thể chứa
đựng hầu hết các vấn đề vượt xa thương mại hàng hoá và dịch vụ. Nói
cách khác, ở một mức độ nhất định, các FTA có tính bổ sung cho WTO
trong việc tự do hoá thương mại. Chính vì vậy, giới học giả Nhật cho
rằng các FTA nên theo mô hình WTO – cộng, nghĩa là bao gồm nhiều
lĩnh vực hơn và mức độ sâu rộng hơn. Tại Hội nghị thách thức và cơ hội
đối với việc hợp tác khu vực APEC ngày 16/ 5/ 2003 tại Tokyo (Nhật
Bản), Đại sứ Singapore tại Nhật Bản cũng nêu rõ: “Tự do hoá thương
mại theo WTO không có được nhiều bước tiến trong những năm gần đây
do WTO có quá nhiều thành viên. Trong bối cảnh như vậy, các hiệp định
tự do khu vực và song phương sẽ là cơ chế bổ sung tốt cho tiến trình đa
phương” [3]. Như vậy, FTA là cách tiếp cận tốt thứ nhì đối với tự do hoá
mậu dịch nhưng là giải pháp khả thi nhất trong một thế giới đa dạng.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 15 -
Tuy nhiên, FTA chỉ trở thành những viên đá lát đường cho toàn cầu hoá
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khi nó phải đảm bảo rằng ảnh hưởng do thương mại tăng lên (trade
creation) lớn hơn ảnh hưởng do thương mại giảm đi (trade diversion)
[1]. Đến khi đó, FTA sẽ có thể trở thành một đòn bẩy thúc đẩy chủ nghĩa
đa phương và tự do thương mại toàn cầu và cuối cùng, chủ nghĩa khu
vực mới sẽ đi vào liên kết kinh tế theo chiều sâu.
Một điểm lợi nữa của FTA là trong quá trình hình thành mạng lưới
các FTA, mối liên hệ với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cải cách
kinh tế trong nước đã đặc biệt được chú trọng. Các FTA được xem như
là các công cụ chính sách để giới hạn hay thúc đẩy cải cách trong nước
cũng như thu hút FDI hơn là trông chờ có được các tác động trực tiếp to
lớn của giảm thuế quan. Trên thực tế, Mehico đã được hưởng những tác
động tích cực rõ ràng của NAFTA đối với cả việc thu hút FDI và việc
giới hạn cải cách cơ cấu trong nước. Các nước Đông Âu đã cố gắng giới
hạn quá trình chuyển đổi mạnh mẽ các hệ thống kinh tế của họ và một số
nước trong số họ đã rất thành công trong việc thu hút FDI.
Thêm vào nữa, các nước đã bắt đầu cảm nhận được rằng cái giá
của việc không phải là thành viên của bất kỳ thoả thuận khu vực nào là
có thật. Giá ở đây gồm sự mất đi thế đàm phán trong các cuộc đàm phán
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 16 -
đa phương, bỏ lỡ các cơ hội hưởng lợi từ bên ngoài và sự chậm trễ nói
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu hoá. Mehico, Chile
và Singapore muốn rằng họ trở thành trung tâm mạng lưới FTA và
hưởng lợi ích của sự kết nối. Một nước trung tâm có các lợi thế tiềm
năng đối với các nước khác ở đầu bên kia trong việc hình thành các
luồng thương mại và mạng lưới sản xuất thông qua FDI. Một tài sản
quan trọng của các thoả thuận FTA trong bối cảnh này là một nước (ví
dụ Mehico) có thể ký kết một FTA mới (ví dụ với EU) mà không cần
thay đổi bất cứ thoả thuận FTA cũ nào (ví dụ NAFTA).
Nói tóm lại, chính do những lợi điểm kể trên mà việc mở rộng liên
kết, thiết lập các Khu vực mậu dịch tự do đã trở thành hướng đi được
các nước chú trọng nhằm khai thác tốt nhất lợi thế so sánh của từng quốc
gia, tạo ra sân chơi hấp dẫn đầy tiềm năng đáp ứng lợi ích của tất cả các
bên có liên quan.
Tuy vậy, các FTA cũng đặt ra 1 số vấn đề đáng quan tâm:
Thứ nhất, các chính phủ hiện theo đuổi FTA như là 1 công cụ
trong chính sách thương mại gồm nhiều tầng nấc đan xen nhau, gồm cả
song phương, khu vực và đa phương. Đối với từng chính phủ, chính
sách này đòi hỏi rất nhiều nguồn lực, kể cả con người và vật chất, do đó
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 17 -
có thể trở thành gánh nặng, nhất là đối với các nước đang phát triển; còn
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đối với WTO, quá nhiều FTA mà không có sự điều phối thoả đáng thì
điều này có thể đe dọa sẽ làm đổ vỡ tiến trình Doha. Chính vì vậy, Tổng
giám đốc WTO, Tiến sĩ Sapuchai Panitchpakdhi, đã phải thừa nhận
rằng: “FTA là con dao hai lưỡi và là nguyên nhân làm chậm tiến trình
toàn cầu hoá” [4].
Thứ hai, hầu như tất cả các FTA hình thành trong thời gian gần
đây đều có nội dung toàn diện, không chỉ giải quyết các rào cản tại biên
giới quốc gia như các FTA truyền thống mà còn bao trùm các lĩnh vực
dịch vụ và sở hữu trí tuệ, đặc biệt cả đầu tư và thương mại điện tử, … là
những lĩnh vực chưa có quy định quốc tế chung. Câu hỏi đặt ra là liệu
các cam kết mang tính ràng buộc trong những lĩnh vực mới đó có thật sự
phù hợp và thuận lợi, hay trên thực tế chúng lại đặt ra những rào cản mới
cho các nước bên ngoài và tác động tiêu cực đến tiến trình đàm phán đa
phương về các lĩnh vực này. Ngoài ra, còn phải kể đến những vấn đề
truyền thống đặt ra cho FTA nói chung, nhất là về khả năng tác động
giảm bớt thương mại của các nước không tham gia FTA.
Thứ ba, nhiều nước tham gia FTA dường như chỉ nhằm mục đích
tự vệ để tránh bị gạt ra ngoài, chứ hoàn toàn không theo 1 chiến lược bài
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 18 -
bản, khiến tình hình FTA nói chung trên thế giới ngày càng phức tạp,
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đặc biệt tại Đông Á. Nhật Bản và Malaysia cách đây không lâu còn rất
bàng quan, giờ đã trở thành những nước ráo riết tìm kiếm FTA song
phương, chủ yếu vì lo ngại các nước khác có FTA sẽ chiếm mất thị
trường truyền thống của họ.
Thứ tư, mặc dù các FTA song phương nhìn chung đều mang tính
mở cửa hơn so với WTO, song vẫn không giải quyết được những lĩnh
vực hoặc những ngành hàng nhạy cảm của từng nước. Nông – lâm – ngư
nghiệp của Nhật Bản là 1 thí dụ rõ rệt nhất. Nhật Bản đã chọn Singapore
làm đối tác đàm phán FTA đầu tiên vì quốc đảo Đông Nam Á này hầu
như không xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, vậy mà xuất khẩu cá
vàng (gold fish) của Singapore vẫn là một vấn đề lớn trong tiến trình
đàm phán giữa 2 nước. Liên quan đến vấn đề này, cũng cần chỉ ra rằng
vì các FTA song phương thường được thiết kế sao cho phù hợp với điều
kiện cụ thể của hai nước liên quan, cho nên chúng rất khó có thể mở cho
các nước khác cùng tham gia, trừ khi là phải xây dựng một hiệp định
mới.
Thứ năm, liên quan đến thương mại hàng hoá là lĩnh vực quan
trọng nhất song hầu hết các FTA quy định về xuất xứ trong các hiệp
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 19 -
định thường rất khác nhau. Nếu một nước tham gia nhiều FTA song
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phương, mà quy tắc xuất xứ của một loại hàng hoá nào đó lại khác nhau
trong từng hiệp định, thì doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng đó chắc chắn
sẽ gặp nhiều khó khăn; về phía chính phủ, cơ quan hải quan cũng sẽ vất
vả.
Nói tóm lại, lợi ích của các FTA, ngay cả trong ngắn hạn, luôn gắn
liền với thương mại và đầu tư. Do đó, chừng nào lượng việc làm do đầu
tư nước ngoài tạo ra còn bù được cho những mất mát của các ngành
công nghiệp không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu thì tham gia
FTA vẫn có thể có ích cho toàn xã hội.
1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của khu
vực kinh tế năng động ASEAN.
Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hình
thành của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Tăng trưởng
kinh tế đã từng là thành tích đầy ấn tượng của Trung Quốc và phần lớn
các nước ASEAN trong 3 thập kỷ vừa qua. Cả Trung Quốc và ASEAN
đều theo đuổi chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu và đã đạt được
các tỷ lệ tăng trưởng cao hơn nhiều tỷ lệ trung bình của thế giới.
Kể từ khi mở cửa ra bên ngoài, tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc đạt hơn 10% hàng năm. Vào những năm 90, Trung Quốc tăng Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 20 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trưởng ở mức cao nhất trên thế giới. Tổng tiết kiệm nội địa và tổng đầu
tư trong thập kỷ cuối đạt lần lượt hơn 40% và 34% GDP. Thành tích
trong khu vực đối ngoại cũng rất gây ấn tượng, xuất khẩu tăng ở mức
trung bình hàng năm hơn 15%, dự trữ quốc tế của Trung Quốc năm 1997
đạt hơn mức nhập khẩu tương đương của 12 tháng. Vốn nước ngoài chủ
yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã tăng 275 lần trong giai đoạn từ
năm 1983 đến 1986 [5]. Thâm hụt ngân sách và tỷ lệ lạm phát khá cao
trong nửa đầu những năm 90 do sự thịnh vượng kinh tế, đã dần hạ xuống
từ năm 1996. Các yếu tố vĩ mô cơ bản (xem bảng 2), cùng với việc
không quy đổi của đồng tiền đã lý giải tại sao Trung Quốc không bị tác
động trực tiếp của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997
giống như các nước châu Á khác.
Bảng 2: Một vài chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc
Đơn vị: %
Tỷ lệ
1998* tăng 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
trưởng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 21 -
GDP thực 3.84 9.19 14.24 13.49 12.66 10.55 9.54 8.80 7.80
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Lạm phát 3.06 3.54 6.34 14.60 24.20 16.90 8.30 2.80 -0.90
Xuất khẩu19.20 14.36 18.07 8.76 35.56 24.91 17.93 20.91
Nhập khẩu-13.28 18.47 28.32 34.06 10.38 15.52 19.52 3.73
*: cho đến tháng 11/ 1998
Nguồn: J.Lim, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và hệ luỵ của nó
đối với ASEAN” – Báo cáo nghiên cứu của Hệ thống các trung tâm
nghiên cứu APEC của Philippines (PASCN), 2001.
Từ bảng trên có thể thấy tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc
tăng khá đều qua các năm, bình quân đạt 7 – 8%/ năm, đặc biệt vào năm
1997 – 1998, trong khi các nước Châu Á đang điêu đứng vì khủng hoảng
thì Trung Quốc vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Xuất
khẩu và nhập khẩu đều có sự tăng trưởng theo hướng cán cân thương
mại ngày càng nghiêng về phía xuất khẩu. Cùng với sự tăng trưởng cao
của GDP và ngoại thương, tốc độ lạm phát cũng được điều tiết khá hiệu
quả, giảm dần qua các năm, cho thấy chính sách quản lý vĩ mô của
Trung Quốc rất tốt. Tính chung trong cả giai đoạn kể từ khi bắt đầu thực
hiện chính sách cải cách và mở cửa vào năm 1978 đến năm 2001, tốc độ
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 22 -
tăng trưởng GDP bình quân của Trung Quốc là 9.3%/ năm, và tăng
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trưởng thương mại đạt 15%/ năm. Nói cách khác, trong 23 năm qua,
GDP và ngoại thương của Trung Quốc đã tăng tương ứng 8 và 25 lần
[6]. Dự trữ ngoại tệ năm 2001 vượt 250 tỷ USD, đứng thứ hai trên thế
giới. Cơ cấu ngành nghề biến đổi nhanh: tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn
15% trong GDP, dịch vụ đã lên tới 33.6%; dự trữ lương thực, dầu thô
tăng đáng kể [7]. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ
7 thế giới tính theo tỷ giá hối đoái chính thức, và lớn thứ 2 nếu tính theo
sức mua [6]. Nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh, Trung Quốc đã giảm mạnh
được số người sống dưới ngưỡng nghèo đói. Đồng thời, Trung Quốc đã
không chỉ phát triển được nền kinh tế của mình mà còn có nhiều đóng
góp đối với các nền kinh tế Châu Á. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ Châu Á 1997, Trung Quốc đã không phá giá đồng NDT và
do vậy đã giúp các nước bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tránh được
tình trạng phá giá để cạnh tranh, phần nào giúp các nước nhanh chóng
phục hồi sau khủng hoảng.
Bước sang năm 2002, một năm sau khi Trung Quốc chính thức gia
nhập WTO, mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều nhân tố bất lợi cho
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 23 -
sự phát triển nhưng nền kinh tế Trung Quốc vẫn có một năm đầy sức
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam sống với những thay đổi tích cực của đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu
(xem biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng các chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung
Quốc năm 2002
30.0
17.6
8.7
8.0
1.1
GDP
FDI
XuÊt khÈu
S¶n l î ng l ¬ng t hùc
Dù tr÷ ngo¹ i t Ö
Đơn vị: %
Nguồn: Cục Thống kê Trung Quốc (NBS) [8].
Từ biểu đồ trên có thể thấy, mức tăng trưởng kinh tế Trung Quốc
năm 2002 đạt 8%, cao hơn so với mức dự báo đầu năm là 7% và mức
tăng 7.3% của năm 2001. Đặc điểm của sự tăng trưởng kinh tế Trung
Quốc năm 2002 là mức tăng trưởng GDP theo quý khá đều đặn: quý I
tăng 7.6%; quý II tăng 8%; quý III tăng 8.1%. Tổng GDP trong cả năm
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 24 -
đạt 10,000 tỷ NDT, tương đương 1,248 tỷ USD [8].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Cùng với sự tăng trưởng của GDP, kim ngạch ngoại thương của
Trung Quốc năm 2002 cũng tăng gấp khoảng 30 lần so với cách đây 24
năm, khi nước này bắt đầu cải cách và mở cửa. Năm 1978, kim ngạch
ngoại thương của Trung Quốc đạt 20.6 tỷ USD, đứng thứ 32 trong danh
sách ngoại thương toàn cầu. Năm 2001, với 509.8 tỷ USD, Trung Quốc
trở thành nước buôn bán lớn thứ 6 trên thế giới. Sau một năm gia nhập
WTO, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc năm 2002 tăng 22.3% so
với năm trước, đạt 325.57 tỷ USD, lần đầu tiên vượt ngưỡng 300 tỷ
USD. Tổng kim ngạch ngoại thương năm 2002 đạt 620.79 tỷ USD, tăng
17.6%, xếp hàng thứ 5 thế giới; trong đó thặng dư mậu dịch là 30.35 tỷ
USD, tăng 34.6 %, mức cao nhất trong 4 năm qua [9].
Thu hút vốn FDI tăng bình quân 14.2%/ năm, liên tục 9 năm liền
đứng hàng đầu các nước đang phát triển, đã có 400 trên tổng số 500
công ty hàng đầu thế giới đặt cơ sở tại Trung Quốc [7]. Trong những
năm 1980, FDI vào Trung Quốc chỉ là 2 – 3 tỷ USD/ năm. FDI chỉ bắt
đầu tăng mạnh từ những năm 1992 – 1993, Trung Quốc trở thành nước
tiếp nhận FDI lớn nhất trong số các nước đang phát triển (tham khảo
Phụ lục 3). Năm 2002, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8.7%, lần đầu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 25 -
tiên vượt Mỹ, đạt mức kỷ lục 52.7 tỷ USD, Trung Quốc trở thành nước
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất thế giới. Tính trung
bình cả giai đoạn, Trung Quốc thu hút khoảng 45 tỷ USD vốn/ năm,
đứng đầu trong các nước đang phát triển và đứng thứ hai thế giới, chỉ
sau Mỹ [6].
Sự tăng trưởng liên tục của xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã đem lại cho Trung Quốc một nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào.
Tính đến cuối năm 2002, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đạt 274 tỷ
USD, tương đương tổng giá trị nhập khẩu của cả nước trong 10 tháng,
tăng xấp xỉ 30% so với mức 212.1 tỷ USD vào cuối năm 2001 [8]. Tính
trung bình trong thời gian 5 năm (1997 – 2002), dự trữ ngoại tệ của
Trung Quốc đã tăng 104.7%, từ 139.9 tỷ USD lên tới 286.4 tỷ USD, đưa
nước này trở thành nước có mức dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới,
sau Nhật Bản [10]. Nguồn dữ trữ ngoại tệ lớn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với một quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, nhất là
trong thời điểm hiện nay, khi tỷ giá hối đoái của đồng NDT trên thị
trường thế giới rất thấp và không thể chuyển đổi thành vàng được.
Bên cạnh đó, nợ nước ngoài của Trung Quốc tiếp tục giảm. Tính
đến cuối tháng 6/ 2002, số dư nợ đứng ở mức 160 tỷ USD. Số tiền gửi
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 26 -
tiết kiệm của cư dân vào cuối tháng 10/ 2002 đạt 9,200 tỷ NDT (tương
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đương 1,100 tỷ USD). Tiền gửi của cư dân tăng do thu nhập tăng nhanh:
mức GDP bình quân theo đầu người của Trung Quốc tăng từ 787 USD
năm 1999 lên 853 USD năm 2000 và đạt 961 USD năm 2002 (tăng 6%)
[8].
Cùng với Trung Quốc, các nước ASEAN cũng bắt đầu thực hiện
việc nới lỏng chính sách và các biện pháp tự do hoá trong những năm
1990. ASEAN là tổ chức đầu tiên tại Đông Á thực hiện các FTA khu
vực, đầu tiên là dưới hình thức PTA rồi sau đó là khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA) để đáp lại các thách thức của các thị trường đang
được toàn cầu hoá nhanh chóng. Tuy khá toàn diện hơn so với PTA,
song bản chất tự nguyện của AFTA tiếp tục gạt ra ngoài những khu vực
nhạy cảm về chính trị như nông nghiệp và ô tô. Không có bước tiến hay
mục tiêu cụ thể nào được đề ra để đạt được ranh giới thời gian 15 năm
của AFTA. So với những FTA khu vực khác, như thoả thuận dày hơn
1000 trang của NAFTA, AFTA chỉ có 15 trang. Một số những người chỉ
trích ban đầu hoài nghi chủ trương “Nhất trí trước, đàm phán sau”
(AFTA – Agree first, Talk after) sẽ có hiệu quả; chỉ có ít người hy vọng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 27 -
vào thành công của AFTA.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, AFTA đã chứng tỏ rằng, tuy khởi
đầu uể oải, song nó đã có thể và sẵn sàng thích nghi với nền kinh tế thế
giới đang thay đổi liên tục cũng như những tình huống nội bộ. AFTA
trước tiên đã thay đổi tốc độ sau hai diễn biến quan trọng bên ngoài: việc
ký kết Thoả thuận chung về thuế quan và các vòng đàm phán mậu dịch
Uragoay năm 1993 và Tuyên bố Bogor năm 1994 về cam kết tự do hoá
thương mại và đầu tư của các nước thành viên APEC, lần lượt vào năm
2010 và 2020, cho các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. ASEAN
đã đẩy nhanh mục tiêu thành lập AFTA từ ngày 1/ 1/ 2005 sang ngày 1/
1/ 2003. Sự thay đổi tiếp theo là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
năm 1997. Bất chấp những động cơ chính trị mạnh mẽ đòi đảo ngược
tiến trình tự do hoá, năm 1998, tổ chức đang phải vất vả để đối phó với
hậu khủng hoảng về kinh tế này vẫn thông qua một loạt biện pháp táo
bạo, trong đó có thoả thuận của 6 nước đầu tiên ký AFTA đẩy sớm lên
một năm nhiều khoản cắt giảm thuế quan trước đó đã được hoạch định
vào năm 2003. Hơn nữa, 5 nước ASEAN gồm Indonesia, Malaysia,
Philippines, Singapore và Thái Lan cùng ký kết Hiệp định công nghệ
thông tin (ITA) và vì thế có kế hoạch giảm thuế MFN đối với một số
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 28 -
mặt hàng có sự tăng trưởng nhanh nhất trong tổng thương mại của họ.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Như vậy, bức thông điệp của ASEAN gửi tới thế giới đầy quyết tâm và
rõ ràng: họ muốn thương mại tự do cả trong hoàn cảnh thuận lợi và khó
khăn.
Sự quyết tâm đó của ASEAN đã đem lại những kết quả đáng kể.
Mức thuế quan trung bình giữa các nước ASEAN được giảm từ 111.4%
năm 1993 xuống còn 3.2% năm 1998 [11]. Tổng số vốn đầu tư nước
ngoài ASEAN thu hút trong giai đoạn này đạt 132 tỷ USD. Đầu tư nước
ngoài vào ASEAN năm 2000 đã tăng 30% so với năm 1999, từ 21.8 tỷ
USD lên 28.4 tỷ USD [12] (tham khảo thêm Phụ lục 3).
Cùng với triển vọng về đầu tư bước đầu được cải thiện, thương mại
của ASEAN năm 2000 cũng tăng 19.9% với tổng kim ngạch xuất khẩu
đạt 423.6 tỷ USD so với 353.3 tỷ USD của năm 1999; tổng kim ngạch
nhập khẩu tăng 22.8%, đạt 360.1 tỷ USD so với 293.1 tỷ USD của năm
1999 (xem bảng 3). Xuất khẩu trong nội bộ ASEAN tăng 27%, đạt 97.8
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 29 -
tỷ USD năm 2000 [11].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng 3: Tổng giá trị ngoại thương của ASEAN (1999 – 2000)
Đơn vị: triệu USD
XUẤT KHẨU NHẬP KHẨU
Nước
Sự thay đổi Sự thay đổi
(*) 1999 2000 1999 2000
Giá trị % Giá trị %
- -
Bruney 2,240.7 2,169.1 71.6 -3.2 1,720.4 1,067.6 652.8 -37.9
48,665. 62,124. 13,458. 24,003.
Indonesia 5 0 5 27.7 3 33,514.8 9,511.5 39.6
84,287. 98,154. 13,866. 63,677. 15,969.
Malaysia 9 5 6 16.5 8 79,647.5 7 25.1
Myanmar 738.0 1,193.8 455.8 61.8 1,883.0 2,219.4 336.4 17.9
35,036. 30,742.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 30 -
Philippines 9 38,078. 3,041.3 8.7 5 31,387.4 644.9 2.1
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
2
114,625 138,352 23,727. 110,998 134,680. 23,682.
Singapore .1 .5 4 20.7 .0 1 1 21.3
56,110. 69,254. 13,143. 48,318. 13,587.
Thái Lan 9 1 2 23.4 0 61,905.8 8 28.1
11,541. 14,308. 11,742.
Việt Nam 0 0 2,767.0 24.0 0 15,635.0 3,893.0 33.2
353,346 423,634 70,288. 293,085 360,057. 66,972.
.0 .0 0 19.9 .0 6 6 22.9 Tổng
(*): Thiếu số liệu của Campuchia và Lào
Nguồn: Hội nghị lần thứ 15 của Hội đồng AFTA về Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN, tháng 9/ 2001 (bản tiếng anh), Ban thư ký ASEAN
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 31 -
(www.aseansec.org).
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Mặc dù năm 2000 thương mại của ASEAN tăng trưởng rất khả
quan so với thời kỳ khủng hoảng năm 1997 song bước sang năm 2001,
do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và EU cũng như sự suy
thoái của cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, xuất khẩu của ASEAN
năm 2001 giảm xuống còn 366.8 tỷ USD [13].
Năm 2002, mặc dù kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp nhưng các
nền kinh tế ASEAN vẫn đạt mức tăng trưởng khá cao. Theo đánh giá
của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
tăng trưởng kinh tế của toàn khu vực Đông Nam Á là 4.1%, tăng khoảng
2 lần so với mức tăng 2% của năm 2001 và gần đạt mức tăng 4.6% của
năm 2000 [8] (xem biểu đồ 2).
Cùng với sự tăng trưởng của GDP, năm 2002, tổng kim ngạch xuất
khẩu của các nước ASEAN cũng tăng 2.9%, đạt trên 381 tỷ USD và
tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 2.5%, đạt trên 325 tỷ USD. Riêng quý I/
2003, tổng xuất khẩu tăng gần 15.7% so với cùng kỳ năm 2002, đạt
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 32 -
86.76 tỷ USD [14].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2002 của các nước
ASEAN
3.6
Indonesia
3.0
Bruney
7.1
ViÖt Nam
Philippine
3.7
2.4
Singapore
5.5
Campuchia
5.1
Th¸ i Lan
4.0
Malaysia
4.1
ASEAN
2.8
ThÕ gií i
0
1
2
3
4
5
6
7
8
Đơn vị: %
Nguồn: ADB; IMF World Economic Outlook, 2002.
Thương mại nội khối ASEAN cũng có xu hướng tăng. Tuy xuất
khẩu nội khối trong 3 quý đầu năm 2002 giảm 1.5% và nhập khẩu nội
khối tăng 3% [13] song sự tăng trưởng mạnh của thương mại nội khối
trong quý 4 đã làm thay đổi cả diện mạo của ngoại thương ASEAN năm
2002. Xuất khẩu nội khối trong cả năm tăng 2.2%, đạt 86.34 triệu USD
và nhập khẩu nội khối tăng 8.1%, đạt 73.12 triệu USD [14].
Trong các đối tác thương mại của ASEAN, Mỹ, EU, Nhật Bản,
Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông) và Hàn Quốc là các thị trường
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 33 -
xuất khẩu lớn nhất của ASEAN. Về nhập khẩu thì Nhật Bản là nước
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nhập nhiều nhất từ ASEAN, sau đó đến Mỹ, EU, Trung Quốc (bao gồm
cả Hồng Kông) và Hàn Quốc. Trong 3 quý đầu năm 2002, xuất khẩu của
ASEAN sang Mỹ, EU và Nhật Bản giảm đi trong khi xuất khẩu sang
Trung Quốc và Hàn Quốc lại tăng lên rất cao, lần lượt là 18.7% và 3.3%
[13], cho thấy vai trò của Trung Quốc nói riêng và Đông Á nói chung
đối với ngoại thương của ASEAN ngày càng được nâng cao.
1.1.3. Những thành tựu hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc
1.1.3.1. Hợp tác về thương mại:
Trung Quốc coi việc củng cố quan hệ hợp tác thương mại và kinh
tế là một kênh quan trọng cho việc duy trì hoà bình và an ninh trong khu
vực. Do vậy, Trung Quốc đã và đang tích cực tham gia vào tất cả các
hình thức hợp tác kinh tế khu vực và nỗ lực nhằm mở những hướng hợp
tác khu vực mới với các nước ASEAN. Gần đây, ASEAN và Trung
Quốc đã dành được tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện các chương
trình hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là thương mại quốc tế,
một động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế của cả hai bên.
Bảng 4: Thương mại song phương giữa ASEAN và Trung
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
Quốc
Đơn vị: Tỷ USD - 34 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Tốc độ tăng trưởng Thị
Xuất Nhập Thị phần
(%) phần
Tổng khẩu khẩu của
của
kim của của ASEAN
Trung Tổng Xuất Nhập
ngạch Trung Trung trong
Năm Quốc Kim khẩu khẩu
th- Quốc Quốc thương
trong ngạch sang từ
ương sang từ mại của
thương thương ASEA ASEA
mại ASEA ASEA Trung
mại của mại N N
N N Quốc
ASEAN
1991 7.96 4.14 3.82 19.6 10.6 29.3 5.8 2.1
1992 8.47 4.26 4.21 6.4 3.0 9.9
1993 10.68 4.68 6.00 2.1 9.8 42.5
1994 13.21 6.38 6.83 23.5 36.2 13.6
1995 18.44 9.04 9.40 39.4 41.6 37.4
1996 20.40 9.70 10.70 4.6 -0.5 9.8
1997 24.36 12.03 12.33 19.4 24.0 15.2
1998 23.48 10.92 12.56 -6.2 -13.6 1.2
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 35 -
1999 27.04 12.17 14.87 14.9 11.1 18.2
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 2000 39.52 17.34 22.19
46.2 42.5 49.2 8.3 3.9
2001 41.61 18.39 23.22 5.3 6.0 4.7
Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc [16].
Bảng 4 cho thấy bình quân hàng năm từ năm 1995 đến nay, kim
ngạch ngoại thương của Trung Quốc và ASEAN tăng 15%/ năm. Khối
ASEAN đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 5 của Trung Quốc (sau
Nhật Bản, Mỹ, EU và Hàn Quốc) (tham khảo thêm Phụ lục 4) và Trung
Quốc đã trở thành thị trường lớn thứ 6 của khối ASEAN [15]. Vào năm
2000, thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đạt con số kỷ lục là 39.5
tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng là 45,3%.
Sang năm 2001, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm,
thương mại giữa hai bên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng. Thương
mại song phương tăng 5.3%, đạt 41.6 tỷ USD; trong đó xuất khẩu của
Trung Quốc sang ASEAN tăng từ 4.1 tỷ USD năm 1991 tới 18.4 tỷ USD
năm 2001 và nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN tăng từ 3.8 tỷ USD
lên 23.2 tỷ USD trong cùng thời gian đó [16] (tham khảo thêm Phụ lục
5). Cùng với sự tăng trưởng của kim ngạch thương mại song phương, cơ
cấu thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã được cải thiện từng b-
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 36 -
ước với tỷ trọng các sản phẩm mới và công nghệ cao tăng dần. Năm
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 2001, Trung Quốc đã xuất khẩu 4.7 tỷ USD sản phẩm công nghệ cao
sang ASEAN và nhập 797 triệu USD sản phẩm công nghệ cao từ
ASEAN [15].
Năm 2002, theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu giữa Trung Quốc với ASEAN đã đạt 54.77 tỷ
USD, tăng 31.7% so với năm 2001, chiếm 8.8 % tổng kim ngạch ngoại
thương của Trung Quốc (tỷ lệ này năm 1991 chỉ đạt 5.85%) [17]. Cũng
trong năm này, Trung Quốc đã tuyên bố thi hành Kế hoạch giảm nợ cho
Châu Á, theo đó sẽ giảm hoặc xoá nợ cho 6 nước Châu Á, trong đó có
Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam. Điều này là minh chứng rõ
ràng cho cơ sở và tiềm năng của sự hợp tác trong tương lai.
Trong 6 tháng đầu năm 2003, theo số liệu thống kê của Bộ thương
mại Trung Quốc (MOC) công bố ngày 17/ 8/ 2003, kim ngạch buôn bán
giữa ASEAN và Trung Quốc đạt 34.24 tỷ USD, tăng 45.3% so với cùng
kỳ năm ngoái; trong đó xuất khẩu từ ASEAN sang Trung Quốc đạt
20.47 tỷ USD, tăng 55.5% và xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN
đạt 13.77 tỷ USD, tăng 32.4%. Cũng theo dự kiến của MOC, kim ngạch
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 37 -
buôn bán ASEAN - Trung Quốc cả năm nay sẽ đạt hơn 70 tỷ USD [18].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 1.1.3.2. Hợp tác về đầu tư:
i. Đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc:
Biểu đồ 3: Đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc giai đoạn 1991 –
2001
42.2
32.9
31.8 34.2
30.0
28.0
26.2
18.6
Đơn vị: Tỷ USD
Tû USD
10.0
2.7
0.9
45.0 40.0 35.0 30.0 25.0 20.0 15.0 10.0 5.0 0.0
91
92
93
94
95
96
97
98
99
00
01
N¨m
Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC)
[16].
Từ biểu đồ 3 có thể thấy ASEAN là một nguồn quan trọng cung
cấp FDI cho Trung Quốc. Từ năm 1991 đến 2000, đầu tư của ASEAN
vào Trung Quốc tăng trung bình 28%/ năm. Năm 1991, đầu tư của
ASEAN ở Trung Quốc chỉ là 90 triệu USD trong khi con số này đạt 4.2
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 38 -
tỷ USD năm 1998. Do cuộc khủng hoảng kinh tế, đầu tư của ASEAN ở
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Trung Quốc giảm xuống 3.3 tỷ USD và 2.8 tỷ USD vào năm 1999 và
2000 [16].
Nhờ vào sự phục hồi kinh tế, đầu tư của ASEAN ở Trung Quốc
ngày một tăng. Theo số liệu của Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế
Trung Quốc (MOFTEC), vào cuối năm 2001, tổng đầu tư của ASEAN
vào Trung Quốc bao gồm 17.972 dự án với giá trị cam kết là 53.5 tỷ
USD (chiếm 7.2% tổng FDI vào Trung Quốc), và giá trị giải ngân là
26.2 tỷ USD (6.1% tổng FDI của Trung Quốc) [16] (tham khảo Phụ lục
6). Tính đến cuối năm 2002, các nước ASEAN đã có 19,731 dự án đầu
tư tại Trung Quốc với tổng giá trị 58.09 tỷ USD [18].
Bảng 5: Đầu tư của từng nước ASEAN vào Trung Quốc
(tính đến cuối năm 2000)
Níc Sè dù ¸n Gi¸ trÞ thùc hiÖn Giá trị cam kết
(triÖu USD) (triệu USD)
Singapore 9,122 35,381 16,992
Malaysia 2,031 4,936 2,203
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 39 -
Indonesia 760 1,591 837
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Th¸i Lan 2,880 4,971 1,994
Philippine 1,369 2,564 1,029
ViÖt Nam 373 375 86
Myanma 146 194 34
Campuchia 24 22 7
Bruney 14 36 4
Lµo 14 25 5
FDI tõ ASEAN
(®Õn hÕt n¨m 2000)
16,733 50,095 23,191
FDI từ ASEAN
(đến hết năm
17,972 53,468 26,175 2001)
Tổng FDI vào
Trung
390,025 745,391 395,223 Quốc (đến hết
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 40 -
2001)
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Nguån: Bé Ngo¹i th¬ng vµ Hîp t¸c kinh tÕ Trung Quèc (MOFTEC)
[16].
Bảng trên cho thấy trong số các nước ASEAN, Singapore là nước
đầu tư vào Trung Quốc lớn nhất, chiếm tới gần 65% tổng FDI của cả
ASEAN vào Trung Quốc với số vốn FDI đạt 16.9 tỉ USD đến hết năm
2000, sau đó là Malaysia và Thái Lan nhưng số FDI của hai nước này
vào Trung Quốc kém hơn nhiều so với Singapore. Các nước ASEAN
còn lại có kim ngạch đầu tư vào Trung Quốc còn nhỏ, đặc biệt là đầu tư
của Campuchia, Myanmar, Lào,Việt Nam và Brunei hầu như không
đáng kể.
Theo Bộ Thương mại Trung Quốc (MOC), trong thời gian từ đầu
năm 2003 đến nay, một số nước thành viên ASEAN như Singapore,
Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines đã đầu tư vào 982 dự án ở
Trung Quốc với tổng giá trị cam kết là 2.82 tỷ USD [18].
ii. Đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN:
Về phía Trung Quốc, mặc dù đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN
vẫn ở mức thấp, chỉ đạt 135.8 tỷ USD năm 1999, chiếm gần 1% tổng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 41 -
FDI tại ASEAN (xem biểu đồ 4), nhưng đầu tư của Trung Quốc vào
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ASEAN trong những năm gần đây đã tăng nhanh với tốc độ trung bình
60%/ năm [19].
Biểu đồ 4: Tỷ lệ FDI từ Trung Quốc trong tổng FDI vào ASEAN
Đơn vị: %
1.66%
0.92%
0.45%
0.41%
0.15%
1995
1996
1997
1998
1999
Nguồn: Statistics of Foreign Direct Investment in ASEAN (Extended
Data Set); ASEAN Secretariat; World Investment Report 2001.
Theo số liệu của Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc
(MOFTEC), tổng đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN vào cuối năm
2001 bao gồm 740 dự án trị giá 1.1 tỷ USD [16] và tính đến tháng 9/
2002, Trung Quốc đã đầu tư vào 769 dự án ở các nước ASEAN với tổng
giá trị 690 triệu USD [17]. Trong thời gian 6 tháng đầu năm 2003, Trung
Quốc đã đầu tư vào 822 dự án của các nước ASEAN với tổng giá trị cam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 42 -
kết là 1.37 tỷ USD [18].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 43 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Trong số các nước ASEAN, nước tiếp nhận đầu tư nhiều nhất từ
Trung Quốc là Thái Lan (87.980 triệu USD), sau đó đến Campuchia,
Singapore và Indonesia (xem bảng 6). Đầu tư của Trung Quốc vào Việt
Nam, Lào và Philippines còn rất thấp so với các nước trong khu vực, đặc
biệt là Philippines với 14.600 triệu USD; tuy vậy, nếu so với tổng FDI
vào mỗi nước thì FDI của Trung Quốc lại chiếm tỷ trọng khá cao.
Bảng 6: Đầu tư của Trung Quốc vào từng nước ASEAN
(Tính đến cuối năm 2000)
Đơn vị: triệu USD
Níc Sè dù ¸n Tæng ®Çu t §Çu t tõ
Trung Quèc
Tổng 692 892.800 458.660
Việt Nam 41 48.770 31.000
Lào 15 44.040 29.370
Campuchia 50 110.830 85.000
Myanmar 30 146.380 48.580
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 44 -
Thái Lan 219 201.050 87.980
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Malaysia 92 69.340 33.900
Singapore 161 78.350 68.620
Indonesia 50 159.070 59.620
Philippines 34 34.980 14.600
Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC)
[16].
Theo đà phát triển của kinh tế, cùng với việc nâng cao năng lực
kinh doanh của của các doanh nghiệp và sự hỗ trợ về tài chính tiền tệ và
chính sách của nhà nước Trung Quốc, sẽ ngày càng có nhiều doanh
nghiệp Trung Quốc đầu tư ra bên ngoài. Theo dự tính của Uỷ ban phát
triển mậu dịch Liên hợp quốc (UNCTAD), các doanh nghiệp Trung
Quốc đã trở thành một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất
trong các nước đang phát triển. Các nước ASEAN với vị trí địa lý láng
giềng, với lịch sử và văn hoá gần gũi với Trung Quốc, chắc chắn sẽ trở
thành một trong những khu vực chủ yếu đón nhận đầu tư từ các doanh
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 45 -
nghiệp Trung Quốc.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 1.1.3.3. Hợp tác Tiểu vùng Mekong
ASEAN và Trung Quốc đã và đang hợp tác chặt chẽ trong các
chương trình và dự án phát triển Mekong trong các khuôn khổ khác nhau
như phát triển tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS), Hợp tác phát triển lưu
vực Mekong ASEAN (AMBDC) và Uỷ hội sông Mekong (MRC), trong
đó phát triển tiểu vùng Mekong mở rộng là nội dung hợp tác then chốt
giữa Trung Quốc và ASEAN nhằm giúp các bên đối tác khai thác những
tiềm năng kinh tế đa dạng của mình và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ
sở bình đẳng, tin tưởng lẫn nhau và cùng có lợi .
Trong 10 năm vừa qua, hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng. Đã có gần 100 [15] dự án về cơ sở hạ
tầng được thực thi trong các lĩnh vực then chốt như giao thông, năng lư-
ợng, viễn thông, môi trường, du lịch, phát triển nhân lực, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thúc đẩy phát triển thương mại và đầu tư.
Năm 2001, tại hội nghị bộ trưởng lần thứ 10, các nước Tiểu vùng
Mekong đã thông qua chiến lược khung cho 10 năm tới của Chương
trình hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong. Các nhà lãnh đạo hợp tác kinh
tế Tiểu vùng Mekong cũng đã xác nhận lại kế hoạch hành động chiến l-
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 46 -
ược bao gồm 11 chương trình chính trong các lĩnh vực như các hành
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lang giao thông chính, các mạng lưới viễn thông, các mạng lưới điện,
đầu tư, thương mại và du lịch.
Tháng 11 năm 2002 đã diễn ra cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên về
việc tiếp tục phát triển hợp tác Tiểu vùng Mekong. Tại cuộc họp này,
Trung Quốc đã trình bày báo cáo về việc tham gia của Trung Quốc vào
việc phát triển lưu vực sông Mekong, trong đó nêu khái quát các kế
hoạch và dự án chủ yếu khai thác bồn địa Mekong của Trung Quốc. Hợp
tác tiểu vùng Mekong được đẩy mạnh sẽ có lợi cho các nước hữu quan
phát huy ưu thế riêng, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển nhanh, có lợi
cho tiến trình nhất thể hoá và rút ngắn khoảng cách giữa các nước
ASEAN, thúc đẩy kinh tế Đông Á tăng trưởng liên tục.
1.1.3.4. Hợp tác tài chính tiền tệ:
Sau khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, các nước trong khu
vực đã đánh giá rất cao vai trò của hợp tác tài chính tiền tệ. Trong khuôn
khổ 10 + 3 (ASEAN + Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), Trung
Quốc và các nước ASEAN đã tiến hành hàng loạt các biện pháp cụ thể
để tăng cường hợp tác.
Trung Quốc đã tích cực thực hiện Sáng kiến Chiang - Mai và ký
kết các hiệp định song biên về hoán đổi tiền với Thái Lan và Malaysia. Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 47 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Từ năm 2001, Chính phủ Trung Quốc đã tổ chức một số hội nghị mang
tính kỹ thuật đối với các Ngân hàng Trung ương của các nước 10 + 3 tại
Bắc Kinh và Thượng Hải.
1.1.3.5. Nông nghiệp:
Trong các năm qua, hợp tác nông nghiệp Trung Quốc - ASEAN đã
có những tiến triển tốt. Nhiều lớp đào tạo, hội thảo và hội nghị về công
nghệ trong nông nghiệp và đào tạo cán bộ đã được tổ chức tại Trung
Quốc và các nước ASEAN. Ngày 2/ 11/ 2002, Bản ghi nhớ về nông
nghiệp Trung Quốc – ASEAN đã được ký kết. Bản ghi nhớ đã tập trung
vào hợp tác nông nghiệp trung hạn và dài hạn trong những lĩnh vực như
lúa lai, nghề cá và thủy sản, công nghệ sinh học, sản phẩm và máy nông
nghiệp.
1.1.3.6. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, tạo nền
tảng cho hợp tác chung giữa ASEAN và Trung Quốc trong các lĩnh vực
khác. Phát triển nguồn nhân lực sẽ đem lại sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa
ASEAN và Trung Quốc thông qua trao đổi và liên kết giữa các chuyên
gia, quan chức. Năm 2001, Trung Quốc đưa ra đề nghị 14 dự án [20]
hợp tác trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực. Hầu hết các dự án Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 48 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam này đã bắt đầu được thực hiện và đã cho kết quả khả quan. Năm 2002,
Trung Quốc đưa ra tiếp 7 đề nghị nữa [20]. Tất cả các đề nghị này đã
được thông qua tại cuộc gặp lần thứ 4 của Uỷ ban hợp tác chung
ASEAN - Trung Quốc và hiện đang được thực hiện.
1.1.3.7. Công nghệ thông tin và liên lạc (ICT)
Trong nền kinh tế tri thức, ICT đóng vai trò chủ đạo nhằm đảm
bảo sản lượng cao giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. ASEAN và Trung
Quốc cho rằng hợp tác trong lĩnh vực ICT cần được coi là một công cụ
để rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế. Một số dự án đã được xây
dựng nhằm thúc đẩy trao đổi thông tin về xây dựng viễn thông, luật lệ và
quy định mạng, bảo mật thông tin. Bên cạnh đó, Trung Quốc luôn ủng
hộ và tham gia vào chương trình phát triển ASEAN điện tử (e-ASEAN).
Trong những năm tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác trong
việc đào tạo công nghệ thông tin cho nguồn nhân lực của các nước
ASEAN và tích cực tham gia vào việc phát triển những cơ sở hạ tầng
cần thiết để hỗ trợ cho công nghệ thông tin ở các nước ASEAN.
1.1.3.8. Giao thông vận tải:
Năm 2001, tại một loạt các hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 1, Cựu
Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã đề nghị thành lập một cơ chế Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 49 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cho các cuộc gặp cấp bộ trưởng giao thông vận tải để tăng cường liên lạc
và điều phối.
Ngày 2/ 5/ 2002, Trung Quốc và ASEAN đã đạt được thỏa thuận
về các điều kiện tham vấn cho sự hợp tác ASEAN – Trung Quốc nhằm
cải thiện giao thông đường bộ, đường biển và đường không cùng với cơ
sở hạ tầng và dịch vụ có liên quan.
Tháng 9/ 2002, tại cuộc gặp cấp bộ trưởng giao thông vận tải các
nước ASEAN và Trung Quốc được tổ chức tại Jakarta, các bên đã đi đến
hiệp định về việc tăng cường hợp tác toàn diện trong các vấn đề liên
quan tới vận tải đường bộ, đường thuỷ và hàng không. Trung Quốc đã
cam kết đầu tư 5 triệu USD để nạo vét thượng nguồn sông Mekong, tài
trợ cho 1/3 nguồn kinh phí xây dựng phần tại Lào của đường cao tốc
Côn Minh - Bangkok (tương đương với 30 triệu USD) [20]. Ngoài ra,
Trung Quốc còn hỗ trợ việc xây dựng tuyến đường sắt xuyên Á nối giữa
Côn Minh và Singapore.
1.1.3.9. Du lịch:
Du lịch giữ vai trò quan trọng trong các nền kinh tế Đông Á. Hiện
nay thị trường du lịch Trung Quốc đang tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Năm 1995, có 1.1 triệu du khách ASEAN thăm Trung Quốc; con số này Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 50 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đã tăng lên 1.8 triệu vào năm 2000 và 2 triệu vào năm 2002 [15]. Về
phần mình, các nước ASEAN cũng trở thành những điểm đến của khách
du lịch Trung Quốc với số lượng du khách ngày càng tăng mỗi năm, từ
80 vạn du khách vào năm 1995 lên 2.3 triệu vào năm 2000 [21].
Trung Quốc đã có các Hiệp định hợp tác du lịch cấp chính phủ
hoặc Bản ghi nhớ về hợp tác du lịch với nhiều nước ASEAN, trong đó
có Thái Lan, Singapore, Philippines, Việt Nam và Myanmar.
Tháng 1 năm 2002, tại Yogyakarta (Indonesia) đã diễn ra cuộc họp
đầu tiên giữa các bộ trưởng du lịch trong khuôn khổ 10+3 đánh dấu sự
khởi đầu chính thức của hợp tác du lịch trong khuôn khổ 10+3. Các
nước ASEAN đã là những thành viên tích cực tại hội chợ du lịch quốc tế
Trung Quốc tổ chức tại Thượng Hải tháng 11/ 2002.
1.1.3.10. Chính trị ngoại giao và an ninh
Về mặt chính trị ngoại giao và an ninh, các nước ASEAN và Trung
Quốc đã có truyền thống hợp tác hữu nghị lâu đời. Từ đầu những năm
90 đến nay, một số nước trong ASEAN đã lần lượt thiết lập, khôi phục
hoặc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, từ đó góp
phần mở đường hoặc khai thông cho quan hệ kinh tế và các quan hệ
khác giữa hai bên phát triển toàn diện. Giữa một số nước ASEAN và Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 51 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Trung Quốc tuy vẫn còn tồn tại một số bất đồng về biên giới lãnh thổ,
trong đó có vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, nhưng tại cuộc
gặp gỡ ở Phnompenh tháng 11/ 2002, lãnh đạo cao cấp hai bên đã ký
Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), nhằm tiến tới
xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC), mở đường cho một
giải pháp cơ bản, lâu dài đối với các tranh chấp ở biển Đông. Ngoài ra,
hai bên đã thông qua Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác
trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Gần đây nhất, tại Hội nghị cấp
cao ASEAN lần thứ 9 diễn ra vào đầu tháng 10/ 2003 tại Bali
(Indonesia), các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã thông qua
Tuyên bố chung về đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc vì hoà bình
và thịnh vượng, đồng thời Trung Quốc cũng chính thức tham gia Hiệp
ước thân thiện và hợp tác ASEAN (TAC). Điều này một lần nữa khẳng
định vài trò và uy tín ngày càng cao của ASEAN, mở ra triển vọng biến
Hiệp ước TAC thành Bộ quy tắc ứng xử giữa ASEAN và các nước ngoài
khu vực. TAC sẽ là cơ sở để giải quyết những vấn đề còn tồn tại, đồng
thời xây dựng và củng cố quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện giữa
ASEAN và Trung Quốc. Hơn thế nữa, những văn kiện trên đánh dấu sự
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 52 -
tín nhiệm về chính trị – an ninh giữa ASEAN và Trung Quốc đã phát
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam triển tới một trình độ mới, tạo cơ sở và là điều kiện đảm bảo quan trọng
cho việc thành lập khu vực mậu dịch tự do nói riêng và cho việc bảo vệ
hoà bình, ổn định ở khu vực nói chung.
Nói tóm lại, hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc đã phát triển
nhanh trong thập kỷ qua trên tất cả các lĩnh vực nhằm đạt được sự tăng
trưởng kinh tế bền vững có lợi cho cả hai bên. Trong xu hướng toàn cầu
hoá hiện nay, các thể chế thương mại khu vực đòi hỏi phải có sự hợp tác
kinh tế chặt chẽ hơn giữa các bên nhằm vượt qua thách thức và tận dụng
các cơ hội. Trong bối cảnh đó, ASEAN và Trung Quốc cần quyết tâm
đưa ra một khuôn khổ hợp tác kinh tế toàn diện và hướng về tương lai
nhằm đặt ra nền tảng pháp lý cho các hoạt động hợp tác kinh tế giữa hai
bên, bao gồm một khu vực mậu dịch tự do. Việc thiết lập Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ mang lại những cơ hội to lớn và cả
những thách thức. Để bảo đảm thành công, ý chí chính trị là một yếu tố
quyết định, do đó cần xây dựng một lộ trình và kế hoạch hành động cụ
thể để Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sớm được thực
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 53 -
hiện theo mong muốn của các nhà lãnh đạo hai bên.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 1.2. Sự hình thành ACFTA
1.2.1. Các mốc thời gian chính
Đầu những năm 90 là giai đoạn hợp tác khu vực còn bị coi nhẹ
nhưng trong nửa cuối thập kỷ đó, các nước đã chứng kiến những động
thái thể chế hoá các dàn xếp mậu dịch tự do thông qua các khu vực mậu
dịch tự do song phương và thông qua các sáng kiến khác. Nếu như
những năm đầu thập kỷ 90 là giai đoạn Mỹ tăng cường can dự vào khu
vực này, thì nửa cuối thập kỷ chứng kiến việc tăng cường mở rộng hợp
tác khu vực thông qua nhóm ASEAN + 3 (10 nước ASEAN và Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc).
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đã làm các nước trong
khu vực nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của hợp tác kinh tế
trong khu vực. Sự hợp tác về tiền tệ Châu Á và việc tổ chức các cuộc
gặp 10 + 3 đã cho thấy, hợp tác kinh tế trong khu vực này đã trở thành
một vấn đề rất quan trọng. Theo chương trình này, nhiều kế hoạch hợp
tác kinh tế đã được đưa ra, như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Ấn Độ, Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN –
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 54 -
Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do giữa Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Bản, Khu vực mậu dịch tự do Đông Á, … Vấn dề quan trọng nhất là
việc các cường quốc kinh tế đã bắt đầu chú trọng đến phát triển hợp tác
kinh tế khu vực. Nhật Bản, nước luôn theo hướng hợp tác thương mại đa
phương, nay đã bắt đầu đàm phán với Hàn Quốc, Singapore và Mehico
về các hiệp định thương mại song phương. Từ năm 1999, Trung Quốc
cũng đã thay đổi thái độ trước đây của mình về hợp tác kinh tế khu vực.
Thực tế là Trung Quốc đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, tạo
điều kiện để đưa hợp tác kinh tế khu vực lên mức cao hơn trên cơ sở
thương mại tự do theo quy định của WTO.
Mọi đề nghị về hợp tác kinh tế khu vực ở Đông Á đều có thể trở
thành hiện thực, nhưng đồng thời những đề xuất này cũng vấp phải
những trở ngại nhất định. Xét về mặt khả thi của các mối liên kết kinh tế
khu vực, có khả năng nhất trong giai đoạn hiện nay là quan hệ hợp tác
giữa 10 nước ASEAN và Trung Quốc. Sự thành công của mối hợp tác
kinh tế 10 + 1 này có thể sẽ được phổ biến ra các nước khác trong khu
vực Đông Á và làm đối trọng với khối Liên hiệp Châu Âu (EU) đã được
mở rộng và Khu vực mậu dịch tự do Châu Mỹ (FTAA).
Ý tưởng về việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa Trung
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 55 -
Quốc và ASEAN xuất phát từ đề xuất của Cựu Thủ tướng Trung Quốc
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Chu Dung Cơ tại Hội nghị thượng đỉnh không chính thức ASEAN lần
thứ 4 tổ chức vào tháng 11/ 2000. Trong năm này, Trung Quốc còn thoả
thuận sẽ tăng cường hợp tác và đưa ra những hạng mục hợp tác cụ thể
như khai thác sông Mekong, xây dựng tuyến đường sắt xuyên Á…
Đến năm 2001, những thoả thuận này giữa Trung Quốc và ASEAN
đã có những bước tiến mới. Trung Quốc ủng hộ nỗ lực của ASEAN thiết
lập khu vực không có vũ khí hạt nhân, xem xét ký kết Hiệp định hợp tác
hữu nghị Đông Nam Á, cam kết đầu tư 5 triệu USD để nạo vét sông
Mekong và tài trợ 1/3 chi phí xây dựng tuyến đường cao tốc Bankok -
Côn Minh. Đặc biệt, tại Hội nghị giữa những nhà lãnh đạo ASEAN -
Trung Quốc tổ chức vào ngày 6 /11/ 2001 tại Banda Seri Begawan
(Brunei), các nhà lãnh đạo Trung Quốc và 10 nước ASEAN đã đi đến
nhất trí về việc thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
(ACFTA) trong vòng 10 năm, đồng thời chính thức uỷ quyền cho các bộ
trưởng và quan chức của hai bên đàm phán về vấn đề này.
Từ sau khi đạt được thỏa thuận thành lập ACFTA, hai bên đã nỗ
lực xúc tiến các công tác thúc đẩy tiến trình ra đời của ACFTA. Các tổ
chức như Uỷ ban đàm phán thương mại ASEAN - Trung Quốc (TNC -
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 56 -
Trade Negotiation Committee) và Hội đồng thương mại ASEAN - Trung
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Quốc đã được thành lập. Đồng thời các cuộc gặp giữa các nhà lãnh đạo
hai bên để đàm phán về phát triển hợp tác kinh tế thương mại đã diễn ra
liên tục trong năm qua như: Cuộc gặp giữa các quan chức kinh tế cao
cấp ASEAN - Trung Quốc (SEOM - Senior Economic Officials
Meeting) lần thứ 3 hồi tháng 5/ 2002 tại Bắc Kinh, Hội thảo quốc tế về
hợp tác trong thương mại, đầu tư và phát triển ASEAN - Trung Quốc
diễn ra vào tháng 6 tại Côn Minh Trung Quốc, Diễn đàn về hợp tác
ASEAN - Trung Quốc vào tháng 8 tại Kuala Lumpur (Malaysia), Hội
nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN - Trung Quốc lần thứ nhất vào tháng 9
tại Brunei, cuộc gặp giữa các quan chức kinh tế cấp cao của hai bên vào
tháng 10 tại Singapore, … Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các cuộc viếng
thăm của các nhà lãnh đạo cũng như của các nhóm khảo sát của hai bên
đến cả Trung Quốc và ASEAN để tìm hiểu tình hình thị trường và tìm
kiếm cơ hội hợp tác.
Với những nỗ lực của cả hai bên, ngày 4/ 11/ 2002, tại Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 diễn ra ở thủ đô Phnompenh
(Campuchia), các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã chính thức ký
bản hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 57 -
(Framework Agreement on Asean–China Comprehensive Economic
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Cooperation - FAACCEC), mở đường cho việc thiết lập Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) trong 10 năm tới. Đây là
một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ
ASEAN - Trung Quốc trong thế kỷ này.
Ý nghĩa của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện
ASEAN - Trung Quốc
Trước đây, không phải không có những lo ngại về ý tưởng thành
lập khối kinh tế chung giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á
vốn có xu hướng cạnh tranh hơn là hợp tác, thậm chí còn có ý kiến cho
rằng sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc, với tỷ lệ tăng trưởng liên
tục đạt khoảng 7% [5], sẽ gây nên mối đe dọa đối với ASEAN. Trong
bối cảnh đó, theo thông lệ, người ta trông đợi rằng ASEAN sẽ dựng lên
những rào cản tự vệ để chống lại hàng hóa của Trung Quốc và triển khai
các biện pháp bảo hộ mậu dịch để đánh bật sự thách thức của Trung
Quốc. Tất nhiên, đấy là một giải pháp. Nhưng ASEAN đã chọn giải
pháp khác, mang tính thách thức hơn, đó là gần gũi hơn và mở cửa nền
kinh tế của tổ chức này với Trung Quốc trên cơ sở có đi có lại. Hơn nữa,
sau cuộc khủng hoảng 1997, e sợ bị gạt ra ngoài lề công cuộc toàn cầu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 58 -
hoá, ASEAN đã và đang nỗ lực phấn đấu trở thành khu vực kinh tế năng
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam động nhất thế giới. Thêm vào đó, Trung Quốc đưa ra những ưu tiên nhất
định – hứa hẹn mở cửa thị trường trước các nước ASEAN, đồng thời ưu
đãi các nước kém phát triển trong khối gồm Việt Nam, Lào, Campuchia
và Myanmar. Thế là ASEAN chấp thuận: “Trung Quốc đã có thiện chí,
chúng tôi cũng đáp lại” [22] – Noordin Azhari, phụ trách hợp tác kinh tế
trong Ban thư ký ASEAN đã phát biểu như vậy. Tại cuộc hội thảo
“Quan hệ đối tác kinh tế giữa ASEAN, Nhật Bản và Trung Quốc” tổ
chức vào cuối tháng 3/ 2002 tại Singapore, Giáo sư Tommy Koh, giám
đốc Viện nghiên cứu chính sách của Singapore cũng nhận định: “Trung
Quốc đã đưa ra đề nghị thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc. Đây là một động thái rất thông minh của Trung Quốc và
ASEAN đã hành động đúng khi chấp nhận đề nghị này của Trung Quốc.
Trung Quốc sẽ không coi ASEAN là một cỗ máy thân phương tây, tức là
mang tính thù địch với những lợi ích của Trung Quốc. Ngược lại, Trung
Quốc coi ASEAN là một người bạn và một Đông Nam Á thật sự mang
tính bản địa có trách nhiệm với vận mệnh của mình” [23].
Như vậy, Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN -
Trung Quốc ra đời đã đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của ASEAN
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 59 -
và Trung Quốc. Hiện nay, trong bối cảnh suy giảm của nền kinh tế thế
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giới, đặc biệt là kinh tế Mỹ, các nước ASEAN nhận thấy rằng đã đến lúc
họ không thể chỉ dựa vào xuất khẩu sang thị trường Mỹ mà cần phải
khai thác thị trường mới để phát triển kinh tế. Từ trước đến nay, Mỹ là
thị trường xuất khẩu lớn nhất của hầu hết các nước Đông Nam Á. Kim
ngạch xuất khẩu sang Mỹ luôn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các
nước ASEAN nên khi kinh tế Mỹ giảm sút thì nền kinh tế của các nước
này cũng bị suy thoái, trong khi đó Trung Quốc vẫn giữ tốc độ tăng
trưởng kinh tế đáng khâm phục. Vì vậy, các nước Đông Nam Á không
những cần điều chỉnh chính sách kinh tế mà còn cần tìm một thị trường
mới để không bị quá phụ thuộc vào nền kinh tế Mỹ. Hiệp định Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc chính là giải pháp cho vấn đề
trên. Hơn nữa, ASEAN và Trung Quốc là những nước đang phát triển và
đang ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau nhưng đang cùng
phải đối mặt với những cơ hội và thách thức của xu thế toàn cầu hoá và
khu vực hoá kinh tế một cách mạnh mẽ của thế kỷ 21 này. Các khu vực
chính trên toàn cầu đều đã thiết lập các Khu vực mậu dịch tự do như
Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ, Liên minh Châu Âu. Quan trọng hơn,
Khu vực mậu dịch tự do đã trở thành phương thức hội nhập quốc tế song
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 60 -
song với toàn cầu hoá. Vì vậy, các nước Đông Nam Á cũng cần có một
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giải pháp để đảm bảo lợi ích khu vực cũng như tránh tác động của sự
suy giảm kinh tế toàn cầu. Do đó, việc thành lập một hiệp định mậu dịch
tự do giữa hai bên và tăng cường quan hệ song phương lúc này là một
quyết định sáng suốt của ASEAN và Trung Quốc trong quá trình theo
đuổi những cơ hội phát triển mới.
1.2.2. Nội dung cam kết
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và
Trung Quốc kí ngày 4/ 11/ 2002 gồm tổng cộng 16 điều và 4 phụ lục
kèm theo. Nội dung chính của hiệp định được chia làm 3 phần: Phần 1
(từ điều 3 đến điều 6) đề cập đến thương mại hàng hoá, thương mại dịch
vụ, đầu tư và chương trình thu hoạch sớm; Phần 2 (điều 7) là về hợp tác
kinh tế trên các lĩnh vực khác; Phần 3 (từ điều 8 đến điều 16) cũng là
phần cuối cùng gồm các quy định về khung thời gian của các chương
trình hợp tác, về chế độ đãi ngộ MFN, các ngoại lệ chung, cơ chế giải
quyết tranh chấp, kế hoạch đàm phán và một số điều khoản khác liên
quan đến sự sửa đổi, hiệu lực … của Hiệp định.
1.2.2.1. Mục tiêu của Hiệp định:
i. Tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 61 -
ASEAN và Trung Quốc;
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ii. Xúc tiến thương mại hàng hoá, dịch vụ, cũng như cơ chế đầu tư
thông thoáng, rõ ràng;
iii. Khai thác các lĩnh vực mới và thiết lập các biện pháp thích hợp cho
hợp tác kinh tế chặt chẽ hơn giữa các bên;
iv. Tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế có hiệu quả hơn của các nước
thành viên mới của ASEAN và tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các bên.
1.2.2.2. Các biện pháp hợp tác kinh tế:
i. Tích cực loại bỏ thuế và hàng rào phi thuế đối với hầu hết thương
mại hàng hoá;
ii. Tiến tới tự do hoá thương mại dịch vụ về cơ bản tất cả các lĩnh vực;
iii. Thiết lập một cơ chế đầu tư cạnh tranh và cởi mở để tạo thuận lợi và
thúc đẩy đầu tư trong khuôn khổ FTA;
iv. Áp dụng các ứng xử đặc biệt, khác biệt và linh hoạt cho các nước
thành viên mới của ASEAN;
v. Áp dụng linh hoạt cho các bên trong đàm phán FTA đối với khu vực
nhạy cảm của lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, dựa trên nguyên
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 62 -
tắc có đi có lại và cùng có lợi;
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vi. Thiết lập các biện pháp tạo thuận lợi đầu tư và thương mại có hiệu
quả, bao gồm nhưng không hạn chế việc đơn giản hoá thủ tục hải
quan và các thoả thuận công nhận lẫn nhau;
vii. Mở rộng hợp tác kinh tế ra các lĩnh vực khác có thể đồng thuận
được của cả hai bên ASEAN và Trung Quốc, mà sẽ bổ sung vào
việc làm sâu sắc thêm liên kết đầu tư và thương mại giữa ASEAN
và Trung Quốc, hình thành nên các chương trình hành động để thực
hiện các lĩnh vực hợp tác;
viii. Thiết lập các cơ chế thích hợp nhằm mục đích thực hiện có hiệu quả
hiệp định này.
1.2.2.3. Các chương trình hoạt động
i. Thương mại hàng hoá
Bên cạnh chương trình thu hoạch sớm, các bên đồng ý sẽ tiến hành
đàm phán loại bỏ thuế quan và dỡ bỏ các quy định khác hạn chế thương
mại đối với hầu hết thương mại hàng hoá giữa các bên (ngoại trừ các
mặt hàng cần thiết phù hợp với quy định của Điều 24 (8) (b) của Hiệp
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 63 -
định chung về thương mại và thuế quan của WTO).
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Các mặt hàng thuộc chương trình cắt giảm thuế và loại bỏ thuế
quan theo điều khoản này sẽ bao gồm các mặt hàng không tham gia
chương trình thu hoạch sớm và sẽ được phân chia theo 2 danh mục:
Danh mục mặt hàng thông thường (NT - Normal Track):
Những mặt hàng được liệt kê trong danh mục này sẽ có thuế suất MFN
áp dụng tương ứng bị cắt giảm dần hoặc loại bỏ phù hợp với lịch trình
và mức thuế suất (sẽ được các bên cùng thoả thuận) trong suốt thời gian
từ 01/ 01/ 2005 đến 2010 đối với ASEAN 6 (bao gồm Bruney,
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) và Trung
Quốc; từ 01/ 01/ 2005 đến 2015 với ngưỡng thuế suất khởi điểm cao hơn
và bước cắt giảm khác đối với các thành viên mới của ASEAN (bao gồm
Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar). Đối với những dòng thuế đã
được cắt giảm nhưng chưa cắt giảm xuống 0% trong giai đoạn kể trên,
thuế suất của những mặt hàng đó sẽ được loại bỏ tích cực trong phạm vi
thời gian do các bên thoả thuận.
Danh mục mặt hàng nhạy cảm (ST – Sensitive Track): Những
mặt hàng được liệt kê trong danh mục ST sẽ có thuế suất MFN áp dụng
tương ứng bị cắt giảm phù hợp với thuế suất cuối cùng vào ngày cuối
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 64 -
cùng hoàn thành cắt giảm do các bên thoả thuận; và nếu có thể áp dụng
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam được, sẽ tiến tới loại bỏ thuế trong phạm vi thời gian do các bên thoả
thuận.
ii. Thương mại dịch vụ:
Để tăng cường mở rộng thương mại dịch vụ, các bên đồng ý sẽ tiến
hành đàm phán để tích cực tự do hoá thương mại dịch vụ về cơ bản hầu
hết các lĩnh vực. Các vòng đàm phán sẽ trực tiếp đề cập đến các vấn đề:
Cơ bản loại bỏ các đối xử phân biệt giữa các bên và nghiêm
cấm tạo ra các biện pháp phân biệt đối xử mới liên quan tới thương mại
dịch vụ giữa các bên, ngoại trừ các biện pháp được phép theo Điều
khoản V(1)(b) của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của
WTO;
Phát triển theo chiều sâu và mở rộng phạm vi tự do hoá thương
mại dịch vụ theo hướng các nước ASEAN và Trung Quốc cam kết trong
khuôn khổ GATS;
Hợp tác dịch vụ được mở rộng giữa các bên nhằm cải thiện tính
hiệu quả và sự cạnh tranh, cũng như làm phong phú nguồn cung cấp và
phân phối dịch vụ của các bên.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 65 -
iii. Đầu tư
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Để thúc đẩy đầu tư và thiết lập một cơ chế đầu tư cạnh tranh, tự do,
thuận lợi và minh bạch, các bên thoả thuận:
Tiến hành đàm phán nhằm tích cực tự do hoá cơ chế đầu tư;
Tăng cường hợp tác về đầu tư, tạo thuận lợi cho đầu tư và cải
thiện tính minh bạch của các quy định và quy chế đầu tư;
Đưa ra cơ chế bảo hộ đầu tư.
iv. Các lĩnh vực hợp tác khác :
5 lĩnh vực hợp tác ưu tiên được các bên đưa ra là: nông nghiệp;
công nghệ thông tin và viễn thông; phát triển nguồn nhân lực; đầu tư; và
phát triển lưu vực sông Mekong. Ngoài 5 lĩnh vực trên, hợp tác giữa các
bên sẽ được mở rộng ra cho các lĩnh vực khác, bao gồm nhưng không
hạn chế các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, du lịch, công nghiệp, giao
thông vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hộ sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SMEs), môi trường, công nghệ sinh học, ngư nghiệp, lâm
nghiệp, khai khoáng, năng lượng và phát triển tiểu vùng.
Các biện pháp để đẩy mạnh hợp tác giữa các bên sẽ bao gồm
những biện pháp như: thúc đẩy và thuận lợi hoá thương mại hàng hoá,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 66 -
thương mại dịch vụ và đầu tư; tăng cường tính cạnh tranh của SMEs;
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thúc đẩy thương mại điện tử; nâng cao năng lực; chuyển giao công nghệ.
Các bên cũng đồng ý thực hiện các chương trình trợ giúp phát triển và
hỗ trợ kỹ thuật cho các nước, đặc biệt là các thành viên mới của
ASEAN, nhằm giúp các nước này điều chỉnh cơ cấu kinh tế và mở rộng
quan hệ thương mại, đầu tư với Trung Quốc.
v. Khung thời gian thực hiện :
Hiệp định khung quy định khung thời gian cụ thể cho mỗi chương
trình hoạt động:
Đối với thương mại hàng hoá, các cuộc đàm phán về cắt giảm
và bãi bỏ thuế quan và các vấn đề khác như trong điều 3 của Hiệp định
sẽ bắt đầu từ đầu năm 2003 và kết thúc vào 30/6/2004 để thiết lập
ACFTA trong thương mại hàng hoá vào năm 2010 đối với các nước
ASEAN 6 và Trung Quốc, và vào năm 2015 đối với các thành viên mới
của ASEAN. Các cuộc đàm phán về Quy tắc xuất xứ đối với thương mại
hàng hoá sẽ được hoàn thành không muộn hơn tháng 12/ 2003.
Đối với thương mại dịch vụ và đầu tư, các đàm phán về các thoả
thuận tương ứng sẽ bắt đầu vào năm 2003 và kết thúc càng sớm càng tốt
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 67 -
theo khung thời gian được các bên thoả thuận, có xét đến những lĩnh vực
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nhạy cảm của các bên và những đối xử đặc biệt, khác biệt và linh hoạt
đối với các thành viên mới của ASEAN.
Đối với các lĩnh vực hợp tác khác, các bên sẽ tiếp tục xây dựng
cách thức và bước đi có thể chấp thuận được đối với tất cả các bên có
liên quan.
vi. Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN)
Đây là điều khoản ưu tiên đặc biệt của Trung Quốc dành cho các
nước ASEAN chưa phải là thành viên của WTO bao gồm Lào,
Campuchia và Việt Nam. Trung Quốc đồng ý dành cho các nước này đối
xử tối huệ quốc phù hợp với những nguyên tắc và cam kết của Trung
Quốc với WTO kể từ ngày kí kết Hiệp định này. Như vậy là mặc dù
chưa được gia nhập WTO, 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia vẫn được
hưởng những ưu đãi của WTO trong quan hệ với Trung Quốc. Đây là
điều kiện thuận lợi để các nước này đẩy nhanh hơn quá trình gia nhập
ACFTA, theo kịp những nước phát triển hơn trong khối.
vii. Chương trình thu hoạch sớm (Early Harvest Programme –
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 68 -
EHP):
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đây là nội dung được đề cập kỹ nhất và cụ thể nhất trong Hiệp
định khung, cũng là một điểm đặc biệt của Hiệp định khung này. Vì như
trên đã nêu, thời gian thoả thuận hoàn thành ACFTA là trong vòng 10
năm, kết thúc vào 2010 đối với Trung Quốc và ASEAN 5 (riêng
Philippines không tham gia vào Chương trình thu hoạch sớm), vào 2015
đối với 4 nước ASEAN mới. Tuy nhiên, các bên đã linh động trong đàm
phán đưa ra một chương trình thực hiện sớm một số lĩnh vực trong
khuôn khổ hợp tác nhằm mang lại lợi ích ngay cho các bên trước thời
hạn hoàn thành ACFTA.
Nội dung chính của Chương trình thu hoạch sớm là những thoả
thuận xoá bỏ hàng rào thuế quan đối với một số mặt hàng, chủ yếu là
hàng nông sản cần thực hiện giữa các nước ngay sau khi kí kết hiệp
định. Cụ thể như sau :
Những sản phẩm thuộc EHP : Đó là những sản phẩm thuộc mã
số HS 8/9, gồm 8 nhóm mặt hàng nông sản như :
01 Động vật sống 05 Các sản phẩm từ động vật
02 Thịt và các bộ phận nội tạng khác
03 Cá 06 Cây sống
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 69 -
04 Sữa và các sản phẩm từ sữa 07 Rau ăn
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
08 Quả ăn và các loại hạt
Tất cả các nước đều phải thực hiện EHP đối với những sản phẩm
này. Tuy nhiên, trong số những sản phẩm trên, một số nước được đưa ra
danh mục sản phẩm loại trừ (Exclusion List) được miễn đưa vào EHP.
Cho đến thời điểm ký Hiệp định, đã có 2 nước đã đàm phán xong với
các bên còn lại về danh mục sản phẩm loại trừ này, đó là Campuchia và
Việt Nam. Danh mục loại trừ của Campuchia gồm có 30 mặt hàng, trong
đó nhiều nhất là các mặt hàng thuộc mã 02, 07 và 08, chỉ có một loại
mặt hàng thuộc mã 01 và một loại mặt hàng thuộc mã 03. Danh mục loại
trừ của Việt Nam có 15 mặt hàng thuộc mã 01, 02, 04 và 08. Các nước
Brunei, Indonesia, Myanmar, Singapore, Thái Lan và Trung Quốc không
được đưa ra danh mục loại trừ. Còn lại các nước Lào, Malaysia và Trung
Quốc thì chưa hoàn thành xong việc đàm phán về danh mục loại trừ và
sẽ phải hoàn thành vào 1/3/2003.
Ngoài 8 nhóm mặt hàng nông sản trên, còn có một số sản phẩm
riêng bao gồm cả những sản phẩm công nghiệp cũng được đưa vào EHP
nhưng chỉ được áp dụng giữa Trung Quốc với từng nước ASEAN trên
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 70 -
góc độ song phương. Các nước ASEAN này đều thuộc ASEAN 6. Cho
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đến nay, chỉ có Indonesia và Thái Lan đã hoàn thành đàm phán với
Trung Quốc về các sản phẩm này.
Mức giảm thuế:
Trừ những sản phẩm có mức thuế MFN 0% hoặc có mức thuế
được giảm xuống 0%, mức thuế vẫn sẽ giữ nguyên là 0%, còn lại tất cả
các sản phẩm thuộc chương trình EHP được chia thành 3 loại :
Loại 1: là các sản phẩm có mức thuế MFN > 15% đối với Trung
Quốc và các nước ASEAN 6, mức thuế MFN >=30% đối với các nước
thành viên ASEAN mới.
Loại 2: là các sản phẩm có mức thuế >= 5% và <= 15% đối với
Trung Quốc và ASEAN 6, mức thuế >=15% và < 30% đối với các nước
ASEAN mới.
Loại 3: là các sản phẩm có mức thuế < 5% đối với Trung Quốc và
các nước ASEAN 6, mức thuế < 15% đối với các nước thành viên
ASEAN mới.
Lộ trình giảm thuế:
Chương trình EHP sẽ được bắt đầu thực hiện không muộn hơn
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 71 -
1/1/2004 với lộ trình cắt giảm cụ thể như sau:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng 7: Lộ trình giảm thuế theo EHP đối với Trung Quốc và các
nước ASEAN 6
Kh«ng muén Kh«ng muén Kh«ng muén h¬n
h¬n 1/1/2004 h¬n 1/1/2005 1/1/2006 Lo¹i s¶n phÈm
1 ( > 15%) 10% 5% 0%
2 ( > =5%, < 5% 0% 0%
15%)
3 ( < 5%) 0% 0% 0%
Nguån: HiÖp ®Þnh khung vÒ hîp t¸c kinh tÕ toµn diÖn ASEAN - Trung
Quèc (FAACCEC), (b¶n tiÕng anh) – Ban th ký ASEAN
(www.aseansec.org).
Bảng 8: Lộ trình giảm thuế theo EHP đối với các nước thành viên
ASEAN mới
Bảng 8a: Các sản phẩm loại 1 - thuế suất > =30%
Không Không Không Khôn Khôn Không Không
muộn muộn muộn g g muộn muộn
Nước
hơn hơn hơn muộn muộn hơn hơn
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 72 -
1/1/2004 1/1/20 1/1/20 hơn hơn 1/1/20 1/1/201
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
05 06 1/1/20 1/1/20 09 0
07 08
Việt Nam 20% 15% 10% 5% 0% 0% 0%
Lào và
20% 14% 8% 0% 0% - -
Myanmar
Campuchia 20% 15% 10% 5% 0% - -
Bảng 8b: Các sản phẩm loại 2 - thuế suất >= 15% và < 30%
Không Không Không Không Khôn Khôn Không
muộn muộn muộn muộn g g muộn
hơn hơn hơn hơn muộn muộn hơn
Nước
1/1/20 1/1/20 1/1/20 1/1/20 hơn hơn 1/1/201
04 05 06 07 1/1/20 1/1/20 0
08 09
Việt Nam 10% 10% 5% 5% 0% 0% 0%
Lào và
10% 10% 5% 0% 0% - -
Myanmar
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 73 -
Campuchia 10% 10% 5% 5% 0% - -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng 8c: Các sản phẩm loại 3 - thuế suất < 15%
Không Không Không Không Khôn Khôn Không
muộn muộn muộn muộn g g muộn
hơn hơn hơn hơn muộn muộn hơn
Nước
1/1/20 1/1/20 1/1/20 1/1/20 hơn hơn 1/1/201
04 05 06 07 1/1/20 1/1/20 0
08 09
0 – Việt Nam
10% 10% 5% 0% 0% 0%
5%
Lào và
5% 5% 0 - 5% 0% 0% - -
Myanmar
- - Campuchia 5% 5% 0 - 5% 0 - 5% 0%
Nguồn: Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung
Quốc (FAACCEC), (bản tiếng anh) – Ban thư ký ASEAN
(www.aseansec.org).
Các quy định khác trong EHP:
Bên cạnh những thoả thuận về thuế quan đối với hàng hoá, EHP
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 74 -
còn có những quy định về nguyên tắc xuất xứ và cách áp dụng các điều
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khoản của WTO cho thương mại hàng hoá. Các bên cũng cam kết sẽ tìm
ra những biện pháp khả thi để áp dụng EHP đối với lĩnh vực thương mại
dịch vụ.
Chương trình EHP cũng đề cập đến việc thực hiện các hoạt động
hợp tác của 2 bên trên các lĩnh vực khác như dự án đường sắt nối
Singapore - Côn Minh và dự án đường cao tốc Bankok - Côn Minh theo
khuôn khổ của Chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mekong và
Chương trình Tiểu vùng sông Mekong mở rộng; các kế hoạch phát triển
trung và dài hạn của Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS); việc ký
kết Biên bản ghi nhớ về hợp tác nông nghiệp giữa các bên, …
viii. Kế hoạch đàm phán
Uỷ ban đàm phán thương mại ASEAN - Trung Quốc (TNC) sẽ tiếp
tục tiến hành các chương trình đàm phán đã đề ra trong Hiệp định
khung, và báo cáo thường xuyên về kết quả và những tiến triển trong
đàm phán của tổ chức này cho Các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) và
Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC)
thông qua các hội nghị của các quan chức kinh tế cấp cao ASEAN
(SEOM) và MOFTEC. Đồng thời, các bên cũng có thể thành lập các tổ
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 75 -
chức khác nếu thấy cần thiết cho việc hợp tác và tiến hành các hoạt động
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hợp tác kinh tế phù hợp với Hiệp định khung và các tổ chức này nếu
được thành lập cũng sẽ có nhiệm vụ giống như TNC.
Nói tóm lại, có thể khẳng định Hiệp định khung về hợp tác kinh tế
toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc kí ngày 4 / 11/ 2002 có ý nghĩa
rất quan trọng đối với tiến trình hình thành Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc. Với sự xác định rõ mục tiêu, phạm vi, biện pháp,
thời gian, thời hạn thực hiện sớm, các kế hoạch chi tiết liên quan đến
hợp tác kinh tế, các cam kết về đãi ngộ MFN cho các nước ASEAN kém
phát triển và các kế hoạch đàm phán trong tương lai về thương mại hàng
hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và các lĩnh vực hợp tác khác …, Hiệp
định này là cơ sở pháp lý cho sự ra đời của ACFTA hay nói cách khác là
một cơ sở bằng văn bản và bằng chứng hợp pháp của quan hệ hợp tác
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 76 -
kinh tế trong tương lai giữa ASEAN và Trung Quốc.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO
ASEAN - TRUNG QUỐC TỚI CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN
2.1. Cơ hội
2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Trong vòng 10 năm tới, một vòng cung rộng lớn, bao quát hầu hết
khu vực Đông Á sẽ hình thành nên một trong những Khu vực mậu dịch
tự do lớn nhất và năng động nhất thế giới, Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc dự định sẽ được
hoàn thành trong vòng 10 năm. Việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan trong khung thời gian này sẽ không gặp phải trở ngại, bởi
ASEAN đã và đang tích cực cắt giảm thuế quan theo quy định của Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA): sáu nước thành viên cũ của
ASEAN cam kết sẽ hạ mức thuế quan bình quân xuống dưới 5% vào
cuối 2003; bốn nước thành viên mới là Việt Nam, Lào, Campuchia và
Myanmar sẽ hạ mức thuế xuống dưới 5% vào cuối 2006, đồng thời sẽ bỏ
tất cả thuế quan, thực hiện mậu dịch tự do vào năm 2018. Thuế quan của
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 77 -
ASEAN hạ thấp sẽ có ảnh hưởng vô cùng thuận lợi cho việc xuất khẩu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hàng hóa trong nội bộ khối, đồng thời tạo cơ sở cho Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN - Trung Quốc ACFTA sớm được hình thành. Hơn thế
nữa, khả năng tiếp cận lớn hơn với người láng giềng khổng lồ Trung
Quốc có thể gây tác động kích thích tiến trình tự do hoá chậm chạp của
bản thân khu vực. Jonathan Anderson thuộc bộ phận nghiên cứu Châu Á
Thái Bình Dương của công ty UBS Securities tại Hồng Kông lập luận:
“Đông Nam Á không đưa ra bất kỳ ý tưởng gì gần với một thị trường tự
do về lao động, vốn hay hàng hoá. Nếu một FTA với Trung Quốc có thể
buộc ASEAN phải tự do hoá hơn nữa các nền kinh tế của mình và tiến
gần tới một không gian kinh tế thống nhất, điều này có thể là nguồn tạo
ra sự tăng trưởng và đầu tư mới ở trong nước, trong lĩnh vực chế tạo
cũng như trong các nguồn chủ chốt” [24].
Tuy nhiên, khái niệm “10 năm” của ACFTA chỉ là một khung thời
gian chứ không phải là một khái niệm có tính tuyệt đối, và bởi vậy rất có
khả năng là việc triển khai Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc sẽ được hoàn thành trước thời hạn đã định. Ví dụ, việc triển khai
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã được đẩy nhanh so với
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 78 -
khung thời gian đã được dự kiến lúc đầu là 15 năm. Vào tháng 1/ 2002,
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Thủ tướng Thái Lan Thashin thậm chí còn gợi ý hoàn thành Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc trong vòng 2 năm.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc một khi được hình
thành nhất định sẽ phát sinh ảnh hưởng đến sự phát triển của ASEAN và
Trung Quốc, thậm chí của toàn thế giới. Về mặt kinh tế, Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ đem lại những cơ hội tốt đẹp cho sự
hợp tác thương mại và đầu tư giữa hai bên, cụ thể là:
2.1.1.1. Tăng cường mở rộng tiềm năng thương mại
Theo những mô phỏng mà Tổ nghiên cứu hỗn hợp của Nhóm
chuyên gia về hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc (ASEAN – China
Expert Group on Economic Cooperation) đã tiến hành dựa trên Dự án
nghiên cứu về thương mại toàn cầu (GTAP – Global Trade Analysis
Project), việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
sẽ mang lại những cơ hội lớn cho các nước tham gia với việc tạo ra một
khu vực thị trường lớn nhất thế giới với hơn 1.7 tỷ người tiêu dùng, tổng
thu nhập quốc nội vào khoảng 2 nghìn tỷ USD và tổng kim ngạch trao
đổi thương mại ước tính lên đến 1.23 nghìn tỷ USD [25]. Tuy nhiên cần
chú ý rằng mô hình GTAP không bao gồm Bruney, Lào, Campuchia và
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 79 -
Myanmar. Nếu những nước này tham gia vào khu vực mậu dịch tự do và
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nếu họ giành được lợi nhuận thì FTA với Trung Quốc sẽ càng có tính
khả thi cao hơn.
Với phương pháp cân bằng tổng quát điện toán (Computational
General Equilibrium – CGE), Viện chính sách kinh tế quốc tế Hàn Quốc
KIEP cũng đã tiến hành nghiên cứu về tác động của các khu vực mậu
dịch tự do ở Đông Á, trong đó có Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc. Theo mô hình CGE, lợi ích kinh tế sẽ không lớn nếu chỉ
tính riêng tự do hoá thương mại, nếu tính thêm các lợi ích của việc tích
luỹ vốn thì lợi ích kinh tế sẽ được mở rộng. Cụ thể, khi Trung Quốc và
ASEAN ký kết một FTA, tự do hoá thương mại sẽ làm tăng GDP của
ASEAN lên 0.23%, trong khi tác động tổng hợp của tự do hoá thương
mại và tích luỹ vốn sẽ làm tăng GDP lên 2.08%, xấp xỉ 5 lần tác động
riêng của tự do hoá [26] (tham khảo Phụ lục 7). Các kết quả này cũng
tương tự như nhận định mà Cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ
đã phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc – ASEAN tại
Singapore tháng 11/ 2000.
Qua các số liệu được nghiên cứu từ 2 mô hình GTAP và CGE, có
thể thấy, về mặt kinh tế, việc hình thành ACFTA sẽ mang lại cục diện
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 80 -
cùng có lợi cho Trung Quốc và ASEAN:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Thứ nhất, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ góp
phần tăng trưởng GDP và xuất khẩu của cả ASEAN và Trung Quốc,
nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nhờ tính cạnh tranh cao.
Theo nghiên cứu của Ban thư ký ASEAN, với việc thiết lập một
FTA song phương, GDP thực tế sẽ tăng lên đối với tất cả các nước
ASEAN và Trung Quốc (xem bảng 9).
Bảng 9: Tác động của ACFTA tới GDP thực tế theo mô hình GTAP
Giá trị tăng thêm
GDP thực tế
Nước Số tuyệt đối Số tương đối
(triệu USD)
(triệu USD) (%)
Indonesia 204,031.4 2,267.8 1.12
Malaysia 98,032.3 1,135.5 1.16
Philippines 71,167.1 229.1 0.33
Singapore 72,734.9 753.3 1.04
Thái Lan 165,516.0 673.6 0.41
Việt Nam 16,110.9 339.1 2.11
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 81 -
Trung Quốc 815,163.0 0.28
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
2,214.9
-
Mỹ 7,120,465.5 2,594.5 -0.04
-
Nhật 5,078,704.5 4,452.0 -0.09
ROW (Rest of -
World) 14,657,026.0 6,272.0 -0.05
-
Tổng 28,298,952.1 5,706.9 -0.03
Nguồn: Báo cáo của Nhóm chuyên gia ASEAN – Trung Quốc về hợp
tác kinh tế (ASEAN – China Expert Group on Economic Cooperation),
“Xây dựng quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế
kỷ 21” – Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org), tháng 10/ 2001.
Từ bảng trên có thể thấy, sau khi ACFTA được thành lập, tổng thu
nhập quốc nội thực tế của cả ASEAN và Trung Quốc sẽ tăng thêm 7.6 tỷ
USD; trong đó tổng thu nhập quốc nội của ASEAN tăng thêm 0.9%,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 82 -
tương đương với 5.4 tỷ USD. Trong số các nước ASEAN, tốc độ tăng
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lớn nhất thuộc về Việt Nam với 2.11% trong khi GDP của Indonesia lại
tăng lên nhiều nhất nếu tính theo giá trị tuyệt đối (2,267.8 triệu USD).
Trong trường hợp Trung Quốc, mặc dù GDP tăng thêm 2.2 tỷ USD
nhưng tốc độ tăng trưởng lại rất khiêm tốn, chỉ ở mức 0.28%. Tuy nhiên,
sự thay đổi về giá trị tuyệt đối hay tương đối không phải là quan trọng
mà quan trọng hơn cả là các thay đổi đó đều theo xu hướng tích cực đối
với cả ASEAN và Trung Quốc. Nói cách khác, lợi ích đầu tiên có thể
thấy được là Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ góp phần
tăng trưởng GDP thực tế của tất cả các thành viên tham gia.
Cùng với sự tăng trưởng của GDP thực tế, theo mô hình GTAP,
việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ làm
cho xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc tăng 48%, tương đương
với 13 tỷ USD, trong khi xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng
55.1%, tương ứng với 10.6 tỷ USD (xem bảng 10).
Từ bảng 10 có thể thấy trong số các nước ASEAN, các nước được
lợi nhiều nhất từ xuất khẩu là Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái
Lan; trong khi kim ngạch xuất khẩu song phương tăng trưởng lớn nhất là
giữa Trung Quốc – Philippines và Trung Quốc – Thái Lan (tăng thêm
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 83 -
lần lượt là 3,057.17 và 3,140.16 tỷ USD tính theo giá trị tuyệt đối). Ước
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tính, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ đạt
680 tỷ USD vào năm 2005 [25].
Về thị trường xuất khẩu, ngoài thị trường xuất khẩu lớn là Mỹ,
EU, Nhật Bản, ASEAN sẽ là thị trường xuất khẩu quan trọng đối với
Trung Quốc. Về nhập khẩu, Trung Quốc cũng cần nhập khẩu nhiều
nguyên liệu thô của ASEAN để chế biến và xuất khẩu sang thị trường
thứ ba. Ước tính từ năm 2001 đến 2005, Trung Quốc sẽ nhập khẩu
khoảng 1.4 nghìn tỷ USD giá trị thiết bị, công nghệ và hàng hoá [25].
Ngoài ra, với lợi thế về vị trí địa lý, chi phí vận chuyển thấp và các yếu
tố văn hoá tương đồng, các nước ASEAN và Trung Quốc sẽ có nhiều cơ
hội hơn để trao đổi các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh của mình như sản
phẩm dầu khí, nông sản nhiệt đới, dầu thực vật, thuỷ sản, thực phẩm,
điện và điện tử gia dụng, hàng dệt may, giầy dép. Các nước ASEAN
cũng sẽ có cơ hội nhập khẩu nguyên liệu vải đầu vào để gia công xuất
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 84 -
khẩu hàng dệt may.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng 10: Tác động của ACFTA tới xuất khẩu theo mô hình GTAP
Đơn vị: triệu USD
To
From Tổng Indone Malays Philippi Singap Thái Việt Trung
sia ia nes ore Lan Nam Mỹ Nhật Quốc ROW
- - - 2,656.0 1,111.0
0.00 -69.00 -117.05 106.35 141.49 -40.05 -209.99 313.66 9 -547.45 5 Indonesia
- - - 3,207.2 1,012.5
0.00 -245.11 312.71 219.41 -20.97 -416.56 246.27 8 -688.07 9 Malaysia -45.59
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 85 -
0.00 46.89 -24.97 -3.00 413.49 39.16 330.80 104.46 920.58 Philippine -2.82 16.57
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam s
-
- - 430.6 - 3,639.1
392.60 -329.26 0.00 233.84 1 -321.22 200.07 8 -745.43 938.88 Singapore -47.27
- - 2,907.7 1,996.4
101.24 0.00 -52.49 252.78 271.30 6 -525.48 7 Thái Lan -29.13 -65.56 -118.87
-18.62 -15.08 -5.69 0.00 -12.07 -19.01 267.04 -59.24 95.78 Việt Nam -10.53 -31.02
8.29 11.17 -152.88 208.02 -75.46 -1.19 0.00 123.37 -501.03 100.00 -279.71 Mỹ
-
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 86 -
-16.76 -1.68 -266.16 325.30 342.10 -23.38 393.97 0.00 -823.79 472.17 -282.43 Nhật
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
1,371. 1,456. 3,057.1 3,140. 944.8 - 6,842.1 Trung
60 34 7 643.90 16 1 -813.34 511.53 -889.91 1,557.07 3 Quốc
- -
- 2,679.2 1,360.7
-13.82 119.73 -543.70 417.50 365.92 -89.28 482.25 467.77 6 844.00 3 ROW
10,994.
Tổng 61
ROW (Rest of World): Phần còn lại của thế giới
Nguồn: Báo cáo của Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế (ASEAN – China
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 87 -
Expert Group on Economic Cooperation), “Xây dựng quan hệ kinh tế ASEAN – Trung Quốc chặt chẽ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hơn trong thế kỷ 21” – Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org), tháng 10/ 2001.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 88 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Theo nghiên cứu của Ban thư ký ASEAN (tham khảo Phụ lục 8),
xuất khẩu của ASEAN và Trung Quốc sẽ tăng trưởng mạnh nhất trong
các ngành hàng dệt may và quần áo, thiết bị điện, máy móc và các ngành
chế tạo khác. Cụ thể, xuất khẩu các mặt hàng chế tạo của Indonesia sang
Trung Quốc tăng thêm 1,281.84 triệu USD. Xuất khẩu các thiết bị điện
và máy móc của Singapore sang Trung Quốc cũng tăng 1,344.15 triệu
USD. Xuất khẩu dệt may và quần áo của Thái Lan sang Trung Quốc
tăng mạnh với 1,698.77 triệu USD. Về phía Trung Quốc, xuất khẩu các
mặt hàng chế tạo của Trung Quốc sang Philippines tăng thêm 1,169.78
triệu USD; trong khi xuất khẩu các thiết bị điện và máy móc sang
Philippines và Thái Lan tăng lần lượt là 813.43 và 794.09 triệu USD.
Các mặt hàng dệt may và quần áo của Trung Quốc sang hai nước này
cũng tăng trưởng rất mạnh, lần lượt là 622.66 và 869.89 triệu USD [25].
Thứ hai, Khu vực mậu dịch tự do này sẽ mang lại những cơ hội rất
lớn cho các nước tham gia với việc tạo ra thị trường cung cấp nguyên
liệu phong phú hơn cho các nhà sản xuất trong khu vực. Jonathan
Anderson, phụ trách bộ phận nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương của
công ty UBS Securities tại Hồng Kông, cho rằng tuy Trung Quốc đưa ra
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 89 -
khẩu hiệu “tất cả đều thắng” vào chính sách ngoại giao kinh tế của họ,
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam song Khu vực mậu dịch tự do này về lâu dài sẽ có lợi nhiều cho Trung
Quốc. Theo ông, “các hãng chế tạo của Trung Quốc đang hy vọng nhảy
vào các thị trường xuất khẩu của các nước Đông Nam Á và nền kinh tế
Trung Quốc cũng sẽ được lợi từ nguồn cung cấp ổn định hàng hoá và
nguyên liệu” [24].
Thật vậy, xét về chi phí lao động, mức lương ở Trung Quốc là rất
thấp (tham khảo bảng 12, phần 2.2.3.3), chỉ bằng 1/50 so với Nhật Bản
và Mỹ. Năng suất lao động trong khu vực chế tạo của Trung Quốc cũng
rất thấp – chỉ bằng 1/25 mức của Mỹ và 1/26 mức của Nhật. Vì năng
suất thấp như vậy nên nếu xem xét cơ cấu chi phí lao động trong ngành
chế tạo, lương của Mỹ chỉ cao hơn 1/3 so với Trung Quốc khi xét giá trị
sản lượng theo USD. Ngoài ra, giá trị gia tăng của ngành công nghiệp
chế tạo Trung Quốc khá thấp. Năm 2000, tỷ lệ giá trị giá tăng trung bình
của Trung Quốc chỉ là 26% - thấp hơn nhiều so với Mỹ và Nhật (tương
ứng là 49% và 43.6%) [6]. Hơn nữa, các ngành công nghiệp của Trung
Quốc phụ thuộc chủ yếu vào các công nghệ nước ngoài và chưa có
quyền sở hữu trí tuệ riêng của mình. Hầu hết các nhà máy chế tạo và
hàng xuất khẩu của Trung Quốc đều thuộc các ngành gia công chế biến
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 90 -
(trên thực tế, 55% [6] hàng xuất khẩu của Trung Quốc là sản phẩm của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam các ngành gia công chế biến). Điều này có nghĩa là khi khu vực chế tạo
của Trung Quốc phát triển, xuất khẩu của nước này tăng, thì hàng nhập
khẩu vào Trung Quốc cũng tăng tương ứng. Tính trung bình, cứ trong
100 USD hàng xuất khẩu thì Trung Quốc cần nhập 50 – 70 USD [6]
nguyên liệu. Và như vậy có thể nói rằng Trung Quốc càng xuất khẩu
nhiều thì nước này cũng sẽ nhập khẩu càng nhiều nguyên liệu. Như vậy,
loại thương mại này không những có lợi cho Trung Quốc mà còn đem
lại nhiều lợi ích cho các nước ASEAN, ví dụ: những nước giàu nguồn
nguyên liệu như Malaysia với diện tích trồng cao su và dầu cọ vô cùng
lớn sẽ có cơ hội mở rộng xuất khẩu các mặt hàng này sang thị trường
Trung Quốc (giá trị xuất khẩu dầu cọ Malaysia sang Trung Quốc tăng
59% lên tới 60 triệu tấn trong 7 tháng đầu năm 2002 [27]). Nhu cầu lớn
về năng lượng của Trung Quốc cũng khiến nước này trở thành nước
nhập khẩu dầu lớn và Malaysia, Indonesia là những nước sẵn sàng cung
cấp cho nhu cầu này. Mức tiêu dùng của Trung Quốc cũng sẽ khiến các
nhà máy lọc dầu ở Đông Nam Á luôn luôn bận rộn. Và sự bùng nổ
trong ngành xây dựng Trung Quốc sẽ đòi hỏi một lượng gỗ nhập khẩu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 91 -
khổng lồ, một lần nữa, lại là món lợi cho Malaysia.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Thứ ba, sự hợp nhất về kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ
mang lại hiệu quả kinh tế to lớn cho các thương nhân thuộc mọi ngành
nghề và tạo nên sự liên hệ mật thiết hơn về thông tin, giao thông và mậu
dịch. Thật vậy, một thị trường lớn như vậy một mặt sẽ giúp cho các nhà
sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, mặt khác cũng có lợi cho việc hoàn
thành hệ thống phân công hợp tác sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, từ
đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hơn
nữa, một thị trường rộng lớn hơn được tạo ra bởi ACFTA sẽ cho phép
các ngành công nghiệp, đặc biệt là những ngành chỉ hoạt động trên thị
trường trong nước giảm giá sản phẩm nhờ vào việc sản xuất với số
lượng lớn. Điều quan trọng hơn là Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh hơn cho các công ty hoạt
động trong khu vực do họ đã sẵn sàng đón nhận thử thách. Với sức ép
cạnh tranh lớn hơn, các công ty hoạt động trong khu vực mậu dịch tự do
sẽ có chính sách cởi mở hơn đối với những đổi mới cũng như tăng
cường đầu tư cải tiến công nghệ, dẫn tới hiệu quả sản xuất cao hơn.
Thứ tư, Khu vực mậu dịch tự do sẽ thúc đẩy sự phân công chuyên
môn hoá sản xuất giữa các nước trong khu vực dựa trên lợi thế tương đối
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 92 -
của từng nước do nguồn lực sẽ được phân bổ hợp lý vào những nơi và
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ngành được sử dụng có hiệu quả và năng suất hơn. Mặc dù ASEAN và
Trung Quốc đang cạnh tranh nhau để giành giật thị trường nước thứ ba
và thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng xem xét cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
của hai bên có thể thấy ASEAN và Trung Quốc có sự bổ sung lẫn nhau
về tài nguyên thiên nhiên và ưu thế thành phẩm công nghiệp.
Thật vậy, cơ cấu hàng hoá mậu dịch song phương giữa Trung
Quốc và 5 nước ASEAN năm 1998 cho thấy, hàng xuất khẩu của 5 nước
ASEAN sang Trung Quốc chủ yếu gồm thiết bị nghe nhìn điện tử
(29.98%); khoáng sản (11.18%); sản phẩm cao su (8.8%); dầu mỡ động
thực vật (8.36%) và chế phẩm giấy (6.41%). Hàng nhập khẩu từ Trung
Quốc chủ yếu bao gồm: Thiết bị nghe nhìn điện tử (41.565); sản phẩm
thực vật (8.71%); hàng dệt (8.245); khoáng sản (7.92%); kim loại và chế
phẩm kim loại (7.62%) [28]. Qua đó có thể thấy tài nguyên thiên nhiên
của hai bên có sự bổ sung lẫn nhau. Cơ cấu hàng xuất khẩu trên cũng
cho thấy tuy thiết bị nghe nhìn là sản phẩm xuất khẩu chủ yếu nhất của 4
nước ASEAN - Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines – và Trung
Quốc, nhưng ưu thế của mỗi bên hiện nay có khác nhau. Bốn nước
ASEAN nhập khẩu hàng cơ điện của Trung Quốc chủ yếu là đồ điện cơ
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 93 -
khí thông dụng, còn Trung Quốc nhập khẩu hàng cơ điện từ 4 nước
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ASEAN phần lớn lại là sản phẩm cao cấp. Về xuất khẩu hàng điện tử
công nghiệp, 4 nước ASEAN từ lâu đã tương đối có ưu thế, còn Trung
Quốc ở vào thế khá yếu, nhưng xuất khẩu đồ điện gia dụng của Trung
Quốc lại chiếm ưu thế. Hiện nay về xuất khẩu thành phẩm công nghiệp,
hàm lượng kỹ thuật của 4 nước ASEAN vẫn cao hơn Trung Quốc. Mặc
dù mấy năm gần đây, xuất khẩu hàng công nghệ cao của Trung Quốc đã
tăng khá nhanh nhưng ưu thế vẫn kém so với các nước ASEAN. Tuy
vậy, công nghệ tin học và viễn thông của Trung Quốc lại đang phát triển
khá nhanh và mạnh: Theo kế hoạch 5 năm lần thứ 10, đến năm 2005,
quy mô và dung lượng của mạng lưới thông tin và liên lạc của Trung
Quốc sẽ đạt vị trí số 1 thế giới; số lượng máy vi tính sử dụng trong nước
sẽ đạt 70 triệu chiếc và tỷ lệ dân sử dụng điện thoại sẽ đạt 40%; tỷ lệ giá
trị gia tăng của ngành công nghiệp thông tin trong GDP sẽ tăng từ 4.5%
hiện nay lên 7%; quy mô thị trường sẽ tăng gấp đôi so với năm 2000
[29]. Với xu thế đó, sản phẩm điện tử của ASEAN sẽ có rất nhiều cơ hội
để thâm nhập thị trường rộng lớn đầy tiềm năng ở Trung Quốc.
Thứ năm, do hiện nay giữa ASEAN và Trung Quốc đang tồn tại
tình trạng thiếu sự phân công phối hợp với nhau, thậm chí có sự cạnh
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 94 -
tranh tương đối lớn, nên khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Quốc được xây dựng, nó sẽ làm cho mỗi bên có thể tận dụng lợi thế so
sánh để phát triển, hình thành nên hệ thống phân công ngành nghề lấy
ưu thế cạnh tranh làm đặc trưng. Hơn nữa, nó còn giúp cho các bên
thành viên có thể điều chỉnh toàn diện cơ cấu ngành nghề của mình một
cách sâu sắc hơn ở các tầng bậc khác nhau. Và như vậy, thoả thuận lịch
sử này sẽ tạo ra bước phát triển mới cho toàn bộ khu vực, đúng như nhận
định của ông Andy Xie, chuyên viên kinh tế của tập đoàn Morgan
Stanley Dean Witter có trụ sở tại Hồng Kông: “Cả ASEAN và Trung
Quốc đều được hưởng lợi. Các nước ASEAN mạnh trong nông nghiệp,
tài nguyên thiên nhiên, chế biến lương thực. Còn Trung Quốc thì mạnh
về hàng điện tử tiêu dùng và các sản phẩm công nghệ thông tin” [15].
Thật vậy, căn cứ vào xu hướng tăng trưởng kinh tế của Trung
Quốc, có thể thấy quốc gia này sẽ trở thành một thị trường vô cùng quan
trọng cho hàng hoá toàn cầu. Do đó, dù Trung Quốc có thể trở thành một
đối thủ cạnh tranh đáng gờm thì nước này cũng đồng thời là một thị
trường rộng lớn cho hàng hoá của các quốc gia ASEAN. Trong bối cảnh
Trung Quốc ngày càng lớn mạnh và mức thu nhập được cải thiện, nhu
cầu của quốc gia này về các sản phẩm đa dạng chắc chắn sẽ tăng lên và
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 95 -
khiến họ nhập khẩu nhiều hơn. Đây là một cơ hội cho những công ty
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khôn khéo, biết tìm ra trong khu vực mậu dịch tự do những thị trường
còn bỏ ngỏ. Nguyên tắc cần nhấn mạnh ở đây là không một quốc gia nào
có thể luôn có được lợi thế so sánh đối với tất cả các mặt hàng. Bảng sau
nêu ra một số mặt hàng mà theo đó, các khu vực kinh tế của ASEAN có
thể hy vọng khai thác một khi thị trường của Trung Quốc được mở ra.
Bảng 11: Các khả năng trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và
ASEAN-5
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÒN BỎ NGỎ
Hoa quả tươi và khô hoặc hạt
nhân tươi Sắt vụn
Động vật giáp xác và cá (tơi và
đóng hộp) Quặng bạc, platinum
Hoa quả đông lạnh Dỗu rau PHILIPPI
Đường và mật ong Động vật chế biến NES
Thức ăn gia súc Đồng
Thuốc lá sợi Máy văn phòng
Than củi, than đá Máy bán hàng chạy điện
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 96 -
Sợi thực vật (trừ sợi cotton) Máy chạy bằng điện
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Quặng thép hàm lượng cao Thiết bị viễn thông
Đồ gỗ và thiết bị in tràng
Kim loại màu phim
Quặng kim loại hàm lượng cao
Ca cao Bạc platinum
Đồ gia vị Máy văn phòng
Bơ thực vật, mỡ Thiết bị thu sóng vô tuyến
Thuốc lá sợi Thiết bị viễn thông
SINGAPO
Chất tẩy thiên nhiên Máy chạy bằng điện
RE
Dầu tinh chế Thiết bị điện ảnh
Động vật chế biến/ dầu thực
vật, … Máy ghi âm
Thiết bị in ấn
Cá và động vật giáp xác Dỗu thô và dầu tinh
Cà phê Khí gaz
INDONESI
Ca cao Dỗu rau thực vật
A
Động vật chế biến và dầu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 97 -
Đồ gia vị thực vật
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Cao su thô Xà phòng
Than củi, than đá Phân bón
Gỗ Véc ni, gỗ dán, …
Sợi tổng hợp và vải Gỗ chế biến
Đá, cát, sỏi Giấy
Kim loại màu Kính đeo mắt
Quặng kim loại hàm lượng cao Nhôm
Than, than bánh Đồ gỗ
Ca cao Vật liệu
Bơ thực vật, mỡ Véc ni, gỗ dán, …
Cao su thô Thiết bị thu sóng vô tuyến
Gỗ Thiết bị thu sóng của đài
MALAYSI
Quặng uranium, thori hàm lư-
A
ợng cao Máy ghi âm
Thiết bị viễn thông và linh
Khí gaz kiện
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 98 -
Dầu rau Máy chạy bằng điện
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Động vật chế biến và dầu thực
Máy bay… vật
Cá và động vật giáp xác Da và da đã xử lý
Đồ dùng bằng cao su Gạo
Bột phi lúa mì Ngọc trai và đá quý
Hoa quả và rau Máy văn phòng
Đường và mật ong Bộ xử lý dữ liệu tự động THÁI LAN
Cà phê Thiết bị thu sóng của TV
Cao su thô Máy chạy bằng điện
Sợi tổng hợp Chất dẻo
Đá, cát, sỏi Vàng và đồ trang sức bạc
Nguồn: Ellen H. Palanca, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và
ASEAN” - Báo cáo nghiên cứu của Hệ thống trung tâm nghiên cứu
APEC của Philippines (Philippines APEC Study Center Network -
PASCN), Manila, 2001.
Nói tóm lại, nếu Trung Quốc có thể duy trì được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao thì nó sẽ tạo cho các nước ASEAN một thị trường
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 99 -
rộng lớn hơn, đồng thời cho phép các nước có chỗ để phân bổ lại các
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động không có sức cạnh tranh của
mình. Đặc biệt là với sự hình thành ACFTA, việc dỡ bỏ các hàng rào
cản trở thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ làm giảm chi phí
kinh doanh trong sản xuất cũng như thương mại, từ đó tăng hiệu quả
kinh tế và khuyến khích gia tăng thương mại giữa các nước trong khu
vực.
2.1.1.2. Cải thiện môi trường đầu tư
Việc tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc và việc
thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ không chỉ
đẩy mạnh hơn nữa tiến trình hợp tác thương mại ASEAN - Trung Quốc
hiện nay mà còn góp phần tăng cường và mở rộng tiềm năng đầu tư của
ASEAN và Trung Quốc, đồng thời cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn
hơn và nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN và Trung Quốc đối
với thế giới.
Thật vậy, việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc trước hết sẽ thu hút thêm đầu tư của Trung Quốc vào khu vực này.
Sau nhiều năm phát triển, các doanh nghiệp Trung Quốc đã trở nên
những doanh nghiệp hùng mạnh và mang tính cạnh tranh, với lượng vốn
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 100 -
đầu tư ra nước ngoài tăng khá nhanh, đặc biệt là vào giữa những năm 90.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Các lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc trải rộng từ muối
tinh, sản phẩm cao su, dược phẩm và sản phẩm chăm sóc sức khoẻ, chế
biến thực phẩm, thiết bị điện gia dụng, chế biến sản phẩm lâm nghiệp,
cho tới hoá dầu, ngân hàng, bảo hiểm và vận tải đường biển. Các
phương thức đầu tư cũng đa dạng, từ đầu tư trực tiếp tới đầu tư về công
nghệ và xây dựng – vận hành – chuyển giao (BOT). Nhờ nền kinh tế
ngày càng phát triển và việc cải tổ cơ cấu kinh tế công nghiệp của Trung
Quốc, lượng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Trung Quốc
chắc chắn sẽ ngày càng tăng. Trên thực tế, chính phủ Trung Quốc có
chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư ra nước
ngoài. Trong tương lai, ASEAN sẽ là thị trường đầu tư nước ngoài ưu
tiên của các doanh nghiệp Trung Quốc do vị trí địa lý gần Trung Quốc
và những điểm tương đồng về văn hoá, đặc biệt sau khi khu vực mậu
dịch tự do giữa hai bên được thành lập. Đầu tư vốn luôn hướng tới việc
thu nhiều lợi nhuận, bởi vậy, chắc chắn các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ
không bao giờ bỏ qua các cơ hội sản sinh ra lợi nhuận. Hơn nữa, dự kiến
tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Trung Quốc trong thập kỷ tới
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 101 -
đạt 7%/ năm [5] và việc Trung Quốc trở thành thành viên của WTO sẽ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam mang lại nhiều cơ hội quan trọng hơn để tăng cường thương mại và đầu
tư giữa ASEAN và Trung Quốc.
Thứ hai, không chỉ các doanh nghiệp của ASEAN và Trung Quốc
sẵn sàng đầu tư nhiều hơn vào thị trường chung này mà cả các doanh
nghiệp Mỹ, EU và Nhật Bản quan tâm tới việc thâm nhập vào thị trường
Châu Á cũng sẽ mong muốn đầu tư vào thị trường chung này do các rủi
ro và bất trắc về thị trường giảm đi. Ernest Bower, Chủ tịch Hội đồng
kinh doanh Mỹ – ASEAN, nhất trí cho rằng Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc sẽ tạo ra tiềm năng cho luồng đầu tư mới tại
Đông Nam Á. Ông nhận định: “FTA Trung Quốc – ASEAN đang cuốn
hút một số thành viên của chúng tôi. Họ coi đây là một cơ hội. Chẳng
hạn như General Electric có thể vừa có một nhà máy động cơ tại Trung
Quốc vừa có một nhà máy phụ tùng tại Malaysia. Giả sử họ đóng thuế
60%. Nếu phụ tùng có thể tiến tới được miễn thuế, điều này sẽ làm tăng
sức cạnh tranh của họ trên toàn cầu” [24]. Nicholas Lardy, một chuyên
gia nghiên cứu kinh tế Trung Quốc thuộc Viện kinh tế quốc tế tại
Washington cũng cho rằng: “Để phù hợp với WTO, Trung Quốc sẽ phải
để cho các công ty nước ngoài tại các nước ASEAN xuất khẩu sang
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 102 -
nước mình. Một khi FTA này ra đời, tất cả các nhà sản xuất sẽ được tiếp
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cận như nhau” [24]. Như vậy, quá trình hội nhập của ASEAN vào Trung
Quốc sẽ thu hút thêm nhiều công ty đa quốc gia, điều mà một nền kinh
tế riêng lẻ không thể làm được. Hơn nữa, với dung lượng thị trường lớn
với tính cạnh tranh cao hơn, đầu tư nhiều hơn và hiệu quả kinh tế quy
mô lớn hơn, các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào nghiên cứu và do đó sẽ thúc
đẩy sáng kiến công nghệ.
Thứ ba, một thị trường rộng lớn hơn và một cuộc cạnh tranh mạnh
mẽ hơn có thể sẽ là chất xúc tác đầu tư đối với ACFTA. Do giữa các
quốc gia thành viên ASEAN cũng phải cạnh tranh về đầu tư, nên các
quốc gia này phải tự phát triển tới tiêu chuẩn cao hơn về mở cửa, trình
độ lao động, sản xuất, kỹ năng quản lý, tổ chức, pháp luật, công lý, chất
lượng cơ sở hạ tầng. Trong môi trường kinh tế tự do, những quốc gia
nào không đáp ứng được các điều kể trên sẽ tụt hậu.
Hơn nữa, thị trường được mở rộng nhờ Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc sẽ làm đa dạng sự lựa chọn của các nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư có thể chọn một thị trường cụ thể hoặc tận dụng một loạt
cơ sở trong cả khu vực. Nói cách khác, với Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc, các nhà đầu tư mang trong đầu một thị trường
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 103 -
tổng hợp, họ có thể chọn đầu tư ở Trung Quốc hoặc ở ASEAN. Và như
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vậy, thông qua việc dỡ bỏ những rào cản thương mại và cho phép những
nguồn đầu tư lớn được thực hiện ở mức độ cao hơn, tin cậy hơn về mặt
kinh tế, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ có sức kích
thích tiềm tàng đối với các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa
các nước thành viên cũng như với bên ngoài ACFTA.
Ngoài những lợi ích kinh tế đề cập ở trên, Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc còn đem lại một loạt những nguồn lợi kinh tế
khác như: các nước này có thể cùng phát triển các nguồn lợi hải sản,
cùng giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, đảm bảo việc cùng cung cấp
các nguồn năng lượng, … Mặc dù Khu vực mậu dịch tự do bản thân nó
không tác động trực tiếp đến các vấn đề này, song các mối quan hệ gần
gũi hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề liên
quan. Sự hợp tác kinh tế khu vực ở những nơi khác trên thế giới đã
chứng minh cho thực tế đó.
Nói tóm lại, các tiềm năng và cơ hội cho sự tăng trưởng kinh tế
dài hạn, thay đổi cơ cấu và phát triển thông qua khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc là vô cùng quan trọng. Nhưng chúng ta cũng
nhận thức rõ rằng cả 2 phía sẽ phải quản lý một cách hiệu quả, thích hợp
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 104 -
và năng động, theo hình thức hướng về phía trước, đối mặt với những
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thách thức mà tự do hoá thương mại và đầu tư, cũng như sự cạnh tranh
trên thị trường cả nước thứ ba gây ra. Đây sẽ là một trong những thử
thách lớn đối với cam kết kinh tế và ý chí chính trị về hợp tác bền vững
và hội nhập vì sự tăng trưởng và phát triển chung, đồng đều trong khu
vực.
2.1.2. Tạo ra vị thế mới về chính trị trong các vòng thương lượng,
đàm phán đa phương toàn cầu
Sự hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc không chỉ mang lại những
lợi ích kinh tế mang tính chất tĩnh mà cả những lợi ích phi kinh tế và
những lợi ích mang tính động. Lý thuyết về hợp tác kinh tế khu vực cho
thấy một trong những động cơ chính của việc khởi xướng hợp tác kinh tế
khu vực là nhằm tạo ảnh hưởng đến việc xác lập các lợi ích mang tính
chính trị, mà cụ thể ở đây là quyền đưa ra các quy định kinh tế quốc tế.
Thành viên của mọi tổ chức hợp tác kinh tế đều cần phải có quan điểm
thống nhất trong việc tạo ra ảnh hưởng này, bởi việc tham gia vào quá
trình đề ra các quy định kinh tế quốc tế là cách quan trọng để bảo vệ lợi
ích của bất cứ nước nào, dù lớn hay nhỏ, trong các hoạt động kinh tế
quốc tế. Trong một thế giới được toàn cầu hoá, sự thống nhất và tính
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 105 -
chất bắt buộc của các quy định điều tiết nền kinh tế quốc tế buộc các
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nước phải chú trọng đến quyền đề ra các quy định đó. Trong giai đoạn
hiện nay, không một nước nào, kể cả Mỹ, có thể độc quyền quyết định
đối với các quy định kinh tế toàn cầu. Do vậy, việc tăng cường sức ảnh
hưởng thông qua các tổ chức liên kết kinh tế khu vực đã trở thành sự lựa
chọn đối với các nước, trong đó có ASEAN và Trung Quốc.
Một vài nhà quan sát cho rằng việc thành lập Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN - Trung Quốc không chỉ nhằm mục đích kinh tế. Nói cách
khác, đối với Trung Quốc, canh bạc ở đây không chỉ đặt vào lĩnh vực
mậu dịch. Hơn thế, việc củng cố quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với các
nước Đông Nam Á láng giềng cũng đồng nghĩa với việc thiết lập ảnh
hưởng và vai trò lãnh đạo khu vực, mà cụ thể ở đây là làm thiệt hại đến
Mỹ và các cường quốc kinh tế khác cũng như muốn tranh giành ảnh
hưởng với Nhật Bản, quốc gia vẫn chiếm vị trí đầu tầu kinh tế ở Đông
Á. Như Naoko Munakata, nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu Nhật
Bản đã nhận định: “Trung Quốc hy vọng tới một lúc nào đó sẽ trở thành
một cường quốc đối trọng với Mỹ và Châu Âu, đoàn kết các nước Châu
Á.” [24]. Chính vì vậy, một FTA với ASEAN sẽ giúp Trung Quốc
khẳng định và củng cố vai trò trên trường quốc tế, tăng cường tiếng nói
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 106 -
của mình trong khu vực và từ đó sẽ mở rộng ra toàn thế giới.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Về phía ASEAN, mặc dù chiến lược kinh tế của các nước ASEAN
có nhiều thay đổi sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng khu vực năm 1997,
tuy nhiên hội nhập và hợp tác khu vực và quốc tế vẫn được đưa ra như
một nội dung quan trọng chiến lược của khối bởi việc hội nhập sâu hơn
sẽ giúp các nước này có tiếng nói mạnh mẽ hơn trên các diễn đàn khu
vực và quốc tế. Chính vì vậy, các nước ASEAN xác định rõ cần phải
tham gia sâu rộng hơn vào hội nhập kinh tế, tiếp tục tăng cường mối liên
kết với các nước và tổ chức ngoài khu vực, việc duy trì nền kinh tế mở
và hướng ngoại sẽ vẫn giữ vai trò quan trọng trong tương lai. Để đáp
ứng nhu cầu của quá trình toàn cầu hoá và đối phó với những thách thức
do xu hướng cạnh tranh cũng như những chính sách của các nước lớn
trên thế giới, các nước ASEAN không có sự lựa chọn nào khác là xích
lại gần nhau hơn. Nhưng một mình ASEAN thôi thì chưa đủ. Cần phải
vươn ra ngoài khu vực Đông Nam Á. Điều đó giải thích những nỗ lực
của ASEAN để tăng cường liên kết kinh tế với các nước Đông Bắc Á,
trong đó Trung Quốc là một đối tác quan trọng. Mối quan hệ chặt chẽ
hơn với Trung Quốc có thể làm giảm áp lực mà một số nước ASEAN
đang cảm nhận từ việc Mỹ mở rộng cuộc chiến chống khủng bố vào
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 107 -
ASEAN, mặt khác, ASEAN cũng muốn ngăn ngừa nguy cơ bành trướng
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam quân sự của Trung Quốc đối với khu vực này và lôi kéo Trung Quốc vào
hợp tác kinh tế là một cách để ASEAN ngăn chặn sự bành trướng này.
Hơn thế nữa, do lộ trình thực hiện các chương trình hợp tác trong
ACFTA rất gần với lộ trình thực hiện các chương trình của ASEAN như
khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực đầu tư ASEAN (AIA),
chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), … nên trong khi
thực hiện để hoàn thành ACFTA, các bước giảm và xoá bỏ hàng rào
thuế quan, phi thuế quan và các bước tiến hành tự do hoá thương mại,
đầu tư, hợp tác trong các lĩnh vực của ACFTA sẽ giúp đẩy nhanh tiến
trình thực hiện AFTA, AIA, AICO… của ASEAN. Quan trọng hơn,
tham gia vào một Khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc sẽ giúp các
nền kinh tế ASEAN ngày càng phát triển mạnh mẽ và vững chắc, từ đó
làm cho tiếng nói của ASEAN có thêm sức mạnh trong các vòng đàm
phán đa phương cũng như trên các diễn đàn khu vực và quốc tế, bởi tiềm
lực kinh tế bao giờ cũng quyết định vai trò chính trị. Theo ông Rodolfo
C. Severino, Cựu tổng thư ký ASEAN, "ASEAN phản ứng với một nền
kinh tế Trung Quốc ngày càng phát triển bằng cách liên kết với nền kinh
tế này với sự tự tin và nhìn thấy vô số cơ hội từ sự trỗi dậy của Trung
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 108 -
Quốc. Đây là tiền đề cho quyết định của các nhà lãnh đạo ASEAN và
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Trung Quốc đi đến thành lập ACFTA" [24]. Như vậy, rõ ràng ASEAN
luôn đặt Trung Quốc như một trong những đối tác hàng đầu của mình và
liên kết với Trung Quốc chính là một chương trình nghị sự đầy tham
vọng và thách thức của ASEAN, đặt bối cảnh cho những biến đổi lịch sử
trong con mắt của chính khu vực và của thế giới khi nhìn nhận khu vực.
Nói tóm lại, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có thể
coi là biện pháp chiến lược có ý nghĩa trọng đại và là bước quan trọng để
hai bên đi tới nhất thể hoá kinh tế, cũng là bước then chốt thúc đẩy quan
hệ kinh tế song phương phát triển. Hơn thế nữa, vai trò của các nước
trong ACFTA sẽ được nâng cao trên trường quốc tế, đồng thời ACFTA
sẽ có lợi thế hơn trong những cuộc đàm phán quốc tế với các nước và
khu vực khác trên thế giới với tư cách là một khu vực mậu dịch tự do có
quy mô lớn nhất thế giới. Ngoài ra, với tiềm lực kinh tế lớn mạnh của cả
khu vực kinh tế Trung Quốc - ASEAN rộng lớn, đặc biệt là một nền
kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, mối liên hệ kinh tế được tăng
cường giữa các nước thành viên, ACFTA sẽ trở thành một khối kinh tế
đủ mạnh để giảm thiểu những rủi ro từ bên ngoài khu vực, đồng thời các
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 109 -
nước trong khối sẽ tự tin hơn để cùng nhau đối phó khi có những rủi ro,
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tác động từ bên ngoài ảnh hưởng đến kinh tế- xã hội của mỗi nước nói
riêng và của toàn khối nói chung.
2.1.3. Tạo ra môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác
Thứ nhất, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được
thành lập sẽ đẩy mạnh tiến trình hợp tác ASEAN – Trung Quốc. ACFTA
sẽ khiến quan hệ láng giềng đối tác tin cậy lẫn nhau giữa Trung Quốc và
ASEAN được củng cố và phát triển, an toàn và ổn định hơn về mặt địa
lý. Sự hợp tác mật thiết giữa hai bên sẽ có thể loại trừ được cách nhìn
không tốt về nhau, tạo điều kiện cho việc duy trì môi trường hòa bình ở
Biển Đông, duy trì ổn định chính trị và an ninh trong khu vực, đồng thời
việc thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ khẳng
định vị trí tiên phong của hai bên về hợp tác tại khu vực Đông Á trong
tương lai.
Thứ hai, với 1,7 tỷ người tiêu dùng, tổng thu nhập quốc nội vào
khoảng 2000 tỷ USD và tổng kim ngạch trao đổi thương mại ước tính
vào khoảng 1,23 nghìn tỷ USD, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc không chỉ vạch ra một hướng hợp tác mới cho hai bên trong
kỷ nguyên mới này, mà còn mang lại những tác động tích cực cho hợp
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 110 -
tác trong khu vực Đông Á.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ năm 1997 cho thấy rõ là khu
vực này cần thiết lập một cơ chế hợp tác có hiệu quả nhằm ngăn chặn sự
lây lan và sụp đổ về mặt kinh tế. Ngoài sáng kiến Chiang-Mai, mà đã tạo
ra một hệ thống các Hiệp định hoán đổi song phương giữa các nước
ASEAN và Đông Á, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ
tạo ra một cơ chế quan trọng khác nhằm củng cố sự ổn định kinh tế của
khu vực Đông Á và tạo cơ sở duy trì sự tăng trưởng kinh tế. Một mặt,
hiệp định này có thể tạo ra hiệu ứng “domino”: các cường quốc kinh tế
trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ cũng sẽ tìm cách ký
hiệp định mậu dịch tự do với ASEAN. Tại Hội nghị cấp cao APEC
tháng 10/ 2002, Tổng thống Mỹ George Bush đã đưa ra “Sáng kiến hành
động ASEAN” (EAI), tuyên bố sẵn sàng thương lượng lập FTA với bất
kỳ thành viên nào của tổ chức này. Tình hình đó tạo cơ hội cho ASEAN
trở thành trung tâm thương mại của Châu Á. Mặt khác, hiệp định này sẽ
góp phần đẩy nhanh quan hệ hợp tác có quy mô rộng hơn trong khu vực
Đông Á. Cụ thể ACFTA được thiết lập sẽ có tác động tích cực tới hợp
tác kinh tế khu vực ở châu Á, nhất là Đông Nam Á, cuối cùng rất có thể
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 111 -
là việc gia nhập của Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ tạo nên "khu mậu dịch tự
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam do Đông Á" (EAFTA) với số dân hơn 2 tỷ người và GDP hơn 7000 tỷ
USD [26], hình thành sự hợp nhất về kinh tế ở Đông Á.
Thứ ba, sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc còn có thể coi là bước khởi đầu trong tiến trình hợp tác giữa các
nước đang phát triển. Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc không chỉ nhằm giảm và xoá bỏ các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan hiện nay giữa hai bên mà còn tạo nên một khuôn khổ hoàn
chỉnh, bao gồm những chính sách hội nhập thị trường, ví dụ như khuyến
khích xuất khẩu, tạo thuận lợi cho thương mại và đem lại sự hài hoà cho
các luật lệ và tiêu chuẩn thương mại với đầu tư. Nếu thành lập một cơ
chế bổ trợ cùng với việc thành lập khu vực mậu dịch tự do này, thì cơ
chế này sẽ tăng cường khả năng đối phó với các rủi ro kinh tế bên ngoài,
giảm mức độ lệ thuộc quá nhiều vào thị trường của các nước phát triển.
Hơn thế nữa, nếu sự hội nhập kinh tế ASEAN - Trung Quốc có thể kết
hợp việc tự do hoá và quá trình xây dựng luật lệ với việc viện trợ cho
các nền kinh tế đang phát triển thì có thể sẽ thúc đẩy những nước đó
tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực, và nó cũng sẽ cho thấy
làm thế nào để các nước nghèo hơn hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 112 -
Giúp cho các nước này tự tham gia vào thị trường toàn cầu chính là cách
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tốt nhất giúp họ bớt phụ thuộc vào sự viện trợ từ các nước phát triển. Và
như vậy, khu vực mậu dịch tự do này sẽ trở thành một khuôn mẫu mới
cho việc hợp tác giữa các nước đang phát triển.
Hơn nữa, trong tình hình chính trị thế giới diễn biến phức tạp như
hiện nay, chủ nghĩa khủng bố đang lan tràn và trở thành hiểm họa và đe
dọa không loại trừ bất cứ nước nào thì chống chủ nghĩa khủng bố đã trở
thành một trong những chủ đề quan trọng được nhắc đến trong mọi diễn
đàn hợp tác kinh tế của tất cả các khu vực. Với việc thành lập ACFTA,
sự hợp nhất kinh tế Trung Quốc – ASEAN sẽ tạo nên một sức mạnh
chung trong cuộc chiến chống khủng bố của khu vực nói riêng và của
toàn cầu nói chung, góp phần gìn giữ và bảo vệ hoà bình thế giới.
Các lợi ích của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc có thể chưa thể hiện rõ ràng ngay lúc này bởi hai bên mới
chỉ ký kết hiệp định khung. Tuy nhiên, các cam kết trong một hiệp định
khung như vậy sẽ củng cố niềm tin vào quan hệ hợp tác thương mại và
kinh tế. Hai năm tới có thể sẽ là hai năm để “khởi động”. Một khi các
cuộc đàm phán về ACFTA được bắt đầu thì các lợi ích của việc thành
lập khu vực mậu dịch tự do này sẽ hé lộ ra sau khi các biện pháp cụ thể
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 113 -
được đưa ra. Quan hệ thương mại và đầu tư song phương giữa ASEAN
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam và Trung Quốc có thể sẽ phát triển vượt bậc từ sau năm 2004, và đây sẽ
là nền tảng vững chắc cho sự phát triển và ổn định kinh tế của khu vực
Đông Á trong tương lai. Đến lúc đó, thế giới sẽ xuất hiện "thế chân vạc"
với 3 khu vực lớn mạnh là Bắc Mỹ, EU và Đông Á, có lợi cho hòa bình
thế giới và phát triển kinh tế toàn cầu.
Tóm lại, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được xây
dựng không những có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng cường sự
hợp tác kinh tế vốn có giữa hai bên mà còn có lợi cho việc mở rộng mậu
dịch, đầu tư và du lịch song phương. Ngoài ra, đây sẽ là bước mở đầu
quan trọng cho tiến trình nhất thể hoá kinh tế khu vực Đông Á, góp phần
làm phồn vinh khu vực châu Á. Trong sự phồn vinh chung ấy, vị thế của
ASEAN và Trung Quốc nhất định sẽ được nâng cao hơn nữa.
2.2. Thách thức
2.2.1. Loại hình tổ chức của ACFTA
Loại hình tổ chức của ACFTA hiện nay vẫn đang gây ra nhiều
tranh cãi bởi lẽ nếu xây dựng Khu vực mậu dịch tự do kiểu mở cửa thì
ưu đãi mà các nước thành viên được hưởng sẽ tương đối ít. Nếu xây
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 114 -
dựng Khu vực mậu dịch tự do kiểu khép kín, cơ chế hóa, chỉ mở cửa và
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam áp dụng chế độ thuế ưu đãi đối với các nước thành viên thì sẽ có lợi cho
phát triển kinh tế của các nước thành viên, khiến các nước này có được
những lợi ích lớn nhất. Tuy nhiên, hiện nay trình độ phát triển của các n-
ước trong khu vực còn khác nhau, điều này sẽ tạo nên trở lực từ những
chế độ xã hội khác nhau và trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau,
thậm chí có thể hình thành hàng rào mậu dịch mới, đi ngược lại với xu
thế phát triển nhất thể hóa kinh tế toàn cầu.
Trước thực tế đó, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng thể thức của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có thể dựa vào thể thức
của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Việc thực thi AFTA sẽ
đem lại những bài học tham khảo có tính xây dựng cho việc thiết lập
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Sau 10 năm đàm phán
trong tất cả các lĩnh vực có liên quan tới việc xây dựng một khu vực
mậu dịch tự do cho Đông Nam Á, ASEAN đã có nhiều kinh nghiệm
trong việc xây dựng các khu vực mậu dịch tự do. Trước thực tế là
ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí xây dựng một khu vực mậu dịch tự
do thì cách thức đơn giản nhất để hình thành khu vực này là dựa vào các
cơ chế hiện hành của AFTA. Điều này sẽ giúp giảm bớt việc đàm phán
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 115 -
lại các tiêu chí của khu vực mậu dịch tự do giữa 10 nước thành viên
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ASEAN và Trung Quốc. Một số biện pháp cụ thể có thể được xem xét
lại tuỳ theo nhu cầu của hai bên nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí.
2.2.2. Tình trạng phân hóa hai cực
Một số nước lạc hậu trong ASEAN lo ngại rằng tham gia khu
mậu dịch tự do không những không nâng cao sức cạnh tranh của mình
mà ngược lại còn bị lạc hậu hơn về kinh tế, sự phân hóa giữa hai cực
càng nghiêm trọng, bởi lẽ:
Thứ nhất, những nước này cho rằng sức sản xuất trong nước
không cao, một khi mở cửa thị trường có thể sẽ bị tràn ngập bởi khối
lượng lớn hàng xuất khẩu của các nước có trình độ phát triển cao hơn,
dẫn đến việc trở thành "thuộc địa kinh tế" của các nước này. Do vậy, để
bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, một số nước ASEAN sẽ gặp phải trở
lực khá lớn trong việc giảm mức thuế và tiến trình thúc đẩy nhất thể
hóa kinh tế khu vực.
Thứ hai, cùng với việc ký kết một FTA với Trung Quốc, các nước
ASEAN cũng không ngừng tìm kiếm các FTA song phương khác như
FTA ASEAN – Nhật Bản, FTA ASEAN – Ấn Độ, FTA Mỹ –
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 116 -
Singapore, FTA Singpore – New Zealand, FTA Thái Lan – Ấn Độ,
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam FTA Thái Lan – UAE, … và nếu các nước trong khối vẫn tiếp tục chạy
đua ở cuộc chơi FTA như vậy thì tiến trình thực hiện AFTA có thể bị
đe doạ. Vì khi đạt được FTA, các nước sẽ lo tới quyền lợi của mình với
các nước ngoài khối, còn việc thực hiện lộ trình giảm thuế chung trong
ASEAN sẽ bị xếp xuống hàng thứ yếu, làm cho hố sâu về hoà nhập tự
do thương mại giữa các nước ASEAN ngày càng lớn dần. Nếu ASEAN
có khoảng 5 FTA như vậy thì sẽ dẫn tới sự ra đời các “tiểu vùng kinh
tế” trong khu vực và tình trạng cạnh tranh cục bộ là chắc chắn. Khi đó,
AFTA sẽ chỉ là cái “vỏ bọc” của những FTA riêng biệt.
2.2.3. Cạnh tranh
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là khu vực tự do
lớn nhất, có tiềm năng tạo ra những nguồn lợi rất lớn, song nó cũng tạo
ra môi trường cạnh tranh rất gay gắt. Mặc dù các nước thành viên
ASEAN được hưởng lợi từ thặng dư mậu dịch và những lợi thế về chính
trị, song nhiều nước trong khối này vẫn cho rằng sự trỗi dậy của Trung
Quốc sẽ tạo ra sức hút lớn đối với đầu tư nước ngoài mà trước đây đổ
nhiều vào khu vực ASEAN, dẫu rằng khi nền kinh tế Trung Quốc được
tăng cường thì các nhà đầu tư Trung Quốc cũng sẽ đầu tư vào các nước
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 117 -
ASEAN nhiều hơn và tự do hơn. Thêm vào đó, với việc Trung Quốc gia
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nhập WTO, nhiều người lo ngại rằng Trung Quốc sẽ đạt được sự thịnh
vượng trong khi làm tổn hại đến các nước láng giềng. Vậy phải chăng
Trung Quốc là một mối đe doạ? Theo các chuyên gia, câu trả lời phụ
thuộc vào nền kinh tế của nước nào đó có khả năng cạnh tranh hay bổ
sung lẫn nhau với nền kinh tế Trung Quốc hay không, và phụ thuộc vào
khả năng tận dụng những cơ hội có thể có ở thị trường Trung Quốc.
Nhìn chung, các nước ASEAN và Trung Quốc đều thuộc các quốc
gia đang phát triển, nhất là Trung Quốc với ASEAN- 6 (trừ Singapore và
Bruney) đều đang trong giai đoạn phát triển kinh tế tương đối gần nhau,
cơ cấu ngành khá giống nhau, tính phụ thuộc trong kinh tế đối ngoại khá
lớn, trong một số lĩnh vực còn tồn tại cạnh tranh khá quyết liệt. Cạnh
tranh kinh tế giữa ASEAN với Trung Quốc chủ yếu thể hiện trên ba mặt
là: cạnh tranh về mậu dịch, cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài và cạnh tranh tại thị trường thứ ba.
2.2.3.1. Cạnh tranh về mậu dịch
Tuy mậu dịch song phương giữa Trung Quốc và ASEAN phát triển
nhanh, nhưng hai bên đều chưa phải là đối tác chính của nhau. Sau khi
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được thiết lập, cộng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 118 -
thêm bối cảnh Trung Quốc đã gia nhập WTO, ASEAN lo ngại hàng hoá
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giá rẻ của Trung Quốc có khả năng tràn nhập thị trường nội địa các nước
này. Những lo ngại này không phải không có lý.
Trước hết, các nước ASEAN phải gánh chịu áp lực ngày càng tăng
của ngành công nghiệp trong nước bởi Trung Quốc có lợi thế so sánh rất
lớn:
Trung Quốc có một nguồn tài nguyên khá phong phú, nhiều
chủng loại và trữ lượng lớn.
Trung Quốc chiếm ưu thế tuyệt đối về nguồn nhân lực. Hiện tại
lực lượng lao động thực tế của Trung Quốc có 731.22 triệu người. Trong
10 năm tới, lực lượng này sẽ được bổ sung thêm khoảng 150 triệu người
[30]. Điều đó càng gia tăng lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực của
Trung Quốc.
Trung Quốc có ưu thế về vốn. Nhiều năm qua mức tích luỹ
trong nước luôn xấp xỉ 40% GDP [30]. Với chính sách thu hút vốn linh
hoạt và đa dạng, mức độ tích luỹ vốn và lợi thế so sánh của Trung Quốc
cũng dần dần chuyển từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang sản
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 119 -
phẩm sử dụng nhiều vốn và đầu tư cao.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Với những lợi thế so sánh trên, các nước ASEAN sẽ gặp phải khó
khăn rất lớn từ sự lớn mạnh của Trung Quốc. Và thực tế hiện nay, hàng
tiêu dùng của Trung Quốc đã tràn ngập thị trường các nước ASEAN với
lợi thế cạnh tranh về giá cũng như sự đa dạng về chủng loại.
Thứ hai, cả ASEAN và Trung Quốc đều có nét tương đồng và cạnh
tranh gay gắt với nhau đối với các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao
động như điện tử, thiết bị điện gia dụng và dệt may. Với việc gia nhập
WTO, khả năng cạnh tranh của Trung Quốc đối với những sản phẩm này
sẽ ngày càng quyết liệt hơn. Do đó, có thể nhận thấy, khi khu vực mậu
dịch tự do hoàn thành với các rào cản thương mại được dỡ bỏ, ưu thế
của Trung Quốc về các mặt hàng này trên thị trường ASEAN sẽ ngày
càng gia tăng. Điều này sẽ tạo nên những thách thức lớn đối với các
ngành công nghiệp của các nước ASEAN, nhất là các xí nghiệp có quy
mô vừa và nhỏ.
Thứ ba, vốn dựa vào xuất khẩu, các nước ASEAN coi Trung Quốc
- với 1.3 tỷ dân [5] và một nền kinh tế đang phát triển - là một trong
những thị trường quan trọng nhất trên thế giới. Trong khi đó, Trung
Quốc coi các nước ASEAN vừa là thị trường tiêu thụ vừa là nguồn cung
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 120 -
nguyên liệu thô, đặc biệt là dầu mỏ cho mình. Tuy nhiên, khả năng hợp
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tác với Trung Quốc rất khác nhau giữa các nước ASEAN. Trong
ASEAN, các nền kinh tế như Singapore, Malaysia và Thái Lan có khả
năng bổ sung lớn cho nền kinh tế Trung Quốc, trong khi đó, nền kinh tế
của những nước ASEAN khác hiện đang trên đường nâng dần sức cạnh
tranh của mình. Chính vì vậy, hiện tại một số nước ASEAN như
Indonesia, Philippines, Malaysia còn tỏ ra rất e dè về việc nhanh chóng
thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, xuất phát từ lo
ngại về nguy cơ phá hoại nền kinh tế của họ bởi những hàng hoá nhập
khẩu tự do có tính cạnh tranh hơn của Trung Quốc. Bản thân chính phủ
một số nước ASEAN hiện đang chịu sức ép mạnh mẽ từ các doanh
nghiệp trong nước đối với việc thực hiện Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc. Các nước này cho rằng các ngành công nghiệp
của họ, đặc biệt là dệt may, đồ chơi và sản xuất xe máy sẽ bị tác động
tiêu cực bởi hiệp định này. Hơn nữa, Trung Quốc sẽ cạnh tranh với
ASEAN về chỗ đứng trong hàng loạt các sản phẩm giá trị gia tăng trước
thực tế là sản xuất ở Trung Quốc ngày càng tinh vi. Mặc dù trước mắt
ASEAN có thể dẫn đầu, kiếm lời từ việc cung cấp nhu yếu phẩm cần
thiết cho sự phát triển của Trung Quốc nhưng trong tương lai, Trung
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 121 -
Quốc đủ lớn, đủ tinh vi để thực hiện tất cả các khâu trong dây chuyền
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng và với diện tích rộng lớn của
mình, Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc kinh tế ở khu vực và có
lợi thế chính trị nhờ vị thế đó.
Như vậy, nguồn lợi mà Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc mang lại không đồng đều cho các nước thành viên. Điều này tuỳ
thuộc năng lực thâm nhập thị trường của từng nước và của từng nhà sản
xuất. Trong khi các nhà sản xuất định hướng thị trường quốc tế có khả
năng nắm bắt thị trường nhu cầu hàng hoá của Trung Quốc sẽ được
hưởng lợi thì các nhà sản xuất chỉ chăm lo hướng vào thị trường nội địa
có nguy cơ cao bị hàng hoá của Trung Quốc cạnh tranh quyết liệt và
người thua thiệt sẽ là các nhà sản xuất của ASEAN. Lý do rõ ràng là
Trung Quốc có lợi thế chi phí thấp trong các ngành hàng sản xuất sử
dụng nhiều lao động. Các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu ở các
nước ASEAN có thể sẽ mất tính cạnh tranh một khi thuế quan được hạ
thấp.
Có thể nỗi lo lắng lớn nhất khi trao đổi thương mại với Trung
Quốc là con rồng kinh tế sẽ nuốt chửng toàn bộ lợi nhuận thương mại
thu được với sự trả giá của ASEAN. Thêm vào đó, việc tạo ra một khu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 122 -
vực mậu dịch tự do, bất chấp những lợi ích hiển nhiên thu được từ chi
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phí nhập khẩu thấp hơn và thị trường rộng lớn hơn, vẫn đặt ra một vài
rủi ro. Trong số đó phải kể tới nguy cơ nhập khẩu đắt hơn từ các bạn
hàng, cho dù những hàng hoá này đến từ một vài nước có chi phí sản
xuất thấp. Đây chính là hiện tượng chuyển hướng thương mại. Không
nghi ngờ gì nữa, Trung Quốc đã tự xếp mình như một trong những nhà
sản xuất hàng đầu các sản phẩm công nghiệp giá rẻ và đang chuyển
hướng về sản xuất những sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng lớn
hơn. Tuy nhiên, trao đổi thương mại với Trung Quốc không phải là trò
chơi một mất một còn, khi Trung Quốc tiếp nhận toàn bộ lợi ích, phần
còn lại của ASEAN sẽ lên tiếng phản đối. Chắc chắn sẽ có cạnh tranh,
đặc biệt là để tìm thị trường xuất khẩu, tuy nhiên sự khác biệt giữa các
sản phẩm sẽ bổ sung lẫn cho nhau.
2.2.3.2. Cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Về đầu tư, với một thị trường rộng lớn lại có sự ổn định chính trị
xã hội cao, có nền kinh tế đang công nghiệp hoá tăng trưởng cao và ổn
định, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ có sức hút mạnh
mẽ đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên rủi ro có thể xảy ra là
phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thu hút bởi Khu vực mậu dịch
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 123 -
tự do này sẽ do Trung Quốc chiếm giữ.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Thật vậy, chế độ đầu tư tự do hơn của Trung Quốc cũng như chi
phí sản xuất thấp của nước này so với các quốc gia khác sẽ rất có thể kéo
một số nhà đầu tư ra xa các nước ASEAN. ASEAN và Trung Quốc đều
là những nước đang phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế cần thu
hút một khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sau khủng hoảng
tài chính tiền tệ châu Á năm 1997, đầu tư nước ngoài bắt đầu rút khỏi
các nước Đông Nam Á, trong khi đó, Trung Quốc với thị trường nội địa
khổng lồ và với sự điều hành kinh tế vĩ mô vững chắc đã khiến cho
nguồn vốn bên ngoài ồ ạt chảy vào. Năm 2000, tỷ lệ FDI vào 10 nước
ASEAN trong tổng ngạch đầu tư vào các nước đang phát triển châu Á
vẫn thấp hơn mức trước khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ, từ trên 30% thời
kỳ giữa thập kỷ 90 xuống còn 10% vào năm 2000, trong khi đó đầu tư
trực tiếp của nước ngoài vào Trung Quốc từ 14.38% năm 1990 tăng vọt
lên 45.9% vào năm 2001 [28].
Mặt khác, phần lớn các nước ASEAN trong 30 năm qua chủ yếu
dựa vào đầu tư trực tiếp từ bên ngoài, nhất là vốn từ Nhật Bản. Nhưng
việc ASEAN thiết lập khu mậu dịch tự do với Trung Quốc sẽ gạt các thế
lực truyền thống như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản ra ngoài, do vậy trước hết
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 124 -
sẽ phải chịu sức ép từ phía Nhật Bản, cụ thể đầu tư của Nhật Bản tại khu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vực có thể sẽ giảm mạnh gây nên tổn thất trực tiếp về kinh tế. Đồng thời,
Trung Quốc lại có sức thu hút to lớn đối với các nhà đầu tư Nhật Bản,
Mỹ, Hồng Kông, thậm chí Đài Loan. Hiện nay có tới 80% [28] vốn quốc
tế đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc, điều này tạo nên một sức ép rất lớn
đối với sự phát triển kinh tế và là một thách thức mới đối với ASEAN.
Hơn nữa, tuy nguồn vốn đầu tư từ Hồng Kông, Đài Loan chiếm vị
trí quan trọng trong đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc nhưng từ khi gia
nhập WTO, chính phủ Trung Quốc đã sửa đổi “Danh mục chỉ đạo ngành
đầu tư ngoại thương” và “Quy định chỉ đạo hướng đầu tư ngoại
thương”, mở rộng lĩnh vực đầu tư nước ngoài, đồng thời nới lỏng hạn
chế tỷ lệ cổ phần đầu tư nước ngoài. Do vậy, những năm gần đây, Mỹ,
Nhật Bản và Châu Âu đã đẩy mạnh đầu tư vào Trung Quốc. Theo thống
kê của Bộ Tài chính Nhật Bản, 6 tháng đầu năm 2002, đầu tư trực tiếp
của Nhật Bản vào Singapore giảm 30.5%, vào Thái Lan giảm 44.4%,
vào Indonesia giảm 31.7%, vào Malaysia giảm 55% và vào Việt Nam
giảm 47.6%; trong khi đó đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc lại tăng
23.2% [28]. Nguyên nhân chủ yếu khiến Nhật Bản giảm đầu tư vào
ASEAN và chuyển vốn đầu tư sang Trung Quốc là do Trung Quốc có ưu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 125 -
thế giá nhân công rẻ, thị trường lớn. Ví dụ, công ty sản xuất đồ điện
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam NEC của Nhật Bản đã đóng cửa cơ sở sản xuất máy vi tính cá nhân ở
Malaysia, chuyển sang sản xuất tại Trung Quốc. Hay trong ngành công
nghiệp sản xuất ô tô cũng vậy, các nhà hoạch định chính sách đang lo
ngại rằng Trung Quốc sẽ thu hút hết nguồn đầu tư nước ngoài vào ngành
này và sẽ dần “xoá sổ” thị phần của ASEAN trên thị trường Trung
Quốc. Như vậy, có thể thấy triển vọng thị trường Trung Quốc đang ngày
càng có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Và đây chính là
điều mà các nước ASEAN đều lo ngại.
Mặc dù thách thức cạnh tranh với Trung Quốc, cả hiện tại và tương
lai, là rất lớn song đứng ở góc độ chiến lược, hội nhập của ASEAN và
Trung Quốc là cần thiết bởi lẽ căn cứ vào tình hình xuất nhập khẩu của
các nước ASEAN, có thể thấy, cơ cấu ASEAN có tính hướng ngoại với
hơn 77% khối lượng ngoại thương diễn ra với bên ngoài khối, giao dịch
nội khối chỉ chiếm 23% [25]. Xét rộng ra, không chỉ các nước ASEAN
mà các nước thuộc khu vực Đông Á nói chung như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Trung Quốc đều mang thuộc tính này. Không những
thế, cơ cấu sản phẩm của các nước cũng tương đối giống nhau. Chính
thuộc tính này làm cho các nước xích lại gần nhau hơn trong những năm
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 126 -
qua. Các nước ASEAN dường như bị chi phối bởi ảnh hưởng của Nhật
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Bản, song cũng được lợi từ mối quan hệ này. Rõ ràng cạnh tranh trong
xuất khẩu mới là nguy cơ lớn nhất, làm chia rẽ các nước. Điều này xét
về mặt nào đấy chỉ có lợi cho bên thứ ba.
Hơn nữa, bài học từ khối các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) cho
thấy một cơ cấu tương tự là rất cần thiết đối với các nước trong khu vực,
không chỉ ASEAN mà cả Trung Quốc. Thế giới ngày nay đang đứng
trước trào lưu tự do hoá thương mại và ngày càng có xu hướng trở thành
thị trường chung bị chi phối bởi các công ty đa quốc gia. Trong bối cảnh
đó, những nước đang phát triển chịu nhiều thiệt thòi và bất lợi đang có
xu hướng xích lại gần nhau hơn để tự bảo vệ và tạo điều kiện phát huy
sức mạnh tập thể, hỗ trợ và tăng cường khả năng cạnh tranh. Xét trên
quan điểm này, một sự hợp nhất ASEAN - Trung Quốc có lợi hơn là đối
đầu lẫn nhau, đúng như nhận định của Cựu tổng thư ký ASEAN Rodolfo
C. Severino: “Cạnh tranh là điều không còn phải bàn cãi. Toàn bộ hàm
ý của toàn cầu hoá chính là cạnh tranh, thương mại như vậy, kinh tế
cũng là như vậy. Cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh tự do công bằng thì
không phải là điều xấu, cũng không đáng lo sợ” [28]. Như vậy, xây
dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ khiến cho
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 127 -
ASEAN và Trung Quốc trở thành một thị trường thống nhất và đây
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chính là con đường hiệu quả để khắc phục cạnh tranh “ác tính” giữa hai
bên.
2.2.3.3. Cạnh tranh tại thị trường thứ ba
Sau hơn 20 năm cải cách và thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh
tế Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng với tiềm lực kinh tế to lớn,
đứng thứ hai trên thế giới sau Mỹ về GDP tính theo sức mua tương
đương. Đồng thời, cả GDP và ngoại thương của Trung Quốc đều phát
triển với tốc độ nhanh. Sức mạnh kinh tế đó của Trung Quốc đang tác
động rất mạnh đến các nước ASEAN, đặc biệt tại thị trường thứ ba.
Trước hết, ASEAN, với tư cách là một khối thống nhất, đang dần
mất đi vị trí trung tâm chế tạo hàng giá thành thấp của thế giới. Trung
tâm này đã dần dần chuyển sang Trung Quốc. Đó là do Trung Quốc và
đa số các nước ASEAN đều có nguồn nhân lực và nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú, trình độ phát triển và cơ cấu ngành về cơ bản
cùng thứ hạng, còn những nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và các
nước công nghiệp mới khác lại đều là đối tác thương mại và nguồn thu
hút vốn chủ yếu. Theo điều tra của báo Nikkei (Nhật Bản), năm 2000,
Trung Quốc chiếm 40% tổng lượng sản xuất máy điều hoà không khí,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 128 -
24% tivi màu, 11% máy tính cá nhân và 10% điện thoại di động của thế
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giới [30]. Hơn nữa, với chất lượng hàng công nghiệp ngày càng được cải
thiện rõ rệt, Trung Quốc đã nhanh chóng thâm nhập vào các thị trường
quan trọng trên thế giới như Mỹ và Nhật Bản, đây đồng thời cũng là
những thị trường xuất khẩu quan trọng nhất đối với cả phần lớn các
thành viên ASEAN và Trung Quốc. Lấy ví dụ với bốn nước ASEAN có
trình độ phát triển gần với Trung Quốc là Thái Lan, Malaysia,
Philippines và Indonesia. Thị phần của các nước này tại Mỹ và Nhật Bản
có thể bị thu hẹp lại do sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc. Theo
thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), trong thập niên 90, thị phần của
Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia chỉ thay đổi đáng kể trong
khi thị phần của Trung Quốc lại tăng vượt bậc. Từ năm 1991 đến năm
2001, thị phần của 4 nước ASEAN này trong tổng nhập khẩu của Mỹ chỉ
tăng từ 3.7% đến 5% trong khi Trung Quốc tăng từ 2% lên 7%. Cũng
trong thời gian đó, trong tổng nhập khẩu của Nhật Bản, thị phần của 4
nước ASEAN: Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia tăng từ
11.1% đến 12.7% trong khi Trung Quốc tăng từ 4.9% lên 13% [30].
Như vậy, có thể thấy trong số những thị trường xuất khẩu chính
của các nước ASEAN, chừng nào cuộc cạnh tranh với Trung Quốc còn
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 129 -
tiếp diễn, Châu Âu, Nhật Bản và Mỹ sẽ là những thị trường cạnh tranh
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lớn. Vì Trung Quốc đang hướng hàng xuất khẩu của họ vào cùng một thị
trường với ASEAN nên hàng hoá của các nước ASEAN sẽ phải cạnh
tranh trực tiếp với hàng Trung Quốc. Hiện nay, các thị trường chính của
Trung Quốc là Mỹ, EU và Nhật Bản với mức xuất khẩu trên tổng số
(khoảng 195.2 tỷ USD vào năm 2000) lần lượt là 45%, 26% và 22%
[31]. Thương mại của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào các sản phẩm
chế tạo bao gồm: hàng tiêu dùng (đồ chơi, các chương trình trò chơi,
thiết bị nội thất); trang thiết bị văn phòng và viễn thông, máy và dụng cụ
chạy điện, hàng dệt may và quần áo.
Thật vậy, từ cuối thập kỷ 80, với chiến lược trở thành trung tâm
của thế giới về hàng chế tạo, Trung Quốc đã là nước sản xuất và xuất
khẩu lớn nhất các mặt hàng chế tạo tập trung nhiều lao động. Trong giai
đoạn 1993 – 1998, nhóm hàng này bao gồm dệt may, giầy dép, đồ chơi
trẻ em, dụng cụ thể thao và đồ gỗ, ..., chiếm 36% [32] tổng kim ngạch
xuất khẩu của Trung Quốc. Đây cũng là những mặt hàng đóng góp nhiều
nhất cho thặng dư thương mại của Trung Quốc kể từ năm 1995 trở lại
đây. Hiện nay, khoảng 94% và 96% tổng lượng hàng xuất khẩu của
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 130 -
Trung Quốc sang thị trường Mỹ và EU là hàng chế tạo. Tại Nhật, gần
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 15% lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc là sản phẩm nông nghiệp và
khoảng 80% là hàng chế tạo [31].
Mặc dù xuất khẩu dệt may bị hạn chế bởi những quy định của Hiệp
định đa sợi nhưng dệt may vẫn là nhóm hàng xuất khẩu quan trọng nhất
trong giai đoạn kể trên. Ví dụ, tại thị trường hàng may mặc nhóm G7, thị
phần của Trung Quốc đã tăng gấp đôi lên mức 20% những năm 90, lợi
nhuận về thị phần này phần lớn thu được từ thiệt hại của các nhà xuất
khẩu của các nước công nghiệp mới Châu Á (NICs); tuy nhiên, thị phần
của các nước Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan vẫn còn khá
trì trệ ở mức khoảng 8% [34]. Thị trường hàng giày dép G7 hiện cũng
đang bị Trung Quốc chiếm lĩnh, với thị phần tương đối tăng từ 10% cuối
những năm 80 đến mức 38% [33] cuối những năm 90. Một lần nữa, việc
này đã gây thiệt hại không nhỏ cho ASEAN.
Sở dĩ như vậy là vì chi phí nhân công ở Trung Quốc rất thấp. Nếu
lấy giá nhân công làm tiêu chí để so sánh thì các nước ASEAN phải đối
mặt với sức ép rất lớn trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá. Từ bảng 12 có
thể thấy Trung Quốc là nước có đơn giá nhân công thấp nhất (0.07
USD), trong khi đơn giá nhân công của các nước ASEAN lại rất cao,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 131 -
đặc biệt là Singapore, Thái Lan và Malaysia với chỉ số nhân công trên
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam dưới 0.5 USD. Điều này đã lý giải tại sao Trung Quốc lại có nhiều ưu
thế hơn so với các nước ASEAN trong quá trình xuất khẩu những mặt
hàng có hàm lượng lao động cao. Một nguyên nhân khác là do các nước
phát triển và một số nước công nghiệp mới đã thực hiện cải cách cơ cấu
công nghiệp theo hướng tập trung sản xuất các mặt hàng có hàm lượng
công nghệ cao và nhập khẩu các mặt hàng có hàm lượng lao động cao từ
các nước đang phát triển.
Bảng 12: So sánh đơn giá nhân công giữa Trung Quốc và một số
nước ASEAN
Đơn vị: USD
1985 1986 1987 1988 1999
Trung 0.07 0.06 0.07 0.07 0.07
Quốc
Indonesia 0.21 0.16 0.14 0.09 0.09
Malaysia 0.4 0.37 0.25 0.25 0.25
Philippine 0.29 0.3 n.a. n.a. n.a.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 132 -
s
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Singapore 0.46 0.41 0.68 0.71 0.59
Thái Lan n.a. n.a. 0.28 0.36 0.33
Nguồn: Lee and Abeysinghe (1999) [33].
n.a. : không có số liệu
Có thể lấy ví dụ một nhóm hàng tập trung nhiều lao động của
Trung Quốc đang phát triển rất nhanh và chắc chắn sẽ là mối đe doạ
đáng kể cho lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá của các nước ASEAN, đó là
máy móc và đồ điện gia dụng như thiết bị ghi âm, linh kiện tivi và các
thiết bị viễn thông khác. Giá trị xuất khẩu của nhóm hàng này đã tăng từ
2.82% năm 1986 lên 23.75 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung
Quốc [32]. Theo thống kê của báo Nikkei (Nhật Bản), tại thị trường
Nhật Bản, hàng vải, may mặc nhập khẩu từ Trung Quốc chỉ có 4 tỷ JPY
vào năm 1990 nhưng đã tăng lên 1,800 tỷ JPY vào năm 2000, làm cho tỷ
lệ nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng nhập khẩu các mặt hàng này của
Nhật Bản trong thời gian đó tăng từ 0.2% lên đến 68%. Vào năm 1990,
hầu như Trung Quốc chưa xuất khẩu đồ điện gia dụng sang Nhật Bản,
nhưng đến năm 2000 đã chiếm gần 30% tổng lượng nhập khẩu máy điều
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 133 -
hoà không khí của nước này, trên 30% máy giặt, 25% tivi và video [30].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Thứ hai, xem xét từ cơ cấu xuất khẩu hàng hoá, những năm gần
đây, hệ số tương quan đẳng cấp hay còn gọi là “chỉ số đặc thù”
(specification index) [34] của hàng xuất khẩu Trung Quốc và ASEAN
ngày càng cao. Đánh giá của Viện nghiên cứu Nomura (Nhật Bản) về
“chỉ số đặc thù” của hàng hoá công nghiệp của các nước Đông Á (xem
bảng 13) cho thấy hầu hết các nước ASEAN hiện đang trong tình trạng
cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc về thương mại, cơ cấu hàng xuất
khẩu của hai bên ngày càng giống nhau, sự cạnh tranh trên thị trường
thứ ba ngày càng quyết liệt. Trong đó, hệ số tương quan giữa Trung
Quốc và Thái Lan cao nhất, tới mức 0,98 (nghĩa là khả năng bổ sung
nhau rất thấp, cơ cấu hàng xuất khẩu hai nước giống nhau nhất và mức
độ cạnh tranh do đó cũng cao nhất).
Bảng 13: Chỉ số đặc thù của Trung Quốc và các nước ASEAN 5
trong một số ngành công nghiệp
Chế phẩm Công nghiệp có Các loại Công nghiệp
Nước Hoá chất hàm lượng nguy Máy móc tạp phẩm
liệu cao
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 134 -
Trung Quốc - 0.40 - 0.02 -0.08 0.76
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Indonesia - 0.31 0.52 -0.04 0.84
Thái Lan - 0.36 - 0.08 0.05 0.69
Malaysia - 0.29 - 0.09 0.13 0.34
Philippines - 0.80 - 0.54 -0.06 0.33
Singapore 0.15 - 0.28 0.06 -0.09
Nguồn : Viện nghiên cứu Nomura (Nomura Research Institute), Nhật
Bản, 2001, tính theo số liệu thống kê của ADB.
Hơn nữa, Trung Quốc và các nước ASEAN không chỉ có các mặt
hàng xuất khẩu giống nhau mà còn có nhiều thị trường xuất khẩu trùng
nhau. Về thị trường xuất khẩu, cả Trung Quốc và các nước ASEAN đều
dựa khá nhiều vào các nước phát triển. Các năm qua, Hồng Kông luôn là
thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc (tham khảo Phụ lục 9),
nhưng một khối lượng lớn hàng hoá xuất qua Hồng Kông để vào các thị
trường khác. Vì vậy, nếu không tính lượng hàng hoá xuất khẩu qua trung
gian này, tính tới thời điểm năm 1998 thì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Trung Quốc, sau đó là Nhật Bản. Trong khi đó, đối với các
nước ASEAN, khoảng 20.5% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước
này là sang thị trường Mỹ; 16.3% sang thị trường Châu Âu và 11% được
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 135 -
xuất sang Nhật Bản [32].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Như vậy, với việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do với Trung
Quốc, thoạt đầu các nước ASEAN sẽ thu được lợi nhờ cắt giảm quan
thuế của Trung Quốc nhưng ASEAN sẽ mất dần cho Trung Quốc thị
phần ở Mỹ, Châu Á và các thị trường khác.
2.2.4. Yếu tố chính trị
2.2.4.1. Vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông
Biển Đông (phía Trung Quốc gọi là Nam Hải, người phương Tây
gọi là biển Nam Trung Hoa) là vấn đề còn tồn tại và gây căng thẳng giữa
một số nước Đông Nam Á với Trung Quốc. Trong vấn đề biển Đông,
Trường Sa là điểm tranh chấp gay gắt nhất trong việc công nhận phạm vi
chủ quyền và lợi ích biển của các nước có liên quan. Biển Đông chiếm
25% vận tải biển của thế giới, trữ lượng dầu mỏ ước tính khoảng 23.5 tỷ
tấn và lượng khí đốt thiên nhiên khoảng 8269 tỷ m3 [35]. Cho nên có thể
nói, sự phức tạp của vấn đề Biển Đông mang tính tổng hợp, nó không
chỉ bao gồm yếu tố lịch sử, lợi ích chiến lược, chạy đua khai thác các
nguồn tài nguyên thềm lục địa như dầu lửa, khí tự nhiên mà còn gọi là
“tâm địa chấn” của mọi hoạt động trên biển giữa các nước trong khu vực
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 136 -
Châu Á - Thái Bình Dương.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Trong những năm gần đây, quan hệ láng giềng giữa Trung Quốc
với các nước ASEAN đã có bước cải thiện và phát triển đáng kể làm cho
tình hình ở Biển Đông gió im sóng lặng, nhưng thực chất các nước vẫn
không hề nới lỏng sự khống chế quân sự của mình. Trung Quốc tăng
cường cơ sở hạ tầng trên biển như cảng, sân bay, đèn biển, doanh trại và
tăng cường kiểm soát hành chính, còn các nước ASEAN tăng chi phí
quốc phòng và tích cực tiến hành các cuộc diễn tập trên Biển Đông. Sau
4 năm vắng bóng tại vùng biển gần quần đảo Trường Sa, ngày 21/ 2/
2000, Mỹ cùng Philippine diễn tập quân sự mang tên “Tinh thần đồng
đội Mỹ – Philippine” với quy mô lớn. Tiếp đến, vào tháng 5/ 2000, lần
đầu tiên Singapore cùng Thái Lan và Mỹ diễn tập chung “Hổ mang
2000” trong vòng 14 ngày. Ngày 3/ 7/ 2000, các nước Singapore,
Malaysia, Australia, New Zealand và Anh tiến hành cuộc diễn tập “Cá
bay 2000” với 5000 lính, 34 tàu chiến và 98 máy bay chiến đấu. Đáp lại
những cuộc diễn tập của các nước Đông Nam Á, trung tuần tháng 4/
2000, đội tàu của hải quân Trung Quốc diễn tập với nội dung 35 hạng
mục, huấn luyện và kiểm tra phương hướng chiến đấu trong môi trường
chiến đấu biển. Với những cuộc tập trận này, Biển Đông trở nên không
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 137 -
yên ả. Nhiều nhà quan sát lo ngại rằng nó có thể trở thành thùng thuốc
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam súng của Châu Á và có thể gây ra bão táp và trở thành “Trung Đông thứ
hai”. Mặc dù Trung Quốc và các nước ASEAN có liên quan đã đề cập
đến vấn đề này trong các cuộc hội nghị riêng về Biển Đông hoặc trong
các diễn đàn chung giữa hai bên nhưng vẫn chưa đạt được kết quả đáng
kể.
Như vậy, rõ ràng là tình hình biển Đông luôn là vấn đề nhạy cảm
trong quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN. Đây cũng có thể là trở ngại
lớn nhất trong việc phát triển quan hệ Trung Quốc – ASEAN trong thế
kỷ mới. Chính vì vậy, làm thế nào để duy trì hòa bình, ổn định và phi hạt
nhân hóa tại Biển Đông đã trở thành vấn đề mà Trung Quốc và ASEAN
cần phải đối mặt trước tiên một khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc được thành lập. Sớm ký kết bộ quy tắc ứng xử Biển Đông
(COC) có thể sẽ là sự bảo đảm quan trọng cho việc duy trì ổn định trong
khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác chặt chẽ và toàn diện hơn
giữa ASEAN và Trung Quốc trong ACFTA.
2.2.4.2. Vấn đề về quyền chủ đạo trong ACFTA
Sự thành công của bất cứ một hiệp định thương mại khu vực nào
thường có xu hướng là nhờ vào một nền kinh tế vững mạnh hoặc phát
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 138 -
triển. Tuy nhiên, không thể cho rằng xu hướng này sẽ bất biến về lâu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam dài. Một khi Trung Quốc trở nên ổn định hơn với các cuộc cải cách của
mình với tư cách là thành viên của WTO, quốc gia này có thể sẽ tích cực
tìm cách gây ảnh hưởng đến quá trình tự do hoá thương mại trong khu
vực. Trong số các nước ASEAN, không một nước nào có thực lực kinh
tế bằng Trung Quốc, nhưng nếu coi ASEAN là một khối thì lại có thể so
sánh được với Trung Quốc. Việc ai sẽ đóng vai trò chủ đạo ACFTA
trong tương lai là một vấn đề khá hóc búa.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng đóng vị trí đầu tầu trong khu
vực mậu dịch tự do này sẽ là Trung Quốc. Do vậy, sẽ không có gì ngạc
nhiên khi nước này rất quan tâm đến việc triển khai hiệp định này.
Ngoài những nguồn lợi to lớn về kinh tế nhờ vào sự ra đời của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, Trung Quốc còn có thể đánh bật
Nhật Bản ra khỏi vị trí hàng đầu ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
như nhận định của Jonathan Anderson, phụ trách bộ phận nghiên cứu
Châu Á - Thái Bình Dương của công ty UBS Securities tại Hồng Kông:
“ Trong 5 năm qua, nền kinh tế Trung Quốc hoạt động tốt hơn hẳn so
với các nước khác trong khu vực, và giới chức Trung Quốc rõ ràng
muốn được đánh giá là họ đang nhường chút gì đó cho các nước láng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 139 -
giềng của mình. Và một FTA do Trung Quốc dẫn đầu sẽ là một bước
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tiến đáng kể hướng tới việc củng cố vai trò của họ như là nhà lãnh đạo
mới của khối này, khéo léo hất cẳng Nhật Bản trong tiến trình đó” [24].
Thật vậy, hiện nay, trong khi kinh tế Nhật Bản còn chưa thoát ra khỏi
khủng hoảng thì kinh tế Trung Quốc vẫn tiếp tục đạt được những thành
tựu rất đáng tự hào. Mặc dù quan hệ ASEAN – Nhật Bản đã có lịch sử
phát triển hơn 40 năm qua, song mối quan hệ này trong thời gian gần
đây đã trở nên mờ nhạt hơn. Quan hệ ASEAN – Nhật Bản dựa vào mô
hình “đàn nhạn bay”, trong đó Nhật Bản là con chim đầu đàn, song mô
hình này đã thay đổi khi đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở nên quan
trọng hơn. Trên thực tế, Nhật Bản và các nước ASEAN hiện không phải
là đối tác bình đẳng bởi sự chênh lệch quá lớn về thu nhập, lương và
tổng thu nhập quốc nội. Khác với Nhật Bản, các nước ASEAN hiện
đang rất phụ thuộc vào thương mại, cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Tại
các nước này, thương mại chiếm tới 134% GDP, trong khi đó chỉ tiêu
tương ứng của Nhật Bản chỉ là 18% GDP [23]. Đây là lý do của sự bất
đồng lớn, tuy rằng Nhật Bản cũng là một thị trường khá lớn. Trong khi
đó, Trung Quốc là một nền kinh tế khổng lồ và có nhiều nét tương đồng
với khu vực ASEAN, ví dụ như nước này còn có chênh lệch về kinh tế
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 140 -
giữa các khu vực duyên hải và những vùng sâu trong nội địa đang ngày
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam càng tăng lên. Mặc dù Trung Quốc phát triển mạnh các lĩnh vực như
điện thoại di động và máy tính cá nhân song 70% của nền kinh tế nước
này vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp [23]. Như vậy, nếu như trước đây
Mỹ và Nhật Bản đóng vai trò là các nhà đầu tư chủ yếu vào nền kinh tế
các nước Đông Nam Á thì hiện nay Trung Quốc đang dần thay thế các
vị trí đó.
Chính vì vậy, trước đề xuất của Trung Quốc về việc thành lập một
khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc, một số nước
ASEAN cho rằng họ đang bị Trung Quốc lôi cuốn vào cuộc chơi do
Trung Quốc dẫn đầu. Các nước này cho rằng đề xuất hiệp định này của
Trung Quốc chủ yếu xuất phát từ mục tiêu chính trị. Trung Quốc muốn
làm giảm thiểu nỗi lo sợ của các nước ASEAN về một cường quốc
Trung Quốc đang nổi lên. Đồng thời, Trung Quốc muốn vượt qua Nhật,
lãnh đạo khu vực, thiết lập một trật tự kinh tế mới ở Đông Á không bị
Mỹ ngự trị. Trung Quốc đã tuyên bố thẳng thừng rằng họ muốn giúp bảo
vệ lợi ích của các quốc gia đang phát triển trong WTO. Ban lãnh đạo
nước này đã kêu gọi thành lập một hệ thống thương mại đa phương quốc
tế, trong đó các nước đang phát triển được đảm bảo sẽ không bị cản trở
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 141 -
và không bị phân biệt đối xử khi tiếp cận thị trường quốc tế cho các sản
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phẩm và hàng hoá của họ. Tại Hội nghị thượng đỉnh kinh tế Đông Á vào
tháng 10/ 2002 tại Kuala Lampur, Thứ trưởng Ngoại thương Trung
Quốc Long Vĩnh Đồ đã công khai nhấn mạnh rằng Châu Á cần phải có
một diễn đàn “để tiếng nói của chúng ta lớn hơn trong tiến trình đưa ra
quyết định” [11] hiện bị phương Tây chi phối. Trong bài báo đăng trên
tờ Japan Times ngày 15/ 11/ 2002 dưới đầu đề "Sức mạnh đang chuyển
lên hướng Bắc", Brad Losserman, Giám đốc nghiên cứu và Brailey
Fritschi, Nghiên cứu viên tại Diễn đàn Thái Bình Dương của Trung tâm
nghiên cứu chiến lược và quan hệ quốc tế CSIS (Indonesia) cũng đã
nhận xét rằng “FTA giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ chuyển trọng tâm
định đoạt ở khu vực lên hướng Bắc, thay đổi một cách cơ bản cách thức
hội nhập của các nước ASEAN và tất yếu làm chuyển đổi nguyên tắc của
tổ chức này” [36].
Nhận định này không phải không có lý. Đối với nền kinh tế
ASEAN, mặc dù các nhà lãnh đạo thường xuyên khuyếch trương khu
vực này là một thị trường hấp dẫn với 500 triệu người thì các nhà đầu tư
nhận thức được rằng các thị trường của 10 nước ASEAN còn bị phân tán
và đến chừng mực nào đó còn chưa phát triển. Cuộc khủng hoảng tài
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 142 -
chính đã làm vỡ mộng về sự thần kỳ ASEAN và những cải cách ở hầu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hết các nước còn lâu mới kết thúc. Hoạt động kinh tế còn chưa đạt được
mức trước khủng hoảng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Châu Á đã
chuyển nhiều sang Đông Bắc Á. Hơn thế nữa, sự phát triền kinh tế mạnh
mẽ của khu vực và sự nổi lên của ASEAN như là một đối tác trên trường
quốc tế (ít nhất là đến năm 1997) đã làm lu mờ vai trò quan trọng nhất
của ASEAN như là một tổ chức để xây dựng hình mẫu nhằm đối phó với
những thay đổi ở một khu vực đầy biến động. Một FTA mà do một nước
ngoài ASEAN chiếm ưu thế có thể làm đảo lộn quá trình trên. Chính phủ
của các nước trong khu vực không còn trông đợi ở nhau để tìm giải đáp
cho các vấn đề kinh tế, chính trị mà trông đợi ở Trung Quốc. Như vậy,
sự cân nhắc yếu tố kinh tế sẽ là trên hết và sẽ vượt lên trên những sự
quan tâm của cộng đồng. Trong cả 2 cấp độ này, ASEAN là những ngư-
ời thua thiệt. Chỉ có một cách để hạn chế sự thua thiệt này là các nước
ASEAN phải gắn bó mật thiết hơn với nhau, có chung một tiếng nói và
như vậy mới có thể làm đối trọng được với Trung Quốc. Đây có thể sẽ là
điều kỳ diệu vì hiện nay có nhiều khác biệt lớn giữa các nước ASEAN
do lịch sử đã chia rẽ họ. Nhưng có thể thu hẹp được những khác biệt
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 143 -
giữa các nước ASEAN, nếu chính phủ các nước này ngồi lại với nhau.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Tuy nhiên, vẫn có mối quan ngại rằng ngay cả khi các nước
ASEAN đã đạt được sự hợp tác chặt chẽ hơn thì liệu ASEAN có thể
vượt qua Trung Quốc để thực sự trở thành một trung tâm cho ACFTA?
Có thể, dẫu là một trung tâm không hoàn hảo. Phạm vi ảnh hưởng của
ASEAN đối với quá trình hình thành ACFTA sẽ phụ thuộc vào 2 nhân tố
hữu quan: sự thống nhất liên tục của ASEAN và tình trạng nền kinh tế
của khu vực này. Không có một nước ASEAN nào – thậm chí ngay cả
nước thành viên lớn nhất là Indonesia – có đủ sức nặng chiến lược để có
thể cạnh tranh với những sáng kiến từ Trung Quốc. Cách duy nhất mà
ASEAN có cơ hội kiềm chế có hiệu quả sức mạnh của Trung Quốc là sự
thống nhất của cả khối. Chính vì vậy, ASEAN đã không ngừng nỗ lực
trong việc đẩy nhanh thời hạn cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ
CEPT/ AFTA nhằm thúc đẩy tự do hoá thương mại càng nhanh càng tốt,
thông qua việc rút ngắn thời gian cắt giảm thuế quan sớm hơn 1 năm đối
với các nước ASEAN 6 và cho phép áp dụng khung cắt giảm thuế quan
dài hơn đối với các nước thành viên kém phát triển hơn là Việt Nam,
Lào, Campuchia và Myanmar. Việc đưa ra nhân nhượng này tuy khác
thường song là cần thiết trong bối cảnh có những khác biệt lớn về kinh
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 144 -
tế giữa các nước thành viên mới và cũ. ASEAN không tin rằng đường
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lối chung của EU – các nước thành viên phải đáp ứng những tiêu chuẩn
về kinh tế của các nước khác trước khi gia nhập liên minh nhằm tránh
bất cứ khoảng cách phát triển nào – sẽ được thực hiện ở Đông Nam Á.
Cựu tổng thư ký ASEAN Rodolfo C. Severino chỉ ra một cách khéo léo
rằng “điều duy nhất tồi tệ hơn một cơ cấu ASEAN hai tầng là một cơ cấu
Đông Nam Á hai tầng – một tầng ở ASEAN và tầng kia ở ngoài ASEAN”
[11]. Quan điểm linh hoạt này của ASEAN không chỉ kích thích phát
triển kinh tế của các nước thành viên mới mà nó còn giúp các nước định
hình chính sách thương mại theo hướng thúc đẩy hội nhập một cách
suôn sẻ vào hệ thống thương mại toàn cầu. Điều đáng nói là các nước
thành viên mới đã tự nguyện rút ngắn lịch trình tự do hoá thị trường: vào
năm 2008 thay vì 2010 như kế hoạch. Nỗ lực của ASEAN đã tạo ra
những kết quả đáng ghi nhận: mức thuế quan trung bình giữa các nước
ASEAN trong giai đoạn 1993 – 2000 đã giảm từ 111.4% xuống còn
3.2% [11]. Theo lời của Severino, “ASEAN hiện nay là một khu vực đã
tiến rất sát tới Khu vực mậu dịch tự do” [11] với các chương trình cắt
giảm thuế quan được mở rộng và đẩy nhanh.
Tuy nhiên, những nỗ lực tự do hoá nói trên của ASEAN cũng sẽ
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 145 -
chẳng thấm gì nếu đặt lên bàn cân, vì có rất nhiều khả năng cán cân sẽ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nghiêng về phía người láng giềng khổng lồ Trung Quốc. Theo các nhà
phân tích, FTA ASEAN - Trung Quốc sẽ là một vật cản nhiều hơn là nỗ
lực xây dựng Khu vực mậu dịch tự do AFTA của các nước ASEAN nếu
những bức tường thuế quan trong 10 nước thành viên không được cắt
giảm một cách hiệu quả. Do đó, các nước thành viên ASEAN nên nhất
trí với khuôn khổ chung về ACFTA để tránh những bất trắc và những
mâu thuẫn trong việc chồng chéo các thoả thuận mà có thể cản trở tiến
trình tự do hoá khu vực. Muốn vậy, các nước ASEAN phải hội nhập
hơn, liên kết hơn và phải không ngừng nỗ lực tăng cường tự do hoá
trong nội bộ khối.
Nói tóm lại, mặc dù giữa ASEAN và Trung Quốc hiện nay đang
tồn tại nhiều yếu tố cạnh tranh về kinh tế nhưng hai bên hoàn toàn vẫn
có thể tìm thấy nhiều dư địa trong hợp tác để phát triển kinh tế. Dù thế
nào đi nữa, ACFTA hình thành sẽ thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ khu
vực Đông Nam Á và Đông Á, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN
+ 3, tạo vị thế tốt hơn cho cả khu vực và cho mỗi thành viên trong tiến
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 146 -
trình tham gia vào toàn cầu hoá.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
CHƯƠNG 3: VIỆT NAM VÀ ACFTA
3.1. Quan hệ hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc
Trong 4 thành viên mới của ASEAN, Việt Nam là nước phát triển
nhất và có lẽ sẵn sàng nhất cho quá trình tự do hoá thương mại và hội
nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, Việt Nam lại có rất nhiều điểm tương
đồng về điều kiện tự nhiên, chính trị, văn hoá, xã hội, … với Trung
Quốc. Là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”, quan hệ
ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình thành từ
lâu như một tất yếu khách quan và cũng trở thành một quan hệ truyền
thống bền vững. Những biến động chính trị xã hội trong lịch sử có thể có
những thời kỳ đã có ảnh hưởng tiêu cực nhưng chưa bao giờ làm triệt
tiêu hoàn toàn mối quan hệ giữa nhân dân hai nước. Chính vì vậy, sau
một thời kỳ sóng gió, với sự nỗ lực của cả hai bên, quan hệ giữa hai
nước đã trở lại bình thường hoá vào cuối năm 1991. Từ đó cho đến nay,
quan hệ hợp tác giữa hai nước nói chung và trên lĩnh vực ngoại giao,
kinh tế, thương mại, đầu tư nói riêng đã được khôi phục và phát triển
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 147 -
ngày càng vững mạnh, toàn diện cả về bề rộng lẫn chiều sâu.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.1.1. Hợp tác chính trị, ngoại giao
Hiện nay, sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên
lĩnh vực chính trị và ngoại giao rất thuận lợi và tốt đẹp. Đầu năm 1999,
lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được thoả thuận chung về khung của
quan hệ Việt – Trung là 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Cuối tháng 12/ 2000, Tuyên
bố chung về sự hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa CHXHCN Việt
Nam và CHND Trung Hoa được ký kết tại Bắc Kinh. Đây chính là sự
khẳng định và cụ thể hoá của khung quan hệ 16 chữ nói trên. Cuối năm
1999, tháng 4 và tháng 8 năm 2001, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung
Cơ, Phó Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Chủ tịch Quốc hội Lý Bằng lần lượt
sang thăm hữu nghị chính thức và tham dự Đại hội lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Những văn kiện và sự kiện trên đánh dấu quan hệ
ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được nâng cấp lên giai
đoạn mới cao hơn so với khi quan hệ hai nước mới bình thường hoá.
Đồng thời với những biến đổi tích cực trong quan hệ ngoại giao
Việt Nam - Trung Quốc, hai trong ba vấn đề biên giới lãnh thổ còn tồn
tại giữa hai nước do lịch sử để lại cũng được giải quyết một cách trọn
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 148 -
vẹn, đó là việc Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước Việt –
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Trung và Hiệp định phân chia Vịnh Bắc Bộ lần lượt được ký kết tại Hà
Nội và Bắc Kinh vào ngày 31/ 12/ 1999 và 25/ 12/ 2000, biến đường
biên giới giữa hai nước trên đất liền và trong vịnh Bắc Bộ thành đường
biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác lâu dài giữa nhân dân
hai nước, tạo cơ sở thuận lợi cho việc phát triển các quan hệ thương mại
và đầu tư song phương.
3.1.2. Hợp tác thương mại
Kể từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay, hoạt động thương mại
giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển theo chiều hướng toàn diện
hơn, tích cực hơn và đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Trước hết, điều dễ dàng nhận thấy là hoạt động ngoại thương giữa
hai nước được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau như
buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch, tạm nhập tái xuất trong đó
buôn bán chính ngạch và tiểu ngạch là hai phương thức chính. Đa dạng
hoá phương thức trao đổi đã làm cho hoạt động thương mại giữa Việt
Nam và Trung Quốc có nhiều nét đặc trưng và cũng là lợi thế của hai
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 149 -
bên về mặt địa lý.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.1.2.1. Về xuất nhập khẩu chính ngạch:
Bảng 14: Kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc,
1995-2002
Đơn vị: triệu USD
VN xuất VN nhập Tổng kim Cán cân
Năm khẩu sang khẩu ngạch thương thương mại
TQ Từ TQ mại VN - TQ VN – TQ
1995 361.9 329.7 691.6 32.2
1996 340.2 329.0 669.2 11.9
1997 474.1 404.4 875.5 69.7
1998 478.9 510.5 989.4 -31.6
1999 858.9 683.4 1,542.3 175.5
2000 1,534.0 1,423.2 2,957.2 110.8
2001 1,418.1 1,629.1 3,047.2 -211
2002 1,500.0 2,200.0 3,700.0 -700.0
Nguồn: Trung tâm tin học và thống kê, Tổng cục hải quan Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 150 -
[37].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Có thể thấy kể từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu
giữa hai nước đã tăng đều qua các năm. Đặc biệt, năm 2000, tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu đạt 2957 triệu USD, tăng 78 lần so với năm 1991,
trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1534 triệu USD,
nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc đạt 1423 triệu USD [37], đưa
Trung Quốc trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam
năm 2000, chiếm khoảng 10.6% tổng xuất khẩu của Việt Nam, đồng
thời Trung Quốc cũng đứng thứ 5 trong số các nước cung cấp hàng nhập
khẩu cho Việt Nam, đóng góp 9.1% vào ngoại thương của Việt Nam
[25] (tham khảo Phụ lục 10).
Xét trong cả giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2002, kim ngạch
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tăng 87 lần, từ 37.7 triệu
USD lên 3.7 tỷ USD; riêng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
Trung Quốc tăng 76 lần, từ 19.3 triệu USD lên 1.5 tỷ USD, trong khi
kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam tăng 116 lần, từ
18.4 triệu USD lên 2.2 tỷ USD [37].
Cùng với sự tăng lên của kim ngạch xuất nhập khẩu, cơ cấu xuất
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 151 -
nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng phát triển theo hướng
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ngày càng đa dạng hoá về mặt hàng và chủng loại, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của hai bên.
Hàng hoá của Việt Nam xuất sang Trung Quốc gồm 4 nhóm chính:
nhóm hàng nguyên liệu (như than đá, dầu thô, quặng kim loại, các loại
dầu, cao su tự nhiên, …); nhóm hàng nông sản (lương thực, chè, rau,
gạo, sắn lát, hạt điều, các loại rau quả nhiệt đới như chuối, xoài, thanh
long, chôm chôm, …); nhóm hàng thuỷ sản tươi sống, thủy sản đông
lạnh (như cá, tôm, cua, …) và nhóm hàng tiêu dùng (hàng thủ công mỹ
nghệ, giày dép, đồ gia dụng cao cấp, …) (xem bảng 15).
Bảng 15: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung
Quốc
(số liệu năm 2003 là dự kiến)
Đơn vị: triệu USD, khối lượng 1000 tấn
1998 1999 2000 2001 2002 2003
Khối Khối Khối Khối
Khối
Mặt hàng l- Giá l- Giá l- Giá Giá l- Giá Giá
lư-
ượn trị ượn trị ượn trị trị ượn trị trị
ợng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 152 -
g g g g
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
2,27 331. 3,21 749. 3,06 591. 3,23 618. 711.
Dầu thô 841.7 86.7 5.0 7 0.7 0 0.5 4 4.4 7 5
110. 139.
Cao su 75.6 64.8 94.7 51.8 6 66.4 96.2 51.2 9 76.3 87.8
Thuỷ hải 223. 240. 185. 213.
sản 51.5 51.7 0 0 5 4
120. 142. 118. 136.
Rau quả 10.5 35.7 4 8 3 1
9,55
Hạt điều 12.1 58.6 9.3 54.5 11.2 53.3 0.0 30.6 12.5 36.5 42.0
235. 441. 1,02 2,23
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 153 -
Than đá 349.3 5.2 5 3.6 6 7.9 9.0 18.7 5.6 41.4 47.7
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Nguồn: Trung tâm tin học và thống kê, Tổng cục hải quan Việt Nam
[37]; [38].
Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thuộc 4 nhóm trên cũng tăng dần
qua các năm, nhất là ba năm gần đây, trong đó nhiều mặt hàng đã khẳng
định được thị phần và sức cạnh tranh của mình trên thị trường Trung
Quốc như dầu thô, thuỷ hải sản, hoa quả, cao su, hạt điều, … Một số
hàng tiêu dùng, thực phẩm cũng đã mở rộng thêm thị phần như giày dép
xuất khẩu năm 2002 tăng 53.7% về giá trị xuất khẩu so với năm 2000,
chè tăng 393%, hải sản tăng 52%, rau quả tăng 48.3%, … [37].
Hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc bao gồm 5
nhóm mặt hàng chính là: Dây chuyền sản xuất đồng bộ (dây chuyền sản
xuất đường, dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng, …); máy móc thiết bị
(thiết bị y tế, thiết bị vận tải, máy nông nghiệp, …); nguyên nhiên liệu
(xăng dầu, phân bón, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, …); hàng
nông sản (lương thực, bột mỳ, đường, hoa quả ôn đới như táo, lê, …) và
hàng tiêu dùng (như sản phẩm điện tử, xe máy, quần áo, đồ chơi trẻ em,
…) (xem bảng 16).
Bảng 16: Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc sang Việt
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 154 -
Nam
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đơn vị: triệu USD, khối lượng 1000 tấn
1998 1999 2000
Mặt hàng Khối Giá Khối Giá Khối Gi¸
trÞ lượng trị lượng trị lưîng
Phô tïng, linh kiÖn xe m¸y
(CKD, IKD) 0.8 46.8 419.0
M¸y mãc, thiÕt bÞ, phô tïng 103.7 166.5
X¨ng dÇu 84 12.8 259 46.0 545 131.6
Ph©n bãn 82 15.0 134 24.0 713 104.6
S¾t thÐp 218 49.5 206 42.8 368 75.1
Linh kiÖn ®iÖn tö 9.0 20.3
Ph¬ng tiÖn ®iÖn tö 190 3.4 83 4.4 205 2.7
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 155 -
Nguån: Trung t©m tin häc thèng kª, Tæng côc H¶i quan ViÖt Nam [38].
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Sang năm 2001, tỷ lệ hàng tiêu dùng nhập khẩu giảm đáng kể so
với năm 2000 và chủ yếu thông qua mậu dịch tiểu ngạch qua biên giới;
trong khi đó, tỷ lệ nhập khẩu hàng nguyên liệu phục vụ công nghiệp,
nông nghiệp, giao thông vận tải tăng đáng kể, cụ thể xăng dầu tăng 76%,
dược phẩm tăng 57%, máy móc thiết bị phụ tùng tăng 49%, nguyên liệu
dệt may da tăng 79% [37].
Từ cơ cấu hàng xuất nhập khẩu nêu trên có thể thấy rõ hoạt động
ngoại thương đã khai thác được thế mạnh của hai bên. Hàng hoá xuất
nhập khẩu như trên có tác dụng bổ sung cho nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân hai nước và cũng phù hợp với đặc thù về trình độ phát triển kinh tế
của hai nước trong thập kỷ vừa qua.
3.1.2.2. Về xuất nhập khẩu tiểu ngạch:
Do đặc thù nước ta có chiều dài trên 600 km biên giới với Trung
Quốc, có nhiều cửa khẩu quốc tế, quốc gia, cửa khẩu phụ và các lối mòn
giữa hai nước rất thuận tiện cho giao thương của cư dân hai bên, trên
thực tế xuất nhập khẩu tiểu ngạch đã diễn ra trong thời gian dài và có vai
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 156 -
trò rất quan trọng trong quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Trong những năm đầu, tỷ lệ dao động giữa buôn bán chính ngạch
và tiểu ngạch với Trung Quốc thường là ở mức từ 50% – 60% [38]. Vào
thời gian này, không chỉ chiếm tỷ trọng lớn (khoảng trên dưới 40% [38]
tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước), xuất nhập khẩu tiểu ngạch còn
góp phần không nhỏ vào kích thích sản xuất trong nước phát triển và
thúc đẩy cơ cấu lại nền sản xuất cả đối với công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ, nhất là đối với các địa phương biên giới. Năm 2000, kim ngạch
mậu dịch qua cửa khẩu Thanh Thuỷ (Hà Giang) đạt 16.5 triệu USD, năm
2001 đạt 32.5 triệu USD [39]. Tại cửa khẩu Lào Cai, kim ngạch mậu
dịch hai bên trong 8 tháng đầu năm 2001 cũng đạt 160 triệu USD [39].
Ước cả năm 2001, kim ngạch biên mậu đạt 400 triệu USD [40].
Với kim ngạch buôn bán ngày càng tăng, xuất nhập khẩu tiểu
ngạch đang góp phần đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng; cải thiện
rõ rệt diện mạo các địa phương biên giới; hình thành nhanh chóng nhiều
trung tâm thương mại, dịch vụ và cụm dân cư mới; kích thích lưu thông
hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu trao đổi của cư dân hai nước; giải
quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống cư dân biên giới; giảm tỷ lệ
đói nghèo, tăng nguồn thu cho địa phương. Điều này đã góp phần đáng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 157 -
kể vào việc ổn định và duy trì mối quan hệ hữu nghị giữa hai bên.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.1.3. Hợp tác đầu tư
Bảng 17: Đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam
Tổng kim ngạch đầu tư
Thời gian Tổng số dự án đầu tư
theo giấy phép (USD)
Tính đến tháng 12/ 1991 200,000 1
Tính đến tháng 12/ 1992 3,044,143 10
Tính đến tháng 12/ 1994 24,000,000 22
Tính đến tháng 12/ 1995 60,000,000 33
Tính đến tháng 12/ 1998 120,000,000 61
Tính đến tháng 12/ 1999 130,000,000 76
Tính đến tháng 12/ 2000 148,000,000 92
Tính đến tháng 12/ 2001 110 221,000,000
Nguồn: Vũ Phương, “Nhìn lại tình hình đầu tư trực tiếp của Trung Quốc
tại Việt Nam 10 năm qua (11/ 1991 – 11/ 2001) - Tạp chí Nghiên cứu
Trung Quốc, số 2 (42), tháng 4/ 2002, trang 31.
Từ bảng trên có thể thấy trong 10 năm qua, đầu tư trực tiếp của
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 158 -
Trung Quốc tại Việt Nam có sự tăng trưởng với tốc độ vừa phải, năm
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 1995 tăng gấp 3.3 lần về số dự án đầu tư và gần 20 lần về kim ngạch đầu
tư so với năm 1991; tính đến cuối năm 2001, tăng gấp hơn 3.3 lần về số
dự án đầu tư và hơn 3.5 lần về tổng kim ngạch đầu tư so với năm 1995,
đứng thứ 22 trong tổng số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam
[41].
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư [42], trong 11 tháng đầu năm 2003,
các doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam thêm 48 dự án
với số vốn hơn 115 triệu USD (lớn gấp 2 lần so với năm ngoái), đứng
thứ 3 trong tổng số 37 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Như
vậy, tính đến nay, Trung Quốc có tất cả 237 dự án còn hiệu lực, với tổng
số vốn đầu tư đăng ký là 488.2 triệu USD, đứng thứ 16 trong số 64 nước
và vùng lãnh thổ. Tổng số vốn pháp định được những dự án trên cam kết
là hơn 67.87 triệu USD. Tuy nhiên, lượng vốn mà các dự án của Trung
Quốc thực hiện được còn thấp, tính đến nay mới chỉ đạt tổng cộng
khoảng 137.17 triệu USD.
Nhìn chung, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam hơn 10
năm qua tuy chưa nhiều song cũng đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai
phía đầu tư và tiếp nhận đầu tư. Thông qua các dự án đầu tư trực tiếp mà
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 159 -
phía Trung Quốc triển khai, Việt Nam có thêm một số xí nghiệp nhà
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam máy với những máy móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại và công nghệ sản
xuất mới, tạo ra nhiều loại sản phẩm mới và doanh thu cho xã hội, giải
quyết được hàng nghìn việc làm cho người lao động Việt Nam, … Đây
là những đóng góp cụ thể và có tác dụng tích cực trên mức độ nhất định
của đầu tư trực tiếp của Trung Quốc đối với công cuộc xây dựng kinh tế
và phát triển đất nước mà Đảng và nhân dân Việt Nam tiến hành.
Nói tóm lại, quan hệ hợp tác kinh tế, chính trị và ngoại giao giữa
hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp
trong hơn một thập kỷ qua, đặt cơ sở vững chắc và tạo điều kiện thuận
lợi cho những bước đột phá mới trong quan hệ hợp tác giữa hai bên
trong tương lai, đặc biệt là sau khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc được thành lập trong vòng 10 năm tới.
3.2. Tác động của ACFTA đối với Việt Nam.
3.2.1. Cơ hội đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA
Kinh nghiệm cho thấy rằng các nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn
nếu như họ cởi mở hơn đối với thương mại và đầu tư quốc tế. Việc tham
gia của Việt Nam vào ACFTA sẽ chứng tỏ thêm cam kết của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 160 -
trong việc hợp tác và hội nhập vào kinh tế khu vực cũng như mở cửa nền
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam kinh tế và tự do hoá thương mại. Một số lợi ích mà Việt Nam có thể đạt
được thông qua việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc bao gồm:
3.2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng thương mại song phương
Trước hết, thị trường hơn 1.3 tỷ dân của Trung Quốc mở ra theo cơ
chế ACFTA sẽ là một thị trường vô cùng rộng lớn cho các sản phẩm
xuất khẩu của Việt Nam. Thật vậy, theo ước tính của Cục thống kê
Trung Quốc (NBS), xuất khẩu của Trung Quốc chỉ đóng góp từ 5 – 6%
[43] tăng trưởng kinh tế trong 15 năm tới do nhập khẩu vẫn tăng. Thực
tế cho thấy trong hơn 20 năm qua, xuất khẩu của Trung Quốc sang các
nước ASEAN chậm hơn nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước này
(tính bình quân, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm của Trung Quốc
đối với ASEAN thấp hơn tỷ lệ nhập khẩu hàng năm từ các nước này là
2.5% [43]). Bởi vậy, ngoại thương Trung Quốc tăng trưởng trong bối
cảnh ra đời ACFTA sẽ rất có lợi cho các nước ASEAN, trong đó có Việt
Nam. Đặc biệt, điều kiện gần gũi về địa lý, về tập quán tiêu dùng và văn
hoá kinh doanh giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ tạo cho các doanh
nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội để xuất khẩu các sản phẩm như nông sản,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 161 -
lâm sản, thuỷ sản, khoáng sản … Trong khi một số sản phẩm của Việt
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Nam chưa đủ khả năng xuất khẩu đi các thị trường quốc tế đòi hỏi cao
về chất lượng, tiêu chuẩn hàng hoá, phương thức giao dịch, điều kiện
giao hàng, … thì vị trí của thị trường Trung Quốc là hết sức quan trọng
so với các nguồn cung khác về cùng các sản phẩm đó. Hơn nữa, cũng do
vị trí địa lý gần Trung Quốc nên việc trùng ngành hàng chưa hẳn đã
đáng lo vì chúng ta có thể khai thác ưu thế vận chuyển, cự ly tiêu thụ.
Cụ thể như về than đá, dù Trung Quốc là nước xuất khẩu than đá lớn
nhất trên thế giới nhưng lượng than đá chúng ta xuất sang Trung Quốc
vẫn chiếm 50% [44] sản lượng than của ta. Đó là do than đá Trung Quốc
vận chuyển từ Đông Bắc đến các tỉnh phía Nam Trung Quốc làm giá
thành tăng gấp đôi, trong khi đó vận chuyển từ Hòn Gai (Việt Nam) đến
sẽ rẻ hơn nhiều. Như vậy, cơ hội xuất khẩu lớn hơn sẽ giúp Việt Nam ổn
định và tiếp tục phát triển ngành công - nông nghiệp, ngành đang đóng
vai trò rất quan trọng về kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Thứ hai phải kể đến Chương trình thu hoạch sớm (Early Harvest
Programme - EHP), bắt đầu có hiệu lực từ 1/ 1/ 2004. Đây là một cơ chế
đặc biệt nhằm thực hiện sớm các cam kết tự do hóa trong hiệp định, trên
cơ sở dành ưu đãi có đi có lại giữa từng nước thành viên ASEAN và
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 162 -
Trung Quốc để phát huy ngay lợi ích của Khu vực mậu dịch tự do này
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trong ngắn hạn. Theo chương trình này, sẽ có nhiều dòng thuế được cắt
giảm nhanh hơn và thậm chí nằm ngoài khuôn khổ CEPT/ AFTA đã
thoả thuận. Trái với những lo ngại sụt giảm nguồn thu ngân sách khi
thực hiện cắt giảm thuế quan theo các hiệp định thương mại, việc thực
hiện chương trình thu hoạch sớm được nhiều chuyên gia kinh tế ủng hộ
bởi nhiều lợi ích thấy rõ ngay từ bây giờ.
Chương trình thu hoạch sớm (EHP) chứa đựng nhiều nội dung cụ
thể rất có lợi cho cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của nước ta hiện nay khi
thâm nhập thị trường xuất khẩu của ASEAN và Trung Quốc. EHP tập
trung vào cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng nông sản chưa chế
biến từ chương 1 - 8 trong Danh mục biểu thuế xuất nhập khẩu của mỗi
nước, loại trừ một số ngoại lệ nhất định của từng nước. Đáng chú ý là
các mặt hàng từ chương 1 - 8 trong Biểu thuế xuất nhập khẩu bao gồm
nhiều sản phẩm nông, thủy sản có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam.
Những mặt hàng này đang khai thác hữu ích nguồn lao động dồi dào
cũng như các nguồn tài nguyên sẵn có của đất nước, điều kiện tự nhiên
của các vùng, lãnh thổ và tạo việc làm cho hàng triệu lao động. 15 mặt
hàng ngoại lệ của Việt Nam gồm một số sản phẩm thịt gia cầm, trứng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 163 -
gia cầm và nhiều loại hoa quả có múi. Theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hiện hành (ban hành theo Quyết định số 110/ 2003/ QĐ-BTC ngày 25/ 7/
2003 của Bộ Tài chính), Việt Nam sẽ có 484 mặt hàng tham gia Chương
trình thu hoạch sớm. Ngược lại, phía Trung Quốc cũng có khoảng gần
500 mặt hàng tham gia chương trình này.
Theo đánh giá ban đầu, Chương trình thu hoạch sớm ít ảnh hưởng
đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN, vì giữa
các nước ASEAN đang thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu
lực chung (CEPT) trong khuôn khổ AFTA với lộ trình cắt giảm thuế
nhanh hơn. Thực tế là nước ta vẫn xuất siêu sang các nước ASEAN nh-
ưng giá trị nhỏ (khoảng trên 35 triệu USD [45]). Do đó, lợi ích của Chư-
ơng trình thu hoạch sớm đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chủ yếu
nhờ vào khai thác các mối quan hệ thương mại với Trung Quốc.
Hơn nữa, về tổng thể, Việt Nam hiện đang nhập siêu từ Trung
Quốc, song đối với các mặt hàng tham gia trong EHP thì Việt Nam lại
đang xuất siêu sang thị trường này. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan
Việt Nam, năm 2001 [45], các mặt hàng từ chương 1 - 8, Việt Nam xuất
khẩu sang Trung Quốc với kim ngạch khá cao, chiếm khoảng 27.5%
tổng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc; trong đó các mặt hàng nông
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 164 -
sản và thuỷ sản đạt 455.6 triệu USD giá trị xuất khẩu, chiếm 32% tổng
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giá trị xuất khẩu sang thị trường này. Năm 2002, Việt Nam xuất khẩu
được 279 triệu USD, bằng 19.5% tổng giá trị xuất khẩu sang Trung
Quốc. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là các loại cá (chương 3), rau và
hoa quả ăn được (chương 7, 8). Sở dĩ giá trị xuất khẩu năm 2002 giảm
cả về số tuyệt đối và tương đối là do nhiều nguyên nhân khác nhau, như
giá mặt hàng nông sản giảm sút, thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu và việc
Trung Quốc thay đổi chính sách thuế theo cam kết trong WTO.
Hiện tại, mức thuế suất MFN bình quân các mặt hàng thuộc các
chương 1 - 8 của Trung Quốc là 18.8% [45]. Trong số 206 dòng thuế có
kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam, chỉ có 7 dòng thuế có thuế suất MFN
0% (tức là Trung Quốc không có nghĩa vụ cắt giảm) nhưng có tới 123
dòng thuế có thuế suất trên 15% thuộc nhóm 1 và 76 dòng thuế có thuế
suất từ 5% - 15% thuộc nhóm 2 [45]. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi đối
với các doanh nghiệp Việt Nam phát triển thị trường xuất khẩu sang
Trung Quốc do phần lớn các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang
Trung Quốc sẽ được cắt giảm thuế quan. Mặt hàng được hưởng lợi nhiều
nhất là hải sản với giá trị xuất khẩu năm 2001 là 240 triệu USD [45],
tương đương với kim ngạch năm 2000 nhưng gần gấp 4 lần so với giá trị
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 165 -
năm 1999. Năm 2002, khả năng xuất khẩu hải sản sang Trung Quốc ước
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đạt trên 400 triệu USD. Tiếp đến là các loại quả và hạt với giá trị xuất
khẩu là 142 triệu USD [45], thấp hơn 30 triệu USD so với năm 2000
nhưng gần gấp 2 lần so với năm 1999.
Về phía Việt Nam, theo cam kết cắt giảm thuế trong EHP, từ 2004,
Việt Nam sẽ phải cắt giảm 88 dòng thuế nhập khẩu từ Trung Quốc thuộc
3 nhóm (trên 30%; 15% - 30%; và dưới 15%) xuống còn 0% vào năm
2008 (xem bảng 8, phần 1.2.2.3.vii.). Hiện nay, thực tế đã có 8 dòng
thuế có thuế suất bằng 0% nên Việt Nam chỉ phải cắt giảm 80 dòng thuế.
Ngược lại, Trung Quốc sẽ phải cắt giảm 206 dòng thuế nhập khẩu
từ Việt Nam đạt tới thuế suất bằng 0% vào trước ngày 01/ 01/ 2006;
trong đó 123 dòng thuế suất trên 15%, 76 dòng có thuế từ 5% - 15% và
có 7 dòng thuế hiện nay đã áp dụng 0%. Theo lộ trình, phía Trung Quốc
sẽ cắt giảm thuế khá mạnh và nhanh (xem bảng 7, phần 1.2.2.3.vii.).
Như vậy, không phải chờ đến năm 2006 mà từ năm 2004 sẽ có rất
nhiều mặt hàng xuất khẩu không phải chịu thuế và sang năm 2005, tất cả
các mặt hàng chỉ còn chịu thuế ở mức 0% - 5%. Điều này sẽ mang lại lợi
ích khá lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Theo tính toán của Bộ
Thương mại [46], nếu năm 2001, nhóm mặt hàng có thuế suất trên 15%
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 166 -
phải chịu mức thuế trung bình chung là 21.3% và các doanh nghiệp đã
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phải nộp 66.65 triệu USD tiền thuế thì ngay năm đầu tiên cắt giảm thuế
theo chương trình EHP (2004), số thuế này sẽ giảm quá nửa, còn 32.7
triệu USD và chỉ còn 16.3 triệu USD vào năm 2005, và đến năm 2006
thì giá trị tính thuế sẽ không còn nữa, nó sẽ chuyển thành lợi nhuận và
ưu thế cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường Trung Quốc.
Điều đáng nói là đa số các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh như
nông sản, thuỷ sản… chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam (khoảng 28% [46]) đều đang thuộc nhóm chịu mức thuế
cao trên 15% sẽ được giảm thuế mạnh ngay từ đầu, trong khi đó chúng
ta nhập khẩu không nhiều các sản phẩm cùng loại từ Trung Quốc
(khoảng 1.7 % [46]). Các nhóm hàng thuế suất từ 5% - 15% tuy giá trị
cắt giảm tuyệt đối không nhiều (6.9 triệu USD năm 2001 xuống 3 triệu
USD [46] năm 2004 và khoản thuế này sẽ không còn vào năm 2005)
nhưng sẽ mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu các mặt hàng mới sang thị
trường đông dân này.
Điều lo ngại lớn nhất của các doanh nghiệp là cắt giảm thuế theo
EHP sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam,
gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước khi họ có quá ít
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 167 -
thời gian đối phó với các cơ sở sản xuất hàng giá rẻ của Trung Quốc.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Tuy nhiên, theo cam kết trong EHP, các nhóm hàng Việt Nam cắt giảm
thuế đều không phải các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Trung Quốc
sang thị trường Việt Nam. Năm 2001, các nhóm hàng này chỉ chiếm
0.2% kim ngạch nhập khẩu, khoảng 28 triệu USD [46]. Trong khi đó,
năm 2001, Việt Nam đã xuất siêu 361 triệu USD các sản phẩm cùng loại
sang nước bạn, gấp hơn 13 lần giá trị nhập về [46]. Thực tế thị trường
hiện nay cho thấy, các nhóm hàng này bao gồm: các loại trứng chim, hải
sản, nấm, lông vũ để nhồi, hoa quả tươi, một số giống cây, các loại gà
thịt, … thường chỉ đi qua đường tiểu ngạch hoặc nhập về sản xuất trong
nước với số lượng ít, không cạnh tranh được với sản phẩm của Việt Nam
về chất lượng. Bên cạnh đó, sẽ có nhiều mặt hàng phải chịu sự kiểm dịch
và quản lý chuyên ngành gắt gao.
Vì thế, Bộ Thương mại khẳng định: việc cắt giảm thuế theo
chương trình thu hoạch sớm sẽ không ảnh hưởng đến sản xuất và thị
trường trong nước, nguồn thu ngân sách cũng không bị sụt giảm. Chúng
ta có nhiều thuận lợi về khung thời gian cắt giảm (sau 2 năm), chủng
loại và khối lượng xuất khẩu tăng nhanh khi thực hiện EHP, cho nên các
khoản thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ đủ bù
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 168 -
đắp lượng giảm thuế từ xuất nhập khẩu trực tiếp. Do vậy, việc thực hiện
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chương trình thu hoạch sớm vẫn sẽ rất có lợi cho các doanh nghiệp Việt
Nam.
Theo tính toán của Bộ Thương mại dựa trên số liệu xuất nhập khẩu
năm 2001, EHP sẽ tác động có lợi cho xuất khẩu nước ta khoảng 389
triệu USD và tác động tiêu cực đến nhập khẩu Trung Quốc 28 triệu USD
nhập khẩu. Trong đó, mặt hàng có lợi nhất là hải sản với giá trị tăng
thêm khoảng 201 triệu USD, tiếp đến là các loại rau quả với 129 triệu
USD; riêng mặt hàng hải sản có thể sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 400 triệu
USD sau khi có cắt giảm thuế [46]. Rõ ràng là thực hiện chương trình
thu hoạch sớm sẽ mang lại nhiều kết quả tốt đẹp. Đây thực sự là một cơ
hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng, đa
dạng hoá thị trường cho các sản phẩm có thế mạnh như nông sản, thuỷ
sản, …
Thứ ba, với việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc, xuất khẩu các hàng hoá nông nghiệp, lương thực và những
hàng hoá dựa trên tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam sẽ có nhiều khả
năng được mở rộng, ví dụ như các sản phẩm ngũ cốc như đậu nành và
các hạt chứa dầu, rau quả nhiệt đới, cao su, len và các sản phẩm len.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 169 -
Theo các nghiên cứu về chỉ số lợi thế so sánh cạnh tranh, Việt Nam có
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lợi thế cạnh tranh tương đối đối với các sản phẩm nông nghiệp và lương
thực của Trung Quốc và do đó Trung Quốc sẽ có thể là thị trường tiềm
năng đối với các sản phẩm này của Việt Nam. Cơ hội hãy còn nhiều khi
Trung Quốc mỗi năm nhập 45 tỷ USD (đại lục nhập 30 tỷ USD nông sản
và Hồng Kông nhập 15 tỷ USD) trong khi Việt Nam một năm chỉ sản
xuất ra khối lượng nông lâm thuỷ sản trị giá 4.3 tỷ USD [47]. Hơn nữa,
theo các nghiên cứu sơ bộ, việc gia nhập WTO sẽ giúp Trung Quốc tăng
thêm 1% GDP, tương đương với 12 tỷ USD mỗi năm. Theo đó, nhu cầu
của Trung Quốc đối với hàng nhập khẩu ASEAN sẽ tăng 10%, từ mức
22.2 tỷ USD năm 2000 tăng lên 35.5 tỷ USD năm 2005 [47]. Nhờ đó,
xuất khẩu các hàng hoá nông nghiệp, thực phẩm và các sản phẩm dựa
vào tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam chắc chắn sẽ được mở rộng.
Thứ tư, Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
được ký kết cũng sẽ nâng cao năng lực thâm nhập thị trường Trung
Quốc của doanh nghiệp Việt Nam. Với việc ký kết hiệp định khung này,
Trung Quốc đã cam kết cho Việt Nam được hưởng ngay lập tức và đầy
đủ sự đãi ngộ MFN theo các chuẩn mực của WTO liên quan đến cắt
giảm thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ, đầu tư và sở hữu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 170 -
trí tuệ. Với điều kiện thuận lợi hơn về mặt địa lý và được bình đẳng hay
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ưu đãi trên thị trường Trung Quốc, lúc này doanh nghiệp Việt Nam cần
chủ động hơn trong việc nghiên cứu và xem xét một cách kỹ lưỡng các
cam kết của Trung Quốc khi gia nhập WTO, lợi ích của Hiệp định
khung ASEAN - Trung Quốc, chuẩn bị về mặt tư tưởng và vật chất, xây
dựng và khai thác thị trường Trung Quốc, phát huy mọi nguồn lực của
đất nước và thực sự tham gia hiệu quả vào quá trình hội nhập của khu
vực.
3.2.1.2. Tăng đầu tư, chuyển giao công nghệ, du lịch và hợp tác đào
tạo nguồn nhân lực
Theo nhận định của ông Trần Đức Minh, Phó tổng thư ký ASEAN,
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc một khi được thành lập
sẽ thu hút lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài rất lớn vì đây là “một thị
trường thống nhất, khả năng rủi ro, bất ổn sẽ giảm đi đáng kể so với
tổng thị trường riêng lẻ. Tính cạnh tranh cao và hiệu quả kinh tế quy mô
lớn sẽ là động lực mạnh mẽ để các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn cho
nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy các sáng kiến công nghệ” [48].
ACFTA có sức thu hút FDI từ bên ngoài, vì các nhà đầu tư có thể tránh
bị đánh thuế bằng cách xây dựng các cơ sở sản xuất trong khu vực mậu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 171 -
dịch tự do .
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Trong trường hợp của Việt Nam, ACFTA cũng sẽ thúc đẩy đầu tư
và các mối quan hệ hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Trung Quốc với Việt
Nam mà hệ quả là đầu tư, đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp,
chuyển giao công nghệ, du lịch, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực của
Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ tăng lên. Lấy ví dụ trong ngành nông
nghiệp, tính đến hết năm 2001, Trung Quốc có 62 dự án đăng ký vào
ngành nông nghiệp với số vốn đăng ký đầu tư là 190.8 triệu USD; số dự
án đã và đang thực hiện là 41 dự án, với số vốn thực hiện là 81.7 triệu
USD, chiếm gần 7% số vốn thực hiện trong toàn ngành, đứng thứ 6
trong tổng số các nhà đầu tư vào ngành nông nghiệp [49] (sau Đài Loan,
Pháp, Singapore, Anh và Thái Lan). Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu là sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, chăn nuôi và thức ăn
chăn nuôi. Quy mô của các dự án này tuy tương đối nhỏ nhưng triển
khai luôn có hiệu quả. Các chuyên gia cho rằng nếu Việt Nam khắc phục
được những yếu kém về thủ tục hành chính, cơ sở hạ tầng, trình độ quản
lý, ngoại ngữ, Trung Quốc, với thế mạnh về công nghiệp chế biến nông
lâm thuỷ sản của mình, chắc chắn sẽ tăng đầu tư vào nông nghiệp Việt
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 172 -
Nam để tận dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, giá nhân công rẻ. Đấy là
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chưa kể nguồn FDI từ các nước khác trong khối vào Việt Nam cũng sẽ
tăng lên để tranh thủ thâm nhập thị trường Trung Quốc.
Những thuận lợi trong lĩnh vực đầu tư của Việt Nam không chỉ
nằm ở khả năng hấp dẫn nguồn vốn từ bên ngoài khu vực và từ Trung
Quốc, mà còn ở chỗ một khi Trung Quốc mở cửa khu vực dịch vụ, các
nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp của ASEAN, trong đó có Việt
Nam, sẽ có cơ hội khai thác lĩnh vực này. Đặc biệt, cơ hội tìm kiếm việc
làm cho các nhà chuyên môn trong lĩnh vực dịch vụ như tư vấn pháp
luật, quản lý, kiến trúc sư, giáo viên, kế toán và cán bộ ngân hàng cũng
sẽ tăng lên.
Thêm vào đó, ngành công nghiệp du lịch của Việt Nam sẽ có nhiều
khả năng được lợi từ việc hội nhập kinh tế với Trung Quốc. Trong thời
điểm hiện tại, nhìn chung thì nền kinh tế Việt Nam đang được lợi từ hai
dự án khu vực liên quan đến du lịch là Hành lang kinh tế Đông – Tây
(EWEC) và Tuyến đường xe lửa liên quốc gia Singapore – Việt Nam –
Nam Trung Quốc. Hai dự án này đã được các chính phủ thông qua và đã
được cấp vốn từ các thể chế tài chính quốc tế như Ngân hàng phát triển
Châu Á ADB. Hơn nữa, do dân số Trung Quốc đông, kinh tế liên tục
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 173 -
phát triển, mức sống của người dân được nâng cao, chính phủ khuyến
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khích tiêu dùng, tăng thời gian nghỉ ngơi cho người dân, vì thế chắc
chắn nước này cũng sẽ là một thị trường du lịch tiềm năng đối với Việt
Nam. Mỗi năm Trung Quốc có 8,4 triệu người tham gia các tuyến du
lịch quốc tế. Do vị trí địa lý gần kề Trung Quốc, từ chỗ chiếm 5% tổng
số khách du lịch quốc tế vào Việt Nam năm 1995 và 25% vào năm 2000,
đến nay, số khách du lịch Trung Quốc đã chiếm gần 30% tổng số khách
du lịch Việt Nam năm 2001 [47]. Trong tương lai, chắc chắn con số này
sẽ tăng hơn nữa khi Trung Quốc đẩy mạnh tự do hoá trong khuôn khổ
của WTO và xa hơn nữa là ACFTA.
3.2.1.3. Tự do hoá thị trường và gắn chặt với cải cách
Không chỉ thúc đẩy thương mại, đầu tư và du lịch, việc tham gia
vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc còn giúp Việt Nam
tự do hoá hơn nữa và gắn chặt với quá trình cải cách. Thật vậy, cạnh
tranh tăng và tự do hoá hơn sẽ buộc Việt Nam phải sản xuất các hàng
hoá và dịch vụ ở những ngành có lợi thế cạnh tranh lớn nhất, trong khi
chủ nghĩa bảo hộ sẽ chỉ làm cản trở và bóp méo sự phát triển của một
nền kinh tế có tính cạnh tranh quốc tế. Trên thị trường thế giới, sức cạnh
tranh sẽ tiếp tục là yếu tố duy nhất và quan trọng nhất đối với tương lai
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 174 -
của kinh tế Việt Nam. Những người nhận được lợi ích to lớn của quá
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trình tự do hoá thương mại của Việt Nam đã, đang và sẽ là chính những
doanh nghiệp Việt Nam. Nói cách khác, cải cách thương mại theo
ACFTA sẽ cho phép các doanh nghiệp Việt Nam có được sự tiếp cận lớn
nhất đối với các cơ hội trên toàn cầu.
Bên cạnh đó, mối quan hệ gần gũi hơn giữa Việt Nam và Trung
Quốc trong khuôn khổ ACFTA sẽ cho phép Việt Nam học hỏi từ những
kinh nghiệm cải cách kinh tế của Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc
có điểm tương đồng ở chỗ hai nước trước đây từng là những nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa và hiện đang dần chuyển sang nền kinh tế thị trường để
đưa nền kinh tế thu nhập thấp của mình tới một mức độ thịnh vượng
nhất định. Việt Nam có thể học tập Trung Quốc trong việc duy trì và cải
thiện môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,
mở cửa thị trường trong nước để tăng sự cạnh tranh về đầu tư, cải cách
khu vực dịch vụ tài chính và khu vực doanh nghiệp nhà nước, phát triển
và tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, …, từ đó góp phần đẩy
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 175 -
nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.2.1.4. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong các vòng đàm phán song
phương và đa phương
Việc tham gia của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
- Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam có thêm kinh nghiệm trong đàm phán
thương mại và cho phép Việt Nam có sức mạnh lớn hơn trong việc tạo
ảnh hưởng đối với các chương trình nghị sự thương mại quốc tế nói
chung và việc đàm phán thương mại đa phương nói riêng. Trước đó,
Việt Nam đã có được một số kinh nghiệm từ việc tham gia vào AFTA và
APEC mà Việt Nam có thể tận dụng khi tham gia đàm phán về việc thực
hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Việc tham gia vào
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có thể được xem là một
“bài diễn tập hội nhập kinh tế” cho Việt Nam và là một quá trình mà
Việt Nam đang thực hiện để hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Hơn nữa, việc tham gia của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc sẽ gửi những tín hiệu quan trọng tới những thành
viên mới khác của ASEAN là Campuchia, Lào và Myanmar rằng họ cần
phải hết sức cố gắng để cải thiện tình hình kinh tế và các hệ thống thể
chế nếu như họ không muốn bị tụt hậu. Trong số những nước này, có thể
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 176 -
nói rằng Việt Nam là nước đề ra được tinh thần và cách thức tham gia
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức đa phương và khu vực. Đặc biệt, chiến lược mở cửa
kinh tế của Việt Nam và cách thức phối hợp những chính sách này với
chiến lược tổng thể của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh
tế thế giới là những bài học mà Campuchia, Lào và Myanmar có thể học
tập.
Một điểm quan trọng nữa là sự tham gia của Việt Nam vào
ACFTA sẽ hỗ trợ quá trình xin gia nhập WTO của Việt Nam và làm
tăng lòng tin của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Gia nhập WTO
là mối quan tâm đối với Việt Nam bởi lẽ: Thứ nhất, Việt Nam cam kết
mở cửa càng sớm theo yêu cầu của WTO thì lòng tin của các nhà đầu tư
và theo đó là tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người sẽ càng
tăng sớm. Thứ hai, những thoả thuận ưu đãi đang được dành cho thành
viên của AFTA có thể dẫn tới sự chệch hướng thương mại. Bằng việc đa
phương hoá những cam kết này như một phần của quá trình gia nhập
WTO, nguy cơ mất mát những lợi ích do việc chia rẽ thương mại có thể
được tránh. Tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ
giúp Việt Nam đẩy nhanh tốc độ cơ cấu lại nền kinh tế, cải cách các hệ
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 177 -
thống thương mại và pháp lý cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trường. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc Việt Nam sớm gia nhập WTO
và các thể chế quốc tế khác.
3.2.2. Thách thức đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA
Tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc,
ngoài những thách thức nói chung đối với các thành viên ASEAN như đã
phân tích ở các phần trước, Việt Nam còn phải đối mặt với những khó
khăn cụ thể như:
3.2.2.1. Cán cân thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc dễ tiếp tục
phát triển theo hướng Việt Nam nhập siêu nhiều hơn từ Trung
Quốc
Thực tế đã cho thấy rằng rủi ro sẽ ít hơn khi FTA được thực hiện
giữa các quốc gia có tiềm lực kinh tế ngang nhau, quan hệ “hàng đổi
hàng” trong một không gian thuế quan thấp sẽ kích thích sự tăng trưởng
kim ngạch buôn bán giữa các bên. Trong trường hợp một bên có tiềm
lực kinh tế yếu hơn, khả năng nhập siêu đối với bên đó là khó tránh khỏi
khi FTA được thực hiện. Điều này rất đúng đối với trường hợp của Việt
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 178 -
Nam khi tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Thật vậy, khi ACFTA hình thành, mặc dù triển vọng tăng cường
xuất khẩu giữa Trung Quốc và ASEAN là rất lớn song đối với Việt Nam
cơ cấu kinh tế và cơ cấu hàng hoá trao đổi dễ dẫn đến tình trạng quan hệ
thương mại Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục phát triển theo quan hệ
hàng dọc, trong đó Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm thuỷ sản
và nhập khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc. Điều này khác với các
nước ASEAN- 6 có quan hệ ngang hàng với Trung Quốc, xuất nhập
khẩu chủ yếu đều là hàng công nghiệp. Thái Lan, Singapore và có thể cả
Malaysia rõ ràng không gặp trở ngại gì khi gia nhập khu vực mậu dịch
tự do mới này. Các nước này đều đã là thành viên WTO, khoảng cách
đến Trung Quốc cũng xa hơn, hơn nữa cơ cấu sản phẩm của các nước
này có mức độ chế biến khá sâu, giá thành của nhiều mặt hàng thậm chí
còn rẻ hơn cả Trung Quốc (ô tô của Malaysia, dệt may của Thái Lan).
Các nước khác như Lào, Campuchia và Myanmar là những nước có nền
kinh tế công nghiệp, chủ yếu nhập khẩu hàng công nghiệp do vậy cũng ít
bị ảnh hưởng bởi việc tham gia ACFTA. Trường hợp Việt Nam, do cơ
cấu hàng công nghiệp của hai nước có sự giống nhau khá đặc biệt, hàng
Trung Quốc lại thường rẻ hơn (như trường hợp động cơ cỡ nhỏ của
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 179 -
Trung Quốc) nên sức cạnh tranh rất lớn. Trong tương lai, khi mở cửa
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc, với khoảng cách rất gần và cơ
cấu công nghiệp còn chưa kịp điều chỉnh đến 2012, rõ ràng Việt Nam sẽ
gặp nhiều bất lợi hơn các nước khác cả trong quan hệ thương mại lẫn
trong cố gắng công nghiệp hoá nền kinh tế.
Hơn nữa, trong quan hệ trao đổi hàng hoá với Việt Nam hiện nay,
Trung Quốc nhập khẩu khoảng 90% là nguyên liệu và các sản phẩm sơ
chế như dầu thô, nông sản, thuỷ sản, khoáng sản, … và xuất khẩu
khoảng trên 70% là các thành phẩm công nghiệp [50]. Với cơ cấu hàng
hoá nêu trên, trong bối cảnh chiều hướng giá cả quốc tế trong những
năm gần đây luôn biến động theo hướng giảm sút bất lợi cho những
nước xuất khẩu nguyên liệu và nông sản, Việt Nam sẽ khó có thể cải
thiện cán cân thương mại với Trung Quốc mà thậm chí có thể sẽ nhập
siêu nhiều hơn từ người bạn hàng lớn này.
3.2.2.2. Sức ép cạnh tranh trên thị trường nội địa Việt Nam sẽ càng
thêm nặng nề.
i. Trong lĩnh vực công nghiệp:
Điều dễ nhận thấy là các doanh nghiệp Trung Quốc mạnh hơn
doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là đối với các ngành công
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 180 -
nghiệp non trẻ của Việt Nam. Ngay trong các ngành Việt Nam đang
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tương đối có lợi thế cạnh tranh như dệt may, da giầy, sản xuất hàng tiêu
dùng, … thì hàng hoá Trung Quốc cũng đang chiếm ưu thế khá lớn. Đối
với các ngành Việt Nam đang mong muốn đi vào phát triển như các sản
phẩm công nghệ cao (thiết bị điện tử, điện tử, công nghệ thông tin, …),
hoá chất, cơ khí, … thì Trung Quốc đều đã và đang phát triển mạnh, với
năng lực cạnh tranh cao. Khi hàng rào thuế và phi thuế được hạ thấp,
hàng hoá và doanh nghiệp Trung Quốc sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường
Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải rất vất vả mới có thể đứng
vững trên thị trường nội địa, còn những ngành mới sẽ không dễ có cơ
hội phát triển.
ii. Trong lĩnh vực nông nghiệp:
Trung Quốc là nước sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản lớn nhất
thế giới, đồng thời Trung Quốc lại có trình độ phát triển cao hơn Việt
Nam về khoa học công nghệ, nhất là giống, công nghệ chế biến, thiết bị
máy móc, vật tư nông nghiệp, … do vậy tự do hoá thương mại trong
khuôn khổ ACFTA sẽ là thách thức không nhỏ đối với hàng nông sản
nước ta. Hiện nay, thuế nhập khẩu MFN đối với các nhóm hàng mà
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 181 -
nước ta nhập từ Trung Quốc như sau:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng 18: Thuế nhập khẩu MFN đối với các mặt hàng Việt Nam
nhập khẩu từ Trung Quốc
Đơn vị: %
Mặt hàng Thuế nhập khẩu MFN
Giống cây trồng các loại 0
Rau tươi 30
Quả (lê, táo, cam, quýt, …) 40
Rau quả, thịt chế biến 50
Ngô 5
Lúa mỳ 0
Phân bón 0
Thuốc bảo vệ thực vật 0 – 1
Thuốc thú y 0
Da các loại 5
Nguồn: “Đánh giá tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc đến ngành nông nghiệp Việt Nam”- Tham luận của Bà
Phạm Thị Tước, Vụ phó Vụ Kế hoạch và Quy hoạch, Bộ Nông nghiệp &
phát triển nông thôn tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 182 -
thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel,
CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002.
Mức thuế trên cho thấy nước ta đang bảo hộ rất cao đối với hàng
nông sản, thực phẩm chế biến và rau quả, trong khi những ngành này lại
đang là thế mạnh của Trung Quốc. Khi Trung Quốc thiếu thì nhập khẩu
hàng của Việt Nam rất mạnh, nhưng khi được mùa, dư thừa thì không
những không nhập khẩu mà còn thâm nhập thị trường Việt Nam rất
mạnh làm chao đảo cả một số ngành hàng của Việt Nam (như trứng gà,
dưa hấu). Hơn nữa, do Trung Quốc thường mua nông sản thô về chế
biến tiêu dùng trong nước nên mặc dù cơ hội tăng xuất khẩu đối với sản
phẩm thô là có thực nhưng giá trị giá tăng thấp, trong khi cơ hội xuất
khẩu hàng nông sản chế biến không nhiều, thậm chí còn gặp khó khăn
ngay cả trên thị trường Việt Nam.
Ngoài ra, khi thực hiện tự do hoá thương mại trong khuôn khổ
ACFTA, các nhóm hàng này sẽ gặp phải thách thức đáng kể không chỉ
từ hàng hoá của Trung Quốc mà còn cả từ các nước ASEAN khác. Cụ
thể, lấy ví dụ về mặt hàng gạo: Thái Lan là một nước xuất khẩu gạo lớn
trong ASEAN. Với việc hưởng lợi từ mức thuế quan thấp mà ACFTA
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 183 -
mang lại, các mặt hàng của Thái Lan, mà trước hết là gạo, sẽ có lợi thế
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cạnh tranh hơn hẳn so với Việt Nam. Trong vòng 10 năm tới, khi FTA
ASEAN - Trung Quốc từng bước được thực hiện, cho dù có chung một
mức thuế quan thấp, nhưng khi đó các sản phẩm của Việt Nam liệu có
tạo được sức cạnh tranh ngang bằng với các sản phẩm cùng loại của
Thái Lan và một số nước ASEAN khác hay không cũng là một vấn đề
không nhỏ đặt ra đối với Việt Nam khi tham gia vào Khu vực mậu dịch
tự do này.
iii. Trong lĩnh vực dịch vụ:
Khi mở cửa, thực hiện cam kết ACFTA, sẽ có thể có hai tình
huống. Một là, các dịch vụ của Việt Nam có thể trụ vững và vươn ra
ngoài, chiếm lĩnh trên thị trường. Hai là, các doanh nghiệp Việt Nam có
thể bị mất thị phần, phải liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài và
phụ thuộc vào họ để sống.
So sánh với các quy định của GATS được lấy làm cơ sở cho việc
hình thành ACFTA, có thể thấy khu vực dịch vụ của Việt Nam còn chịu
nhiều quy định không thích hợp. Nhiều lĩnh vực độc quyền chỉ có một
doanh nghiệp nhà nước duy nhất được phép hoạt động như bưu chính
viễn thông, hàng không, … hoặc phải trải qua một quá trình cấp phép
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 184 -
chưa được minh bạch, công khai. Bên cạnh đó, hàng loạt dịch vụ hiện
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nay hầu như chưa tồn tại như một dịch vụ thương mại, có tỷ trọng tương
xứng. Ví dụ, dịch vụ nghiên cứu thị trường, tiếp thị, dịch vụ kế toán qua
mạng, … cần được phát triển gấp, nếu không sẽ bị doanh nghiệp Trung
Quốc chiếm lĩnh. Dịch vụ bất động sản hiện nay cũng đang tồn tại nhiều
bất cập do chịu sự can thiệp quá nhiều của các cơ quan hành chính, dẫn
tới bị biến dạng làm cho giá cả, luật lệ kinh doanh rất thất thường, năng
lực cạnh tranh thấp. Thị trường môi giới lao động cũng vậy.
Du lịch Việt Nam tuy có khả năng tăng trưởng nhất định, chủ yếu
nhờ vào ưu thế thiên nhiên, truyền thống văn hoá, lịch sử song không thể
quá lạc quan vì sản phẩm du lịch còn thiếu sự đa dạng, chất lượng chưa
cao và giá cả chưa phải hấp dẫn so với các nước trong khu vực, tỷ lệ
khách quay lại lần thứ hai rất ít so với các nước khác như Thái Lan và
Trung Quốc.
Dịch vụ ngân hàng tuy có nhiều tiến bộ song năng lực cạnh tranh
còn thấp, nhất là năng lực đánh giá dự án, giám sát tín dụng. Hệ thống
bảo hiểm cũng gặp khó khăn tương tự.
Các loại hình dịch vụ khác như tư vấn pháp lý, tư vấn quản lý,
kiểm toán, kế toán còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. Kết quả điều tra
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 185 -
của Dự án phát triển Mekong (MPDF) 1998 về sử dụng 7 loại dịch vụ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khác nhau cho thấy nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam chưa
có đủ tài chính và cũng chưa quen sử dụng các dịch vụ như kế toán, vi
tính, tư vấn, quảng cáo, … Trong khi đó, ở Trung Quốc, các ngành nghề
này đã và đang phát triển rất mạnh mẽ, do vậy sẽ tạo ra khoảng cách
chênh lệch khá lớn khi các cam kết về dịch vụ được thực hiện trong
khuôn khổ ACFTA.
Dịch vụ chữa bệnh, kết hợp Đông y với Tây y như châm cứu, bấm
huyệt và các bài thuốc Đông y đặc hiệu có tiềm năng phát triển, song
trình độ còn yếu, chưa thích hợp để tiếp nhận khách quốc tế. Do vậy, khi
ACFTA hình thành, có khả năng tầng lớp trung lưu ở Việt Nam sẽ sang
Thái Lan hay Trung Quốc để chữa bệnh và thị trường của dịch vụ này ở
Việt Nam có thể bị các doanh nghiệp Trung Quốc chiếm lĩnh.
Tóm lại, năng lực cạnh tranh và trình độ phát triển của khu vực
dịch vụ của Việt Nam tương đối thấp. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
- Trung Quốc sẽ mở ra thị trường rộng lớn nhưng cạnh tranh gay gắt,
trong đó Trung Quốc sẽ là một đối thủ cạnh tranh mạnh trên hầu hết các
loại hình dịch vụ. Nếu không có sự chuẩn bị năng động, có hệ thống và
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 186 -
đồng bộ cho từng loại hình dịch vụ, sức ép cạnh tranh sẽ ập đến các loại
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hình dịch vụ của Việt Nam và thời gian đầu của thời kỳ mở cửa trong
khuôn khổ ACFTA sẽ rất khó khăn.
iv. Trong lĩnh vực đầu tư
Khi ACFTA được hình thành, sức thu hút của Trung Quốc đối với
đầu tư và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ
càng lớn hơn so với ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Không
chỉ thu hút 80% [28] nguồn vốn FDI, Trung Quốc còn đang thu hút số
lớn các ngân hàng nước ngoài, các chi nhánh của các công ty đa quốc
gia và các nước khác đang hoạt động trong khu vực về lãnh thổ của
mình. Khi ACFTA mở ra cho Trung Quốc, Việt Nam và các nước
ASEAN khác sẽ càng khó cạnh tranh hơn trong việc thu hút các nguồn
lực đó. Thậm chí đối với Việt Nam, do sự kém hấp dẫn của môi trường
đầu tư nên ngay cả việc giữ chân các nhà đầu tư, các công ty nước ngoài
đang có mặt ở Việt Nam để họ khỏi chuyển đi những nơi có môi trường
kinh doanh tốt hơn trong khu vực cũng không phải là điều dễ dàng.
Nói tóm lại, trong cạnh tranh thương mại quốc tế luôn có được và
có mất, đó là một thực tế. Tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc trước hết phải thấy được những lợi ích rõ rệt mà
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 187 -
nó mang lại cho tự do hoá thương mại, xoá bỏ dần những rào cản trong
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam buôn bán, tăng cường hoạt động kinh tế, thúc đẩy thực hiện các quy chế
của WTO, … Đó là những điều mà Việt Nam đang rất cần trong tiến
trình gia nhập tổ chức này. Cũng như các cuộc tranh chấp thương mại
luôn xảy ra giữa các “ông lớn” như Mỹ – EU, Mỹ – Nhật Bản, Trung
Quốc – Nhật Bản, Trung Quốc – Mỹ, …, sự đối đầu giữa ASEAN nói
chung và Việt Nam nói riêng với Trung Quốc trong một FTA mà tất cả
các thành viên đang hướng tới là hoàn toàn có thể diễn ra. Các nhà
hoạch định chính sách thương mại và các doanh nghiệp Việt Nam cần
đặt ra cho mình một đích đến khả quan để có thể trụ vững trong cuộc
cạnh tranh này.
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vào ACFTA
Mặc dù Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc ra đời sẽ
mang lại không ít những thách thức đối với Việt Nam, nhưng nếu Việt
Nam biết cách biến những thách thức này thành cơ hội, biết cách đưa ra
những điều chỉnh đúng đắn để giảm bớt những thách thức này đồng thời
biết cách tận dụng những lợi thế so sánh của mình, tận dụng phát huy
những cơ hội đã có trước đây và sẽ có được từ hợp tác trong ACFTA sắp
tới, thì ACFTA sẽ thực sự trở thành một cơ chế hợp tác có hiệu quả
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 188 -
mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam. Sau đây là một số kiến nghị để
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vào ACFTA nhằm đạt được sự hợp tác
các bên cùng có lợi và sự phát triển có hiệu quả hơn của ACFTA trong
tương lai.
3.3.1. Chuyên môn hoá sản xuất và chế biến những mặt hàng xuất
khẩu mà Việt Nam có năng lực cạnh tranh hơn so với Trung Quốc
3.3.1.1. Tập trung phát triển lĩnh vực sản xuất chế biến hàng nông
lâm hải sản để tăng dần tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu hàng
xuất khẩu và mở rộng xuất khẩu.
Về nông sản, các nước ASEAN có nhu cầu về sản phẩm nhiệt đới
còn Trung Quốc lại có ưu thế về sản phẩm ôn đới và hàn đới. Do vậy,
Trung Quốc có nhu cầu nhập sản phẩm nhiệt đới và tài nguyên của
ASEAN và nhu cầu đó chắc chắn sẽ còn tăng mạnh hơn khi Trung Quốc
gia nhập WTO. Việt Nam nên tận dụng lợi thế này bởi vì một con đường
khôn ngoan là phải biết tận dụng thế mạnh của mình để vươn lên chứ
không chỉ tìm cách nâng cao sức mạnh thuộc nhiều lĩnh vực phải cạnh
tranh gắt gao.
Để phát huy thế mạnh trong xuất khẩu những mặt hàng này, Việt
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 189 -
Nam có thể tiến hành một số biện pháp như:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đầu tư đầy đủ vào việc sản xuất, nuôi trồng những mặt hàng
nông sản nhiệt đới nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm
cũng như tăng số lượng sản phẩm xuất khẩu.
Tăng cường đầu tư vào khâu chế biến các loại sản phẩm này
nhằm giảm tỷ lệ hàng hóa sơ chế trong tổng lượng hàng nông sản xuất
khẩu. Đây cũng là một biện pháp đảm bảo các mặt hàng nông sản xuất
khẩu trở nên đa dạng và phong phú hơn. Chẳng hạn, từ một loại trái cây
như vải, có thể đầu tư sản xuất thêm nhiều sản phẩm khác như vải ngâm
nước đường, vải sấy khô và nhiều loại sản phẩm khác.
Nghiên cứu thay đổi bao bì sản phẩm xuất khẩu theo hướng
ngày càng đa dạng, hấp dẫn hơn nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng
hàng hoá đóng gói bên trong và tiết kiệm chi phí bao bì.
Thống nhất cao tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật đối với
các sản phẩm xuất khẩu song song với nới lỏng các hàng rào phi thuế
quan.
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 190 -
tích cực và chủ động thâm nhập thị trường thế giới, đẩy mạnh công tác
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đàm phán song phương và đa phương nhằm khai thác không chỉ thị
trường Trung Quốc mà cả những thị trường mới.
3.3.1.2. Tăng cường đẩy mạnh các ngành sản xuất công nghiệp và
dịch vụ để tạo ra những sản phẩm đạt giá trị gia tăng cao hơn.
Cụ thể, Việt Nam nên tập trung vào xuất khẩu các sản phẩm điện
tử cơ khí, một số nguyên vật liệu dùng cho sản xuất hoặc tập trung phát
triển những ngành dịch vụ mà Trung Quốc đang có nhu cầu lớn như tư
vấn, tài chính, giáo dục, quản lý cơ sở hạ tầng, quy hoạch đô thị, …
Đồng thời, để khắc phục xu hướng ngày càng trở nên yếu thế trước
Trung Quốc trong những ngành hàng mà cả hai bên đều có ưu thế cạnh
tranh sau khi ACFTA được thành lập, cộng thêm với nhân tố Trung
Quốc đã gia nhập WTO, tránh tình trạng hàng hoá Trung Quốc thâm
nhập ồ ạt vào thị trường nội địa, Việt Nam cần cố gắng xác lập lợi thế so
sánh bằng cách nhanh chóng tăng năng suất lao động và hàm lượng tri
thức trong sản phẩm tiêu thụ cuối cùng để tạo nên những mặt hàng có
nét độc đáo. Tuỳ theo mỗi chủng loại hàng hoá và thị hiếu mà có thể cải
thiện theo những hướng khác nhau. Chẳng hạn, đối với hàng may mặc,
nên tăng tính thời trang, chú ý sự quan trọng của kiểu dáng vì khi không
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 191 -
tính tới nhân tố giá cả thì mẫu mã và kiểu dáng của sản phẩm may mặc
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam là nhân tố thu hút sự chú ý nhất của người tiêu dùng; hay đối với sản
phẩm tạp hóa, đồ dùng trong nhà, trong văn phòng, điểm quan trọng cần
chú ý lại là sự tiện dụng và hữu ích.
3.3.1.3. Không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh đối với những
mặt hàng có khả năng cạnh tranh thấp hơn so với hàng hoá Trung
Quốc
Trước hết, lấy ví dụ trong ngành máy móc là ngành mà Việt Nam
đang rất nỗ lực xác lập lợi thế so sánh để cạnh tranh với Trung Quốc.
Phạm vi các ngành này rất rộng và có thể chia làm hai nhóm chính:
Nhóm các loại máy móc gia đình và văn phòng và nhóm các loại máy
móc cao cấp có hàm lượng công nghệ cao.
Nhóm các loại máy móc gia đình và văn phòng gồm có: Phần cứng
công nghệ thông tin (máy tính, máy điện thoại di động, máy in, máy fax,
linh kiện và bộ phận điện từ...), đồ điện, điện tử gia dụng. Đối với nhóm
này, như đã phân tích, Trung Quốc hiện đang trong quá trình tăng lợi thế
so sánh còn đối với Việt Nam, hiện nay sức sản xuất các loại hàng này
còn rất yếu. Do vậy, chiến lược của Việt Nam là phải tạo môi trường để
tiếp tục thu hút FDI, thúc đẩy đầu tư và nâng cao chất lượng trong lĩnh
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 192 -
vực sản xuất các loại máy móc thuộc nhóm này.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Nhóm các loại máy móc cao cấp có hàm lượng công nghệ cao gồm
xe hơi, máy công cụ, người máy, … Đối với những loại máy móc này,
trong tương lai hứa hẹn Trung Quốc sẽ nhập khẩu một số lượng lớn sản
phẩm thuộc nhóm này. Những nước xuất khẩu chính sẽ là Nhật, Mỹ,
Hàn Quốc, Đài Loan. Việt Nam mặc dù không có nhiều lợi thế để phát
triển nhưng có thể cải thiện việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm này
dựa trên việc tạo điều kiện để các công ty đa quốc gia chọn khu vực này
làm cứ điểm sản xuất một số bộ phận của các loại máy móc đó.
Ngoài ra, trong khi Trung Quốc luôn được coi là trung tâm công
nghiệp chế tạo của thế giới, mặc dù Trung Quốc không phải là cơ sở sản
xuất duy nhất, sẽ có ngành công nghiệp khác như công nghiệp chế biến
tài nguyên, công nghiệp nguyên liệu thô mà Việt Nam sẽ có cơ hội tận
dụng để phát triển những ngành công nghiệp này, vừa là nhân tố bổ sung
cho kinh tế Trung Quốc.
Nói tóm lại, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá là yếu tố chủ
yếu để hàng hoá Việt Nam có thể xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường
rộng lớn của Trung Quốc, đồng thời có thể cạnh tranh được với hàng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 193 -
hoá các nước trên thế giới trong đó có Trung Quốc. Để nâng cao sức
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cạnh tranh, cần quan tâm tới các góc độ sau: giảm giá thành sản phẩm,
nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, marketing quản lý.
Nâng cao chất lượng sản phẩm là khâu đầu tiên cần làm để có
thể có sản phẩm mang thương hiệu nổi tiếng trên thị trường thế giới. Các
ngành công nghiệp phải đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ; kỹ thuật
quản lý, điều hành sản xuất cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc tự bỏ vốn đầu tư là hai cách thức
mà Chính phủ và các nhà kinh doanh có thể lựa chọn khi quyết định đổi
mới thiết bị, máy móc, công nghệ, trong đó thu hút FDI hiện là con
đường được Chính phủ và nhà kinh doanh lựa chọn nhiều nhất.
Hạ giá thành: Hai hàng hoá có cùng chất lượng, mẫu mã mà
hàng nào rẻ hơn thì sức cạnh tranh tất nhiên sẽ cao hơn. Các doanh
nghiệp Việt Nam có thể dựa vào việc sử dụng lợi thế của mình về giá lao
động rẻ kết hợp với giảm chi phí đầu vào, đồng thời kết hợp các khâu
của quá trình sản xuất một cách chặt chẽ để hạ giá thành sản phẩm. Tận
dụng quy chế tối huệ quốc cũng là biện pháp hết sức hữu ích để giảm giá
hàng hoá.
Thay đổi mẫu mã sản phẩm, tăng cường chất lượng các khâu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 194 -
quảng cáo, marketing trong bán hàng và phân phối từ lâu đã trở thành
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tiêu chí được các nhà kinh tế quan tâm. Thực hiện biện pháp này sẽ giúp
cho hàng hoá kịp thay đổi và đáp ứng nhanh nhạy với nhu cầu, thị hiếu
rất đa dạng và phức tạp của người tiêu dùng Trung Quốc. Bởi vậy, đây
cũng là một yếu tố tạo khả năng cạnh tranh lớn cho hàng hoá Việt Nam.
3.3.2. Thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng cường tự do hoá thương mại
và xúc tiến đầu tư
Như đề cập ở trên, với việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc, Việt Nam sẽ có nhiều tiềm năng để thúc đẩy
thương mại và đầu tư. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có thể lâm vào thế bất lợi
so với Trung Quốc do sức ép cạnh tranh từ người láng giềng khổng lồ
này. Mặc dù vậy, cơ hội để phát triển vẫn còn nhiều. Chìa khoá để mở
cửa những cơ hội đó là ở tốc độ cải cách kinh tế và chiến lược xúc tiến
đầu tư.
3.3.2.1. Đẩy nhanh tốc độ cải cách kinh tế và tự do hoá thương mại
Thứ nhất, Việt Nam nên tiếp tục chính sách công nghiệp hoá
hướng về xuất khẩu nhằm đẩy mạnh tiến trình tự do hoá thương mại. Đa
dạng hoá xuất khẩu sẽ tiếp tục làm giảm sự phụ thuộc nặng nề vào dầu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 195 -
thô, gạo, hải sản, nông nghiệp và ngư nghiệp; đồng thời tạo điều kiện
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút các
nguồn lực bên ngoài hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá đất nước.
Thứ hai, cải cách doanh nghiệp và cải cách tài chính phải đi kèm
với tự do hoá giá cả và tự do hoá thương mại. Hội nhập thị trường trong
nước và hội nhập những lĩnh vực trên vào thị trường thế giới phải được
tiến hành đồng thời để đảm bảo giảm thiểu những yếu tố tiêu cực bên
ngoài của những nhân tố gây bóp méo còn tồn tại và để tối đa hoá lợi ích
từ thương mại. Việc tạo ra những thể chế liên quan tới thị trường có vai
trò quan trọng trong việc tối đa hoá lợi ích của Việt Nam trong quá trình
hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Với việc không ngừng nỗ lực phát
triển các thể chế và thị trường, Việt Nam sẽ nổi lên là một nền kinh tế
mạnh hơn sau khi hội nhập.
3.3.2.2. Xúc tiến đầu tư
Đầu tư nước ngoài vẫn luôn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy
xuất khẩu của các quốc gia. Đầu tư nước ngoài đồng nghĩa với việc tăng
cường thu hút vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tạo khả năng cho
nước nhận đầu tư hiện đại hoá các ngành sản xuất, nâng cao chất lượng
và hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài cũng là một nhân
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 196 -
tố làm gia tăng các công ty xuyên quốc gia tại nước nhận đầu tư, mà một
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trong những mục đích của các công ty này là lợi dụng giá rẻ ở nước
nhận đầu tư để sản xuất và sau đó xuất khẩu. Kết hợp hai yếu tố này, có
thể thấy đầu tư nước ngoài đóng vai trò rất lớn trong thúc đẩy xuất khẩu.
Không đi đâu xa, có thể nhìn vào tấm gương của Trung Quốc: một trong
những yếu tố đưa quốc gia này trở thành “cỗ máy xuất khẩu khổng lồ”
chính là nhờ có nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài. Do vậy, để tăng cường
thu hút đầu tư, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:
Trước hết, Việt Nam cần đảm bảo hơn nữa tính hấp dẫn của môi
trường đầu tư. Trong những năm bùng nổ kinh tế của ASEAN, nhiều
nhà đầu tư nước ngoài sẵn lòng đầu tư vào Việt Nam bởi sự phát triển
mạnh mẽ của khu vực này đã đem lại cho họ niềm tin sẽ thu được lợi
nhuận cao. Tuy nhiên, khi Trung Quốc mở cửa thị trường thì các nhà
đầu tư đã và đang có những thay đổi rất lớn về địa điểm đầu tư bởi tại
đất nước này, khả năng thu lợi nhuận ngày càng cao và môi trường đầu
tư cũng ngày một cải thiện hơn. Dòng đầu tư dang có xu thế dịch chuyển
theo hướng chuyển dần từ Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói
chung sang Trung Quốc. Để vượt qua thử thách về sức thu hút đầu tư
của một thị trường lớn như ở Trung Quốc, Việt Nam cần nỗ lực cải thiện
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 197 -
môi trường đầu tư bằng việc đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích, tạo ra
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam môi trường pháp lý và chính trị thuận lợi, cải thiện cơ sở hạ tầng phù
hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và khuyến khích việc bảo vệ và bảo đảm
lợi ích cho sở hữu trí tuệ. Chiến lược đầu tư của Việt Nam nên nhằm vào
thu hút FDI, trong đó tập trung vào chuyển giao công nghệ và bao gồm
nhiều ngành từ những ngành công nghiệp hướng vào công nghệ cao để
khai thác nguyên liệu cũng như những ngành dịch vụ.
Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến đầu tư cần được đẩy mạnh hơn
nữa. Nhà nước cần có các chính sách nhằm đa phương hoá các đối tác
đầu tư nước ngoài, thu hút các nguồn vốn từ khu vực có trình độ công
nghệ cao như Bắc Mỹ, Tây Âu. Các địa phương nên tích cực, chủ động
hơn trong quá trình tiến hành vận động đầu tư. Chính quyền địa phương
có quyền cân nhắc các dự án, tập đoàn, các nhà đầu tư có tiềm năng trên
cơ sở quy hoạch của Nhà nước và danh mục đã được phê duyệt. Các bộ
ngành có liên quan như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ
Ngoại giao nên phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc nghiên cứu thị
trường đầu tư, tình hình kinh tế và chính sách luật pháp của các nước,
các tập đoàn đa quốc gia, song song với việc nghiên cứu các chính sách
của các quốc gia trong khu vực để xây dựng cho Việt Nam một chính
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 198 -
sách thu hút FDI hợp lý.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Thứ ba, để thu hút FDI nhiều hơn, Việt Nam cũng cần cải thiện các
điều kiện để có thể cung ứng các dịch vụ cần thiết cho nền kinh tế như
lao động, cơ sở hạ tầng… Theo nhiều nhà đầu tư nước ngoài, trên thị
trường lao động Việt Nam, lao động giản đơn thì dư thừa quá nhiều
trong khi kỹ sư và các chuyên viên có trình độ cao trong các ngành khoa
học tự nhiên lại thiếu nên tiền lương phải trả cho họ rất cao, làm cho môi
trường đầu tư kém hấp dẫn. Hiện nay, Trung Quốc đã đi trước Việt Nam
cũng như các nước ASEAN khác về việc giải quyết vấn đề này. Theo
điều tra của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại
Bangkok [29], hàng năm Trung Quốc đào tạo 410,000 sinh viên các
ngành khoa học tự nhiên như cơ khí, điện tử, vật lý và toán (nghĩa là
trung bình 3,000 dân có một sinh viên ngành này) trong khi Thái Lan chỉ
có 10,000 (6,000 dân mới có một sinh viên). Việt Nam cũng đang gặp
trình trạng tương tự Thái Lan, và đặc biệt vấn đề không chỉ là số lượng
mà còn là chất lượng sinh viên ra trường. Chính vì vậy, Việt Nam cần
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 199 -
chú ý cải thiện môi trường đầu tư theo hướng này.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.3.3. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại
3.3.3.1. Đối với cơ quan quản lý
Nắm bắt kịp thời những thay đổi của bạn để đề ra các giải pháp
thích hợp phục vụ tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam trong công tác
xuất khẩu hàng sang Trung Quốc.
Một trong những trở ngại lớn lớn cho việc đẩy mạnh trao đổi
hàng hoá giữa Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian qua là diện mặt
hàng trao đổi chưa vững chắc, khối lượng chưa lớn. Do vậy, hai bên cần
thoả thuận ký kết một danh mục hàng hoá trao đổi có tiềm năng và nhu
cầu ổn định, lâu dài. Danh mục này có tính định hướng để doanh nghiệp
hai bên hợp tác sản xuất và ký kết hợp đồng ngoại thương.
Đề nghị Trung Quốc giải quyết hạn ngạch một số mặt hàng: Đối
với những mặt hàng Trung Quốc quản lý bằng hạn ngạch như cao su và
một số hàng hoá khác, đề nghị tăng hạn ngạch nhập khẩu cho Việt Nam,
ví dụ: cao su đề nghị tăng hạn ngạch lên từ 120,000 – 150,000 tấn.
Ngoài ra, cũng đề nghị Trung Quốc Trung Quốc tăng mức nhập khẩu từ
Việt Nam các mặt hàng: than đá, dầu thực vật, thuỷ hải sản, rau quả
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 200 -
nhiệt đới.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Tổ chức các kênh thông tin giao lưu, trao đổi giữa doanh nghiệp
hai nước thông qua:
Hội chợ triển lãm: Hàng năm, Cơ quan xúc tiến thương mại
Trung Quốc sẽ tổ chức cho các doanh nghiệp Trung Quốc tham gia Hội
chợ thương mại quốc tế do Bộ thương mại Việt Nam chủ trì. Ngược lại,
Cục xúc tiến thương mại Việt Nam cũng tổ chức cho các doanh nghiệp
Việt Nam tham gia các hội chợ lớn của Trung Quốc.
Trao đổi đoàn quan lại: Các cơ quan quản lý hai nước cần tạo
điều kiện thuận lợi dể các tổ chức kinh tế xã hội, các doanh nghiệp ở
trung ương cũng như ở các tỉnh có chung biên giới thường xuyên trao
đổi đoàn qua lại. Hai bên giới thiệu các đối tác kinh doanh có thực lực,
có uy tín cho nhau để các doanh nghiệp ngoại thương hai nước tiến hành
trao đổi, buôn bán.
Tổ chức hội thảo: Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo
chuyên đề cũng như tuần giao lưu thương mại Việt – Trung tại các địa
điểm thuận lợi ở khu vực biên giới để đẩy mạnh sự hợp tác kinh tế
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 201 -
thương mại hai nước.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Thông tin: Tổ chức xúc tiến thương mại hai nước nối mạng
trang web để phục vụ cho doanh nghiệp hai bên (hiện nay đã có trang
web www.sinoviet.com do Cục xúc tiến thương mại hai nước là VISTA
và GXSTI cùng xây dựng). Định kỳ hàng năm tổ chức xúc tiến thương
mại hai bên gặp gỡ nhau luân phiên tại thủ đô hai nước để trao đổi
chương trình hợp tác.
3.3.3.2. Đối với các doanh nghiệp
Về phía các doanh nghiệp, dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của Nhà
nước, cũng nên chủ động tìm ra những biện pháp hợp tác có hiệu quả,
đồng thời không ngừng nỗ lực tự đổi mới, tăng cường sức cạnh tranh
của doanh nghiệp, có thể thông qua một số biện pháp cụ thể như sau :
Bằng các kênh thông tin của mình hoặc thông qua kênh thông
tin của Bộ Thương mại, tìm hiểu tình hình thị trường, tình hình cung
cầu, đặc điểm, yêu cầu, biến động và những tiềm năng phát triển của thị
trường Trung Quốc, việc này sẽ giúp các doanh nghiệp khai thác thị
trường, tìm ra và nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh ở nước bạn.
Tìm hiểu chính sách, chủ trương của Nhà nước Trung Quốc một
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 202 -
mặt là để nắm bắt kỹ hơn về thị trường và kinh doanh có hiệu quả trong
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thị trường đó, mặt khác rất quan trọng là để so sánh các cơ hội kinh
doanh giữa thị trường Trung Quốc với thị trường các nước ASEAN khác
nhằm lựa chọn thị trường kinh doanh có hiệu quả nhất về một ngành
nghề cụ thể nào đó.
Tìm hiểu chính sách, cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp ở
Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đây là điều kiện tiền đề
cho sự hợp tác có hiệu quả. Trước đây đã có không ít những thất bại
trong hợp tác giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và Việt Nam mà
nguyên nhân chủ yếu là do sự hiểu biết chưa đầy đủ về nhau cho nên dẫn
đến nhiều bất đồng về quan điểm trong các quyết định và cả trong quá
trình hoạt động của các doanh nghiệp hợp tác. Thời gian gần đây, cùng
với công cuộc cải cách mở cửa, hệ thống hoạt động và các nguyên tắc
quản lý của các doanh nghiệp Trung Quốc có nhiều thay đổi. Các doanh
nghiệp Việt Nam nên tìm hiểu những chế độ sở hữu khác nhau, những
đặc điểm mới trong thể chế lãnh đạo, hệ thống quản lý, chính sách
marketing, … của các doanh nghiệp có quy mô khác nhau của Trung
Quốc. Đặc biệt, trong quá trình thành lập ACFTA sắp tới, trong cơ cấu
của nền kinh tế nói chung cũng như của các doanh nghiệp hai bên nói
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 203 -
riêng còn có nhiều điều chỉnh nữa đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa cho sự hợp tác có hiệu quả trong tương
lai.
Tích cực tham gia vào các cuộc triển lãm, khảo sát thị trường
nước ngoài, tổ chức nhiều đợt xúc tiến thương mại, toạ đàm kinh tế, …
để tìm hiểu thông tin, tìm đối tác, tạo cơ hội giao thương, đầu tư và tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau cho doanh nghiệp hai nước.
Thành lập các hiệp hội doanh nghiệp trong một số ngành cùng
với các doanh nghiệp khác trong khu vực để cùng trao đổi ý kiến, cùng
hợp tác sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong khu vực. Ví dụ có thể thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp
trong một số ngành vốn là thế mạnh của Việt Nam như những ngành
hàng nông nghiệp như gạo, hạt điều, cao su, thuỷ hải sản… hoặc một số
ngành công nghiệp điện tử, may mặc… để đẩy mạnh những ngành này
phát triển, hợp tác sản xuất trên quy mô lớn, nâng cao chất lượng sản
phẩm và có thể điều tiết giá xuất khẩu những mặt hàng này trên thị
trường quốc tế một cách hợp lý.
Đồng thời, bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực tự
đổi mới về cách thức quản lý kinh doanh sản xuất, tiếp cận và kịp thời
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 204 -
đưa các kỹ thuật mới vào sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh từ nội lực
doanh nghiệp cũng như tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá vì
người tiêu dùng Trung Quốc đã khác nhiều so với mấy năm trước đây.
Hơn nữa, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã tiếp cận được nhiều
với trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới, đời sống vật chất
của người dân đã được nâng cao rõ rệt, họ đòi hỏi hàng hoá có chất
lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, có như vậy thì hàng hoá Việt
Nam mới có cơ hội đứng được trên thị trường Trung Quốc.
3.3.4. Phát huy lợi thế về vị trí địa lý để nâng cao kim ngạch thương
mại song phương, trở thành đầu cầu và cửa ngõ của Trung Quốc ở
thị trường ASEAN
Về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở giữa Trung Quốc và các nước
ASEAN, Việt Nam lại có vùng bờ biển dài 2500 km với nhiều cảng
nước sâu từ Bắc tới Nam. Nếu phát triển tốt các hệ thống đường bộ
xuyên Á cả theo hướng Bắc – Nam và Đông – Tây thì các cảng biển này
sẽ thực sự trở thành cửa ngõ cho quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc.
Hơn nữa, một số tỉnh phía Nam Trung Quốc có thể qua cảng Hải Phòng,
Cái Lân tới các nước ASEAN. Trung Quốc cũng có thể thông qua các
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 205 -
cảng ở miền Trung và Nam Bộ Việt Nam tới Lào, Đông Bắc Thái Lan,
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Myanmar, Campuchia. Việt Nam còn có thể là một điểm trung chuyển
chế xuất sang các nước Đông Nam Á. Vị trí địa lý trên cho phép Việt
Nam phát huy vai trò là một “đầu cầu và cửa ngõ” cho sự phát triển quan
hệ Trung Quốc – ASEAN, nhưng vai trò này lại tuỳ thuộc vào các nhân
tố như:
Thứ nhất, phải xây dựng những kết cấu hạ tầng cần thiết cho một
“đầu cầu và cửa ngõ” bao gồm: các tuyến đường xe lửa, đường cao tốc,
đường hàng không xuyên Á theo cả hướng Bắc Nam và Đông Tây, các
cảng nước sâu cần thiết, hệ thống thông tin liên lạc xuyên Á thuận lợi,
…
Thứ hai, cần có chính sách và cơ chế đầu tư hấp dẫn, linh hoạt để
kích thích nhu cầu sử dụng “đầu cầu và cửa ngõ” Việt Nam của Trung
Quốc và các nước ASEAN khác, đồng thời thể hiện Việt Nam sẵn sàng
là một “đầu cầu và cửa ngõ” cho Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc.
Biện pháp thứ ba và cũng là biện pháp quan trọng nhất, đó là đẩy
mạnh mậu dịch biên giới phát triển. Nói cách khác, mậu dịch biên giới
phải được coi là một bước khởi đầu đối với Việt Nam để thúc đẩy phát
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 206 -
triển kinh tế tiểu vùng và đây đồng thời cũng là nội dung quan trọng của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ACFTA vì mậu dịch biên giới sẽ không chỉ đóng vai trò như một thí
điểm cho ACFTA, mà còn thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế thương
mại giữa Trung Quốc và Việt Nam. Có thể áp dụng một số biện pháp
như sau:
Cơ chế quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu ưu đãi: Ngoài những
ưu đãi về thuế quan và phi thuế sẽ được bãi bỏ theo Hiệp định khung về
Hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc, các hàng hoá
xuất nhập khẩu qua biên giới nên được hưởng những ưu đãi riêng và
trong thời gian sớm hơn. Trừ một số mặt hàng cấm, những mặt hàng
trọng điểm của chính phủ, những hàng hoá dùng trong quân sự hoặc một
số mặt hàng đặc biệt khác, các hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới có
thể bỏ hạn ngạch và giấy phép xuất nhập khẩu.
Cơ chế quản lý thuế ưu đãi: Các mặt hàng được sản xuất ở các
nước láng giềng và sau đó xuất khẩu qua cửa khẩu chỉ định và được sử
dụng và tiêu thụ tại thị trường của một trong các nước trong khu vực, trừ
những mặt hàng bắt buộc phải nộp thuế theo quy định của Nhà nước thì
vẫn có thể tiếp tục áp dụng chế độ thu 50% thuế nhập khẩu và thuế giá
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 207 -
trị gia tăng như hiện nay. Sau đó thuế này sẽ được hoàn lại một phần
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hoặc toàn bộ, phần thuế được hoàn này có thể được dùng vào việc xây
dựng các cơ sở hạ tầng tại cửa khẩu.
Thuận lợi hoá mậu dịch biên giới thông qua việc đẩy mạnh hợp
tác trong các lĩnh vực về hải quan, kiểm nghiệm, kiểm dịch, ngân hàng,
bảo hiểm, trọng tài, …. Cần tăng cường những công tác bảo vệ an ninh
biên giới, chống buôn lậu và các hành vi gian lận thương mại khác, bảo
đảm một môi trường an toàn và thuận lợi cho mậu dịch biên giới phát
triển.
Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng ở các khu cửa khẩu như
đường sá, kho bảo thuế; trang bị các thiết bị kiểm tra hàng hoá hiện đại;
đẩy mạnh đầu tư xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, các khu thương
mại biên giới để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển, lưu thông, tiêu thụ
hàng hoá được nhanh chóng, tiện lợi.
Giải quyết những vướng mắc trong biên mậu:
Khẩn trương nghiên cứu, sớm trình Thủ tướng chính phủ Quy
chế quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá tiểu ngạch qua
biên giới đường bộ với các nước láng giềng theo Nghị quyết số 05/
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 208 -
2002/ NQ-CP ngày 24/ 2/ 2002 của Chính phủ.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Thành lập Ban biên mậu trung ương và địa phương nhằm thực
hiện thoả thuận về cơ chế phối hợp quản lý buôn bán biên giới với Trung
Quốc trên các mặt sau: kịp thời thông báo cho nhau về những thay đổi,
điều chỉnh trong cơ chế, chính sách thương mại; thảo luận các biện pháp
thúc đẩy quan hệ trao đổi tiểu ngạch một cách ổn định và lành mạnh; cố
gắng mỗi quý gặp nhau một lần để cùng nhau tìm biện pháp tháo gỡ
những vướng mắc nảy sinh.
3.3.5. Tiến hành đàm phán với Trung Quốc để được hưởng các điều
kiện ưu đãi hơn trong việc mở cửa thị trường và thực hiện nguyên
tắc tối huệ quốc cũng như trong việc cung cấp hỗ trợ kinh tế kỹ
thuật
Thực tế cho thấy việc thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc được quyết định bởi việc thực hiện nhanh chóng và thu
hoạch sớm những lợi ích của một thị trường mở rộng được thuận lợi hóa
nhờ công khai thừa nhận khác nhau về năng lực điều chỉnh. Rõ ràng các
thành viên kém phát triển (trong đó có Việt Nam) trong một ngành hoặc
một lĩnh vực cụ thể có thể được kéo dài thời gian trong việc mở cửa thị
trường, thực hiện nguyên tắc MFN như đối với các thành viên của WTO
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 209 -
hoặc được hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt trong việc tự do hóa
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam những ngành bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, Việt Nam cần xác định rằng,
những đối xử đặc biệt như vậy chỉ nên diễn ra tạm thời và mục tiêu
chính của nó là giúp đỡ các nền kinh tế đang phát triển và kém phát triển
về thời gian và cơ hội để tiến hành sửa đổi luật pháp; định hướng lại
chính sách và đưa ra các chính sách mới, thiết lập cơ sở hạ tầng hành
chính và thể chế cần thiết; hạn chế và quản lý có hiệu quả hơn những
thiệt hại và biến động kinh tế không thể tránh khỏi liên quan đến các
nghĩa vụ mới của họ; và quan trọng hơn cả là xây dựng năng lực cạnh
tranh để tham gia một cách có lợi và lâu dài vào hệ thống thương mại đa
biên.
Mặt khác, việc cải cách toàn diện và quá độ từ nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường là một quá trình khó khăn và lâu
dài đối với Việt Nam và vì không có mô hình hiện tại nào để học tập trừ
Trung Quốc, cho nên Trung Quốc và những thành viên ASEAN phát
triển hơn có thể hỗ trợ Việt Nam bằng việc thiết lập một uỷ ban để giúp
đỡ việc nghiên cứu, giám sát và quản lý các vấn đề phát sinh từ việc
thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Sự hỗ trợ này
sẽ giúp Việt Nam phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực giải
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 210 -
quyết những giao dịch kinh doanh quốc tế. Ví dụ như những chương
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trình đào tạo giúp Việt Nam trong việc thông qua tiêu chuẩn ISO, hiệp
định tránh đánh thuế hai lần, quản lý FDI, công nhận lẫn nhau các tiêu
chuẩn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ giúp Việt Nam giải
quyết tốt vấn đề thương mại quốc tế và đầu tư. Bên cạnh đó, Việt Nam
có thể chủ động hợp tác với các nước ASEAN phát triển hơn và với
Trung Quốc trong việc giáo dục, đào tạo quản lý và phát triển nguồn
nhân lực. Sự cộng tác có thể theo những hình thức như trao đổi sinh
viên, thực tập sinh, cử chuyên gia đi học tập tại nước ngoài, …
3.3.6. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nước
ASEAN khác
Trong nhóm ASEAN- 4, Việt Nam có trình độ phát triển khá hơn,
mối liên kết trong ASEAN cũng sâu rộng hơn. Vì vậy, lợi ích mà chúng
ra có thể có được từ hợp tác trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc cũng quan trọng hơn. Các công việc trước mắt Việt Nam có
thể làm để đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực, thu hẹp khoảng cách
phát triển, đồng thời góp phần vào củng cố tính bền vững của ASEAN
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 211 -
có thể là:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.3.6.1. Tổng kết quá trình phát triển quan hệ hợp tác khu vực, từ
đó xây dựng một quan điểm hợp tác với ASEAN mang tính chiến
lược lâu dài xuất phát từ chiến lược phát triển chung của đất nước.
Trước hết, chúng ta cần đúc kết bài học kinh nghiệm từ lịch sử rút
ngắn khoảng cách chính trị an ninh, tiến tới rút ngắn khoảng cách kinh tế
và hợp tác về nhiều mặt. Cần tìm hiểu sâu hơn, phân tích tỉ mỉ, so sánh
toàn diện chính sách của Việt Nam và các nước trong khu vực, cũng như
các nước có liên quan để tìm ra những lợi ích tương đồng nhằm thúc đẩy
quan hệ hợp tác trong ASEAN và các nước khác.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần hết sức chú trọng đến việc củng
cố các cơ chế hợp tác hiện nay, đồng thời đề xuất những sáng kiến mới
trong khu vực. Điều này không chỉ nâng cao hơn uy tín và vị trí của Việt
Nam trong hợp tác khu vực mà là để tạo ra thế chủ động trong hợp tác.
Một điều đáng quan tâm là sau khủng hoảng, vai trò lãnh đạo của
Indonesia đã mất đi, trong khi chưa có một quốc gia nào có đủ tiềm lực
kinh tế, cũng như vị trí chính trị để thay thế. Việt Nam cần nhận thấy
khoảng trống này để cố gắng xác lập vị trí và ảnh hưởng trong thời gian
tới. Có như vậy, việc thu hẹp khoảng cách phát triển mới mang lại ý
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 212 -
nghĩa đối với Việt Nam trong tiến trình tham gia vào Khu vực mậu dịch
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tự do ASEAN - Trung Quốc, bởi trong bất kỳ thời điểm nào, việc trao
đổi hợp tác càng tăng lên bao nhiêu thì lợi ích quốc gia càng tăng lên
bấy nhiêu.
3.3.6.2. Thúc đẩy tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam
Trong quá trình phân tích những thách thức đối với các nước
ASEAN khi tham gia một FTA với Trung Quốc, có thể thấy nếu khó
khăn đối với 7 nước ASEAN đã là thành viên WTO là một thì đối với 3
nước Việt Nam, Lào, Campuchia, thách thức phải tăng lên gấp nhiều
lần. Hàng hoá ba nước này xuất khẩu đi 146 nước thành viên WTO sẽ
không được hưởng ưu đãi như Trung Quốc. Vốn nổi tiếng bởi sức cạnh
tranh về giá cả, mẫu mã, nay lại được hưởng mức thuế nhập khẩu thấp,
hàng Trung Quốc sẽ là đối thủ mà hàng hoá ASEAN-3 khó có thể cạnh
tranh nổi. Hơn thế nữa, một nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh
của ASEAN so với Trung Quốc là ở chỗ Trung Quốc là một quốc gia
thống nhất trong khi đó ASEAN lại là một tập hợp 10 quốc gia với trình
độ phát triển kinh tế và mức độ hội nhập không đồng đều. Muốn tăng
khả năng cạnh tranh hàng hoá của khu vực này với Trung Quốc, giảm
thiểu những sức ép của hàng hóa Trung Quốc so với hàng hoá ASEAN,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 213 -
cần nỗ lực rút ngắn khoảng cách kinh tế của 10 quốc gia, tạo điều kiện
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cho sự phát triển đồng đều của khu vực. Việc gia nhập WTO của ba
nước thành viên còn lại nói chung và của Việt Nam nói riêng có thể coi
là một bước tất yếu không thể thiếu được cho việc thực hiện những nỗ
lực này.
Để thúc đẩy Việt Nam nhanh chóng gia nhập WTO, có thể tiến
hành một số giải pháp sau:
Xem xét, đánh giá một cách cẩn trọng và chính xác về những
cái lợi, cái hại khi gia nhập WTO để có những bước đi đúng đắn và
chiến lược hợp lý;
Học tập kinh nghiệm đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc;
Xây dựng một cơ chế thị trường hoàn thiện. Từ những nền kinh
tế mang mô hình công hữu xã hội chủ nghĩa đi lên, thời gian thực hiện
cơ chế thị trường còn rất ngắn, thiếu kinh nghiệm, cơ cấu tổ chức chưa
hoàn thiện. Để thích ứng với cơ chế vận hành WTO, trước hết cần có sự
thay đổi nhận thức, quan niệm, cần có cơ chế thị trường hoàn thiện và hệ
thống luật, văn bản đồng bộ tương ứng.
Điều chỉnh cơ cấu ngoại thương theo hướng: giảm thuế nhập
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 214 -
khẩu cho phù hợp và đạt mức bình quân của các thành viên WTO; tăng
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cường cải cách xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp kinh doanh ngoại thương quyền kinh doanh rộng hơn;
thông qua giao dịch điện tử và các phương tiện truyền thông tăng cường
hiệu quả của chính sách ngoại thương.
Chính phủ cần tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đàm phán song
phương và đa phương với các nước thành viên WTO. Tuy nhiên, cũng
không nên vì quá nôn nóng mà sẵn sàng nhượng bộ mọi đòi hỏi có thể
gây ảnh hưởng xấu và tiêu cực tới nền kinh tế trong nước.
Việt Nam hy vọng sẽ gia nhập WTO vào năm 2004, Lào,
Campuchia cũng đang nỗ lực trong quá trình xúc tiến gia nhập. Thực
hiện những biện pháp trên sẽ là lực đẩy cho những nước này sớm gia
nhập WTO, sớm tạo nên một khối ASEAN đồng đều và vững mạnh.
3.3.7. Tích cực hợp tác với với các nước trong khối ASEAN để đi
đến nhất thể hoá thị trường khu vực nhằm cạnh tranh với thị
trường Trung Quốc.
Các nước ASEAN đều có lợi ích chung từ việc thành lập ACFTA.
Hợp tác với Trung Quốc, một nền kinh tế lớn mạnh và có quy mô lớn
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 215 -
hơn cả 10 nước ASEAN gộp lại, sẽ đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng có
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam không ít thách thức. Nếu trong nội bộ các nước ASEAN không có sự
đoàn kết hợp lực trong quan hệ với Trung Quốc thì ASEAN sẽ khó có
thể đạt được những lợi ích chung đó, thậm chí còn kìm hãm sự phát triển
chung của cả khu vực này. Vì vậy, trong quá trình xây dựng ACFTA,
Việt Nam và các nước ASEAN cần phải đẩy mạnh đoàn kết nhất trí hơn
nữa, đứng trên lập trường chung trong giải quyết các vấn đề kinh tế cũng
như chính trị, cùng hợp lực để bảo vệ quyền lợi của mình trong các quan
hệ hợp tác với Trung Quốc, cùng giúp đỡ nhau phát triển, khắc phục
những khó khăn trong việc thực hiện các cam kết trong ACFTA. Đặc
biệt là đối với những nước ASEAN mới, trong đó có Việt Nam, cần có
sự giúp đỡ của các nước khác trong ASEAN để theo kịp trình độ phát
triển của các nước phát triển hơn trong ACFTA và để hạn chế bớt những
tiêu cực do việc thực hiện ACFTA đem lại.
3.3.7.1. Tăng cường thương mại nội khối, giành lại thị phần ở chính
thị trường các nước ASEAN.
Không có lý do gì để những nước ASEAN lại chỉ chú ý xuất khẩu
sang các thị trường bên ngoài mà bỏ ngỏ chính thị trường các nước nội
khối để cho hàng hóa Trung Quốc và các nước khác xâm nhập trong khi
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 216 -
nếu thực hiện thương mại nội khối, các nước ASEAN sẽ có ưu thế hơn
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hẳn Trung Quốc vì những cam kết cắt giảm hàng rào thương mại và thuế
quan trong khu vực. Để tăng cường thương mại nội khối, Việt Nam và
các nước ASEAN khác cần tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:
Đẩy mạnh việc thực hiện các cam kết về cắt giảm thuế quan
theo Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong
khuôn khổ AFTA. Lợi ích cơ bản nhất của AFTA đối với ASEAN là
hàng hoá trong khu vực này sẽ tăng thế cạnh tranh về giá cả, giao dịch
thương mại tiến hành trên cơ sở không có thuế quan. Lúc đó, ASEAN sẽ
trở thành một khu vực rộng lớn với các dòng hàng hóa lưu chuyển tự do.
Nhìn một cách tổng quan, có vẻ điều này không liên quan gì nhiều tới
khả năng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá ASEAN ra thị trường quốc tế
trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn trước sự cạnh tranh từ hàng hoá
Trung Quốc. Tuy nhiên, xét về lâu dài, đây chính là bước khởi đầu cho
sự phát triển bình đẳng, đồng đều giữa các quốc gia trong khối ASEAN,
tạo điều kiện cho các nước này hợp tác toàn diện, cùng tận dụng những
lợi thế chung trong khu vực để nâng cao vai trò và vị trí trên thị trường
thế giới. Việc thúc đẩy buôn bán nội khối cũng sẽ giúp hoạt động ngoại
thương các nước này được cải thiện nhiều, và do đó, tạo đà cho các nước
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 217 -
ASEAN tăng khả năng xuất khẩu những mặt hàng có sức cạnh tranh hơn
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam về chất lượng, giá cả… ra thị trường các nước ngoài khu vực. Bởi vậy,
thúc đẩy quá trình thực hiện AFTA cũng là một phương cách hữu hiệu
để giảm thiểu khó khăn và nâng cao cơ hội cho xuất khẩu của ASEAN
trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc.
Tăng cường hợp tác lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước
ASEAN khác trong các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là các nước ASEAN
cần đẩy nhanh việc hoàn thành các chương trình hợp tác trong nội bộ
khối như Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Chương trình hợp tác công
nghiệp ASEAN (AICO), Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS),
… vì điều này sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến việc thúc đẩy
hoàn thành các chương trình hợp tác trong Khu vực mậu dịch tự do này,
mà cụ thể là chương trình cắt giảm thuế quan cũng như các biện pháp
tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư.
3.3.7.2. Thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng ASEAN nhằm tăng
cường hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của
ASEAN.
Nhiều người đặt ra câu hỏi là tại sao ASEAN lại cần có Cộng đồng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 218 -
ASEAN (ASEAN Community – AC) trong khi đã có Khu vực mậu dịch
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS),
Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Chương trình hợp tác công nghiệp
ASEAN (AICO) và Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI). Liệu có phải
những chương trình về hợp nhất kinh tế vốn có chưa đủ để có thể đạt
được mục tiêu đề ra của Tầm nhìn ASEAN 2020? Câu trả lời thực ra rất
đơn giản và rõ ràng, đó là những chương trình hiện có không đủ hiệu
quả để có thể đưa ASEAN đạt được mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hội nhập
kinh tế và tăng cường năng lực cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh một
Khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN với người láng giềng khổng lồ
Trung Quốc vừa được thiết lập. Nếu ASEAN không hội nhập một cách
sâu rộng hơn, mỗi nước thành viên trong khối sẽ có nguy cơ bị gạt ra
bên lề. Với dân số khoảng 530 triệu và tổng GDP vào khoảng 560 tỷ
USD [14], thị trường ASEAN có quy mô chỉ bằng một nửa thị trường
Trung Quốc. Chỉ có một con đường là đoàn kết hơn nữa trong ASEAN
thì mới có thể cạnh tranh được với thị trường hùng hậu này và Cộng
đồng ASEAN chính là một cách để ASEAN có thể có vị trí quan trọng
như một trung tâm của Đông Á.
Cộng đồng ASEAN bao gồm 3 trụ cột chính là hợp tác an ninh
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 219 -
chính trị (hình thành Cộng đồng an ninh ASEAN – ASEAN Security
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Community - ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng kinh tế ASEAN –
ASEAN Economic Community - AEC) và hợp tác văn hoá xã hội (Cộng
đồng văn hoá xã hội ASEAN – ASEAN Socio-Cultural Community -
ASCC); trong đó Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là mục tiêu cuối
cùng trong hội nhập kinh tế nhằm hình thành một khu vực kinh tế
ASEAN ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao, trong đó
hàng hoá, dịch vụ, đầu tư được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển
đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế xã hội được giảm thiểu. Cộng
đồng sẽ thực hiện Chương trình hành động kinh tế Bali, giải quyết vấn
đề khoảng cách phát triển của Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar
sao cho những lợi ích của quá trình hội nhập được chia sẻ và tạo điều
kiện cho tất cả các quốc gia thành viên phát triển theo phương thức
thống nhất. Hơn thế nữa, sự hội nhập sâu hơn giữa các nền kinh tế Đông
Nam Á sẽ củng cố sức mạnh của toàn bộ khu vực và tạo ra khả năng
chống chọi tốt hơn đối với các rủi ro và bất trắc nảy sinh từ sự ra đời của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Chính vì vậy, Việt Nam
và các nước ASEAN khác phải tích cực hợp tác với nhau nhằm đẩy
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 220 -
nhanh tiến trình hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN nói riêng và
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Cộng đồng ASEAN nói chung, góp phần hình thành nên một ASEAN
hoà bình, ổn định, và thịnh vượng.
3.3.7.3. Tích cực phối hợp với các nước còn lại trong khối nhằm
thiết lập một cơ chế hợp tác thích hợp trong Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN - Trung Quốc
Dựa trên những cơ chế có sẵn như Khu vực đầu tư ASEAN (AIA)
và Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) là những cơ chế
nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư phát triển, ASEAN và Trung Quốc
có thể cân nhắc việc thiết lập một Khu vực đầu tư ASEAN - Trung Quốc
và Lịch trình hợp tác công nghiệp ASEAN - Trung Quốc trong khuôn
khổ của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, nhằm làm cho
khu vực mậu dịch tự do này mang tính toàn diện hơn. Các nội dung và
phương tiện cụ thể của các cơ chế này tuỳ thuộc vào sự mong muốn và
sự đồng tình của hai bên nhằm mang lại lợi ích đồng đều cho tất cả các
thành viên tham gia.
Ngoài ra, Trung Quốcvà các nước ASEAN cũng cần nỗ lực tìm
hướng giải quyết triệt để những mâu thuẫn chính trị đang tồn tại giữa hai
bên, mà chủ yếu là vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông, đồng thời
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 221 -
cần đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực an ninh phi truyền thống nhằm
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam bảo vệ an ninh chính trị của mỗi nước và toàn khu vực, hợp lực chống
chủ nghĩa khủng bố và các lực lượng phản động khác để duy trì hoà
bình, ổn định chung, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác kinh tế thương
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 222 -
mại phát triển ngày càng vững mạnh hơn.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
KẾT LUẬN
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) được
thành lập đánh dấu một bước ngoặt mới trong quan hệ hợp tác hữu nghị
giữa ASEAN và Trung Quốc, đồng thời cũng là một quyết định mang
tính lịch sử mà hai bên đã đưa ra để tìm kiếm những cơ hội phát triển
mới. Với hơn 1.7 tỷ người tiêu dùng, tổng thu nhập quốc nội vào khoảng
2 nghìn tỷ USD và tổng kim ngạch thương mại ước tính lên đến 1.23
nghìn tỷ USD, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc ra đời
hứa hẹn sẽ đem lại nhiều cơ hội tốt đẹp cho sự tăng trưởng kinh tế,
thương mại và đầu tư của các nước thành viên. Hơn thế nữa, Khu vực
mậu dịch tự do có quy mô lớn nhất thế giới này còn có thể coi là biện
pháp chiến lược có ý nghĩa trọng đại để ASEAN và Trung Quốc đi đến
nhất thể hoá kinh tế, nâng cao vị thế chính trị trong các vòng đàm phán
đa phương cũng như trên các diễn đàn khu vực và quốc tế. Quan trọng
hơn, đây chính là viên gạch đầu tiên đặt nền móng vững chắc cho việc
xây dựng một khu vực mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA) trong tương
lai, có lợi cho hoà bình thế giới và phát triển kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh những cơ hội trên, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 223 -
Trung Quốc ACFTA cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam các nước thành viên, bao gồm thách thức về loại hình tổ chức của
ACFTA, tình trạng phân hoá hai cực, yếu tố cạnh tranh, vai trò chủ đạo
trong ACFTA; trong đó có thể nói thách thức lớn nhất mà ASEAN và
Trung Quốc phải đối phó là sự cạnh tranh gay gắt giữa hai bên trong các
lĩnh vực thương mại, đầu tư và phân công tại khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng cạnh tranh bao giờ cũng là
nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển, qua cạnh tranh mỗi bên sẽ
nỗ lực hơn, từ đó nền kinh tế của mỗi nước thành viên trong khối sẽ có
triển vọng phát triển với tốc độ nhanh hơn và đi vào chiều sâu hơn. Và
như vậy, khác với trò chơi được mất của bóng đá, sân chơi của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ là một sân chơi đem lại lợi ích
cho tất cả các thành viên tham gia.
Là một trong những nền kinh tế năng động với tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao nhất Đông Nam Á cộng thêm nhiều yếu tố tương đồng với
Trung Quốc về điều kiện tự nhiên, văn hoá, xã hội, …, Việt Nam có rất
nhiều cơ hội để đạt được sự tăng trưởng cao hơn nữa về thương mại, đầu
tư cũng như vai trò chính trị một khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc được thành lập. Tuy vậy, cũng giống như các nước thành
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 224 -
viên ASEAN khác, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trong sân chơi cạnh tranh với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc.
Hơn thế nữa, do Việt Nam chưa gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
WTO như Trung Quốc và bảy nước thành viên ASEAN khác nên những
khó khăn mà Việt Nam phải đối mặt sẽ càng nhiều hơn. Tuy vậy, về mặt
tổng thể, cơ hội còn nhiều hơn thách thức. Hơn nữa, cần nhận thức rằng
những thách thức đó chỉ mang tính chất tạm thời và đằng sau những
thách thức là những lợi ích lâu dài. Điều quan trọng là Việt Nam cần
phải có những điều chỉnh thích hợp để nắm bắt, tận dụng cơ hội và ứng
phó với những thách thức nhằm được hưởng lợi nhiều nhất từ ACFTA
trong tương lai, mà tựu trung lại có thể thông qua một số biện pháp như:
Thứ nhất, chuyên môn hoá sản xuất và chế biến những mặt hàng
xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh hơn so với Trung Quốc. Thực hiện biện
pháp này sẽ giúp Việt Nam có cơ hội mở rộng xuất khẩu, tận dụng tối đa
thế mạnh của mình, phân bổ nguồn lực hợp lý vào những ngành được sử
dụng có hiệu quả và năng suất hơn.
Thứ hai, đẩy nhanh tốc độ cải cách kinh tế song song với tăng
cường tự do hoá thương mại và xúc tiến đầu tư. Điều này sẽ thúc đẩy
tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, đồng thời cũng chính là chìa
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 225 -
khoá để Việt Nam mở cửa hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giới, trở thành một nền kinh tế đủ mạnh để chống chọi với sự cạnh tranh
khốc liệt từ cường quốc khu vực Trung Quốc.
Thứ ba, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt chú
trọng phát triển mậu dịch biên giới nhằm phát huy lợi thế về vị trí địa lý,
giúp Việt Nam trở thành đầu cầu và cửa ngõ của Trung Quốc ở thị
trường ASEAN.
Thứ tư, nỗ lực đàm phán với Trung Quốc để được hưởng những
điều kiện ưu đãi hơn trong việc mở cửa thị trường và thực hiện nguyên
tắc tối huệ quốc, giúp Việt Nam nhanh chóng thích ứng trong môi
trường cạnh tranh mới. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy hơn
nữa và nâng cao chất lượng tham gia của Việt Nam vào Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc nói riêng và hệ thống thương mại toàn
cầu nói chung.
Thứ năm, tích cực hợp tác với các nước trong khối ASEAN, thu
hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nước thành viên khác,
thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng ASEAN nhằm tăng cường hội nhập
kinh tế quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó đi đến nhất thể
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 226 -
hoá thị trường khu vực, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đối phó với
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam những rủi ro nảy sinh từ sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc.
Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã hết sức cố gắng để
đưa ra những phân tích cơ bản nhất. Hy vọng rằng ở một mức độ nhất
định, khoá luận đã cung cấp được cho người đọc một cái nhìn tổng quan
về các tác động sâu rộng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc đối với các nền kinh tế tham gia, trong đó có Việt Nam, giúp các
nước nói chung và Việt Nam nói riêng chuẩn bị đầy đủ những hành
trang cần thiết nhằm đạt được lợi ích tối đa từ Khu vực mậu dịch tự do
này.
Tuy nhiên, do những hạn chế về kiến thức và thời gian, khuôn khổ
khoá luận không cho phép đi quá sâu vào từng lĩnh vực, từng ngành
hàng cụ thể; mặt khác, đây lại là một vấn đề khá mới mẻ, tài liệu nghiên
cứu chưa nhiều, do vậy đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 227 -
mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý từ các thầy cô và các bạn.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chú thích:
[1] Theo Lập luận về tạo thương mại và chuyển hướng thương
mại của J. Viner (1950), khi một nước tham gia vào một FTA, nguồn
cung cấp hàng hoá và dịch vụ từ các bạn hàng sẽ tăng lên nhưng có thể
lại làm giảm nguồn cung cấp trong nước và từ những nước khác trên thế
giới. Nếu tổng cung tăng lên và giá nhập khẩu cao hơn giá sản xuất
trong nước thì sẽ có trade creation. Ngược lại, nếu nguồn nhập khẩu từ
các bạn hàng trong FTA thay thế nhập khẩu thấp hơn từ các nước khác
(do chính sách ưu đãi về nhập khẩu) thì sẽ có trade diversion theo đó
nước này sẽ bị thua thiệt do thương mại trong khối FTA. (theo Dương
Quốc Thanh, “Hợp tác kinh tế từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997
và khả năng hình thành Khu vực mậu dịch tự do Đông Á” – Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế số 2 (51), tháng 4/ 2003, trang 56).
[2] http://www.wto.org/english/tratop_e/region_e/region_e.htm
[3] N.T., “Trào lưu ký kết các hiệp định FTA” - Tạp chí Ngoại
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 228 -
Thương số 21 (21 – 31/ 7/ 2003), trang 33.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
[4] Thanh Phương, “Thuận lợi và khó khăn của xu thế hình thành
các Khu vực mậu dịch tự do” – Tạp chí Thương mại số 22, tháng 6/
2003, trang 18.
[5] Ellen H. Palanca, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và
ASEAN” - Báo cáo nghiên cứu của Hệ thống trung tâm nghiên cứu
APEC của Philippines (Philippines APEC Study Center Network -
PASCN), Manila, 2001.
[6] V. Trân, “Vai trò tương lai của Trung Quốc ở Châu Á” – Tạp
chí Ngoại Thương số 3 (21 – 31/ 1/ 2003), trang 32.
[7] P.Q.L., “Những thành tựu kinh tế của Trung Quốc” - Thời báo
kinh tế Việt Nam số 137, ngày 15/11/2002, trang 18.
[8] Phạm Thái Quốc, “Trung Quốc sau 1 năm gia nhập WTO”–
Chuyên đề Kinh tế 2002-2003 Việt Nam và Thế giới, tập san cuối năm
của Thời báo kinh tế Việt Nam, trang 93.
[9] Nguyễn Anh Hồng, “Trung Quốc: ngoại thương tăng 30 lần”–
Thời báo Kinh tế Việt Nam số 12, ngày 20/1/2003, trang 18.
[10] “Tin thế giới: Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đứng thứ hai
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 229 -
trên thế giới”, Thông tin Tài chính, số 6, tháng 3/ 2003, trang 28.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
[11] Eng Chuan Ong, Bộ Ngoại giao Singapore, “Gắn thương mại
tự do Đông Á vào ASEAN”, Washington Quarterly 2003 – Tài liệu dịch
số TL 2922, Trung tâm thông tin tư liệu, Viện nghiên cứu quản lý kinh
tế TW (CIEM).
[12] TS. Trần Cao Thành, Viện nghiên cứu Đông Nam Á,
“ASEAN thực hiện và mở rộng Khu vực mậu dịch tự do” - Tạp chí
Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 (53)/ 2002, trang 8.
[13] S. Pushpanathan, Bộ phận Quan hệ quốc tế, Ban thư ký
ASEAN, “ASEAN and free trade area cover China, Japan, India” - Tạp
chí Jakarta Post, 14/ 11/ 2002.
[14] “Các bộ trưởng kinh tế ASEAN thoả thuận các mục tiêu quan
trọng”, Tin Kinh tế quốc tế, Thông tấn xã Việt Nam
(www.vnagency.com.vn) ngày 4/ 9/ 2003.
[15] Bản tin hội nhập và phát triển, số tháng 2/ 2003, Uỷ ban quốc
gia về hội nhập kinh tế quốc tế (DEI).
[16] “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học viện Thương mại quốc tế và Hợp tác
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 230 -
kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác
kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel,
CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002.
[17] “Việt Nam tham dự diễn đàn Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc”, Tin đã đưa của Thông tấn xã Việt Nam tại Bắc
Kinh, ngày 25/ 2/ 2003.
[18] “Kim ngạch thương mại Trung Quốc – ASEAN tăng hơn
45%”, Tin Kinh tế quốc tế, Thông tấn xã Việt Nam
(www.vnagency.com.vn) ngày 18/ 8/ 2003.
[19] Statistics of Foreign Direct Investment in ASEAN (Extended
Data Set); ASEAN Secretariat; World Investment Report 2001.
[20] Việt Nga, “Hợp tác toàn diện Trung Quốc – ASEAN” - Tạp
chí Ngoại Thương số 20, ngày 11 – 20/ 7/ 2003, trang 32.
[21] D.M.H., “Hiện trạng và triển vọng quan hệ kinh tế Trung
Quốc - Đông Á” - Kinh tế quốc tế tham khảo (Thông tấn xã Việt Nam),
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 231 -
số 034 - TTX, ngày 31/ 8/ 2003, trang 4.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
[22] Văn Nghĩa, “Dư luận xung quanh Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc” - Thời báo Tài chính Việt Nam, số 134, ngày 8/
11/ 2002, trang 14.
[23] V. Trân, “Quan hệ kinh tế ASEAN – Nhật Bản - Trung Quốc”
– Tạp chí Ngoại Thương số 19 (1 – 10/ 7/ 2002), trang 29.
[24] Minh Nga, “FTA ASEAN - Trung Quốc: Ai được lợi nhất?” –
Kinh tế quốc tế tham khảo (Thông tấn xã Việt Nam), số 036 – TTX,
ngày 14/ 9/ 2003, trang 1.
[25] Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế
(ASEAN – China Expert Group on Economic Cooperation), “Xây dựng
quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21”
(bản tiếng anh – Forging closer ASEAN – China economic relations in
the twenty first century), Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org),
tháng 10/ 2001.
[26] “Luận đàm về việc thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông Á
và các hệ quả của nó” – Tham luận của Inkyo Cheong, Viện chính sách
kinh tế Hàn Quốc (KIEP) tại Hội thảo “Những thuận lợi và thách thức
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 232 -
của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam phối hợp với Quỹ Hanns Seidel,
CHLB Đức đồng tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30/ 8/ 2002.
[27] “Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc: Thích
nghi để vươn lên”, Báo điện tử www.vninvest.com , ngày 12/ 11/ 2002.
[28] “Tính cạnh tranh và bổ sung lẫn nhau giữa kinh tế ASEAN và
Trung Quốc”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam, số
190 ngày 19/ 8/ 2003, trang 16.
[29] Lý Hướng Dương, “Tính khả thi của việc thành lập Khu vực
mậu dịch tự do giữa Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc” - Tạp chí
Kinh tế Trung Quốc và thế giới (China and World Economy), Trung
Quốc, số 1, tháng 2/ 2002.
[30] “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc” - Tham luận của Nguyễn Hoài Sơn, chuyên viên Vụ chính sách
thương mại đa biên, Bộ thương mại tại Hội thảo khu vực về “Những
thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và
Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 233 -
ngày 21/ 6/ 2002.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
[31] “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc: Phải chăng
đây là một giải pháp thắng – thắng?” - Tham luận của George Manzano,
Trợ lý giáo sư, Khoa Kinh tế, Đại học Châu Á Thái Bình Dương,
Manila, Philippine tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách
thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác
kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel,
CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002.
[32] Th.S. Trương Mai Hương, “Trung Quốc gia nhập WTO và
ảnh hưởng đối với các nước ASEAN” - Chuyên đề Kinh tế và Kinh
doanh quốc tế (Trường Đại học Ngoại Thương), số quý IV/ 2001, trang
63.
[33] “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc: Cơ hội,
thách thức và tác động đối với các nước thành viên mới của ASEAN” -
Tham luận của Thitapha Wattanapruttipaisan, Chuyên viên cao cấp, Bộ
phận dịch vụ công nghiệp, Ban thư ký ASEAN tại Hội thảo khu vực về
“Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam
và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 234 -
ngày 21/ 6/ 2002.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
[34] Chỉ số đặc thù - Specification Index - được tính bằng (xuất
khẩu – nhập khẩu)/ (xuất khẩu + nhập khẩu). Chỉ số đặc thù có trị số từ -
1 đến +1, trong đó -1 là chỉ có nhập khẩu, xuất khẩu không đáng kể; +1
là trường hợp ngược lại; trị số 0 chỉ trường hợp xuất nhập khẩu gần như
bằng nhau.
[35] Nguyễn Phương Hoa, “Quan hệ Trung Quốc – ASEAN năm
2000” - Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3 (37), tháng 6/ 2001, trang
48.
[36] “Japan Times nói về ASEAN - Trung Quốc”, Tài liệu của Sứ
quán Việt Nam tại Osaka, ngày 15/ 11/ 2002.
[37] “Quan hệ thương mại Việt Nam và Trung Quốc: hiện tại và
triển vọng” – Báo Thương mại, số 22&23, ngày 20 – 24/ 2/ 2003, trang
20.
[38] GS. TS. Nguyễn Thị Mơ, “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
trên lĩnh vực ngoại thương: nhìn lại 10 năm và triển vọng” - Tạp chí
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 235 -
Nghiên cứu Trung Quốc số 6 (40), tháng 3/ 2001, trang 36.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
[39] “Việt Nam hướng tới Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc”, Bộ Tài chính Việt Nam (www.mof.gov.vn), ngày 4/ 11/
2002.
[40] Đ.Đ - V.P., “Giao thương với Trung Quốc bao giờ mới không
bị động?”– Tin đã đưa bởi trang web www.sinoviet.com do Cục xúc tiến
thương mại hai nước Việt Nam và Trung Quốc là VISTA và GXSTI
cùng xây dựng, ngày 28/ 8/ 2003.
[41] Vũ Phương, “Nhìn lại tình hình đầu tư trực tiếp của Trung
Quốc tại Việt Nam 10 năm qua (11/ 1991 – 11/ 2001) – Tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc, số 2 (42), tháng 4/ 2002, trang 31.
[42] “Thêm 48 dự án đầu tư của doanh nghiệp Trung Quốc”, Thời
báo kinh tế Việt Nam số 193, ngày 3/ 12/ 2003, trang 4.
[43] Nguyễn Ngọc Mạnh, “Trung Quốc có thể trở thành động lực
tăng trưởng mới ở Châu Á?” – Thông tin Tài chính số 15, tháng 8/ 2003,
trang 27.
[44] “Đưa hàng Việt Nam vào Trung Quốc vẫn còn nhiều cơ hội”,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 236 -
Báo Sài gòn tiếp thị, ngày 18/ 7/ 2002.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
[45] Lê Quang Lân, “Chương trình thu hoạch sớm ASEAN - Trung
Quốc: Doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng gì?” – Thời báo kinh tế
Việt Nam, số 139, ngày 20/ 11/ 2002, trang 16.
[46] Hà Nguyễn, “Thực hiện chương trình thu hoạch sớm với
Trung Quốc: xuất khẩu hải sản sẽ có lợi thế” – Báo Doanh nghiệp, số 39
(25/ 9 – 1/ 10/ 2003), trang 8.
[47] Anh Thư, “Tham gia ACFTA là chuẩn bị gia nhập WTO” –
Tạp chí Công nghiệp Việt Nam, số 16 (1 – 15/ 9/ 2002), trang 48.
[48] “Triển vọng thành lập ACFTA”, Tham luận của ông Trần Đức
Minh, Phó tổng thư ký Ban thư ký ASEAN, tại Hội thảo khu vực về
“Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam
và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh,
ngày 21/ 6/ 2002.
[49] “Đánh giá tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc đến ngành nông nghiệp Việt Nam” - Tham luận của Bà
Phạm Thị Tước, Vụ phó Vụ Kế hoạch và Quy hoạch, Bộ Nông nghiệp &
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 237 -
phát triển nông thôn tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác
kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel,
CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002.
[50] “ACFTA và tác động đối với ngành công nghiệp Việt Nam” –
Tham luận của Ông Lê Minh Đức, Viện nghiên cứu chiến lược chính
sách công nghiệp Việt Nam tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và
thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ
hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns
Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002.
Tài liệu tham khảo khác
1. Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc
(FAACCEC), (bản tiếng anh) – Ban thư ký ASEAN
(www.aseansec.org).
2. John Lawrence Avilla, “Torn between two lovers: ASEAN and its
evolving economic relations with China and Japan” - PASCN
Discussion Paper No. 2002-06.
3. Summary Report, ASEAN - China Dialogue: “The Challenges of
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 238 -
Cooperation”, 15 & 16/ 2/ 2002, ASEAN Secretariat.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 4. Chuyên đề Kinh tế Việt Nam và Thế giới (Thời báo kinh tế Việt
Nam) các năm 2000 – 2001; 2001- 2001; 2002 – 2003.
5. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế: số 4 (47) – tháng 8/ 2002; số 2 (51) –
tháng 4/ 2003.
6. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới: số 6/ 2002.
7. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc: số 1 – tháng 2/ 1999; số 6 – tháng
12/ 1999; số 3 – tháng 6/ 2001; số 6 – tháng 12/ 2001; số 1 – tháng
2/ 2002; số 2 – tháng 4/ 2002; số 6 – tháng 12/ 2002; số 1 – tháng 2/
2003; số 4 – tháng 8/ 2003.
8. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á: số 3 – tháng 6/ 2003.
9. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á: số 2, 5/ 2002.
10. Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương: số 4 – tháng 12/ 1999;
số 1 – tháng 2/ 2002; số 4 – tháng 8/ 2002; số 1 – tháng 2/ 2003.
11. Thông tin Thương mại – Bộ thương mại: số ra các ngày 16/ 9/ 2002;
4/ 11/ 2002; 24/ 2/ 2003.
12. Tạp chí Kinh tế và dự báo: các số 4, 5 / 2002.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 239 -
13. Tạp chí Công nghiệp: số 16/ 2002; số 7/ 2003.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 14. Các trang web:
http://www.aseansec.org/ http://www.mofa.gov.vn
http://www.china.org.cn http://www.mot.gov.vn
http://www.chinadaily.com.cn http://www.mof.gov.vn
http://peopledaily.com.cn http://www.dei.gov.vn
http://www.mofcom.gov.cn http://www.vista.gov.vn
htpp://www.xinhuanet.com http://www.vnagency.com.vn
http://www.chinaview.cn http://vneconomy.com.vn
http://www.sinoviet.com http://vnexpress.net
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 240 -
http://vninvest.com
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các khu vực mậu dịch tự do ở Đông Á
Năm Thành viên và quy chế
1. Các khu vực mậu dịch tự do đã có hiệu lực
Khu vực mậu dịch tự do
1992 10 nước thành viên ASEAN
ASEAN (AFTA)
Hiệp định mậu dịch tự do
2001 Có hiệu lực tháng 1/ 2002
Singapore - New Zealand
Hiệp định đối tác kinh tế
2002 Có hiệu lực tháng 11/ 2002
Nhật Bản- Singapore
Hiệp định mậu dịch tự do
Ký kết tháng 6/ 2002 và có hiệu
giữa Singapore và Hiệp hội 2002
lực tháng 1/ 2003
thương mại tự do Châu Âu
2. Các hiệp định đang được đàm phán, nghiên cứu và xem xét
Được đưa ra tại cuộc gặp thượng
Khu vực mậu dịch tự do
2000 đỉnh ASEAN + 3 (Trung Quốc,
Đông Á
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 241 -
Nhật Bản, Hàn Quốc)
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Được thực hiện trong vòng 10
năm theo thoả thuận đạt được
Khu vực mậu dịch tự do trong cuộc gặp thượng đỉnh
2001
ASEAN - Trung Quốc ASEAN -Trung Quốc (hiệp định
khung được thông qua tháng 11/
2002)
Được thực hiện trong vòng 10
Sáng kiến đối tác kinh tế
năm theo thoả thuận đạt được
chặt chẽ hơn giữa Nhật Bản 2002
trong cuộc gặp thượng đỉnh
và ASEAN
ASEAN -Nhật Bản
Xem xÐt mét hiÖp ®Þnh trong cuéc
Hiệp định thương mại và đầu
2002 gÆp thîng ®Ønh ASEAN – Ên
tư ASEAN – Ấn §é
§é
Singapore: Australia, Canada,
Mehico, Đài Loan, Mỹ.
Các hiệp định mậu dịch tự
Thái Lan: Australia, ấn Độ, Nhật
do song phương
Bản.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 242 -
Trung Quốc: Hồng Kông, Ma
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Cao.
Philippines: Nhật Bản, New
Zealand, Mỹ, Panama, Singapore.
Nhật Bản: Mehico, Philippines,
Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan.
Nguồn: Báo cáo của JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản),
thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), tháng
1/ 2003.
Phụ lục 2: Các nội dung cơ bản của một số FTA
Mỹ – NAFTAMỹ – MERCOSURFTAACanada Mehico EU AFTA
ANZCERT Israel Jordan - Chile - Chile Mehico
A
Loại bỏ
thuế quan * * * * * * * * * *
Cấm các
hạn chế * * * * * * *
số lượng
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 243 -
Các biện
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam pháp tự vệ *
* * * * * * *
Chống phá
* giá và thu * * * * * *
đối kháng
Các nguyên
* tắc về xuất * * * * * * * * *
xứ
Đánh giá
* * * * * * * * thuế quan
và thủ tục
hải quan
Đầu tư * * * * * * * *
Dịch vụ * * * * * * * * * *
Đánh giá
* * * * * * * tiêu chu
và
hợp chuẩn
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 244 -
(MRAs)
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Vệ sinh
* * * * * * * dịch tễ
Mua sắm
* * * * * * * * chính ph
Quyền sở
* * * * * * * * Hữu trí tuệ
* * * * * Cạnh tranh *
Giải quyết
* * * * * * * * * tranh ch
Điều khoản
* * * cán cân
thanh toán
quốc tế
Các ngo
* * * * * * * lệ chung
Hợp tác
* * kinh tế v *
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 245 -
kỹ thuật
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Các uỷ ban
* * * * * * hỗn hợp
Thương
* mại điện tử
Đi lại của
* * * * * thể nhân
Môi trường + * +
Lao động + * +
* : các mục có trong văn bản chính
+ : các mục không có trong văn bản chính nhưng có trong các hiệp định bổ
trợ
Nguồn: Báo cáo “Thực trạng của các FTA chính và các phân tích từ
khía cạnh luật pháp”, trang 15 – Trung tâm thương mại và đầu tư Nhật
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 246 -
Bản (JMCTI), Tokyo, 2000.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Phụ lục 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN và Trung Quốc
(1997 - 2001)
Đơn vị: triệu USD
Nước 1997 1998 1999 2000 2001
Brunei
701.7 573.3 596.0 600.2 243.5
Darussalam
Campuchia -14.7 230.4 214.0 179.3 113.0
Indonesia 4,677.0 -356.0 -2,745.0 -4,550.0 -3,277.0
Lào 86.3 45.3 51.5 33.9 23.9
Malaysia 6,324.0 2,714.0 3,895.3 3,787.6 553.9
Myanmar 387.2 314.5 253.1 254.8 123.0
Philippine 1,249.0 1,752.0 578.0 1,241.0 1,792.0
Singapore 10,746.0 6,389.0 11,803.2 5,406.6 8,608.8
Thái Lan 3,626.0 5,143.0 3,561.0 2,813.0 3,759.0
Việt Nam 2,587.0 1,700.0 1,483.9 1,289.0 1,300.0
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 247 -
ASEAN 30,369.5 18,505.5 19,691.0 11,055.4 11,940.1
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
China 44,237.0 43,751.0 40,319.0 40,772.0 46,846.0
Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2002
(http://www.unctad.org/Templates/WebFlyer.asp?intItemID=2110&lang
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 248 -
=1).
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Phụ lục 4: Thương mại của Trung Quốc với những đối tác chủ yếu
(1999 - 2001)
Đơn vị: Tỷ USD
1999 2000 2001
Giá Tốc Giá Tốc Giá Tốc độ
trị độ trị độ trị tăng
tăng tăng trưởng
thươn trưởng thươn trưởng thươn (%)
g (%) g (%) g
mại mại mại
(tỷ (tỷ (tỷ
USD) USD) USD)
Trung Quốc 360.65 11.3 474.3 31.5 509.7 7.5
1 7
Nhật Bản 66.17 14.2 83.17 25.7 87.75 5.5
Mỹ 61.43 12.0 74.47 21.2 80.49 8.1
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 249 -
EU 55.68 13.9 69.04 24.0 76.63 11.0
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Hồng Kông 43.78 -3.6 53.95 23.3 55.97 3.7
ASEAN * 27.04 14.9 39.52 45.3 41.62 5.3
Hàn Quốc 25.04 17.7 34.50 37.8 35.91 4.1
Đài Loan 23.48 14.5 30.53 30.1 32.34 5.9
Australia 6.31 25.0 8.45 33.9 9.00 6.4
Nga 5.72 4.4 8.00 39.9 10.67 33.3
Canada 4.77 9.2 6.92 44.9 7.38 6.7
* : Số liệu ASEAN năm 1999 không bao gồm Campuchia.
Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc (theo “Triển vọng của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học
viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo
khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao
Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 250 -
Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Phụ lục 5: Thương mại của Trung Quốc với từng nước ASEAN
Đơn vị: triệu USD
1999 2000 2001
Tổng XK NK Tổng XK NK Tổng XK NK
Trung Qu27,202 12,275 14,927 39,522 17,341 22,181 41,615 18,385 23,229
Singapore8,563 4,502 4,061 10,821 5,761 5,060 10,934 5,792 5,143
Malaysia 5,279 1,674 3,606 8,045 2,565 5,480 9,425 3,220 6,205
Indonesia4,830 1,779 3,051 7,464 3,062 4,402 6,725 2,837 3,888
Thái Lan 4,216 1,436 2,780 6,624 2,243 4,381 7,050 2,337 4,713
Philippine2,287 1,379 908 3,142 1,464 1,677 3,566 1,620 1,945
Việt Nam1,318 964 354 2,466 1,537 929 2,815 1,804 1,011
Myanma 508 407 101 621 496 125 632 497 134
Campuchia160 104 56 224 164 59 240 206 35
Bruney 8 8 0 74 13 61 165 17 148
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 251 -
Lào 32 22 10 41 34 6 62 54 7
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc (theo “Triển vọng của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học
viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo
khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao
Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 252 -
Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002).
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Phụ lục 6: Tỷ lệ FDI từ ASEAN trong tổng FDI vào Trung Quốc
9.3
10
8.1
7.6
7.6
7
6.9
8
6.1
5.5
6
Đơn vị: %
%
3.6
4
2.5
2.1
2
0
91
92
93
94
95
96
97
98
99
00
01
N¨ m
Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC)
(theo “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”,
Tham luận của Li Wei, Học viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế
Trung Quốc” tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức
của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh
tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 253 -
Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002).
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Phụ lục 7: Tác động của ACFTA tới các nền kinh tế ASEAN và
Trung Quốc theo mô hình CGE
Bảng 1: Tác động của ACFTA tới GDP của khu vực
Đơn vị: %
Tác động của ACFTA
ACFTA
tới Tự do hoá thương
Tự do hoá thương
GDP mại
mại
Nước và tích luỹ vốn
Trung Quốc 0.076 0.441
ASEAN 0.229 2.077
ROW (Phần còn lại của thế
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 254 -
giới) -0.004 -0.075
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng 2: Tác động của ACFTA tới mức độ thịnh vượng của khu vực
Đơn vị: %, triệu USD
(Các con số trong ngoặc đơn là các biến số tương đương tính bằng triệu
USD)
Tác động của ACFTA
ACFTA
Tự do hoá Tự do hoá thương
thương mại mại và tích luỹ vốn Nước
0.37 0.59
Trung Quốc
(3,274) (5,271)
0.96 2.25
ASEAN
(5,54) (13,044)
ROW (Phần còn lại của thế -0.02 -0.07
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 255 -
giới) (-4,533) (-14,426)
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 256 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng 3: Tác động của ACFTA tới xuất khẩu của khu vực
Đơn vị: %
Tác động của ACFTA
ACFTA
Tự do hoá thương
Tự do hoá
mại
Nước thương mại
và tích luỹ vốn
Trung Quốc 3.04 2.45
ASEAN 4.28 1.99
ROW (Phần còn lại của thế
giới) -0.01 -0.10
Bảng 4: Tác động của ACFTA tới nhập khẩu của khu vực
Đơn vị: %
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 257 -
Tác động của ACFTA
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ACFTA
Tự do hoá thương
Tự do hoá
mại
thương mại Nước
và tích luỹ vốn
3.61 Trung Quốc 3.40
4.89 ASEAN 3.31
ROW (Phần còn lại của thế
giới) -0.13 -0.16
Nguồn: “Luận đàm về việc thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông Á và
các hệ quả của nó” – Tham luận của Inkyo Cheong, Viện chính sách
kinh tế Hàn Quốc (KIEP) tại hội thảo “Những thuận lợi và thách thức
của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh
tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam phối hợp với Quỹ Hanns Seidel,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 258 -
CHLB Đức đồng tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30/ 8/ 2002.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Phụ lục 8: Tác động của ACFTA đến cơ cấu xuất khẩu của ASEAN
và Trung Quốc theo mô hình GTAP
Bảng 1: Tác động của ACFTA đến cơ cấu xuất khẩu của ASEAN
sang Trung Quốc
Đơn vị: triệu USD
Indone Malay Philipp Singap Thái Việt
Tổng
sia sia ine ore Lan Nam
129.5
Thực phẩm -5.57 -4.86 42.05 -1.27 -6.02 153.89
6
Dầu thực vật 42.97 505.54 4.21 34.87 2.83 20.88 611.30
290.7
Nông phẩm khác 139.26 145.65 12.27 72.91 30.08 690.94
7
Khai khoáng 55.91 25.72 52.18 18.86 9.89 12.28 174.84
Dệt may và quần 1698.
735.35 465.62 68.54 101.93 9.39 3079.60
áo 77
164.8
Hoá chất 94.75 186.37 14.54 369.29 9.05 838.89
9
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 259 -
Xe máy 287.91 618.62 5.03 755.72 60.11 150.29 1877.68
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Máy móc, thiết
230.2
28.02 495.07 58.82 1344.15 0.30 2156.64
8 bị điện
323.7 Hàng chế tạo
1281.84 773.63 77.34 948.33 44.50 3449.37
3 khác
Các ngành hàng
-4.34 -4.07 -4.17 -9.21 -3.06 -3.72 -28.57
khác
3207.2 2907. 13004.5
2656.10 330.81 3635.58 267.03 Tổng
9 77 8
Bảng 2: Tác động của ACFTA đến cơ cấu xuất khẩu của Trung
Quốc sang ASEAN
Đơn vị: triệu USD
Indone Malay Philipp Singap Thái Việt
Tổng
sia sia ine ore Lan Nam
Thực phẩm 58.75 163.54 82.93 117.12115.82 31.96 570.12
Dầu thực vật 42.39 1.64 0.67 6.09 10.67 0.10 61.56
Nông phẩm khác 31.08 11.47 14.47 80.36 40.32 5.00 182.70
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 260 -
Khai khoáng 18.03 1.90 0.00 -0.68 13.54 0.23 33.03
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Dệt may và quần
402.76 307.61 622.66 58.62869.89240.71 2502.25
áo
Hoá chất 97.98 105.69 179.24 13.94196.81 31.32 624.97
Xe máy 74.44 45.67 173.97 54.82357.69 50.78 757.37
Máy móc, thiết
114.31 361.36 813.43 -12.15794.09 80.26 2151.31
bị điện
Hàng chế tạo
527.94 453.95 1169.78 329.84742.79499.15 3723.45
khác
Các ngành hàng
3.92 3.50 0.01 -4.02 -1.46 5.31 7.26
khác
1456.3 3140.1 10614.0
1371.60 3057.16 643.94 944.82 Tổng
3 6 2
Nguồn: Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế
(ASEAN – China Expert Group on Economic Cooperation), “Xây dựng
quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21”,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 261 -
Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org), tháng 10/ 2001.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Phụ lục 9: Các thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc giai
đoạn 1986 - 1998
Đơn vị: Tỷ USD
Hàn Đài
Hồng Cana ASEA Châu Austral
Nhật Mỹ Đức Quố Loa
Kông da N á ia
c n
1986 33.8 15.3 8.5 3.4 0.8 1.0 n.a. 5.9 60.9 0.7
1987 37.4 16.2 7.7 3.3 0.8 1.1 n.a. 5.9 61.8 0.8
1988 40.8 16.7 7.1 3.1 0.6 0.9 n.a. 5.6 64.1 0.9
1989 48.0 15.9 8.4 3.1 0.6 0.9 n.a. 5.8 64.5 0.9
1990 42.9 14.5 8.3 3.3 0.6 0.7 0.5 6.0 71.8 0.7
1991 44.7 14.2 8.6 3.3 0.7 0.8 0.8 5.8 74.2 0.8
1992 44.3 13.7 10.1 2.9 0.6 0.8 0.8 5.0 71.9 0.8
1993 24.0 17.2 18.5 4.3 0.7 1.3 1.6 5.1 57.3 1.2
1994 26.7 17.8 17.7 3.9 0.4 1.2 1.9 5.3 60.7 1.2
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 262 -
1995 24.7 19.1 16.8 3.8 0.3 1.0 n.a. 6.0 61.9 1.1
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
1997 24.0 17.4 17.9 3.6 5.0 1.0 1.9 6.9 59.6 1.3
1998 21.1 16.1 20.7 4.0 3.4 1.2 n.a. 6.0 53.4 1.5
Nguồn: Lee and Abeysinghe (1999) (theo Th.S. Trương Mai Hương,
“Trung Quốc gia nhập WTO và ảnh hưởng đối với các nước ASEAN” -
Chuyên đề Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Ngoại
Thương, số quý IV/ 2001, trang 63.)
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 263 -
n.a. : không có số liệu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Phụ lục 10: Những thị trường xuất khẩu và nguồn nhập khẩu chủ
yếu của Việt Nam năm 2000
Thị trường xuất % tổng Nguồn % tổng
khẩu xuất khẩu nhập khẩu nhập khẩu
Nhật 18.1 Singapore 17.7
Trung Quốc 10.6 Nhật 14.4
Australia 8.8 Đài Loan 12.1
Singapore 6.1 Hàn Quốc 11.1
Đài Loan 5.2 Trung Quốc 9.1
Nguồn: The Economic Intelligent Unit, 2002 (theo Nhóm chuyên gia
ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế (ASEAN – China Expert
Group on Economic Cooperation), “Xây dựng quan hệ kinh tế ASEAN -
Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21”, Ban thư ký ASEAN
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 264 -
(www.aseansec.org), tháng 10/ 2001.)
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
MỤC LỤC
Lời nói đầu ............................................................................................ 1
Chương 1: Quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN
- Trung Quốc (ACFTA) ........................................................................ 6
1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA .......................... 6
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do
(FTA) trên toàn cầu .......................................................................... 6
1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của
khu vực kinh tế năng động ASEAN. .............................................. 20
1.1.3. Những thành tựu hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc ....... 34
1.2. Sự hình thành ACFTA ............................................................... 54
1.2.1. Các mốc thời gian chính ....................................................... 54
1.2.2. Nội dung cam kết ................................................................. 61
Chương 2: Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc tới các quốc gia thành viên ....................................................... 77
2.1. Cơ hội ....................................................................................... 77
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 265 -
2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn .......................... 77
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
2.1.2. Tạo ra vị thế mới về chính trị trong các vòng thương lượng,
đàm phán đa phương toàn cầu ...................................................... 105
2.1.3. Tạo ra môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác ................. 110
2.2. Thách thức ............................................................................... 114
2.2.1. Loại hình tổ chức của ACFTA ........................................... 114
2.2.2. Tình trạng phân hóa hai cực ............................................... 116
2.2.3. Cạnh tranh .......................................................................... 117
2.2.4. Yếu tố chính trị .................................................................. 136
Chương 3: Việt Nam và ACFTA ..................................................... 147
3.1. Quan hệ hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc ........... 147
3.1.1. Hợp tác chính trị, ngoại giao .............................................. 148
3.1.2. Hợp tác thương mại ............................................................ 149
3.1.3. Hợp tác đầu tư .................................................................... 158
3.2. Tác động của ACFTA đối với Việt Nam. ................................ 160
3.2.1. Cơ hội đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA ................. 160
3.2.2. Thách thức đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA .......... 178
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 266 -
3.3. Một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vào ACFTA188
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
3.3.1. Chuyên môn hoá sản xuất và chế biến những mặt hàng xuất
khẩu mà Việt Nam có năng lực cạnh tranh hơn so với Trung Quốc189
3.3.2. Thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng cường tự do hoá thương mại
và xúc tiến đầu tư ......................................................................... 195
3.3.3. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại ......................... 200
3.3.4. Phát huy lợi thế về vị trí địa lý để nâng cao kim ngạch
thương mại song phương, trở thành đầu cầu và cửa ngõ của Trung
Quốc ở thị trường ASEAN ........................................................... 205
3.3.5. Tiến hành đàm phán với Trung Quốc để được hưởng các
điều kiện ưu đãi hơn trong việc mở cửa thị trường và thực hiện
nguyên tắc tối huệ quốc cũng như trong việc cung cấp hỗ trợ kinh
tế kỹ thuật .................................................................................... 209
3.3.6. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nước
ASEAN khác ............................................................................... 211
3.3.7. Tích cực hợp tác với với các nước trong khối ASEAN để đi
đến nhất thể hoá thị trường khu vực nhằm cạnh tranh với thị
trường Trung Quốc. ..................................................................... 215
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 267 -
Kết luận ............................................................................................. 223
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................... 228
Chú thích: ....................................................................................... 228
Tài liệu tham khảo khác ................................................................. 238
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương
- 268 -
Phụ lục ............................................................................................... 241