Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU

Trong những năm 1990, tốc độ toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh

tế đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng gây ra sự lo ngại rộng rãi

trong nền kinh tế thế giới. Đây là những đặc điểm quan trọng nhất của

sự phát triển của xã hội loài người trong thế kỷ 20, một xu hướng không

thể đảo ngược vào thế kỷ 21. Những đặc điểm này dẫn tới những mối

quan hệ gần gũi hơn giữa tất cả các nước và khu vực cũng như sự phụ

thuộc lẫn nhau và cạnh tranh lớn hơn trên quy mô toàn cầu. Vì vậy, liệu

một nước có thể duy trì được tăng trưởng kinh tế liên tục và lành mạnh

hay không được quyết định bởi việc nước này có thể đối phó lại với xu

hướng phát triển kinh tế thế giới đúng lúc và điều chỉnh hướng phát triển

của mình.

Trong bối cảnh sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng sâu sắc ở

tầm khu vực và toàn cầu và việc các nước ASEAN đã gần thực hiện

xong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), câu hỏi đặt ra là liệu

ASEAN sẽ đi theo định hướng hội nhập khu vực nào sau AFTA. Trong

khi đó, mối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc ngày càng

phát triển, việc Trung Quốc gia nhập WTO, những gần gũi về địa lý và

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 1 -

văn hoá giữa ASEAN và Trung Quốc, thì sự lựa chọn thiết lập một Khu

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc – ACFTA (ASEAN –

China Free Trade Area) có thể là một câu trả lời về một trong những

định hướng hợp tác phát triển kinh tế tiếp theo của ASEAN.

Thật vậy, ASEAN và Trung Quốc là những nước đang phát triển

và đang ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau song cùng đang

phải đối mặt với những cơ hội và thách thức trong một thế giới đang

thay đổi nhanh chóng. Việc thành lập một hiệp định thương mại tự do và

tăng cường quan hệ song phương là một quyết định sáng suốt của hai

bên trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới. Trong bối

cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại và nhiều năm suy thoái của

cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

- Trung Quốc sẽ đặc biệt có lợi đối với tiềm năng tăng trưởng kinh tế

của hai bên. Hơn nữa, điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng nhằm

bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu vực và cho phép ASEAN và Trung

Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thương mại quốc tế. Bên

cạnh những cơ hội đó, việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc trong vòng 10 năm tới chắc chắn sẽ tạo ra nhiều thách thức

lớn đối với các nước tham gia, đặc biệt đối với các thành viên mới của

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 2 -

ASEAN trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những cơ

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hội và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là

một trong những vấn đề có tính thời sự và có ý nghĩa thiết thực trong bối

cảnh hiện nay để có thể giúp các nước thành viên, nhất là Việt Nam, có

thể chuẩn bị đầy đủ để tham gia có hiệu quả vào Khu vực mậu dịch tự

do này.

Do vậy, em mạnh dạn chọn đề tài "Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của

Việt Nam” với mong muốn đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ những

mảng sáng tối của bức tranh kinh tế các nước ASEAN nói chung và Việt

Nam nói riêng trong bối cảnh một khu vực mậu dịch tự do được thiết lập

giữa ASEAN và Trung Quốc, từ đó giúp Việt Nam hội nhập thành công

vào khu vực này.

Khoá luận sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu bao

gồm phương pháp lý luận biện chứng, phương pháp nghiên cứu tài liệu,

có sự tổng hợp, phân tích và so sánh, nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần

nghiên cứu.

Bố cục của khoá luận, ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 3 -

liệu tham khảo và Phụ lục, bao gồm 3 chương chính:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Chương 1 phân tích những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và tóm tắt quá trình hình thành

khu vực này, đồng thời khái quát hoá những nội dung cơ bản nhất của

Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc

(FAACCEC).

Chương 2 đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức nói chung

của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với các nước

thành viên.

Chương 3 là chương cuối cùng, tập trung vào những tác động của

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với Việt Nam, từ đó

đưa ra một số kiến nghị để thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào Khu

vực mậu dịch tự do này.

Dựa trên cơ sở nghiên cứu tài liệu và tiến hành tổng hợp, phân tích,

so sánh, khoá luận đã có những cố gắng nhất định nhằm đưa ra một cái

nhìn tổng quan về những cơ hội và thách thức đối với các nước thành

viên, đặc biệt là đối với Việt Nam, một khi Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc được thành lập, từ đó đưa ra một số đề xuất để

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 4 -

tăng cường sự hội nhập của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do này.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Tuy vậy, do tính mới mẻ của đề tài cũng như những hạn chế về

thời gian, kiến thức và tài liệu nghiên cứu, khoá luận không thể tránh

khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của của

các thầy cô và các bạn. Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến

cô giáo, Tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh, đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho

em trong suốt thời gian thực hiện khoá luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn

đến các cô, chú và anh, chị đang công tác tại Vụ hợp tác kinh tế đa

phương (Bộ Ngoại giao), Trung tâm thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu tư,

Trung tâm thông tin tư liệu thuộc Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung

ương (CIEM), và Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đã giúp đỡ em

hoàn thành khoá luận này.

Hà nội, tháng 12/ 2003

Sinh viên

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 5 -

Đinh Thị Việt Thu

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHU VỰC MẬU DỊCH

TỰ DO ASEAN - TRUNG QUỐC (ACFTA)

1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA

1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA)

trên toàn cầu

Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi chưa từng thấy trong

nửa cuối những năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã

được toàn cầu hoá mạnh mẽ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI), sự sáp nhập và mua lại (M&As) xuyên biên giới và thông qua các

kênh giao dịch quốc tế khác nhau. Cùng với cuộc cách mạng công nghệ

thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã được thiết lập ở các lĩnh vực

như kiểm soát quản lý, quản lý công nghệ, nội địa hoá và mối quan hệ

giữa các hãng, tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài và sử dụng các chính

sách thương mại quốc tế.

Mục đích và nội dung của các thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA)

cũng đã thay đổi mạnh mẽ. Trong quá trình hình thành khu vực mậu

dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Liên minh Châu Âu (EU) vào nửa đầu

những năm 1990, cuộc thảo luận kinh tế về những quan điểm thuận và

chống PTA phần lớn chỉ giới hạn ở những đánh giá mang tính lý thuyết Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 6 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam và chiêm nghiệm về sức sáng tạo thương mại của J. Viner [1] và các tác

động méo mó của thương mại. Tuy nhiên, không khí xung quanh ý

tưởng chủ nghĩa khu vực đã thay đổi mạnh mẽ vào nửa cuối những năm

1990.

Một đối tác tích cực là EU. Sau khi hoàn thành sự hội nhập sâu sắc

giữa các nước thành viên, EU bắt đầu đàm phán một loạt khu vực mậu

dịch tự do (FTA – Free Trade Area) với một số thành viên của Hội đồng

thương mại tự do Châu Âu (EFTA), với các nước Đông Âu và các nước

ven Địa Trung Hải. Các đối tác tích cực khác là những nước tương đối

nhỏ bao gồm Mehico, Chile và Singapore. Những nước này đã đàm

phán và ký kết một số FTA với cả những nước trong khu vực cũng như

những nước cách xa về địa lý. Bị kích thích bởi các bước phát triển này,

trong suốt những năm 80, Mỹ đã tích cực theo đuổi khả năng thành lập

khu vực mậu dịch tự do với các nước khác ở khu vực Châu Á - Thái

Bình Dương. Bước đi đầu tiên của nước này là việc đưa ra đề nghị thành

lập khu vực mậu dịch tự do với Australia. Năm 1987, Mike Mansfield -

đại sứ Mỹ tại Nhật Bản đã đưa ra đề nghị nghiên cứu khả năng thành lập

Khu vực mậu dịch tự do Mỹ – Nhật Bản. Năm 1989, báo cáo cuối cùng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 7 -

về “Sáng kiến ASEAN – Mỹ” đã được cùng nghiên cứu và đưa ra kêu

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam gọi thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Mỹ. Gần đây

hơn, năm 1997, Mỹ đã đưa ra đề nghị thành lập khu vực mậu dịch tự do

P5 (Pacific 5 – nhóm 5 nước ở Thái Bình Dương, bao gồm Australia,

Chile, New Zealand, Singapore và Mỹ). Sang đến năm 2002, quá trình

thành lập các khu vực mậu dịch tự do đã được Mỹ đẩy mạnh. Ngoài

những FTA với Mehico, Canada, Jordan và Israel, trong năm 2003, Mỹ

đã ký FTA với Singapore, Chile và các hiệp định khung về thương mại

và đầu tư với Thái Lan, Philippines và Indonesia. Đầu tháng 6/ 2003,

Mỹ cũng bắt đầu thương thảo để ký FTA với Liên hiệp quan thuế miền

nam châu Phi (gồm các nước Nam Phi, Boswana, Lesotho, Namibia và

Swaziland). Ngoài ra, Mỹ cũng đang xem xét khả năng ký kết FTA với

Colombia và Bahrain (xem bảng 1).

Bảng 1: Các khu mậu dịch tự do lớn của 1 số nước

Các khu mậu dịch tự do đã ký kết

EC/ EU * Singapore Mehico Chile Mỹ

Mỹ và Canada Malta, Cyprus,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 8 -

(NAFTA), EU, Canada, Andora, Thổ Nhĩ

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

EFTA, Chile, Mehico, Kỳ, Thuỵ Sỹ,

Israel, Các nư Trung Mỹ (Costa Canada và Liechtenstein,

New Zealand, thuộc khối tam Rica, El Mehico Ireland, Norway,

Nhật Bản, giác phía bắc Salvador, (NAFTA), Séc, Hungary, Ba

EFTA (El Salvador, Honduras, Israel, Jordan Lan, Slovak,

Honduras, Guatamela, Rumania, Bulgaria,

Nicaragoa), Nicaragoa), Lithuania, Estonia,

Dominica, Venezuela, Latvia, Faeroes,

Nicaragoa, Columbia, Slovenia, Mehico,

Costa Rica, Equdor, Chile, Palestine,

Bolivia, G3. MERCOSUR, Tunisia, Israel,

Peru, Bolivia Jordan

Các khu mậu dịch tự do đang đàm phán hay có kế hoạch bắt

đầu đàm phán

Mü, Mehico, MERCOSUR,

Singapore Chile, FTAA, Canada, C¸c n­íc khèi Mü, EU, EFTA,

Singapore Australia Andean (Bolivia, Hµn Quèc, Panama,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 9 -

Columbia, Peru, Cuba, MERCOSUR

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Venezuela)

C¸c khu mËu dÞch tù do ®ang ë giai ®o¹n ®Ò xuÊt

NhËt, New NhËt, Singapore, Pacific 5 Chile, EU, Hàn

Zealand Pacific 5 Quốc, Pacific 5

Nguån: Bé Kinh tÕ, Th­¬ng m¹i vµ C«ng nghiÖp NhËt B¶n (METI),

2001, http://www.meti.go.jp/policy/trade-policy/epa/html.

Theo Sách trắng về thương mại quốc tế của JETRO (Tổ chức xúc

tiến thương mại Nhật Bản), cho đến tháng 5/ 2003 đã có khoảng 250

hiệp định mậu dịch tự do (FTA) song phương và khu vực đã được thông

báo cho GATT/ WTO, trong đó có 130 hiệp định được thông báo sau

tháng 1/ 1995. Khoảng trên 170 FTA đang có hiệu lực và 70 FTA khác

đã có hiệu lực mặc dù chưa được thông báo cho WTO. Dự kiến đến cuối

năm 2005, sẽ có 300 hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực

có hiệu lực [2]. Chính tổng giám đốc WTO Sapuchai Panitchpakdhi

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 10 -

cũng phải thừa nhận xu thế đàm phán hiệp định mậu dịch tự do song

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phương và khu vực đã trở nên phổ biến, và nghi ngại rằng xu thế này có

thể phá vỡ các hoạt động đa phương trong khuôn khổ WTO [3].

Ở khu vực Đông Á, tính đến tháng 12/ 2002 chỉ có 4 khu vực như

vậy được ký kết (tham khảo Phụ lục 1), nhưng điều cần nói là xu hướng

này mới chỉ xuất hiện ở Đông Á từ năm 1999. Vào cuối năm 1998, Hàn

Quốc đã đề nghị Nhật Bản nghiên cứu khả năng thành lập khu vực mậu

dịch tự do giữa hai nước. Tháng 9/ 1999, Singapore đã nhất trí với New

Zealand về việc bắt đầu đàm phán thành lập khu vực mậu dịch tự do,

nước này cũng đưa ra đề nghị tương tự đối với các nước Chile, Mehico

và Hàn Quốc. Tháng 10 năm đó, Singapore đã đưa ra đề nghị thiết lập

quan hệ giữa Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với Hiệp định

quan hệ kinh tế gần gũi hơn giữa Australia và New Zealand (CER).

Tháng 11 năm đó, Singapore bắt đầu đàm phán với Chile và tháng 12,

nước này đề nghị đi đến một hiệp định với Nhật Bản.

Chỉ đến năm 1999 và 2000, các cuộc đàm phán và nghiên cứu ở

cấp chính phủ mới thật sự có được động lực, và đi tiên phong là

Singapore khi nước này đưa ra sáng kiến đàm phán và nghiên cứu về

khu vực mậu dịch tự do với một loạt các nước khác trong khu vực. Khái

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 11 -

niệm về khu vực mậu dịch tự do đại Đông Á (EAFTA) đã được đưa ra

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 tổ chức vào tháng 12/

2000 và các nước đã đi đến nhất trí thành lập một nhóm nghiên cứu về

vấn đề này. Năm 2001, Singapore và New Zealand đã đạt được thoả

thuận và đó là khu vực mậu dịch tự do đầu tiên ở Đông Á phù hợp với

Điều 24 của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Tháng

11 năm đó, ASEAN và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận về nguyên tắc

đối với việc thành lập 1 khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN

và Trung Quốc trong vòng 10 năm.

Lý do khiến cho hàng loạt FTA nói trên được ký kết là bởi lẽ

thực tế đã cho thấy, ở một mức độ nhất định, nguồn lợi mà FTA

mang lại cho các quốc gia là rất lớn:

Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, các FTA gần như bao gồm toàn

bộ các lĩnh vực trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên:

không chỉ thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu

tư liên quan đến thương mại, … mà cả các vấn đề khác như du lịch,

thương mại điện tử, doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát thanh truyền hình …

(tham khảo Phụ lục 2). Với phạm vi bao quát rộng như vậy, FTA sẽ đem

lại nhiều lợi ích như mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo công ăn việc làm,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 12 -

xúc tiến đầu tư và chuyển giao công nghệ, tăng cường đàm phán đối với

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam một nước thứ ba. Hơn thế nữa, tự do thương mại thông qua FTA sẽ càng

làm tăng sức cạnh tranh của các nhà xuất khẩu và các tổ chức thương

mại của các nước thành viên, tạo điều kiện cho họ dễ dàng thành công

trong các vòng đàm phán đa phương. Với ý nghĩa như vậy, FTA chính là

cánh cửa để một nước hội nhập thương mại với thế giới, khởi đầu cho

quá trình tự do hoá cạnh tranh, từ đó các nước có nhiều cơ hội để lựa

chọn đối tác thích hợp.

Thứ hai, mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn rất nhiều so

với WTO, với những ưu đãi cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới tự

do hoá tối đa và triệt tiêu hoàn toàn những trở ngại đối với thương mại

hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, đặc biệt là vấn đề triệt tiêu thuế suất nhập

khẩu xuống 0% và các ưu đãi mở cửa thị trường đầu tư. Ngoài ra, bản

chất của các FTA không chỉ đơn thuần là việc tự do hoá thương mại, mà

còn bao gồm cả việc hợp tác trong tất cả các lĩnh vực ngoài thương mại,

ví dụ: hợp tác trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong

việc phát triển công nghệ thông tin, đơn giản hoá thủ tục hải quan, xúc

tiến thương mại và đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, … Nói

cách khác, do hầu hết các FTA, đặc biệt là những FTA mới được ký kết

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 13 -

gần đây, đã đa dạng hoá nội dung bên cạnh nội dung loại bỏ thuế quan

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam và tự do hoá khu vực dịch vụ nên mỗi khi con đường đa phương bị tắc

nghẽn hay cản trở, các nước liền tìm đến những dàn xếp song phương

hay khu vực.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là các FTA luôn đi ngược

lại với tiến trình của các vòng đàm phán đa phương, bởi cho đến nay vẫn

chưa có nghiên cứu nào chứng minh được các Khu vực mậu dịch tự do

hỗ trợ hay ngăn cản tự do hoá thương mại trên phạm vi toàn cầu. Nhưng

có thể thấy thành viên của hai khối mậu dịch tự do lớn nhất là EU và

NAFTA đều là thành viên của WTO mà nguyên tắc cơ bản của tổ chức

này là tối huệ quốc (không phân biệt đối xử) được nêu rõ ở điều khoản I,

nên khả năng các FTA ngăn cản tiến trình tự do hoá toàn cầu là khó xảy

ra.

Thật vậy, tuy GATT và WTO đề cao nguyên tắc không phân biệt

đối xử trong ngoại thương nhưng vẫn có những điều khoản cụ thể cho

phép các thành viên tham gia FTA, với điều kiện phải thông báo về

những FTA đó. Điều 24 của GATT quy định về việc thành lập và hoạt

động của FTA và liên hiệp thuế quan đối với trao đổi hàng hoá. Điều 5

của GATS (Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ) cho phép lập các

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 14 -

FTA về trao đổi dịch vụ. Ngoài ra còn có một điều khoản đặc biệt cho

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phép ký kết FTA về trao đổi hàng hoá giữa các thành viên là nước đang

phát triển. Các quy định này có thể không bắt buộc trong các vụ giải

quyết tranh chấp nhưng có tác dụng như là nguyên tắc ứng xử ở một

chừng mực nào đó. Tuy nhiên, còn vượt xa phạm vi của những điều

khoản này là việc không tồn tại bất kỳ một quy định chính sách nào khác

được quốc tế thừa nhận. Vì thế, các thoả thuận khu vực có thể chứa

đựng hầu hết các vấn đề vượt xa thương mại hàng hoá và dịch vụ. Nói

cách khác, ở một mức độ nhất định, các FTA có tính bổ sung cho WTO

trong việc tự do hoá thương mại. Chính vì vậy, giới học giả Nhật cho

rằng các FTA nên theo mô hình WTO – cộng, nghĩa là bao gồm nhiều

lĩnh vực hơn và mức độ sâu rộng hơn. Tại Hội nghị thách thức và cơ hội

đối với việc hợp tác khu vực APEC ngày 16/ 5/ 2003 tại Tokyo (Nhật

Bản), Đại sứ Singapore tại Nhật Bản cũng nêu rõ: “Tự do hoá thương

mại theo WTO không có được nhiều bước tiến trong những năm gần đây

do WTO có quá nhiều thành viên. Trong bối cảnh như vậy, các hiệp định

tự do khu vực và song phương sẽ là cơ chế bổ sung tốt cho tiến trình đa

phương” [3]. Như vậy, FTA là cách tiếp cận tốt thứ nhì đối với tự do hoá

mậu dịch nhưng là giải pháp khả thi nhất trong một thế giới đa dạng.

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 15 -

Tuy nhiên, FTA chỉ trở thành những viên đá lát đường cho toàn cầu hoá

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khi nó phải đảm bảo rằng ảnh hưởng do thương mại tăng lên (trade

creation) lớn hơn ảnh hưởng do thương mại giảm đi (trade diversion)

[1]. Đến khi đó, FTA sẽ có thể trở thành một đòn bẩy thúc đẩy chủ nghĩa

đa phương và tự do thương mại toàn cầu và cuối cùng, chủ nghĩa khu

vực mới sẽ đi vào liên kết kinh tế theo chiều sâu.

Một điểm lợi nữa của FTA là trong quá trình hình thành mạng lưới

các FTA, mối liên hệ với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cải cách

kinh tế trong nước đã đặc biệt được chú trọng. Các FTA được xem như

là các công cụ chính sách để giới hạn hay thúc đẩy cải cách trong nước

cũng như thu hút FDI hơn là trông chờ có được các tác động trực tiếp to

lớn của giảm thuế quan. Trên thực tế, Mehico đã được hưởng những tác

động tích cực rõ ràng của NAFTA đối với cả việc thu hút FDI và việc

giới hạn cải cách cơ cấu trong nước. Các nước Đông Âu đã cố gắng giới

hạn quá trình chuyển đổi mạnh mẽ các hệ thống kinh tế của họ và một số

nước trong số họ đã rất thành công trong việc thu hút FDI.

Thêm vào nữa, các nước đã bắt đầu cảm nhận được rằng cái giá

của việc không phải là thành viên của bất kỳ thoả thuận khu vực nào là

có thật. Giá ở đây gồm sự mất đi thế đàm phán trong các cuộc đàm phán

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 16 -

đa phương, bỏ lỡ các cơ hội hưởng lợi từ bên ngoài và sự chậm trễ nói

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu hoá. Mehico, Chile

và Singapore muốn rằng họ trở thành trung tâm mạng lưới FTA và

hưởng lợi ích của sự kết nối. Một nước trung tâm có các lợi thế tiềm

năng đối với các nước khác ở đầu bên kia trong việc hình thành các

luồng thương mại và mạng lưới sản xuất thông qua FDI. Một tài sản

quan trọng của các thoả thuận FTA trong bối cảnh này là một nước (ví

dụ Mehico) có thể ký kết một FTA mới (ví dụ với EU) mà không cần

thay đổi bất cứ thoả thuận FTA cũ nào (ví dụ NAFTA).

Nói tóm lại, chính do những lợi điểm kể trên mà việc mở rộng liên

kết, thiết lập các Khu vực mậu dịch tự do đã trở thành hướng đi được

các nước chú trọng nhằm khai thác tốt nhất lợi thế so sánh của từng quốc

gia, tạo ra sân chơi hấp dẫn đầy tiềm năng đáp ứng lợi ích của tất cả các

bên có liên quan.

Tuy vậy, các FTA cũng đặt ra 1 số vấn đề đáng quan tâm:

Thứ nhất, các chính phủ hiện theo đuổi FTA như là 1 công cụ

trong chính sách thương mại gồm nhiều tầng nấc đan xen nhau, gồm cả

song phương, khu vực và đa phương. Đối với từng chính phủ, chính

sách này đòi hỏi rất nhiều nguồn lực, kể cả con người và vật chất, do đó

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 17 -

có thể trở thành gánh nặng, nhất là đối với các nước đang phát triển; còn

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đối với WTO, quá nhiều FTA mà không có sự điều phối thoả đáng thì

điều này có thể đe dọa sẽ làm đổ vỡ tiến trình Doha. Chính vì vậy, Tổng

giám đốc WTO, Tiến sĩ Sapuchai Panitchpakdhi, đã phải thừa nhận

rằng: “FTA là con dao hai lưỡi và là nguyên nhân làm chậm tiến trình

toàn cầu hoá” [4].

Thứ hai, hầu như tất cả các FTA hình thành trong thời gian gần

đây đều có nội dung toàn diện, không chỉ giải quyết các rào cản tại biên

giới quốc gia như các FTA truyền thống mà còn bao trùm các lĩnh vực

dịch vụ và sở hữu trí tuệ, đặc biệt cả đầu tư và thương mại điện tử, … là

những lĩnh vực chưa có quy định quốc tế chung. Câu hỏi đặt ra là liệu

các cam kết mang tính ràng buộc trong những lĩnh vực mới đó có thật sự

phù hợp và thuận lợi, hay trên thực tế chúng lại đặt ra những rào cản mới

cho các nước bên ngoài và tác động tiêu cực đến tiến trình đàm phán đa

phương về các lĩnh vực này. Ngoài ra, còn phải kể đến những vấn đề

truyền thống đặt ra cho FTA nói chung, nhất là về khả năng tác động

giảm bớt thương mại của các nước không tham gia FTA.

Thứ ba, nhiều nước tham gia FTA dường như chỉ nhằm mục đích

tự vệ để tránh bị gạt ra ngoài, chứ hoàn toàn không theo 1 chiến lược bài

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 18 -

bản, khiến tình hình FTA nói chung trên thế giới ngày càng phức tạp,

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đặc biệt tại Đông Á. Nhật Bản và Malaysia cách đây không lâu còn rất

bàng quan, giờ đã trở thành những nước ráo riết tìm kiếm FTA song

phương, chủ yếu vì lo ngại các nước khác có FTA sẽ chiếm mất thị

trường truyền thống của họ.

Thứ tư, mặc dù các FTA song phương nhìn chung đều mang tính

mở cửa hơn so với WTO, song vẫn không giải quyết được những lĩnh

vực hoặc những ngành hàng nhạy cảm của từng nước. Nông – lâm – ngư

nghiệp của Nhật Bản là 1 thí dụ rõ rệt nhất. Nhật Bản đã chọn Singapore

làm đối tác đàm phán FTA đầu tiên vì quốc đảo Đông Nam Á này hầu

như không xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, vậy mà xuất khẩu cá

vàng (gold fish) của Singapore vẫn là một vấn đề lớn trong tiến trình

đàm phán giữa 2 nước. Liên quan đến vấn đề này, cũng cần chỉ ra rằng

vì các FTA song phương thường được thiết kế sao cho phù hợp với điều

kiện cụ thể của hai nước liên quan, cho nên chúng rất khó có thể mở cho

các nước khác cùng tham gia, trừ khi là phải xây dựng một hiệp định

mới.

Thứ năm, liên quan đến thương mại hàng hoá là lĩnh vực quan

trọng nhất song hầu hết các FTA quy định về xuất xứ trong các hiệp

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 19 -

định thường rất khác nhau. Nếu một nước tham gia nhiều FTA song

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phương, mà quy tắc xuất xứ của một loại hàng hoá nào đó lại khác nhau

trong từng hiệp định, thì doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng đó chắc chắn

sẽ gặp nhiều khó khăn; về phía chính phủ, cơ quan hải quan cũng sẽ vất

vả.

Nói tóm lại, lợi ích của các FTA, ngay cả trong ngắn hạn, luôn gắn

liền với thương mại và đầu tư. Do đó, chừng nào lượng việc làm do đầu

tư nước ngoài tạo ra còn bù được cho những mất mát của các ngành

công nghiệp không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu thì tham gia

FTA vẫn có thể có ích cho toàn xã hội.

1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của khu

vực kinh tế năng động ASEAN.

Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hình

thành của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Tăng trưởng

kinh tế đã từng là thành tích đầy ấn tượng của Trung Quốc và phần lớn

các nước ASEAN trong 3 thập kỷ vừa qua. Cả Trung Quốc và ASEAN

đều theo đuổi chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu và đã đạt được

các tỷ lệ tăng trưởng cao hơn nhiều tỷ lệ trung bình của thế giới.

Kể từ khi mở cửa ra bên ngoài, tăng trưởng kinh tế của Trung

Quốc đạt hơn 10% hàng năm. Vào những năm 90, Trung Quốc tăng Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 20 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trưởng ở mức cao nhất trên thế giới. Tổng tiết kiệm nội địa và tổng đầu

tư trong thập kỷ cuối đạt lần lượt hơn 40% và 34% GDP. Thành tích

trong khu vực đối ngoại cũng rất gây ấn tượng, xuất khẩu tăng ở mức

trung bình hàng năm hơn 15%, dự trữ quốc tế của Trung Quốc năm 1997

đạt hơn mức nhập khẩu tương đương của 12 tháng. Vốn nước ngoài chủ

yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã tăng 275 lần trong giai đoạn từ

năm 1983 đến 1986 [5]. Thâm hụt ngân sách và tỷ lệ lạm phát khá cao

trong nửa đầu những năm 90 do sự thịnh vượng kinh tế, đã dần hạ xuống

từ năm 1996. Các yếu tố vĩ mô cơ bản (xem bảng 2), cùng với việc

không quy đổi của đồng tiền đã lý giải tại sao Trung Quốc không bị tác

động trực tiếp của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997

giống như các nước châu Á khác.

Bảng 2: Một vài chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc

Đơn vị: %

Tỷ lệ

1998* tăng 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997

trưởng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 21 -

GDP thực 3.84 9.19 14.24 13.49 12.66 10.55 9.54 8.80 7.80

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Lạm phát 3.06 3.54 6.34 14.60 24.20 16.90 8.30 2.80 -0.90

Xuất khẩu19.20 14.36 18.07 8.76 35.56 24.91 17.93 20.91

Nhập khẩu-13.28 18.47 28.32 34.06 10.38 15.52 19.52 3.73

*: cho đến tháng 11/ 1998

Nguồn: J.Lim, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và hệ luỵ của nó

đối với ASEAN” – Báo cáo nghiên cứu của Hệ thống các trung tâm

nghiên cứu APEC của Philippines (PASCN), 2001.

Từ bảng trên có thể thấy tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc

tăng khá đều qua các năm, bình quân đạt 7 – 8%/ năm, đặc biệt vào năm

1997 – 1998, trong khi các nước Châu Á đang điêu đứng vì khủng hoảng

thì Trung Quốc vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Xuất

khẩu và nhập khẩu đều có sự tăng trưởng theo hướng cán cân thương

mại ngày càng nghiêng về phía xuất khẩu. Cùng với sự tăng trưởng cao

của GDP và ngoại thương, tốc độ lạm phát cũng được điều tiết khá hiệu

quả, giảm dần qua các năm, cho thấy chính sách quản lý vĩ mô của

Trung Quốc rất tốt. Tính chung trong cả giai đoạn kể từ khi bắt đầu thực

hiện chính sách cải cách và mở cửa vào năm 1978 đến năm 2001, tốc độ

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 22 -

tăng trưởng GDP bình quân của Trung Quốc là 9.3%/ năm, và tăng

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trưởng thương mại đạt 15%/ năm. Nói cách khác, trong 23 năm qua,

GDP và ngoại thương của Trung Quốc đã tăng tương ứng 8 và 25 lần

[6]. Dự trữ ngoại tệ năm 2001 vượt 250 tỷ USD, đứng thứ hai trên thế

giới. Cơ cấu ngành nghề biến đổi nhanh: tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn

15% trong GDP, dịch vụ đã lên tới 33.6%; dự trữ lương thực, dầu thô

tăng đáng kể [7]. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ

7 thế giới tính theo tỷ giá hối đoái chính thức, và lớn thứ 2 nếu tính theo

sức mua [6]. Nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh, Trung Quốc đã giảm mạnh

được số người sống dưới ngưỡng nghèo đói. Đồng thời, Trung Quốc đã

không chỉ phát triển được nền kinh tế của mình mà còn có nhiều đóng

góp đối với các nền kinh tế Châu Á. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài

chính tiền tệ Châu Á 1997, Trung Quốc đã không phá giá đồng NDT và

do vậy đã giúp các nước bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tránh được

tình trạng phá giá để cạnh tranh, phần nào giúp các nước nhanh chóng

phục hồi sau khủng hoảng.

Bước sang năm 2002, một năm sau khi Trung Quốc chính thức gia

nhập WTO, mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều nhân tố bất lợi cho

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 23 -

sự phát triển nhưng nền kinh tế Trung Quốc vẫn có một năm đầy sức

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam sống với những thay đổi tích cực của đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu

(xem biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng các chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung

Quốc năm 2002

30.0

17.6

8.7

8.0

1.1

GDP

FDI

XuÊt khÈu

S¶n l­ î ng l­ ¬ng t hùc

Dù tr÷ ngo¹ i t Ö

Đơn vị: %

Nguồn: Cục Thống kê Trung Quốc (NBS) [8].

Từ biểu đồ trên có thể thấy, mức tăng trưởng kinh tế Trung Quốc

năm 2002 đạt 8%, cao hơn so với mức dự báo đầu năm là 7% và mức

tăng 7.3% của năm 2001. Đặc điểm của sự tăng trưởng kinh tế Trung

Quốc năm 2002 là mức tăng trưởng GDP theo quý khá đều đặn: quý I

tăng 7.6%; quý II tăng 8%; quý III tăng 8.1%. Tổng GDP trong cả năm

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 24 -

đạt 10,000 tỷ NDT, tương đương 1,248 tỷ USD [8].

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Cùng với sự tăng trưởng của GDP, kim ngạch ngoại thương của

Trung Quốc năm 2002 cũng tăng gấp khoảng 30 lần so với cách đây 24

năm, khi nước này bắt đầu cải cách và mở cửa. Năm 1978, kim ngạch

ngoại thương của Trung Quốc đạt 20.6 tỷ USD, đứng thứ 32 trong danh

sách ngoại thương toàn cầu. Năm 2001, với 509.8 tỷ USD, Trung Quốc

trở thành nước buôn bán lớn thứ 6 trên thế giới. Sau một năm gia nhập

WTO, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc năm 2002 tăng 22.3% so

với năm trước, đạt 325.57 tỷ USD, lần đầu tiên vượt ngưỡng 300 tỷ

USD. Tổng kim ngạch ngoại thương năm 2002 đạt 620.79 tỷ USD, tăng

17.6%, xếp hàng thứ 5 thế giới; trong đó thặng dư mậu dịch là 30.35 tỷ

USD, tăng 34.6 %, mức cao nhất trong 4 năm qua [9].

Thu hút vốn FDI tăng bình quân 14.2%/ năm, liên tục 9 năm liền

đứng hàng đầu các nước đang phát triển, đã có 400 trên tổng số 500

công ty hàng đầu thế giới đặt cơ sở tại Trung Quốc [7]. Trong những

năm 1980, FDI vào Trung Quốc chỉ là 2 – 3 tỷ USD/ năm. FDI chỉ bắt

đầu tăng mạnh từ những năm 1992 – 1993, Trung Quốc trở thành nước

tiếp nhận FDI lớn nhất trong số các nước đang phát triển (tham khảo

Phụ lục 3). Năm 2002, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8.7%, lần đầu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 25 -

tiên vượt Mỹ, đạt mức kỷ lục 52.7 tỷ USD, Trung Quốc trở thành nước

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất thế giới. Tính trung

bình cả giai đoạn, Trung Quốc thu hút khoảng 45 tỷ USD vốn/ năm,

đứng đầu trong các nước đang phát triển và đứng thứ hai thế giới, chỉ

sau Mỹ [6].

Sự tăng trưởng liên tục của xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước

ngoài đã đem lại cho Trung Quốc một nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào.

Tính đến cuối năm 2002, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đạt 274 tỷ

USD, tương đương tổng giá trị nhập khẩu của cả nước trong 10 tháng,

tăng xấp xỉ 30% so với mức 212.1 tỷ USD vào cuối năm 2001 [8]. Tính

trung bình trong thời gian 5 năm (1997 – 2002), dự trữ ngoại tệ của

Trung Quốc đã tăng 104.7%, từ 139.9 tỷ USD lên tới 286.4 tỷ USD, đưa

nước này trở thành nước có mức dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới,

sau Nhật Bản [10]. Nguồn dữ trữ ngoại tệ lớn có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng đối với một quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, nhất là

trong thời điểm hiện nay, khi tỷ giá hối đoái của đồng NDT trên thị

trường thế giới rất thấp và không thể chuyển đổi thành vàng được.

Bên cạnh đó, nợ nước ngoài của Trung Quốc tiếp tục giảm. Tính

đến cuối tháng 6/ 2002, số dư nợ đứng ở mức 160 tỷ USD. Số tiền gửi

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 26 -

tiết kiệm của cư dân vào cuối tháng 10/ 2002 đạt 9,200 tỷ NDT (tương

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đương 1,100 tỷ USD). Tiền gửi của cư dân tăng do thu nhập tăng nhanh:

mức GDP bình quân theo đầu người của Trung Quốc tăng từ 787 USD

năm 1999 lên 853 USD năm 2000 và đạt 961 USD năm 2002 (tăng 6%)

[8].

Cùng với Trung Quốc, các nước ASEAN cũng bắt đầu thực hiện

việc nới lỏng chính sách và các biện pháp tự do hoá trong những năm

1990. ASEAN là tổ chức đầu tiên tại Đông Á thực hiện các FTA khu

vực, đầu tiên là dưới hình thức PTA rồi sau đó là khu vực mậu dịch tự

do ASEAN (AFTA) để đáp lại các thách thức của các thị trường đang

được toàn cầu hoá nhanh chóng. Tuy khá toàn diện hơn so với PTA,

song bản chất tự nguyện của AFTA tiếp tục gạt ra ngoài những khu vực

nhạy cảm về chính trị như nông nghiệp và ô tô. Không có bước tiến hay

mục tiêu cụ thể nào được đề ra để đạt được ranh giới thời gian 15 năm

của AFTA. So với những FTA khu vực khác, như thoả thuận dày hơn

1000 trang của NAFTA, AFTA chỉ có 15 trang. Một số những người chỉ

trích ban đầu hoài nghi chủ trương “Nhất trí trước, đàm phán sau”

(AFTA – Agree first, Talk after) sẽ có hiệu quả; chỉ có ít người hy vọng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 27 -

vào thành công của AFTA.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, AFTA đã chứng tỏ rằng, tuy khởi

đầu uể oải, song nó đã có thể và sẵn sàng thích nghi với nền kinh tế thế

giới đang thay đổi liên tục cũng như những tình huống nội bộ. AFTA

trước tiên đã thay đổi tốc độ sau hai diễn biến quan trọng bên ngoài: việc

ký kết Thoả thuận chung về thuế quan và các vòng đàm phán mậu dịch

Uragoay năm 1993 và Tuyên bố Bogor năm 1994 về cam kết tự do hoá

thương mại và đầu tư của các nước thành viên APEC, lần lượt vào năm

2010 và 2020, cho các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. ASEAN

đã đẩy nhanh mục tiêu thành lập AFTA từ ngày 1/ 1/ 2005 sang ngày 1/

1/ 2003. Sự thay đổi tiếp theo là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ

năm 1997. Bất chấp những động cơ chính trị mạnh mẽ đòi đảo ngược

tiến trình tự do hoá, năm 1998, tổ chức đang phải vất vả để đối phó với

hậu khủng hoảng về kinh tế này vẫn thông qua một loạt biện pháp táo

bạo, trong đó có thoả thuận của 6 nước đầu tiên ký AFTA đẩy sớm lên

một năm nhiều khoản cắt giảm thuế quan trước đó đã được hoạch định

vào năm 2003. Hơn nữa, 5 nước ASEAN gồm Indonesia, Malaysia,

Philippines, Singapore và Thái Lan cùng ký kết Hiệp định công nghệ

thông tin (ITA) và vì thế có kế hoạch giảm thuế MFN đối với một số

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 28 -

mặt hàng có sự tăng trưởng nhanh nhất trong tổng thương mại của họ.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Như vậy, bức thông điệp của ASEAN gửi tới thế giới đầy quyết tâm và

rõ ràng: họ muốn thương mại tự do cả trong hoàn cảnh thuận lợi và khó

khăn.

Sự quyết tâm đó của ASEAN đã đem lại những kết quả đáng kể.

Mức thuế quan trung bình giữa các nước ASEAN được giảm từ 111.4%

năm 1993 xuống còn 3.2% năm 1998 [11]. Tổng số vốn đầu tư nước

ngoài ASEAN thu hút trong giai đoạn này đạt 132 tỷ USD. Đầu tư nước

ngoài vào ASEAN năm 2000 đã tăng 30% so với năm 1999, từ 21.8 tỷ

USD lên 28.4 tỷ USD [12] (tham khảo thêm Phụ lục 3).

Cùng với triển vọng về đầu tư bước đầu được cải thiện, thương mại

của ASEAN năm 2000 cũng tăng 19.9% với tổng kim ngạch xuất khẩu

đạt 423.6 tỷ USD so với 353.3 tỷ USD của năm 1999; tổng kim ngạch

nhập khẩu tăng 22.8%, đạt 360.1 tỷ USD so với 293.1 tỷ USD của năm

1999 (xem bảng 3). Xuất khẩu trong nội bộ ASEAN tăng 27%, đạt 97.8

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 29 -

tỷ USD năm 2000 [11].

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Bảng 3: Tổng giá trị ngoại thương của ASEAN (1999 – 2000)

Đơn vị: triệu USD

XUẤT KHẨU NHẬP KHẨU

Nước

Sự thay đổi Sự thay đổi

(*) 1999 2000 1999 2000

Giá trị % Giá trị %

- -

Bruney 2,240.7 2,169.1 71.6 -3.2 1,720.4 1,067.6 652.8 -37.9

48,665. 62,124. 13,458. 24,003.

Indonesia 5 0 5 27.7 3 33,514.8 9,511.5 39.6

84,287. 98,154. 13,866. 63,677. 15,969.

Malaysia 9 5 6 16.5 8 79,647.5 7 25.1

Myanmar 738.0 1,193.8 455.8 61.8 1,883.0 2,219.4 336.4 17.9

35,036. 30,742.

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 30 -

Philippines 9 38,078. 3,041.3 8.7 5 31,387.4 644.9 2.1

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

2

114,625 138,352 23,727. 110,998 134,680. 23,682.

Singapore .1 .5 4 20.7 .0 1 1 21.3

56,110. 69,254. 13,143. 48,318. 13,587.

Thái Lan 9 1 2 23.4 0 61,905.8 8 28.1

11,541. 14,308. 11,742.

Việt Nam 0 0 2,767.0 24.0 0 15,635.0 3,893.0 33.2

353,346 423,634 70,288. 293,085 360,057. 66,972.

.0 .0 0 19.9 .0 6 6 22.9 Tổng

(*): Thiếu số liệu của Campuchia và Lào

Nguồn: Hội nghị lần thứ 15 của Hội đồng AFTA về Khu vực mậu dịch

tự do ASEAN, tháng 9/ 2001 (bản tiếng anh), Ban thư ký ASEAN

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 31 -

(www.aseansec.org).

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Mặc dù năm 2000 thương mại của ASEAN tăng trưởng rất khả

quan so với thời kỳ khủng hoảng năm 1997 song bước sang năm 2001,

do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và EU cũng như sự suy

thoái của cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, xuất khẩu của ASEAN

năm 2001 giảm xuống còn 366.8 tỷ USD [13].

Năm 2002, mặc dù kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp nhưng các

nền kinh tế ASEAN vẫn đạt mức tăng trưởng khá cao. Theo đánh giá

của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),

tăng trưởng kinh tế của toàn khu vực Đông Nam Á là 4.1%, tăng khoảng

2 lần so với mức tăng 2% của năm 2001 và gần đạt mức tăng 4.6% của

năm 2000 [8] (xem biểu đồ 2).

Cùng với sự tăng trưởng của GDP, năm 2002, tổng kim ngạch xuất

khẩu của các nước ASEAN cũng tăng 2.9%, đạt trên 381 tỷ USD và

tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 2.5%, đạt trên 325 tỷ USD. Riêng quý I/

2003, tổng xuất khẩu tăng gần 15.7% so với cùng kỳ năm 2002, đạt

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 32 -

86.76 tỷ USD [14].

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2002 của các nước

ASEAN

3.6

Indonesia

3.0

Bruney

7.1

ViÖt Nam

Philippine

3.7

2.4

Singapore

5.5

Campuchia

5.1

Th¸ i Lan

4.0

Malaysia

4.1

ASEAN

2.8

ThÕ gií i

0

1

2

3

4

5

6

7

8

Đơn vị: %

Nguồn: ADB; IMF World Economic Outlook, 2002.

Thương mại nội khối ASEAN cũng có xu hướng tăng. Tuy xuất

khẩu nội khối trong 3 quý đầu năm 2002 giảm 1.5% và nhập khẩu nội

khối tăng 3% [13] song sự tăng trưởng mạnh của thương mại nội khối

trong quý 4 đã làm thay đổi cả diện mạo của ngoại thương ASEAN năm

2002. Xuất khẩu nội khối trong cả năm tăng 2.2%, đạt 86.34 triệu USD

và nhập khẩu nội khối tăng 8.1%, đạt 73.12 triệu USD [14].

Trong các đối tác thương mại của ASEAN, Mỹ, EU, Nhật Bản,

Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông) và Hàn Quốc là các thị trường

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 33 -

xuất khẩu lớn nhất của ASEAN. Về nhập khẩu thì Nhật Bản là nước

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nhập nhiều nhất từ ASEAN, sau đó đến Mỹ, EU, Trung Quốc (bao gồm

cả Hồng Kông) và Hàn Quốc. Trong 3 quý đầu năm 2002, xuất khẩu của

ASEAN sang Mỹ, EU và Nhật Bản giảm đi trong khi xuất khẩu sang

Trung Quốc và Hàn Quốc lại tăng lên rất cao, lần lượt là 18.7% và 3.3%

[13], cho thấy vai trò của Trung Quốc nói riêng và Đông Á nói chung

đối với ngoại thương của ASEAN ngày càng được nâng cao.

1.1.3. Những thành tựu hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc

1.1.3.1. Hợp tác về thương mại:

Trung Quốc coi việc củng cố quan hệ hợp tác thương mại và kinh

tế là một kênh quan trọng cho việc duy trì hoà bình và an ninh trong khu

vực. Do vậy, Trung Quốc đã và đang tích cực tham gia vào tất cả các

hình thức hợp tác kinh tế khu vực và nỗ lực nhằm mở những hướng hợp

tác khu vực mới với các nước ASEAN. Gần đây, ASEAN và Trung

Quốc đã dành được tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện các chương

trình hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là thương mại quốc tế,

một động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế của cả hai bên.

Bảng 4: Thương mại song phương giữa ASEAN và Trung

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

Quốc

Đơn vị: Tỷ USD - 34 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Tốc độ tăng trưởng Thị

Xuất Nhập Thị phần

(%) phần

Tổng khẩu khẩu của

của

kim của của ASEAN

Trung Tổng Xuất Nhập

ngạch Trung Trung trong

Năm Quốc Kim khẩu khẩu

th- Quốc Quốc thương

trong ngạch sang từ

ương sang từ mại của

thương thương ASEA ASEA

mại ASEA ASEA Trung

mại của mại N N

N N Quốc

ASEAN

1991 7.96 4.14 3.82 19.6 10.6 29.3 5.8 2.1

1992 8.47 4.26 4.21 6.4 3.0 9.9

1993 10.68 4.68 6.00 2.1 9.8 42.5

1994 13.21 6.38 6.83 23.5 36.2 13.6

1995 18.44 9.04 9.40 39.4 41.6 37.4

1996 20.40 9.70 10.70 4.6 -0.5 9.8

1997 24.36 12.03 12.33 19.4 24.0 15.2

1998 23.48 10.92 12.56 -6.2 -13.6 1.2

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 35 -

1999 27.04 12.17 14.87 14.9 11.1 18.2

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 2000 39.52 17.34 22.19

46.2 42.5 49.2 8.3 3.9

2001 41.61 18.39 23.22 5.3 6.0 4.7

Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc [16].

Bảng 4 cho thấy bình quân hàng năm từ năm 1995 đến nay, kim

ngạch ngoại thương của Trung Quốc và ASEAN tăng 15%/ năm. Khối

ASEAN đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 5 của Trung Quốc (sau

Nhật Bản, Mỹ, EU và Hàn Quốc) (tham khảo thêm Phụ lục 4) và Trung

Quốc đã trở thành thị trường lớn thứ 6 của khối ASEAN [15]. Vào năm

2000, thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đạt con số kỷ lục là 39.5

tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng là 45,3%.

Sang năm 2001, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm,

thương mại giữa hai bên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng. Thương

mại song phương tăng 5.3%, đạt 41.6 tỷ USD; trong đó xuất khẩu của

Trung Quốc sang ASEAN tăng từ 4.1 tỷ USD năm 1991 tới 18.4 tỷ USD

năm 2001 và nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN tăng từ 3.8 tỷ USD

lên 23.2 tỷ USD trong cùng thời gian đó [16] (tham khảo thêm Phụ lục

5). Cùng với sự tăng trưởng của kim ngạch thương mại song phương, cơ

cấu thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã được cải thiện từng b-

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 36 -

ước với tỷ trọng các sản phẩm mới và công nghệ cao tăng dần. Năm

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 2001, Trung Quốc đã xuất khẩu 4.7 tỷ USD sản phẩm công nghệ cao

sang ASEAN và nhập 797 triệu USD sản phẩm công nghệ cao từ

ASEAN [15].

Năm 2002, theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, tổng kim

ngạch xuất nhập khẩu giữa Trung Quốc với ASEAN đã đạt 54.77 tỷ

USD, tăng 31.7% so với năm 2001, chiếm 8.8 % tổng kim ngạch ngoại

thương của Trung Quốc (tỷ lệ này năm 1991 chỉ đạt 5.85%) [17]. Cũng

trong năm này, Trung Quốc đã tuyên bố thi hành Kế hoạch giảm nợ cho

Châu Á, theo đó sẽ giảm hoặc xoá nợ cho 6 nước Châu Á, trong đó có

Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam. Điều này là minh chứng rõ

ràng cho cơ sở và tiềm năng của sự hợp tác trong tương lai.

Trong 6 tháng đầu năm 2003, theo số liệu thống kê của Bộ thương

mại Trung Quốc (MOC) công bố ngày 17/ 8/ 2003, kim ngạch buôn bán

giữa ASEAN và Trung Quốc đạt 34.24 tỷ USD, tăng 45.3% so với cùng

kỳ năm ngoái; trong đó xuất khẩu từ ASEAN sang Trung Quốc đạt

20.47 tỷ USD, tăng 55.5% và xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN

đạt 13.77 tỷ USD, tăng 32.4%. Cũng theo dự kiến của MOC, kim ngạch

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 37 -

buôn bán ASEAN - Trung Quốc cả năm nay sẽ đạt hơn 70 tỷ USD [18].

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 1.1.3.2. Hợp tác về đầu tư:

i. Đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc:

Biểu đồ 3: Đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc giai đoạn 1991 –

2001

42.2

32.9

31.8 34.2

30.0

28.0

26.2

18.6

Đơn vị: Tỷ USD

Tû USD

10.0

2.7

0.9

45.0 40.0 35.0 30.0 25.0 20.0 15.0 10.0 5.0 0.0

91

92

93

94

95

96

97

98

99

00

01

N¨m

Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC)

[16].

Từ biểu đồ 3 có thể thấy ASEAN là một nguồn quan trọng cung

cấp FDI cho Trung Quốc. Từ năm 1991 đến 2000, đầu tư của ASEAN

vào Trung Quốc tăng trung bình 28%/ năm. Năm 1991, đầu tư của

ASEAN ở Trung Quốc chỉ là 90 triệu USD trong khi con số này đạt 4.2

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 38 -

tỷ USD năm 1998. Do cuộc khủng hoảng kinh tế, đầu tư của ASEAN ở

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Trung Quốc giảm xuống 3.3 tỷ USD và 2.8 tỷ USD vào năm 1999 và

2000 [16].

Nhờ vào sự phục hồi kinh tế, đầu tư của ASEAN ở Trung Quốc

ngày một tăng. Theo số liệu của Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế

Trung Quốc (MOFTEC), vào cuối năm 2001, tổng đầu tư của ASEAN

vào Trung Quốc bao gồm 17.972 dự án với giá trị cam kết là 53.5 tỷ

USD (chiếm 7.2% tổng FDI vào Trung Quốc), và giá trị giải ngân là

26.2 tỷ USD (6.1% tổng FDI của Trung Quốc) [16] (tham khảo Phụ lục

6). Tính đến cuối năm 2002, các nước ASEAN đã có 19,731 dự án đầu

tư tại Trung Quốc với tổng giá trị 58.09 tỷ USD [18].

Bảng 5: Đầu tư của từng nước ASEAN vào Trung Quốc

(tính đến cuối năm 2000)

N­íc Sè dù ¸n Gi¸ trÞ thùc hiÖn Giá trị cam kết

(triÖu USD) (triệu USD)

Singapore 9,122 35,381 16,992

Malaysia 2,031 4,936 2,203

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 39 -

Indonesia 760 1,591 837

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Th¸i Lan 2,880 4,971 1,994

Philippine 1,369 2,564 1,029

ViÖt Nam 373 375 86

Myanma 146 194 34

Campuchia 24 22 7

Bruney 14 36 4

Lµo 14 25 5

FDI tõ ASEAN

(®Õn hÕt n¨m 2000)

16,733 50,095 23,191

FDI từ ASEAN

(đến hết năm

17,972 53,468 26,175 2001)

Tổng FDI vào

Trung

390,025 745,391 395,223 Quốc (đến hết

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 40 -

2001)

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Nguån: Bé Ngo¹i th­¬ng vµ Hîp t¸c kinh tÕ Trung Quèc (MOFTEC)

[16].

Bảng trên cho thấy trong số các nước ASEAN, Singapore là nước

đầu tư vào Trung Quốc lớn nhất, chiếm tới gần 65% tổng FDI của cả

ASEAN vào Trung Quốc với số vốn FDI đạt 16.9 tỉ USD đến hết năm

2000, sau đó là Malaysia và Thái Lan nhưng số FDI của hai nước này

vào Trung Quốc kém hơn nhiều so với Singapore. Các nước ASEAN

còn lại có kim ngạch đầu tư vào Trung Quốc còn nhỏ, đặc biệt là đầu tư

của Campuchia, Myanmar, Lào,Việt Nam và Brunei hầu như không

đáng kể.

Theo Bộ Thương mại Trung Quốc (MOC), trong thời gian từ đầu

năm 2003 đến nay, một số nước thành viên ASEAN như Singapore,

Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines đã đầu tư vào 982 dự án ở

Trung Quốc với tổng giá trị cam kết là 2.82 tỷ USD [18].

ii. Đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN:

Về phía Trung Quốc, mặc dù đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN

vẫn ở mức thấp, chỉ đạt 135.8 tỷ USD năm 1999, chiếm gần 1% tổng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 41 -

FDI tại ASEAN (xem biểu đồ 4), nhưng đầu tư của Trung Quốc vào

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ASEAN trong những năm gần đây đã tăng nhanh với tốc độ trung bình

60%/ năm [19].

Biểu đồ 4: Tỷ lệ FDI từ Trung Quốc trong tổng FDI vào ASEAN

Đơn vị: %

1.66%

0.92%

0.45%

0.41%

0.15%

1995

1996

1997

1998

1999

Nguồn: Statistics of Foreign Direct Investment in ASEAN (Extended

Data Set); ASEAN Secretariat; World Investment Report 2001.

Theo số liệu của Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc

(MOFTEC), tổng đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN vào cuối năm

2001 bao gồm 740 dự án trị giá 1.1 tỷ USD [16] và tính đến tháng 9/

2002, Trung Quốc đã đầu tư vào 769 dự án ở các nước ASEAN với tổng

giá trị 690 triệu USD [17]. Trong thời gian 6 tháng đầu năm 2003, Trung

Quốc đã đầu tư vào 822 dự án của các nước ASEAN với tổng giá trị cam

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 42 -

kết là 1.37 tỷ USD [18].

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 43 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Trong số các nước ASEAN, nước tiếp nhận đầu tư nhiều nhất từ

Trung Quốc là Thái Lan (87.980 triệu USD), sau đó đến Campuchia,

Singapore và Indonesia (xem bảng 6). Đầu tư của Trung Quốc vào Việt

Nam, Lào và Philippines còn rất thấp so với các nước trong khu vực, đặc

biệt là Philippines với 14.600 triệu USD; tuy vậy, nếu so với tổng FDI

vào mỗi nước thì FDI của Trung Quốc lại chiếm tỷ trọng khá cao.

Bảng 6: Đầu tư của Trung Quốc vào từng nước ASEAN

(Tính đến cuối năm 2000)

Đơn vị: triệu USD

N­íc Sè dù ¸n Tæng ®Çu t­ §Çu t­ tõ

Trung Quèc

Tổng 692 892.800 458.660

Việt Nam 41 48.770 31.000

Lào 15 44.040 29.370

Campuchia 50 110.830 85.000

Myanmar 30 146.380 48.580

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 44 -

Thái Lan 219 201.050 87.980

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Malaysia 92 69.340 33.900

Singapore 161 78.350 68.620

Indonesia 50 159.070 59.620

Philippines 34 34.980 14.600

Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC)

[16].

Theo đà phát triển của kinh tế, cùng với việc nâng cao năng lực

kinh doanh của của các doanh nghiệp và sự hỗ trợ về tài chính tiền tệ và

chính sách của nhà nước Trung Quốc, sẽ ngày càng có nhiều doanh

nghiệp Trung Quốc đầu tư ra bên ngoài. Theo dự tính của Uỷ ban phát

triển mậu dịch Liên hợp quốc (UNCTAD), các doanh nghiệp Trung

Quốc đã trở thành một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất

trong các nước đang phát triển. Các nước ASEAN với vị trí địa lý láng

giềng, với lịch sử và văn hoá gần gũi với Trung Quốc, chắc chắn sẽ trở

thành một trong những khu vực chủ yếu đón nhận đầu tư từ các doanh

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 45 -

nghiệp Trung Quốc.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 1.1.3.3. Hợp tác Tiểu vùng Mekong

ASEAN và Trung Quốc đã và đang hợp tác chặt chẽ trong các

chương trình và dự án phát triển Mekong trong các khuôn khổ khác nhau

như phát triển tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS), Hợp tác phát triển lưu

vực Mekong ASEAN (AMBDC) và Uỷ hội sông Mekong (MRC), trong

đó phát triển tiểu vùng Mekong mở rộng là nội dung hợp tác then chốt

giữa Trung Quốc và ASEAN nhằm giúp các bên đối tác khai thác những

tiềm năng kinh tế đa dạng của mình và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ

sở bình đẳng, tin tưởng lẫn nhau và cùng có lợi .

Trong 10 năm vừa qua, hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong đã đạt

được nhiều kết quả quan trọng. Đã có gần 100 [15] dự án về cơ sở hạ

tầng được thực thi trong các lĩnh vực then chốt như giao thông, năng lư-

ợng, viễn thông, môi trường, du lịch, phát triển nhân lực, tạo điều kiện

thuận lợi cho việc thúc đẩy phát triển thương mại và đầu tư.

Năm 2001, tại hội nghị bộ trưởng lần thứ 10, các nước Tiểu vùng

Mekong đã thông qua chiến lược khung cho 10 năm tới của Chương

trình hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong. Các nhà lãnh đạo hợp tác kinh

tế Tiểu vùng Mekong cũng đã xác nhận lại kế hoạch hành động chiến l-

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 46 -

ược bao gồm 11 chương trình chính trong các lĩnh vực như các hành

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lang giao thông chính, các mạng lưới viễn thông, các mạng lưới điện,

đầu tư, thương mại và du lịch.

Tháng 11 năm 2002 đã diễn ra cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên về

việc tiếp tục phát triển hợp tác Tiểu vùng Mekong. Tại cuộc họp này,

Trung Quốc đã trình bày báo cáo về việc tham gia của Trung Quốc vào

việc phát triển lưu vực sông Mekong, trong đó nêu khái quát các kế

hoạch và dự án chủ yếu khai thác bồn địa Mekong của Trung Quốc. Hợp

tác tiểu vùng Mekong được đẩy mạnh sẽ có lợi cho các nước hữu quan

phát huy ưu thế riêng, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển nhanh, có lợi

cho tiến trình nhất thể hoá và rút ngắn khoảng cách giữa các nước

ASEAN, thúc đẩy kinh tế Đông Á tăng trưởng liên tục.

1.1.3.4. Hợp tác tài chính tiền tệ:

Sau khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, các nước trong khu

vực đã đánh giá rất cao vai trò của hợp tác tài chính tiền tệ. Trong khuôn

khổ 10 + 3 (ASEAN + Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), Trung

Quốc và các nước ASEAN đã tiến hành hàng loạt các biện pháp cụ thể

để tăng cường hợp tác.

Trung Quốc đã tích cực thực hiện Sáng kiến Chiang - Mai và ký

kết các hiệp định song biên về hoán đổi tiền với Thái Lan và Malaysia. Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 47 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Từ năm 2001, Chính phủ Trung Quốc đã tổ chức một số hội nghị mang

tính kỹ thuật đối với các Ngân hàng Trung ương của các nước 10 + 3 tại

Bắc Kinh và Thượng Hải.

1.1.3.5. Nông nghiệp:

Trong các năm qua, hợp tác nông nghiệp Trung Quốc - ASEAN đã

có những tiến triển tốt. Nhiều lớp đào tạo, hội thảo và hội nghị về công

nghệ trong nông nghiệp và đào tạo cán bộ đã được tổ chức tại Trung

Quốc và các nước ASEAN. Ngày 2/ 11/ 2002, Bản ghi nhớ về nông

nghiệp Trung Quốc – ASEAN đã được ký kết. Bản ghi nhớ đã tập trung

vào hợp tác nông nghiệp trung hạn và dài hạn trong những lĩnh vực như

lúa lai, nghề cá và thủy sản, công nghệ sinh học, sản phẩm và máy nông

nghiệp.

1.1.3.6. Phát triển nguồn nhân lực

Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, tạo nền

tảng cho hợp tác chung giữa ASEAN và Trung Quốc trong các lĩnh vực

khác. Phát triển nguồn nhân lực sẽ đem lại sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa

ASEAN và Trung Quốc thông qua trao đổi và liên kết giữa các chuyên

gia, quan chức. Năm 2001, Trung Quốc đưa ra đề nghị 14 dự án [20]

hợp tác trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực. Hầu hết các dự án Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 48 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam này đã bắt đầu được thực hiện và đã cho kết quả khả quan. Năm 2002,

Trung Quốc đưa ra tiếp 7 đề nghị nữa [20]. Tất cả các đề nghị này đã

được thông qua tại cuộc gặp lần thứ 4 của Uỷ ban hợp tác chung

ASEAN - Trung Quốc và hiện đang được thực hiện.

1.1.3.7. Công nghệ thông tin và liên lạc (ICT)

Trong nền kinh tế tri thức, ICT đóng vai trò chủ đạo nhằm đảm

bảo sản lượng cao giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. ASEAN và Trung

Quốc cho rằng hợp tác trong lĩnh vực ICT cần được coi là một công cụ

để rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế. Một số dự án đã được xây

dựng nhằm thúc đẩy trao đổi thông tin về xây dựng viễn thông, luật lệ và

quy định mạng, bảo mật thông tin. Bên cạnh đó, Trung Quốc luôn ủng

hộ và tham gia vào chương trình phát triển ASEAN điện tử (e-ASEAN).

Trong những năm tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác trong

việc đào tạo công nghệ thông tin cho nguồn nhân lực của các nước

ASEAN và tích cực tham gia vào việc phát triển những cơ sở hạ tầng

cần thiết để hỗ trợ cho công nghệ thông tin ở các nước ASEAN.

1.1.3.8. Giao thông vận tải:

Năm 2001, tại một loạt các hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 1, Cựu

Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã đề nghị thành lập một cơ chế Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 49 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cho các cuộc gặp cấp bộ trưởng giao thông vận tải để tăng cường liên lạc

và điều phối.

Ngày 2/ 5/ 2002, Trung Quốc và ASEAN đã đạt được thỏa thuận

về các điều kiện tham vấn cho sự hợp tác ASEAN – Trung Quốc nhằm

cải thiện giao thông đường bộ, đường biển và đường không cùng với cơ

sở hạ tầng và dịch vụ có liên quan.

Tháng 9/ 2002, tại cuộc gặp cấp bộ trưởng giao thông vận tải các

nước ASEAN và Trung Quốc được tổ chức tại Jakarta, các bên đã đi đến

hiệp định về việc tăng cường hợp tác toàn diện trong các vấn đề liên

quan tới vận tải đường bộ, đường thuỷ và hàng không. Trung Quốc đã

cam kết đầu tư 5 triệu USD để nạo vét thượng nguồn sông Mekong, tài

trợ cho 1/3 nguồn kinh phí xây dựng phần tại Lào của đường cao tốc

Côn Minh - Bangkok (tương đương với 30 triệu USD) [20]. Ngoài ra,

Trung Quốc còn hỗ trợ việc xây dựng tuyến đường sắt xuyên Á nối giữa

Côn Minh và Singapore.

1.1.3.9. Du lịch:

Du lịch giữ vai trò quan trọng trong các nền kinh tế Đông Á. Hiện

nay thị trường du lịch Trung Quốc đang tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Năm 1995, có 1.1 triệu du khách ASEAN thăm Trung Quốc; con số này Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 50 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đã tăng lên 1.8 triệu vào năm 2000 và 2 triệu vào năm 2002 [15]. Về

phần mình, các nước ASEAN cũng trở thành những điểm đến của khách

du lịch Trung Quốc với số lượng du khách ngày càng tăng mỗi năm, từ

80 vạn du khách vào năm 1995 lên 2.3 triệu vào năm 2000 [21].

Trung Quốc đã có các Hiệp định hợp tác du lịch cấp chính phủ

hoặc Bản ghi nhớ về hợp tác du lịch với nhiều nước ASEAN, trong đó

có Thái Lan, Singapore, Philippines, Việt Nam và Myanmar.

Tháng 1 năm 2002, tại Yogyakarta (Indonesia) đã diễn ra cuộc họp

đầu tiên giữa các bộ trưởng du lịch trong khuôn khổ 10+3 đánh dấu sự

khởi đầu chính thức của hợp tác du lịch trong khuôn khổ 10+3. Các

nước ASEAN đã là những thành viên tích cực tại hội chợ du lịch quốc tế

Trung Quốc tổ chức tại Thượng Hải tháng 11/ 2002.

1.1.3.10. Chính trị ngoại giao và an ninh

Về mặt chính trị ngoại giao và an ninh, các nước ASEAN và Trung

Quốc đã có truyền thống hợp tác hữu nghị lâu đời. Từ đầu những năm

90 đến nay, một số nước trong ASEAN đã lần lượt thiết lập, khôi phục

hoặc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, từ đó góp

phần mở đường hoặc khai thông cho quan hệ kinh tế và các quan hệ

khác giữa hai bên phát triển toàn diện. Giữa một số nước ASEAN và Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 51 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Trung Quốc tuy vẫn còn tồn tại một số bất đồng về biên giới lãnh thổ,

trong đó có vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, nhưng tại cuộc

gặp gỡ ở Phnompenh tháng 11/ 2002, lãnh đạo cao cấp hai bên đã ký

Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), nhằm tiến tới

xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC), mở đường cho một

giải pháp cơ bản, lâu dài đối với các tranh chấp ở biển Đông. Ngoài ra,

hai bên đã thông qua Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác

trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Gần đây nhất, tại Hội nghị cấp

cao ASEAN lần thứ 9 diễn ra vào đầu tháng 10/ 2003 tại Bali

(Indonesia), các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã thông qua

Tuyên bố chung về đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc vì hoà bình

và thịnh vượng, đồng thời Trung Quốc cũng chính thức tham gia Hiệp

ước thân thiện và hợp tác ASEAN (TAC). Điều này một lần nữa khẳng

định vài trò và uy tín ngày càng cao của ASEAN, mở ra triển vọng biến

Hiệp ước TAC thành Bộ quy tắc ứng xử giữa ASEAN và các nước ngoài

khu vực. TAC sẽ là cơ sở để giải quyết những vấn đề còn tồn tại, đồng

thời xây dựng và củng cố quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện giữa

ASEAN và Trung Quốc. Hơn thế nữa, những văn kiện trên đánh dấu sự

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 52 -

tín nhiệm về chính trị – an ninh giữa ASEAN và Trung Quốc đã phát

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam triển tới một trình độ mới, tạo cơ sở và là điều kiện đảm bảo quan trọng

cho việc thành lập khu vực mậu dịch tự do nói riêng và cho việc bảo vệ

hoà bình, ổn định ở khu vực nói chung.

Nói tóm lại, hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc đã phát triển

nhanh trong thập kỷ qua trên tất cả các lĩnh vực nhằm đạt được sự tăng

trưởng kinh tế bền vững có lợi cho cả hai bên. Trong xu hướng toàn cầu

hoá hiện nay, các thể chế thương mại khu vực đòi hỏi phải có sự hợp tác

kinh tế chặt chẽ hơn giữa các bên nhằm vượt qua thách thức và tận dụng

các cơ hội. Trong bối cảnh đó, ASEAN và Trung Quốc cần quyết tâm

đưa ra một khuôn khổ hợp tác kinh tế toàn diện và hướng về tương lai

nhằm đặt ra nền tảng pháp lý cho các hoạt động hợp tác kinh tế giữa hai

bên, bao gồm một khu vực mậu dịch tự do. Việc thiết lập Khu vực mậu

dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ mang lại những cơ hội to lớn và cả

những thách thức. Để bảo đảm thành công, ý chí chính trị là một yếu tố

quyết định, do đó cần xây dựng một lộ trình và kế hoạch hành động cụ

thể để Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sớm được thực

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 53 -

hiện theo mong muốn của các nhà lãnh đạo hai bên.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 1.2. Sự hình thành ACFTA

1.2.1. Các mốc thời gian chính

Đầu những năm 90 là giai đoạn hợp tác khu vực còn bị coi nhẹ

nhưng trong nửa cuối thập kỷ đó, các nước đã chứng kiến những động

thái thể chế hoá các dàn xếp mậu dịch tự do thông qua các khu vực mậu

dịch tự do song phương và thông qua các sáng kiến khác. Nếu như

những năm đầu thập kỷ 90 là giai đoạn Mỹ tăng cường can dự vào khu

vực này, thì nửa cuối thập kỷ chứng kiến việc tăng cường mở rộng hợp

tác khu vực thông qua nhóm ASEAN + 3 (10 nước ASEAN và Trung

Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc).

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đã làm các nước trong

khu vực nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của hợp tác kinh tế

trong khu vực. Sự hợp tác về tiền tệ Châu Á và việc tổ chức các cuộc

gặp 10 + 3 đã cho thấy, hợp tác kinh tế trong khu vực này đã trở thành

một vấn đề rất quan trọng. Theo chương trình này, nhiều kế hoạch hợp

tác kinh tế đã được đưa ra, như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Ấn Độ, Khu vực mậu

dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN –

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 54 -

Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do giữa Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Bản, Khu vực mậu dịch tự do Đông Á, … Vấn dề quan trọng nhất là

việc các cường quốc kinh tế đã bắt đầu chú trọng đến phát triển hợp tác

kinh tế khu vực. Nhật Bản, nước luôn theo hướng hợp tác thương mại đa

phương, nay đã bắt đầu đàm phán với Hàn Quốc, Singapore và Mehico

về các hiệp định thương mại song phương. Từ năm 1999, Trung Quốc

cũng đã thay đổi thái độ trước đây của mình về hợp tác kinh tế khu vực.

Thực tế là Trung Quốc đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, tạo

điều kiện để đưa hợp tác kinh tế khu vực lên mức cao hơn trên cơ sở

thương mại tự do theo quy định của WTO.

Mọi đề nghị về hợp tác kinh tế khu vực ở Đông Á đều có thể trở

thành hiện thực, nhưng đồng thời những đề xuất này cũng vấp phải

những trở ngại nhất định. Xét về mặt khả thi của các mối liên kết kinh tế

khu vực, có khả năng nhất trong giai đoạn hiện nay là quan hệ hợp tác

giữa 10 nước ASEAN và Trung Quốc. Sự thành công của mối hợp tác

kinh tế 10 + 1 này có thể sẽ được phổ biến ra các nước khác trong khu

vực Đông Á và làm đối trọng với khối Liên hiệp Châu Âu (EU) đã được

mở rộng và Khu vực mậu dịch tự do Châu Mỹ (FTAA).

Ý tưởng về việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa Trung

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 55 -

Quốc và ASEAN xuất phát từ đề xuất của Cựu Thủ tướng Trung Quốc

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Chu Dung Cơ tại Hội nghị thượng đỉnh không chính thức ASEAN lần

thứ 4 tổ chức vào tháng 11/ 2000. Trong năm này, Trung Quốc còn thoả

thuận sẽ tăng cường hợp tác và đưa ra những hạng mục hợp tác cụ thể

như khai thác sông Mekong, xây dựng tuyến đường sắt xuyên Á…

Đến năm 2001, những thoả thuận này giữa Trung Quốc và ASEAN

đã có những bước tiến mới. Trung Quốc ủng hộ nỗ lực của ASEAN thiết

lập khu vực không có vũ khí hạt nhân, xem xét ký kết Hiệp định hợp tác

hữu nghị Đông Nam Á, cam kết đầu tư 5 triệu USD để nạo vét sông

Mekong và tài trợ 1/3 chi phí xây dựng tuyến đường cao tốc Bankok -

Côn Minh. Đặc biệt, tại Hội nghị giữa những nhà lãnh đạo ASEAN -

Trung Quốc tổ chức vào ngày 6 /11/ 2001 tại Banda Seri Begawan

(Brunei), các nhà lãnh đạo Trung Quốc và 10 nước ASEAN đã đi đến

nhất trí về việc thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc

(ACFTA) trong vòng 10 năm, đồng thời chính thức uỷ quyền cho các bộ

trưởng và quan chức của hai bên đàm phán về vấn đề này.

Từ sau khi đạt được thỏa thuận thành lập ACFTA, hai bên đã nỗ

lực xúc tiến các công tác thúc đẩy tiến trình ra đời của ACFTA. Các tổ

chức như Uỷ ban đàm phán thương mại ASEAN - Trung Quốc (TNC -

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 56 -

Trade Negotiation Committee) và Hội đồng thương mại ASEAN - Trung

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Quốc đã được thành lập. Đồng thời các cuộc gặp giữa các nhà lãnh đạo

hai bên để đàm phán về phát triển hợp tác kinh tế thương mại đã diễn ra

liên tục trong năm qua như: Cuộc gặp giữa các quan chức kinh tế cao

cấp ASEAN - Trung Quốc (SEOM - Senior Economic Officials

Meeting) lần thứ 3 hồi tháng 5/ 2002 tại Bắc Kinh, Hội thảo quốc tế về

hợp tác trong thương mại, đầu tư và phát triển ASEAN - Trung Quốc

diễn ra vào tháng 6 tại Côn Minh Trung Quốc, Diễn đàn về hợp tác

ASEAN - Trung Quốc vào tháng 8 tại Kuala Lumpur (Malaysia), Hội

nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN - Trung Quốc lần thứ nhất vào tháng 9

tại Brunei, cuộc gặp giữa các quan chức kinh tế cấp cao của hai bên vào

tháng 10 tại Singapore, … Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các cuộc viếng

thăm của các nhà lãnh đạo cũng như của các nhóm khảo sát của hai bên

đến cả Trung Quốc và ASEAN để tìm hiểu tình hình thị trường và tìm

kiếm cơ hội hợp tác.

Với những nỗ lực của cả hai bên, ngày 4/ 11/ 2002, tại Hội nghị

thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 diễn ra ở thủ đô Phnompenh

(Campuchia), các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã chính thức ký

bản hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 57 -

(Framework Agreement on Asean–China Comprehensive Economic

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Cooperation - FAACCEC), mở đường cho việc thiết lập Khu vực mậu

dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) trong 10 năm tới. Đây là

một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ

ASEAN - Trung Quốc trong thế kỷ này.

 Ý nghĩa của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện

ASEAN - Trung Quốc

Trước đây, không phải không có những lo ngại về ý tưởng thành

lập khối kinh tế chung giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á

vốn có xu hướng cạnh tranh hơn là hợp tác, thậm chí còn có ý kiến cho

rằng sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc, với tỷ lệ tăng trưởng liên

tục đạt khoảng 7% [5], sẽ gây nên mối đe dọa đối với ASEAN. Trong

bối cảnh đó, theo thông lệ, người ta trông đợi rằng ASEAN sẽ dựng lên

những rào cản tự vệ để chống lại hàng hóa của Trung Quốc và triển khai

các biện pháp bảo hộ mậu dịch để đánh bật sự thách thức của Trung

Quốc. Tất nhiên, đấy là một giải pháp. Nhưng ASEAN đã chọn giải

pháp khác, mang tính thách thức hơn, đó là gần gũi hơn và mở cửa nền

kinh tế của tổ chức này với Trung Quốc trên cơ sở có đi có lại. Hơn nữa,

sau cuộc khủng hoảng 1997, e sợ bị gạt ra ngoài lề công cuộc toàn cầu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 58 -

hoá, ASEAN đã và đang nỗ lực phấn đấu trở thành khu vực kinh tế năng

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam động nhất thế giới. Thêm vào đó, Trung Quốc đưa ra những ưu tiên nhất

định – hứa hẹn mở cửa thị trường trước các nước ASEAN, đồng thời ưu

đãi các nước kém phát triển trong khối gồm Việt Nam, Lào, Campuchia

và Myanmar. Thế là ASEAN chấp thuận: “Trung Quốc đã có thiện chí,

chúng tôi cũng đáp lại” [22] – Noordin Azhari, phụ trách hợp tác kinh tế

trong Ban thư ký ASEAN đã phát biểu như vậy. Tại cuộc hội thảo

“Quan hệ đối tác kinh tế giữa ASEAN, Nhật Bản và Trung Quốc” tổ

chức vào cuối tháng 3/ 2002 tại Singapore, Giáo sư Tommy Koh, giám

đốc Viện nghiên cứu chính sách của Singapore cũng nhận định: “Trung

Quốc đã đưa ra đề nghị thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc. Đây là một động thái rất thông minh của Trung Quốc và

ASEAN đã hành động đúng khi chấp nhận đề nghị này của Trung Quốc.

Trung Quốc sẽ không coi ASEAN là một cỗ máy thân phương tây, tức là

mang tính thù địch với những lợi ích của Trung Quốc. Ngược lại, Trung

Quốc coi ASEAN là một người bạn và một Đông Nam Á thật sự mang

tính bản địa có trách nhiệm với vận mệnh của mình” [23].

Như vậy, Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN -

Trung Quốc ra đời đã đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của ASEAN

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 59 -

và Trung Quốc. Hiện nay, trong bối cảnh suy giảm của nền kinh tế thế

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giới, đặc biệt là kinh tế Mỹ, các nước ASEAN nhận thấy rằng đã đến lúc

họ không thể chỉ dựa vào xuất khẩu sang thị trường Mỹ mà cần phải

khai thác thị trường mới để phát triển kinh tế. Từ trước đến nay, Mỹ là

thị trường xuất khẩu lớn nhất của hầu hết các nước Đông Nam Á. Kim

ngạch xuất khẩu sang Mỹ luôn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các

nước ASEAN nên khi kinh tế Mỹ giảm sút thì nền kinh tế của các nước

này cũng bị suy thoái, trong khi đó Trung Quốc vẫn giữ tốc độ tăng

trưởng kinh tế đáng khâm phục. Vì vậy, các nước Đông Nam Á không

những cần điều chỉnh chính sách kinh tế mà còn cần tìm một thị trường

mới để không bị quá phụ thuộc vào nền kinh tế Mỹ. Hiệp định Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc chính là giải pháp cho vấn đề

trên. Hơn nữa, ASEAN và Trung Quốc là những nước đang phát triển và

đang ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau nhưng đang cùng

phải đối mặt với những cơ hội và thách thức của xu thế toàn cầu hoá và

khu vực hoá kinh tế một cách mạnh mẽ của thế kỷ 21 này. Các khu vực

chính trên toàn cầu đều đã thiết lập các Khu vực mậu dịch tự do như

Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ, Liên minh Châu Âu. Quan trọng hơn,

Khu vực mậu dịch tự do đã trở thành phương thức hội nhập quốc tế song

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 60 -

song với toàn cầu hoá. Vì vậy, các nước Đông Nam Á cũng cần có một

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giải pháp để đảm bảo lợi ích khu vực cũng như tránh tác động của sự

suy giảm kinh tế toàn cầu. Do đó, việc thành lập một hiệp định mậu dịch

tự do giữa hai bên và tăng cường quan hệ song phương lúc này là một

quyết định sáng suốt của ASEAN và Trung Quốc trong quá trình theo

đuổi những cơ hội phát triển mới.

1.2.2. Nội dung cam kết

Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và

Trung Quốc kí ngày 4/ 11/ 2002 gồm tổng cộng 16 điều và 4 phụ lục

kèm theo. Nội dung chính của hiệp định được chia làm 3 phần: Phần 1

(từ điều 3 đến điều 6) đề cập đến thương mại hàng hoá, thương mại dịch

vụ, đầu tư và chương trình thu hoạch sớm; Phần 2 (điều 7) là về hợp tác

kinh tế trên các lĩnh vực khác; Phần 3 (từ điều 8 đến điều 16) cũng là

phần cuối cùng gồm các quy định về khung thời gian của các chương

trình hợp tác, về chế độ đãi ngộ MFN, các ngoại lệ chung, cơ chế giải

quyết tranh chấp, kế hoạch đàm phán và một số điều khoản khác liên

quan đến sự sửa đổi, hiệu lực … của Hiệp định.

1.2.2.1. Mục tiêu của Hiệp định:

i. Tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 61 -

ASEAN và Trung Quốc;

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ii. Xúc tiến thương mại hàng hoá, dịch vụ, cũng như cơ chế đầu tư

thông thoáng, rõ ràng;

iii. Khai thác các lĩnh vực mới và thiết lập các biện pháp thích hợp cho

hợp tác kinh tế chặt chẽ hơn giữa các bên;

iv. Tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế có hiệu quả hơn của các nước

thành viên mới của ASEAN và tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách

phát triển giữa các bên.

1.2.2.2. Các biện pháp hợp tác kinh tế:

i. Tích cực loại bỏ thuế và hàng rào phi thuế đối với hầu hết thương

mại hàng hoá;

ii. Tiến tới tự do hoá thương mại dịch vụ về cơ bản tất cả các lĩnh vực;

iii. Thiết lập một cơ chế đầu tư cạnh tranh và cởi mở để tạo thuận lợi và

thúc đẩy đầu tư trong khuôn khổ FTA;

iv. Áp dụng các ứng xử đặc biệt, khác biệt và linh hoạt cho các nước

thành viên mới của ASEAN;

v. Áp dụng linh hoạt cho các bên trong đàm phán FTA đối với khu vực

nhạy cảm của lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, dựa trên nguyên

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 62 -

tắc có đi có lại và cùng có lợi;

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vi. Thiết lập các biện pháp tạo thuận lợi đầu tư và thương mại có hiệu

quả, bao gồm nhưng không hạn chế việc đơn giản hoá thủ tục hải

quan và các thoả thuận công nhận lẫn nhau;

vii. Mở rộng hợp tác kinh tế ra các lĩnh vực khác có thể đồng thuận

được của cả hai bên ASEAN và Trung Quốc, mà sẽ bổ sung vào

việc làm sâu sắc thêm liên kết đầu tư và thương mại giữa ASEAN

và Trung Quốc, hình thành nên các chương trình hành động để thực

hiện các lĩnh vực hợp tác;

viii. Thiết lập các cơ chế thích hợp nhằm mục đích thực hiện có hiệu quả

hiệp định này.

1.2.2.3. Các chương trình hoạt động

i. Thương mại hàng hoá

Bên cạnh chương trình thu hoạch sớm, các bên đồng ý sẽ tiến hành

đàm phán loại bỏ thuế quan và dỡ bỏ các quy định khác hạn chế thương

mại đối với hầu hết thương mại hàng hoá giữa các bên (ngoại trừ các

mặt hàng cần thiết phù hợp với quy định của Điều 24 (8) (b) của Hiệp

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 63 -

định chung về thương mại và thuế quan của WTO).

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Các mặt hàng thuộc chương trình cắt giảm thuế và loại bỏ thuế

quan theo điều khoản này sẽ bao gồm các mặt hàng không tham gia

chương trình thu hoạch sớm và sẽ được phân chia theo 2 danh mục:

 Danh mục mặt hàng thông thường (NT - Normal Track):

Những mặt hàng được liệt kê trong danh mục này sẽ có thuế suất MFN

áp dụng tương ứng bị cắt giảm dần hoặc loại bỏ phù hợp với lịch trình

và mức thuế suất (sẽ được các bên cùng thoả thuận) trong suốt thời gian

từ 01/ 01/ 2005 đến 2010 đối với ASEAN 6 (bao gồm Bruney,

Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) và Trung

Quốc; từ 01/ 01/ 2005 đến 2015 với ngưỡng thuế suất khởi điểm cao hơn

và bước cắt giảm khác đối với các thành viên mới của ASEAN (bao gồm

Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar). Đối với những dòng thuế đã

được cắt giảm nhưng chưa cắt giảm xuống 0% trong giai đoạn kể trên,

thuế suất của những mặt hàng đó sẽ được loại bỏ tích cực trong phạm vi

thời gian do các bên thoả thuận.

 Danh mục mặt hàng nhạy cảm (ST – Sensitive Track): Những

mặt hàng được liệt kê trong danh mục ST sẽ có thuế suất MFN áp dụng

tương ứng bị cắt giảm phù hợp với thuế suất cuối cùng vào ngày cuối

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 64 -

cùng hoàn thành cắt giảm do các bên thoả thuận; và nếu có thể áp dụng

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam được, sẽ tiến tới loại bỏ thuế trong phạm vi thời gian do các bên thoả

thuận.

ii. Thương mại dịch vụ:

Để tăng cường mở rộng thương mại dịch vụ, các bên đồng ý sẽ tiến

hành đàm phán để tích cực tự do hoá thương mại dịch vụ về cơ bản hầu

hết các lĩnh vực. Các vòng đàm phán sẽ trực tiếp đề cập đến các vấn đề:

 Cơ bản loại bỏ các đối xử phân biệt giữa các bên và nghiêm

cấm tạo ra các biện pháp phân biệt đối xử mới liên quan tới thương mại

dịch vụ giữa các bên, ngoại trừ các biện pháp được phép theo Điều

khoản V(1)(b) của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của

WTO;

 Phát triển theo chiều sâu và mở rộng phạm vi tự do hoá thương

mại dịch vụ theo hướng các nước ASEAN và Trung Quốc cam kết trong

khuôn khổ GATS;

 Hợp tác dịch vụ được mở rộng giữa các bên nhằm cải thiện tính

hiệu quả và sự cạnh tranh, cũng như làm phong phú nguồn cung cấp và

phân phối dịch vụ của các bên.

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 65 -

iii. Đầu tư

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Để thúc đẩy đầu tư và thiết lập một cơ chế đầu tư cạnh tranh, tự do,

thuận lợi và minh bạch, các bên thoả thuận:

 Tiến hành đàm phán nhằm tích cực tự do hoá cơ chế đầu tư;

 Tăng cường hợp tác về đầu tư, tạo thuận lợi cho đầu tư và cải

thiện tính minh bạch của các quy định và quy chế đầu tư;

 Đưa ra cơ chế bảo hộ đầu tư.

iv. Các lĩnh vực hợp tác khác :

5 lĩnh vực hợp tác ưu tiên được các bên đưa ra là: nông nghiệp;

công nghệ thông tin và viễn thông; phát triển nguồn nhân lực; đầu tư; và

phát triển lưu vực sông Mekong. Ngoài 5 lĩnh vực trên, hợp tác giữa các

bên sẽ được mở rộng ra cho các lĩnh vực khác, bao gồm nhưng không

hạn chế các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, du lịch, công nghiệp, giao

thông vận tải, bưu chính viễn thông, bảo hộ sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp

vừa và nhỏ (SMEs), môi trường, công nghệ sinh học, ngư nghiệp, lâm

nghiệp, khai khoáng, năng lượng và phát triển tiểu vùng.

Các biện pháp để đẩy mạnh hợp tác giữa các bên sẽ bao gồm

những biện pháp như: thúc đẩy và thuận lợi hoá thương mại hàng hoá,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 66 -

thương mại dịch vụ và đầu tư; tăng cường tính cạnh tranh của SMEs;

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thúc đẩy thương mại điện tử; nâng cao năng lực; chuyển giao công nghệ.

Các bên cũng đồng ý thực hiện các chương trình trợ giúp phát triển và

hỗ trợ kỹ thuật cho các nước, đặc biệt là các thành viên mới của

ASEAN, nhằm giúp các nước này điều chỉnh cơ cấu kinh tế và mở rộng

quan hệ thương mại, đầu tư với Trung Quốc.

v. Khung thời gian thực hiện :

Hiệp định khung quy định khung thời gian cụ thể cho mỗi chương

trình hoạt động:

 Đối với thương mại hàng hoá, các cuộc đàm phán về cắt giảm

và bãi bỏ thuế quan và các vấn đề khác như trong điều 3 của Hiệp định

sẽ bắt đầu từ đầu năm 2003 và kết thúc vào 30/6/2004 để thiết lập

ACFTA trong thương mại hàng hoá vào năm 2010 đối với các nước

ASEAN 6 và Trung Quốc, và vào năm 2015 đối với các thành viên mới

của ASEAN. Các cuộc đàm phán về Quy tắc xuất xứ đối với thương mại

hàng hoá sẽ được hoàn thành không muộn hơn tháng 12/ 2003.

 Đối với thương mại dịch vụ và đầu tư, các đàm phán về các thoả

thuận tương ứng sẽ bắt đầu vào năm 2003 và kết thúc càng sớm càng tốt

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 67 -

theo khung thời gian được các bên thoả thuận, có xét đến những lĩnh vực

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nhạy cảm của các bên và những đối xử đặc biệt, khác biệt và linh hoạt

đối với các thành viên mới của ASEAN.

 Đối với các lĩnh vực hợp tác khác, các bên sẽ tiếp tục xây dựng

cách thức và bước đi có thể chấp thuận được đối với tất cả các bên có

liên quan.

vi. Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN)

Đây là điều khoản ưu tiên đặc biệt của Trung Quốc dành cho các

nước ASEAN chưa phải là thành viên của WTO bao gồm Lào,

Campuchia và Việt Nam. Trung Quốc đồng ý dành cho các nước này đối

xử tối huệ quốc phù hợp với những nguyên tắc và cam kết của Trung

Quốc với WTO kể từ ngày kí kết Hiệp định này. Như vậy là mặc dù

chưa được gia nhập WTO, 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia vẫn được

hưởng những ưu đãi của WTO trong quan hệ với Trung Quốc. Đây là

điều kiện thuận lợi để các nước này đẩy nhanh hơn quá trình gia nhập

ACFTA, theo kịp những nước phát triển hơn trong khối.

vii. Chương trình thu hoạch sớm (Early Harvest Programme –

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 68 -

EHP):

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Đây là nội dung được đề cập kỹ nhất và cụ thể nhất trong Hiệp

định khung, cũng là một điểm đặc biệt của Hiệp định khung này. Vì như

trên đã nêu, thời gian thoả thuận hoàn thành ACFTA là trong vòng 10

năm, kết thúc vào 2010 đối với Trung Quốc và ASEAN 5 (riêng

Philippines không tham gia vào Chương trình thu hoạch sớm), vào 2015

đối với 4 nước ASEAN mới. Tuy nhiên, các bên đã linh động trong đàm

phán đưa ra một chương trình thực hiện sớm một số lĩnh vực trong

khuôn khổ hợp tác nhằm mang lại lợi ích ngay cho các bên trước thời

hạn hoàn thành ACFTA.

Nội dung chính của Chương trình thu hoạch sớm là những thoả

thuận xoá bỏ hàng rào thuế quan đối với một số mặt hàng, chủ yếu là

hàng nông sản cần thực hiện giữa các nước ngay sau khi kí kết hiệp

định. Cụ thể như sau :

 Những sản phẩm thuộc EHP : Đó là những sản phẩm thuộc mã

số HS 8/9, gồm 8 nhóm mặt hàng nông sản như :

01 Động vật sống 05 Các sản phẩm từ động vật

02 Thịt và các bộ phận nội tạng khác

03 Cá 06 Cây sống

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 69 -

04 Sữa và các sản phẩm từ sữa 07 Rau ăn

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

08 Quả ăn và các loại hạt

Tất cả các nước đều phải thực hiện EHP đối với những sản phẩm

này. Tuy nhiên, trong số những sản phẩm trên, một số nước được đưa ra

danh mục sản phẩm loại trừ (Exclusion List) được miễn đưa vào EHP.

Cho đến thời điểm ký Hiệp định, đã có 2 nước đã đàm phán xong với

các bên còn lại về danh mục sản phẩm loại trừ này, đó là Campuchia và

Việt Nam. Danh mục loại trừ của Campuchia gồm có 30 mặt hàng, trong

đó nhiều nhất là các mặt hàng thuộc mã 02, 07 và 08, chỉ có một loại

mặt hàng thuộc mã 01 và một loại mặt hàng thuộc mã 03. Danh mục loại

trừ của Việt Nam có 15 mặt hàng thuộc mã 01, 02, 04 và 08. Các nước

Brunei, Indonesia, Myanmar, Singapore, Thái Lan và Trung Quốc không

được đưa ra danh mục loại trừ. Còn lại các nước Lào, Malaysia và Trung

Quốc thì chưa hoàn thành xong việc đàm phán về danh mục loại trừ và

sẽ phải hoàn thành vào 1/3/2003.

Ngoài 8 nhóm mặt hàng nông sản trên, còn có một số sản phẩm

riêng bao gồm cả những sản phẩm công nghiệp cũng được đưa vào EHP

nhưng chỉ được áp dụng giữa Trung Quốc với từng nước ASEAN trên

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 70 -

góc độ song phương. Các nước ASEAN này đều thuộc ASEAN 6. Cho

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đến nay, chỉ có Indonesia và Thái Lan đã hoàn thành đàm phán với

Trung Quốc về các sản phẩm này.

 Mức giảm thuế:

Trừ những sản phẩm có mức thuế MFN 0% hoặc có mức thuế

được giảm xuống 0%, mức thuế vẫn sẽ giữ nguyên là 0%, còn lại tất cả

các sản phẩm thuộc chương trình EHP được chia thành 3 loại :

Loại 1: là các sản phẩm có mức thuế MFN > 15% đối với Trung

Quốc và các nước ASEAN 6, mức thuế MFN >=30% đối với các nước

thành viên ASEAN mới.

Loại 2: là các sản phẩm có mức thuế >= 5% và <= 15% đối với

Trung Quốc và ASEAN 6, mức thuế >=15% và < 30% đối với các nước

ASEAN mới.

Loại 3: là các sản phẩm có mức thuế < 5% đối với Trung Quốc và

các nước ASEAN 6, mức thuế < 15% đối với các nước thành viên

ASEAN mới.

 Lộ trình giảm thuế:

Chương trình EHP sẽ được bắt đầu thực hiện không muộn hơn

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 71 -

1/1/2004 với lộ trình cắt giảm cụ thể như sau:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Bảng 7: Lộ trình giảm thuế theo EHP đối với Trung Quốc và các

nước ASEAN 6

Kh«ng muén Kh«ng muén Kh«ng muén h¬n

h¬n 1/1/2004 h¬n 1/1/2005 1/1/2006 Lo¹i s¶n phÈm

1 ( > 15%) 10% 5% 0%

2 ( > =5%, < 5% 0% 0%

15%)

3 ( < 5%) 0% 0% 0%

Nguån: HiÖp ®Þnh khung vÒ hîp t¸c kinh tÕ toµn diÖn ASEAN - Trung

Quèc (FAACCEC), (b¶n tiÕng anh) – Ban th­ ký ASEAN

(www.aseansec.org).

Bảng 8: Lộ trình giảm thuế theo EHP đối với các nước thành viên

ASEAN mới

Bảng 8a: Các sản phẩm loại 1 - thuế suất > =30%

Không Không Không Khôn Khôn Không Không

muộn muộn muộn g g muộn muộn

Nước

hơn hơn hơn muộn muộn hơn hơn

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 72 -

1/1/2004 1/1/20 1/1/20 hơn hơn 1/1/20 1/1/201

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

05 06 1/1/20 1/1/20 09 0

07 08

Việt Nam 20% 15% 10% 5% 0% 0% 0%

Lào và

20% 14% 8% 0% 0% - -

Myanmar

Campuchia 20% 15% 10% 5% 0% - -

Bảng 8b: Các sản phẩm loại 2 - thuế suất >= 15% và < 30%

Không Không Không Không Khôn Khôn Không

muộn muộn muộn muộn g g muộn

hơn hơn hơn hơn muộn muộn hơn

Nước

1/1/20 1/1/20 1/1/20 1/1/20 hơn hơn 1/1/201

04 05 06 07 1/1/20 1/1/20 0

08 09

Việt Nam 10% 10% 5% 5% 0% 0% 0%

Lào và

10% 10% 5% 0% 0% - -

Myanmar

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 73 -

Campuchia 10% 10% 5% 5% 0% - -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Bảng 8c: Các sản phẩm loại 3 - thuế suất < 15%

Không Không Không Không Khôn Khôn Không

muộn muộn muộn muộn g g muộn

hơn hơn hơn hơn muộn muộn hơn

Nước

1/1/20 1/1/20 1/1/20 1/1/20 hơn hơn 1/1/201

04 05 06 07 1/1/20 1/1/20 0

08 09

0 – Việt Nam

10% 10% 5% 0% 0% 0%

5%

Lào và

5% 5% 0 - 5% 0% 0% - -

Myanmar

- - Campuchia 5% 5% 0 - 5% 0 - 5% 0%

Nguồn: Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung

Quốc (FAACCEC), (bản tiếng anh) – Ban thư ký ASEAN

(www.aseansec.org).

 Các quy định khác trong EHP:

Bên cạnh những thoả thuận về thuế quan đối với hàng hoá, EHP

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 74 -

còn có những quy định về nguyên tắc xuất xứ và cách áp dụng các điều

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khoản của WTO cho thương mại hàng hoá. Các bên cũng cam kết sẽ tìm

ra những biện pháp khả thi để áp dụng EHP đối với lĩnh vực thương mại

dịch vụ.

Chương trình EHP cũng đề cập đến việc thực hiện các hoạt động

hợp tác của 2 bên trên các lĩnh vực khác như dự án đường sắt nối

Singapore - Côn Minh và dự án đường cao tốc Bankok - Côn Minh theo

khuôn khổ của Chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mekong và

Chương trình Tiểu vùng sông Mekong mở rộng; các kế hoạch phát triển

trung và dài hạn của Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS); việc ký

kết Biên bản ghi nhớ về hợp tác nông nghiệp giữa các bên, …

viii. Kế hoạch đàm phán

Uỷ ban đàm phán thương mại ASEAN - Trung Quốc (TNC) sẽ tiếp

tục tiến hành các chương trình đàm phán đã đề ra trong Hiệp định

khung, và báo cáo thường xuyên về kết quả và những tiến triển trong

đàm phán của tổ chức này cho Các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) và

Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC)

thông qua các hội nghị của các quan chức kinh tế cấp cao ASEAN

(SEOM) và MOFTEC. Đồng thời, các bên cũng có thể thành lập các tổ

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 75 -

chức khác nếu thấy cần thiết cho việc hợp tác và tiến hành các hoạt động

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hợp tác kinh tế phù hợp với Hiệp định khung và các tổ chức này nếu

được thành lập cũng sẽ có nhiệm vụ giống như TNC.

Nói tóm lại, có thể khẳng định Hiệp định khung về hợp tác kinh tế

toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc kí ngày 4 / 11/ 2002 có ý nghĩa

rất quan trọng đối với tiến trình hình thành Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc. Với sự xác định rõ mục tiêu, phạm vi, biện pháp,

thời gian, thời hạn thực hiện sớm, các kế hoạch chi tiết liên quan đến

hợp tác kinh tế, các cam kết về đãi ngộ MFN cho các nước ASEAN kém

phát triển và các kế hoạch đàm phán trong tương lai về thương mại hàng

hoá, thương mại dịch vụ, đầu tư và các lĩnh vực hợp tác khác …, Hiệp

định này là cơ sở pháp lý cho sự ra đời của ACFTA hay nói cách khác là

một cơ sở bằng văn bản và bằng chứng hợp pháp của quan hệ hợp tác

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 76 -

kinh tế trong tương lai giữa ASEAN và Trung Quốc.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO

ASEAN - TRUNG QUỐC TỚI CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN

2.1. Cơ hội

2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn

Trong vòng 10 năm tới, một vòng cung rộng lớn, bao quát hầu hết

khu vực Đông Á sẽ hình thành nên một trong những Khu vực mậu dịch

tự do lớn nhất và năng động nhất thế giới, Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc dự định sẽ được

hoàn thành trong vòng 10 năm. Việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và

phi thuế quan trong khung thời gian này sẽ không gặp phải trở ngại, bởi

ASEAN đã và đang tích cực cắt giảm thuế quan theo quy định của Khu

vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA): sáu nước thành viên cũ của

ASEAN cam kết sẽ hạ mức thuế quan bình quân xuống dưới 5% vào

cuối 2003; bốn nước thành viên mới là Việt Nam, Lào, Campuchia và

Myanmar sẽ hạ mức thuế xuống dưới 5% vào cuối 2006, đồng thời sẽ bỏ

tất cả thuế quan, thực hiện mậu dịch tự do vào năm 2018. Thuế quan của

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 77 -

ASEAN hạ thấp sẽ có ảnh hưởng vô cùng thuận lợi cho việc xuất khẩu

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hàng hóa trong nội bộ khối, đồng thời tạo cơ sở cho Khu vực mậu dịch

tự do ASEAN - Trung Quốc ACFTA sớm được hình thành. Hơn thế

nữa, khả năng tiếp cận lớn hơn với người láng giềng khổng lồ Trung

Quốc có thể gây tác động kích thích tiến trình tự do hoá chậm chạp của

bản thân khu vực. Jonathan Anderson thuộc bộ phận nghiên cứu Châu Á

Thái Bình Dương của công ty UBS Securities tại Hồng Kông lập luận:

“Đông Nam Á không đưa ra bất kỳ ý tưởng gì gần với một thị trường tự

do về lao động, vốn hay hàng hoá. Nếu một FTA với Trung Quốc có thể

buộc ASEAN phải tự do hoá hơn nữa các nền kinh tế của mình và tiến

gần tới một không gian kinh tế thống nhất, điều này có thể là nguồn tạo

ra sự tăng trưởng và đầu tư mới ở trong nước, trong lĩnh vực chế tạo

cũng như trong các nguồn chủ chốt” [24].

Tuy nhiên, khái niệm “10 năm” của ACFTA chỉ là một khung thời

gian chứ không phải là một khái niệm có tính tuyệt đối, và bởi vậy rất có

khả năng là việc triển khai Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Quốc sẽ được hoàn thành trước thời hạn đã định. Ví dụ, việc triển khai

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã được đẩy nhanh so với

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 78 -

khung thời gian đã được dự kiến lúc đầu là 15 năm. Vào tháng 1/ 2002,

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Thủ tướng Thái Lan Thashin thậm chí còn gợi ý hoàn thành Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc trong vòng 2 năm.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc một khi được hình

thành nhất định sẽ phát sinh ảnh hưởng đến sự phát triển của ASEAN và

Trung Quốc, thậm chí của toàn thế giới. Về mặt kinh tế, Khu vực mậu

dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ đem lại những cơ hội tốt đẹp cho sự

hợp tác thương mại và đầu tư giữa hai bên, cụ thể là:

2.1.1.1. Tăng cường mở rộng tiềm năng thương mại

Theo những mô phỏng mà Tổ nghiên cứu hỗn hợp của Nhóm

chuyên gia về hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc (ASEAN – China

Expert Group on Economic Cooperation) đã tiến hành dựa trên Dự án

nghiên cứu về thương mại toàn cầu (GTAP – Global Trade Analysis

Project), việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc

sẽ mang lại những cơ hội lớn cho các nước tham gia với việc tạo ra một

khu vực thị trường lớn nhất thế giới với hơn 1.7 tỷ người tiêu dùng, tổng

thu nhập quốc nội vào khoảng 2 nghìn tỷ USD và tổng kim ngạch trao

đổi thương mại ước tính lên đến 1.23 nghìn tỷ USD [25]. Tuy nhiên cần

chú ý rằng mô hình GTAP không bao gồm Bruney, Lào, Campuchia và

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 79 -

Myanmar. Nếu những nước này tham gia vào khu vực mậu dịch tự do và

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nếu họ giành được lợi nhuận thì FTA với Trung Quốc sẽ càng có tính

khả thi cao hơn.

Với phương pháp cân bằng tổng quát điện toán (Computational

General Equilibrium – CGE), Viện chính sách kinh tế quốc tế Hàn Quốc

KIEP cũng đã tiến hành nghiên cứu về tác động của các khu vực mậu

dịch tự do ở Đông Á, trong đó có Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc. Theo mô hình CGE, lợi ích kinh tế sẽ không lớn nếu chỉ

tính riêng tự do hoá thương mại, nếu tính thêm các lợi ích của việc tích

luỹ vốn thì lợi ích kinh tế sẽ được mở rộng. Cụ thể, khi Trung Quốc và

ASEAN ký kết một FTA, tự do hoá thương mại sẽ làm tăng GDP của

ASEAN lên 0.23%, trong khi tác động tổng hợp của tự do hoá thương

mại và tích luỹ vốn sẽ làm tăng GDP lên 2.08%, xấp xỉ 5 lần tác động

riêng của tự do hoá [26] (tham khảo Phụ lục 7). Các kết quả này cũng

tương tự như nhận định mà Cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ

đã phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc – ASEAN tại

Singapore tháng 11/ 2000.

Qua các số liệu được nghiên cứu từ 2 mô hình GTAP và CGE, có

thể thấy, về mặt kinh tế, việc hình thành ACFTA sẽ mang lại cục diện

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 80 -

cùng có lợi cho Trung Quốc và ASEAN:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Thứ nhất, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ góp

phần tăng trưởng GDP và xuất khẩu của cả ASEAN và Trung Quốc,

nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nhờ tính cạnh tranh cao.

Theo nghiên cứu của Ban thư ký ASEAN, với việc thiết lập một

FTA song phương, GDP thực tế sẽ tăng lên đối với tất cả các nước

ASEAN và Trung Quốc (xem bảng 9).

Bảng 9: Tác động của ACFTA tới GDP thực tế theo mô hình GTAP

Giá trị tăng thêm

GDP thực tế

Nước Số tuyệt đối Số tương đối

(triệu USD)

(triệu USD) (%)

Indonesia 204,031.4 2,267.8 1.12

Malaysia 98,032.3 1,135.5 1.16

Philippines 71,167.1 229.1 0.33

Singapore 72,734.9 753.3 1.04

Thái Lan 165,516.0 673.6 0.41

Việt Nam 16,110.9 339.1 2.11

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 81 -

Trung Quốc 815,163.0 0.28

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

2,214.9

-

Mỹ 7,120,465.5 2,594.5 -0.04

-

Nhật 5,078,704.5 4,452.0 -0.09

ROW (Rest of -

World) 14,657,026.0 6,272.0 -0.05

-

Tổng 28,298,952.1 5,706.9 -0.03

Nguồn: Báo cáo của Nhóm chuyên gia ASEAN – Trung Quốc về hợp

tác kinh tế (ASEAN – China Expert Group on Economic Cooperation),

“Xây dựng quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế

kỷ 21” – Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org), tháng 10/ 2001.

Từ bảng trên có thể thấy, sau khi ACFTA được thành lập, tổng thu

nhập quốc nội thực tế của cả ASEAN và Trung Quốc sẽ tăng thêm 7.6 tỷ

USD; trong đó tổng thu nhập quốc nội của ASEAN tăng thêm 0.9%,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 82 -

tương đương với 5.4 tỷ USD. Trong số các nước ASEAN, tốc độ tăng

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lớn nhất thuộc về Việt Nam với 2.11% trong khi GDP của Indonesia lại

tăng lên nhiều nhất nếu tính theo giá trị tuyệt đối (2,267.8 triệu USD).

Trong trường hợp Trung Quốc, mặc dù GDP tăng thêm 2.2 tỷ USD

nhưng tốc độ tăng trưởng lại rất khiêm tốn, chỉ ở mức 0.28%. Tuy nhiên,

sự thay đổi về giá trị tuyệt đối hay tương đối không phải là quan trọng

mà quan trọng hơn cả là các thay đổi đó đều theo xu hướng tích cực đối

với cả ASEAN và Trung Quốc. Nói cách khác, lợi ích đầu tiên có thể

thấy được là Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ góp phần

tăng trưởng GDP thực tế của tất cả các thành viên tham gia.

Cùng với sự tăng trưởng của GDP thực tế, theo mô hình GTAP,

việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ làm

cho xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc tăng 48%, tương đương

với 13 tỷ USD, trong khi xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng

55.1%, tương ứng với 10.6 tỷ USD (xem bảng 10).

Từ bảng 10 có thể thấy trong số các nước ASEAN, các nước được

lợi nhiều nhất từ xuất khẩu là Indonesia, Malaysia, Singapore và Thái

Lan; trong khi kim ngạch xuất khẩu song phương tăng trưởng lớn nhất là

giữa Trung Quốc – Philippines và Trung Quốc – Thái Lan (tăng thêm

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 83 -

lần lượt là 3,057.17 và 3,140.16 tỷ USD tính theo giá trị tuyệt đối). Ước

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tính, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ đạt

680 tỷ USD vào năm 2005 [25].

Về thị trường xuất khẩu, ngoài thị trường xuất khẩu lớn là Mỹ,

EU, Nhật Bản, ASEAN sẽ là thị trường xuất khẩu quan trọng đối với

Trung Quốc. Về nhập khẩu, Trung Quốc cũng cần nhập khẩu nhiều

nguyên liệu thô của ASEAN để chế biến và xuất khẩu sang thị trường

thứ ba. Ước tính từ năm 2001 đến 2005, Trung Quốc sẽ nhập khẩu

khoảng 1.4 nghìn tỷ USD giá trị thiết bị, công nghệ và hàng hoá [25].

Ngoài ra, với lợi thế về vị trí địa lý, chi phí vận chuyển thấp và các yếu

tố văn hoá tương đồng, các nước ASEAN và Trung Quốc sẽ có nhiều cơ

hội hơn để trao đổi các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh của mình như sản

phẩm dầu khí, nông sản nhiệt đới, dầu thực vật, thuỷ sản, thực phẩm,

điện và điện tử gia dụng, hàng dệt may, giầy dép. Các nước ASEAN

cũng sẽ có cơ hội nhập khẩu nguyên liệu vải đầu vào để gia công xuất

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 84 -

khẩu hàng dệt may.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Bảng 10: Tác động của ACFTA tới xuất khẩu theo mô hình GTAP

Đơn vị: triệu USD

To

From Tổng Indone Malays Philippi Singap Thái Việt Trung

sia ia nes ore Lan Nam Mỹ Nhật Quốc ROW

- - - 2,656.0 1,111.0

0.00 -69.00 -117.05 106.35 141.49 -40.05 -209.99 313.66 9 -547.45 5 Indonesia

- - - 3,207.2 1,012.5

0.00 -245.11 312.71 219.41 -20.97 -416.56 246.27 8 -688.07 9 Malaysia -45.59

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 85 -

0.00 46.89 -24.97 -3.00 413.49 39.16 330.80 104.46 920.58 Philippine -2.82 16.57

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam s

-

- - 430.6 - 3,639.1

392.60 -329.26 0.00 233.84 1 -321.22 200.07 8 -745.43 938.88 Singapore -47.27

- - 2,907.7 1,996.4

101.24 0.00 -52.49 252.78 271.30 6 -525.48 7 Thái Lan -29.13 -65.56 -118.87

-18.62 -15.08 -5.69 0.00 -12.07 -19.01 267.04 -59.24 95.78 Việt Nam -10.53 -31.02

8.29 11.17 -152.88 208.02 -75.46 -1.19 0.00 123.37 -501.03 100.00 -279.71 Mỹ

-

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 86 -

-16.76 -1.68 -266.16 325.30 342.10 -23.38 393.97 0.00 -823.79 472.17 -282.43 Nhật

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

1,371. 1,456. 3,057.1 3,140. 944.8 - 6,842.1 Trung

60 34 7 643.90 16 1 -813.34 511.53 -889.91 1,557.07 3 Quốc

- -

- 2,679.2 1,360.7

-13.82 119.73 -543.70 417.50 365.92 -89.28 482.25 467.77 6 844.00 3 ROW

10,994.

Tổng 61

ROW (Rest of World): Phần còn lại của thế giới

Nguồn: Báo cáo của Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế (ASEAN – China

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 87 -

Expert Group on Economic Cooperation), “Xây dựng quan hệ kinh tế ASEAN – Trung Quốc chặt chẽ

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hơn trong thế kỷ 21” – Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org), tháng 10/ 2001.

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 88 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Theo nghiên cứu của Ban thư ký ASEAN (tham khảo Phụ lục 8),

xuất khẩu của ASEAN và Trung Quốc sẽ tăng trưởng mạnh nhất trong

các ngành hàng dệt may và quần áo, thiết bị điện, máy móc và các ngành

chế tạo khác. Cụ thể, xuất khẩu các mặt hàng chế tạo của Indonesia sang

Trung Quốc tăng thêm 1,281.84 triệu USD. Xuất khẩu các thiết bị điện

và máy móc của Singapore sang Trung Quốc cũng tăng 1,344.15 triệu

USD. Xuất khẩu dệt may và quần áo của Thái Lan sang Trung Quốc

tăng mạnh với 1,698.77 triệu USD. Về phía Trung Quốc, xuất khẩu các

mặt hàng chế tạo của Trung Quốc sang Philippines tăng thêm 1,169.78

triệu USD; trong khi xuất khẩu các thiết bị điện và máy móc sang

Philippines và Thái Lan tăng lần lượt là 813.43 và 794.09 triệu USD.

Các mặt hàng dệt may và quần áo của Trung Quốc sang hai nước này

cũng tăng trưởng rất mạnh, lần lượt là 622.66 và 869.89 triệu USD [25].

Thứ hai, Khu vực mậu dịch tự do này sẽ mang lại những cơ hội rất

lớn cho các nước tham gia với việc tạo ra thị trường cung cấp nguyên

liệu phong phú hơn cho các nhà sản xuất trong khu vực. Jonathan

Anderson, phụ trách bộ phận nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương của

công ty UBS Securities tại Hồng Kông, cho rằng tuy Trung Quốc đưa ra

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 89 -

khẩu hiệu “tất cả đều thắng” vào chính sách ngoại giao kinh tế của họ,

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam song Khu vực mậu dịch tự do này về lâu dài sẽ có lợi nhiều cho Trung

Quốc. Theo ông, “các hãng chế tạo của Trung Quốc đang hy vọng nhảy

vào các thị trường xuất khẩu của các nước Đông Nam Á và nền kinh tế

Trung Quốc cũng sẽ được lợi từ nguồn cung cấp ổn định hàng hoá và

nguyên liệu” [24].

Thật vậy, xét về chi phí lao động, mức lương ở Trung Quốc là rất

thấp (tham khảo bảng 12, phần 2.2.3.3), chỉ bằng 1/50 so với Nhật Bản

và Mỹ. Năng suất lao động trong khu vực chế tạo của Trung Quốc cũng

rất thấp – chỉ bằng 1/25 mức của Mỹ và 1/26 mức của Nhật. Vì năng

suất thấp như vậy nên nếu xem xét cơ cấu chi phí lao động trong ngành

chế tạo, lương của Mỹ chỉ cao hơn 1/3 so với Trung Quốc khi xét giá trị

sản lượng theo USD. Ngoài ra, giá trị gia tăng của ngành công nghiệp

chế tạo Trung Quốc khá thấp. Năm 2000, tỷ lệ giá trị giá tăng trung bình

của Trung Quốc chỉ là 26% - thấp hơn nhiều so với Mỹ và Nhật (tương

ứng là 49% và 43.6%) [6]. Hơn nữa, các ngành công nghiệp của Trung

Quốc phụ thuộc chủ yếu vào các công nghệ nước ngoài và chưa có

quyền sở hữu trí tuệ riêng của mình. Hầu hết các nhà máy chế tạo và

hàng xuất khẩu của Trung Quốc đều thuộc các ngành gia công chế biến

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 90 -

(trên thực tế, 55% [6] hàng xuất khẩu của Trung Quốc là sản phẩm của

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam các ngành gia công chế biến). Điều này có nghĩa là khi khu vực chế tạo

của Trung Quốc phát triển, xuất khẩu của nước này tăng, thì hàng nhập

khẩu vào Trung Quốc cũng tăng tương ứng. Tính trung bình, cứ trong

100 USD hàng xuất khẩu thì Trung Quốc cần nhập 50 – 70 USD [6]

nguyên liệu. Và như vậy có thể nói rằng Trung Quốc càng xuất khẩu

nhiều thì nước này cũng sẽ nhập khẩu càng nhiều nguyên liệu. Như vậy,

loại thương mại này không những có lợi cho Trung Quốc mà còn đem

lại nhiều lợi ích cho các nước ASEAN, ví dụ: những nước giàu nguồn

nguyên liệu như Malaysia với diện tích trồng cao su và dầu cọ vô cùng

lớn sẽ có cơ hội mở rộng xuất khẩu các mặt hàng này sang thị trường

Trung Quốc (giá trị xuất khẩu dầu cọ Malaysia sang Trung Quốc tăng

59% lên tới 60 triệu tấn trong 7 tháng đầu năm 2002 [27]). Nhu cầu lớn

về năng lượng của Trung Quốc cũng khiến nước này trở thành nước

nhập khẩu dầu lớn và Malaysia, Indonesia là những nước sẵn sàng cung

cấp cho nhu cầu này. Mức tiêu dùng của Trung Quốc cũng sẽ khiến các

nhà máy lọc dầu ở Đông Nam Á luôn luôn bận rộn. Và sự bùng nổ

trong ngành xây dựng Trung Quốc sẽ đòi hỏi một lượng gỗ nhập khẩu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 91 -

khổng lồ, một lần nữa, lại là món lợi cho Malaysia.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Thứ ba, sự hợp nhất về kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ

mang lại hiệu quả kinh tế to lớn cho các thương nhân thuộc mọi ngành

nghề và tạo nên sự liên hệ mật thiết hơn về thông tin, giao thông và mậu

dịch. Thật vậy, một thị trường lớn như vậy một mặt sẽ giúp cho các nhà

sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, mặt khác cũng có lợi cho việc hoàn

thành hệ thống phân công hợp tác sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, từ

đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hơn

nữa, một thị trường rộng lớn hơn được tạo ra bởi ACFTA sẽ cho phép

các ngành công nghiệp, đặc biệt là những ngành chỉ hoạt động trên thị

trường trong nước giảm giá sản phẩm nhờ vào việc sản xuất với số

lượng lớn. Điều quan trọng hơn là Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh hơn cho các công ty hoạt

động trong khu vực do họ đã sẵn sàng đón nhận thử thách. Với sức ép

cạnh tranh lớn hơn, các công ty hoạt động trong khu vực mậu dịch tự do

sẽ có chính sách cởi mở hơn đối với những đổi mới cũng như tăng

cường đầu tư cải tiến công nghệ, dẫn tới hiệu quả sản xuất cao hơn.

Thứ tư, Khu vực mậu dịch tự do sẽ thúc đẩy sự phân công chuyên

môn hoá sản xuất giữa các nước trong khu vực dựa trên lợi thế tương đối

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 92 -

của từng nước do nguồn lực sẽ được phân bổ hợp lý vào những nơi và

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ngành được sử dụng có hiệu quả và năng suất hơn. Mặc dù ASEAN và

Trung Quốc đang cạnh tranh nhau để giành giật thị trường nước thứ ba

và thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng xem xét cơ cấu hàng hoá xuất khẩu

của hai bên có thể thấy ASEAN và Trung Quốc có sự bổ sung lẫn nhau

về tài nguyên thiên nhiên và ưu thế thành phẩm công nghiệp.

Thật vậy, cơ cấu hàng hoá mậu dịch song phương giữa Trung

Quốc và 5 nước ASEAN năm 1998 cho thấy, hàng xuất khẩu của 5 nước

ASEAN sang Trung Quốc chủ yếu gồm thiết bị nghe nhìn điện tử

(29.98%); khoáng sản (11.18%); sản phẩm cao su (8.8%); dầu mỡ động

thực vật (8.36%) và chế phẩm giấy (6.41%). Hàng nhập khẩu từ Trung

Quốc chủ yếu bao gồm: Thiết bị nghe nhìn điện tử (41.565); sản phẩm

thực vật (8.71%); hàng dệt (8.245); khoáng sản (7.92%); kim loại và chế

phẩm kim loại (7.62%) [28]. Qua đó có thể thấy tài nguyên thiên nhiên

của hai bên có sự bổ sung lẫn nhau. Cơ cấu hàng xuất khẩu trên cũng

cho thấy tuy thiết bị nghe nhìn là sản phẩm xuất khẩu chủ yếu nhất của 4

nước ASEAN - Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines – và Trung

Quốc, nhưng ưu thế của mỗi bên hiện nay có khác nhau. Bốn nước

ASEAN nhập khẩu hàng cơ điện của Trung Quốc chủ yếu là đồ điện cơ

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 93 -

khí thông dụng, còn Trung Quốc nhập khẩu hàng cơ điện từ 4 nước

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ASEAN phần lớn lại là sản phẩm cao cấp. Về xuất khẩu hàng điện tử

công nghiệp, 4 nước ASEAN từ lâu đã tương đối có ưu thế, còn Trung

Quốc ở vào thế khá yếu, nhưng xuất khẩu đồ điện gia dụng của Trung

Quốc lại chiếm ưu thế. Hiện nay về xuất khẩu thành phẩm công nghiệp,

hàm lượng kỹ thuật của 4 nước ASEAN vẫn cao hơn Trung Quốc. Mặc

dù mấy năm gần đây, xuất khẩu hàng công nghệ cao của Trung Quốc đã

tăng khá nhanh nhưng ưu thế vẫn kém so với các nước ASEAN. Tuy

vậy, công nghệ tin học và viễn thông của Trung Quốc lại đang phát triển

khá nhanh và mạnh: Theo kế hoạch 5 năm lần thứ 10, đến năm 2005,

quy mô và dung lượng của mạng lưới thông tin và liên lạc của Trung

Quốc sẽ đạt vị trí số 1 thế giới; số lượng máy vi tính sử dụng trong nước

sẽ đạt 70 triệu chiếc và tỷ lệ dân sử dụng điện thoại sẽ đạt 40%; tỷ lệ giá

trị gia tăng của ngành công nghiệp thông tin trong GDP sẽ tăng từ 4.5%

hiện nay lên 7%; quy mô thị trường sẽ tăng gấp đôi so với năm 2000

[29]. Với xu thế đó, sản phẩm điện tử của ASEAN sẽ có rất nhiều cơ hội

để thâm nhập thị trường rộng lớn đầy tiềm năng ở Trung Quốc.

Thứ năm, do hiện nay giữa ASEAN và Trung Quốc đang tồn tại

tình trạng thiếu sự phân công phối hợp với nhau, thậm chí có sự cạnh

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 94 -

tranh tương đối lớn, nên khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Quốc được xây dựng, nó sẽ làm cho mỗi bên có thể tận dụng lợi thế so

sánh để phát triển, hình thành nên hệ thống phân công ngành nghề lấy

ưu thế cạnh tranh làm đặc trưng. Hơn nữa, nó còn giúp cho các bên

thành viên có thể điều chỉnh toàn diện cơ cấu ngành nghề của mình một

cách sâu sắc hơn ở các tầng bậc khác nhau. Và như vậy, thoả thuận lịch

sử này sẽ tạo ra bước phát triển mới cho toàn bộ khu vực, đúng như nhận

định của ông Andy Xie, chuyên viên kinh tế của tập đoàn Morgan

Stanley Dean Witter có trụ sở tại Hồng Kông: “Cả ASEAN và Trung

Quốc đều được hưởng lợi. Các nước ASEAN mạnh trong nông nghiệp,

tài nguyên thiên nhiên, chế biến lương thực. Còn Trung Quốc thì mạnh

về hàng điện tử tiêu dùng và các sản phẩm công nghệ thông tin” [15].

Thật vậy, căn cứ vào xu hướng tăng trưởng kinh tế của Trung

Quốc, có thể thấy quốc gia này sẽ trở thành một thị trường vô cùng quan

trọng cho hàng hoá toàn cầu. Do đó, dù Trung Quốc có thể trở thành một

đối thủ cạnh tranh đáng gờm thì nước này cũng đồng thời là một thị

trường rộng lớn cho hàng hoá của các quốc gia ASEAN. Trong bối cảnh

Trung Quốc ngày càng lớn mạnh và mức thu nhập được cải thiện, nhu

cầu của quốc gia này về các sản phẩm đa dạng chắc chắn sẽ tăng lên và

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 95 -

khiến họ nhập khẩu nhiều hơn. Đây là một cơ hội cho những công ty

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khôn khéo, biết tìm ra trong khu vực mậu dịch tự do những thị trường

còn bỏ ngỏ. Nguyên tắc cần nhấn mạnh ở đây là không một quốc gia nào

có thể luôn có được lợi thế so sánh đối với tất cả các mặt hàng. Bảng sau

nêu ra một số mặt hàng mà theo đó, các khu vực kinh tế của ASEAN có

thể hy vọng khai thác một khi thị trường của Trung Quốc được mở ra.

Bảng 11: Các khả năng trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và

ASEAN-5

THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÒN BỎ NGỎ

Hoa quả tươi và khô hoặc hạt

nhân tươi Sắt vụn

Động vật giáp xác và cá (tơi và

đóng hộp) Quặng bạc, platinum

Hoa quả đông lạnh Dỗu rau PHILIPPI

Đường và mật ong Động vật chế biến NES

Thức ăn gia súc Đồng

Thuốc lá sợi Máy văn phòng

Than củi, than đá Máy bán hàng chạy điện

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 96 -

Sợi thực vật (trừ sợi cotton) Máy chạy bằng điện

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Quặng thép hàm lượng cao Thiết bị viễn thông

Đồ gỗ và thiết bị in tràng

Kim loại màu phim

Quặng kim loại hàm lượng cao

Ca cao Bạc platinum

Đồ gia vị Máy văn phòng

Bơ thực vật, mỡ Thiết bị thu sóng vô tuyến

Thuốc lá sợi Thiết bị viễn thông

SINGAPO

Chất tẩy thiên nhiên Máy chạy bằng điện

RE

Dầu tinh chế Thiết bị điện ảnh

Động vật chế biến/ dầu thực

vật, … Máy ghi âm

Thiết bị in ấn

Cá và động vật giáp xác Dỗu thô và dầu tinh

Cà phê Khí gaz

INDONESI

Ca cao Dỗu rau thực vật

A

Động vật chế biến và dầu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 97 -

Đồ gia vị thực vật

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Cao su thô Xà phòng

Than củi, than đá Phân bón

Gỗ Véc ni, gỗ dán, …

Sợi tổng hợp và vải Gỗ chế biến

Đá, cát, sỏi Giấy

Kim loại màu Kính đeo mắt

Quặng kim loại hàm lượng cao Nhôm

Than, than bánh Đồ gỗ

Ca cao Vật liệu

Bơ thực vật, mỡ Véc ni, gỗ dán, …

Cao su thô Thiết bị thu sóng vô tuyến

Gỗ Thiết bị thu sóng của đài

MALAYSI

Quặng uranium, thori hàm lư-

A

ợng cao Máy ghi âm

Thiết bị viễn thông và linh

Khí gaz kiện

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 98 -

Dầu rau Máy chạy bằng điện

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Động vật chế biến và dầu thực

Máy bay… vật

Cá và động vật giáp xác Da và da đã xử lý

Đồ dùng bằng cao su Gạo

Bột phi lúa mì Ngọc trai và đá quý

Hoa quả và rau Máy văn phòng

Đường và mật ong Bộ xử lý dữ liệu tự động THÁI LAN

Cà phê Thiết bị thu sóng của TV

Cao su thô Máy chạy bằng điện

Sợi tổng hợp Chất dẻo

Đá, cát, sỏi Vàng và đồ trang sức bạc

Nguồn: Ellen H. Palanca, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và

ASEAN” - Báo cáo nghiên cứu của Hệ thống trung tâm nghiên cứu

APEC của Philippines (Philippines APEC Study Center Network -

PASCN), Manila, 2001.

Nói tóm lại, nếu Trung Quốc có thể duy trì được tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao thì nó sẽ tạo cho các nước ASEAN một thị trường

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 99 -

rộng lớn hơn, đồng thời cho phép các nước có chỗ để phân bổ lại các

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động không có sức cạnh tranh của

mình. Đặc biệt là với sự hình thành ACFTA, việc dỡ bỏ các hàng rào

cản trở thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ làm giảm chi phí

kinh doanh trong sản xuất cũng như thương mại, từ đó tăng hiệu quả

kinh tế và khuyến khích gia tăng thương mại giữa các nước trong khu

vực.

2.1.1.2. Cải thiện môi trường đầu tư

Việc tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc và việc

thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ không chỉ

đẩy mạnh hơn nữa tiến trình hợp tác thương mại ASEAN - Trung Quốc

hiện nay mà còn góp phần tăng cường và mở rộng tiềm năng đầu tư của

ASEAN và Trung Quốc, đồng thời cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn

hơn và nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN và Trung Quốc đối

với thế giới.

Thật vậy, việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Quốc trước hết sẽ thu hút thêm đầu tư của Trung Quốc vào khu vực này.

Sau nhiều năm phát triển, các doanh nghiệp Trung Quốc đã trở nên

những doanh nghiệp hùng mạnh và mang tính cạnh tranh, với lượng vốn

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 100 -

đầu tư ra nước ngoài tăng khá nhanh, đặc biệt là vào giữa những năm 90.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Các lĩnh vực đầu tư của các doanh nghiệp Trung Quốc trải rộng từ muối

tinh, sản phẩm cao su, dược phẩm và sản phẩm chăm sóc sức khoẻ, chế

biến thực phẩm, thiết bị điện gia dụng, chế biến sản phẩm lâm nghiệp,

cho tới hoá dầu, ngân hàng, bảo hiểm và vận tải đường biển. Các

phương thức đầu tư cũng đa dạng, từ đầu tư trực tiếp tới đầu tư về công

nghệ và xây dựng – vận hành – chuyển giao (BOT). Nhờ nền kinh tế

ngày càng phát triển và việc cải tổ cơ cấu kinh tế công nghiệp của Trung

Quốc, lượng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Trung Quốc

chắc chắn sẽ ngày càng tăng. Trên thực tế, chính phủ Trung Quốc có

chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư ra nước

ngoài. Trong tương lai, ASEAN sẽ là thị trường đầu tư nước ngoài ưu

tiên của các doanh nghiệp Trung Quốc do vị trí địa lý gần Trung Quốc

và những điểm tương đồng về văn hoá, đặc biệt sau khi khu vực mậu

dịch tự do giữa hai bên được thành lập. Đầu tư vốn luôn hướng tới việc

thu nhiều lợi nhuận, bởi vậy, chắc chắn các doanh nghiệp Trung Quốc sẽ

không bao giờ bỏ qua các cơ hội sản sinh ra lợi nhuận. Hơn nữa, dự kiến

tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Trung Quốc trong thập kỷ tới

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 101 -

đạt 7%/ năm [5] và việc Trung Quốc trở thành thành viên của WTO sẽ

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam mang lại nhiều cơ hội quan trọng hơn để tăng cường thương mại và đầu

tư giữa ASEAN và Trung Quốc.

Thứ hai, không chỉ các doanh nghiệp của ASEAN và Trung Quốc

sẵn sàng đầu tư nhiều hơn vào thị trường chung này mà cả các doanh

nghiệp Mỹ, EU và Nhật Bản quan tâm tới việc thâm nhập vào thị trường

Châu Á cũng sẽ mong muốn đầu tư vào thị trường chung này do các rủi

ro và bất trắc về thị trường giảm đi. Ernest Bower, Chủ tịch Hội đồng

kinh doanh Mỹ – ASEAN, nhất trí cho rằng Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc sẽ tạo ra tiềm năng cho luồng đầu tư mới tại

Đông Nam Á. Ông nhận định: “FTA Trung Quốc – ASEAN đang cuốn

hút một số thành viên của chúng tôi. Họ coi đây là một cơ hội. Chẳng

hạn như General Electric có thể vừa có một nhà máy động cơ tại Trung

Quốc vừa có một nhà máy phụ tùng tại Malaysia. Giả sử họ đóng thuế

60%. Nếu phụ tùng có thể tiến tới được miễn thuế, điều này sẽ làm tăng

sức cạnh tranh của họ trên toàn cầu” [24]. Nicholas Lardy, một chuyên

gia nghiên cứu kinh tế Trung Quốc thuộc Viện kinh tế quốc tế tại

Washington cũng cho rằng: “Để phù hợp với WTO, Trung Quốc sẽ phải

để cho các công ty nước ngoài tại các nước ASEAN xuất khẩu sang

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 102 -

nước mình. Một khi FTA này ra đời, tất cả các nhà sản xuất sẽ được tiếp

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cận như nhau” [24]. Như vậy, quá trình hội nhập của ASEAN vào Trung

Quốc sẽ thu hút thêm nhiều công ty đa quốc gia, điều mà một nền kinh

tế riêng lẻ không thể làm được. Hơn nữa, với dung lượng thị trường lớn

với tính cạnh tranh cao hơn, đầu tư nhiều hơn và hiệu quả kinh tế quy

mô lớn hơn, các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào nghiên cứu và do đó sẽ thúc

đẩy sáng kiến công nghệ.

Thứ ba, một thị trường rộng lớn hơn và một cuộc cạnh tranh mạnh

mẽ hơn có thể sẽ là chất xúc tác đầu tư đối với ACFTA. Do giữa các

quốc gia thành viên ASEAN cũng phải cạnh tranh về đầu tư, nên các

quốc gia này phải tự phát triển tới tiêu chuẩn cao hơn về mở cửa, trình

độ lao động, sản xuất, kỹ năng quản lý, tổ chức, pháp luật, công lý, chất

lượng cơ sở hạ tầng. Trong môi trường kinh tế tự do, những quốc gia

nào không đáp ứng được các điều kể trên sẽ tụt hậu.

Hơn nữa, thị trường được mở rộng nhờ Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc sẽ làm đa dạng sự lựa chọn của các nhà đầu tư.

Các nhà đầu tư có thể chọn một thị trường cụ thể hoặc tận dụng một loạt

cơ sở trong cả khu vực. Nói cách khác, với Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc, các nhà đầu tư mang trong đầu một thị trường

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 103 -

tổng hợp, họ có thể chọn đầu tư ở Trung Quốc hoặc ở ASEAN. Và như

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vậy, thông qua việc dỡ bỏ những rào cản thương mại và cho phép những

nguồn đầu tư lớn được thực hiện ở mức độ cao hơn, tin cậy hơn về mặt

kinh tế, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ có sức kích

thích tiềm tàng đối với các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa

các nước thành viên cũng như với bên ngoài ACFTA.

Ngoài những lợi ích kinh tế đề cập ở trên, Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc còn đem lại một loạt những nguồn lợi kinh tế

khác như: các nước này có thể cùng phát triển các nguồn lợi hải sản,

cùng giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, đảm bảo việc cùng cung cấp

các nguồn năng lượng, … Mặc dù Khu vực mậu dịch tự do bản thân nó

không tác động trực tiếp đến các vấn đề này, song các mối quan hệ gần

gũi hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề liên

quan. Sự hợp tác kinh tế khu vực ở những nơi khác trên thế giới đã

chứng minh cho thực tế đó.

Nói tóm lại, các tiềm năng và cơ hội cho sự tăng trưởng kinh tế

dài hạn, thay đổi cơ cấu và phát triển thông qua khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc là vô cùng quan trọng. Nhưng chúng ta cũng

nhận thức rõ rằng cả 2 phía sẽ phải quản lý một cách hiệu quả, thích hợp

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 104 -

và năng động, theo hình thức hướng về phía trước, đối mặt với những

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thách thức mà tự do hoá thương mại và đầu tư, cũng như sự cạnh tranh

trên thị trường cả nước thứ ba gây ra. Đây sẽ là một trong những thử

thách lớn đối với cam kết kinh tế và ý chí chính trị về hợp tác bền vững

và hội nhập vì sự tăng trưởng và phát triển chung, đồng đều trong khu

vực.

2.1.2. Tạo ra vị thế mới về chính trị trong các vòng thương lượng,

đàm phán đa phương toàn cầu

Sự hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc không chỉ mang lại những

lợi ích kinh tế mang tính chất tĩnh mà cả những lợi ích phi kinh tế và

những lợi ích mang tính động. Lý thuyết về hợp tác kinh tế khu vực cho

thấy một trong những động cơ chính của việc khởi xướng hợp tác kinh tế

khu vực là nhằm tạo ảnh hưởng đến việc xác lập các lợi ích mang tính

chính trị, mà cụ thể ở đây là quyền đưa ra các quy định kinh tế quốc tế.

Thành viên của mọi tổ chức hợp tác kinh tế đều cần phải có quan điểm

thống nhất trong việc tạo ra ảnh hưởng này, bởi việc tham gia vào quá

trình đề ra các quy định kinh tế quốc tế là cách quan trọng để bảo vệ lợi

ích của bất cứ nước nào, dù lớn hay nhỏ, trong các hoạt động kinh tế

quốc tế. Trong một thế giới được toàn cầu hoá, sự thống nhất và tính

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 105 -

chất bắt buộc của các quy định điều tiết nền kinh tế quốc tế buộc các

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nước phải chú trọng đến quyền đề ra các quy định đó. Trong giai đoạn

hiện nay, không một nước nào, kể cả Mỹ, có thể độc quyền quyết định

đối với các quy định kinh tế toàn cầu. Do vậy, việc tăng cường sức ảnh

hưởng thông qua các tổ chức liên kết kinh tế khu vực đã trở thành sự lựa

chọn đối với các nước, trong đó có ASEAN và Trung Quốc.

Một vài nhà quan sát cho rằng việc thành lập Khu vực mậu dịch tự

do ASEAN - Trung Quốc không chỉ nhằm mục đích kinh tế. Nói cách

khác, đối với Trung Quốc, canh bạc ở đây không chỉ đặt vào lĩnh vực

mậu dịch. Hơn thế, việc củng cố quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với các

nước Đông Nam Á láng giềng cũng đồng nghĩa với việc thiết lập ảnh

hưởng và vai trò lãnh đạo khu vực, mà cụ thể ở đây là làm thiệt hại đến

Mỹ và các cường quốc kinh tế khác cũng như muốn tranh giành ảnh

hưởng với Nhật Bản, quốc gia vẫn chiếm vị trí đầu tầu kinh tế ở Đông

Á. Như Naoko Munakata, nhà nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu Nhật

Bản đã nhận định: “Trung Quốc hy vọng tới một lúc nào đó sẽ trở thành

một cường quốc đối trọng với Mỹ và Châu Âu, đoàn kết các nước Châu

Á.” [24]. Chính vì vậy, một FTA với ASEAN sẽ giúp Trung Quốc

khẳng định và củng cố vai trò trên trường quốc tế, tăng cường tiếng nói

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 106 -

của mình trong khu vực và từ đó sẽ mở rộng ra toàn thế giới.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Về phía ASEAN, mặc dù chiến lược kinh tế của các nước ASEAN

có nhiều thay đổi sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng khu vực năm 1997,

tuy nhiên hội nhập và hợp tác khu vực và quốc tế vẫn được đưa ra như

một nội dung quan trọng chiến lược của khối bởi việc hội nhập sâu hơn

sẽ giúp các nước này có tiếng nói mạnh mẽ hơn trên các diễn đàn khu

vực và quốc tế. Chính vì vậy, các nước ASEAN xác định rõ cần phải

tham gia sâu rộng hơn vào hội nhập kinh tế, tiếp tục tăng cường mối liên

kết với các nước và tổ chức ngoài khu vực, việc duy trì nền kinh tế mở

và hướng ngoại sẽ vẫn giữ vai trò quan trọng trong tương lai. Để đáp

ứng nhu cầu của quá trình toàn cầu hoá và đối phó với những thách thức

do xu hướng cạnh tranh cũng như những chính sách của các nước lớn

trên thế giới, các nước ASEAN không có sự lựa chọn nào khác là xích

lại gần nhau hơn. Nhưng một mình ASEAN thôi thì chưa đủ. Cần phải

vươn ra ngoài khu vực Đông Nam Á. Điều đó giải thích những nỗ lực

của ASEAN để tăng cường liên kết kinh tế với các nước Đông Bắc Á,

trong đó Trung Quốc là một đối tác quan trọng. Mối quan hệ chặt chẽ

hơn với Trung Quốc có thể làm giảm áp lực mà một số nước ASEAN

đang cảm nhận từ việc Mỹ mở rộng cuộc chiến chống khủng bố vào

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 107 -

ASEAN, mặt khác, ASEAN cũng muốn ngăn ngừa nguy cơ bành trướng

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam quân sự của Trung Quốc đối với khu vực này và lôi kéo Trung Quốc vào

hợp tác kinh tế là một cách để ASEAN ngăn chặn sự bành trướng này.

Hơn thế nữa, do lộ trình thực hiện các chương trình hợp tác trong

ACFTA rất gần với lộ trình thực hiện các chương trình của ASEAN như

khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực đầu tư ASEAN (AIA),

chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), … nên trong khi

thực hiện để hoàn thành ACFTA, các bước giảm và xoá bỏ hàng rào

thuế quan, phi thuế quan và các bước tiến hành tự do hoá thương mại,

đầu tư, hợp tác trong các lĩnh vực của ACFTA sẽ giúp đẩy nhanh tiến

trình thực hiện AFTA, AIA, AICO… của ASEAN. Quan trọng hơn,

tham gia vào một Khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc sẽ giúp các

nền kinh tế ASEAN ngày càng phát triển mạnh mẽ và vững chắc, từ đó

làm cho tiếng nói của ASEAN có thêm sức mạnh trong các vòng đàm

phán đa phương cũng như trên các diễn đàn khu vực và quốc tế, bởi tiềm

lực kinh tế bao giờ cũng quyết định vai trò chính trị. Theo ông Rodolfo

C. Severino, Cựu tổng thư ký ASEAN, "ASEAN phản ứng với một nền

kinh tế Trung Quốc ngày càng phát triển bằng cách liên kết với nền kinh

tế này với sự tự tin và nhìn thấy vô số cơ hội từ sự trỗi dậy của Trung

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 108 -

Quốc. Đây là tiền đề cho quyết định của các nhà lãnh đạo ASEAN và

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Trung Quốc đi đến thành lập ACFTA" [24]. Như vậy, rõ ràng ASEAN

luôn đặt Trung Quốc như một trong những đối tác hàng đầu của mình và

liên kết với Trung Quốc chính là một chương trình nghị sự đầy tham

vọng và thách thức của ASEAN, đặt bối cảnh cho những biến đổi lịch sử

trong con mắt của chính khu vực và của thế giới khi nhìn nhận khu vực.

Nói tóm lại, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có thể

coi là biện pháp chiến lược có ý nghĩa trọng đại và là bước quan trọng để

hai bên đi tới nhất thể hoá kinh tế, cũng là bước then chốt thúc đẩy quan

hệ kinh tế song phương phát triển. Hơn thế nữa, vai trò của các nước

trong ACFTA sẽ được nâng cao trên trường quốc tế, đồng thời ACFTA

sẽ có lợi thế hơn trong những cuộc đàm phán quốc tế với các nước và

khu vực khác trên thế giới với tư cách là một khu vực mậu dịch tự do có

quy mô lớn nhất thế giới. Ngoài ra, với tiềm lực kinh tế lớn mạnh của cả

khu vực kinh tế Trung Quốc - ASEAN rộng lớn, đặc biệt là một nền

kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, mối liên hệ kinh tế được tăng

cường giữa các nước thành viên, ACFTA sẽ trở thành một khối kinh tế

đủ mạnh để giảm thiểu những rủi ro từ bên ngoài khu vực, đồng thời các

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 109 -

nước trong khối sẽ tự tin hơn để cùng nhau đối phó khi có những rủi ro,

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tác động từ bên ngoài ảnh hưởng đến kinh tế- xã hội của mỗi nước nói

riêng và của toàn khối nói chung.

2.1.3. Tạo ra môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác

Thứ nhất, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được

thành lập sẽ đẩy mạnh tiến trình hợp tác ASEAN – Trung Quốc. ACFTA

sẽ khiến quan hệ láng giềng đối tác tin cậy lẫn nhau giữa Trung Quốc và

ASEAN được củng cố và phát triển, an toàn và ổn định hơn về mặt địa

lý. Sự hợp tác mật thiết giữa hai bên sẽ có thể loại trừ được cách nhìn

không tốt về nhau, tạo điều kiện cho việc duy trì môi trường hòa bình ở

Biển Đông, duy trì ổn định chính trị và an ninh trong khu vực, đồng thời

việc thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ khẳng

định vị trí tiên phong của hai bên về hợp tác tại khu vực Đông Á trong

tương lai.

Thứ hai, với 1,7 tỷ người tiêu dùng, tổng thu nhập quốc nội vào

khoảng 2000 tỷ USD và tổng kim ngạch trao đổi thương mại ước tính

vào khoảng 1,23 nghìn tỷ USD, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc không chỉ vạch ra một hướng hợp tác mới cho hai bên trong

kỷ nguyên mới này, mà còn mang lại những tác động tích cực cho hợp

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 110 -

tác trong khu vực Đông Á.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ năm 1997 cho thấy rõ là khu

vực này cần thiết lập một cơ chế hợp tác có hiệu quả nhằm ngăn chặn sự

lây lan và sụp đổ về mặt kinh tế. Ngoài sáng kiến Chiang-Mai, mà đã tạo

ra một hệ thống các Hiệp định hoán đổi song phương giữa các nước

ASEAN và Đông Á, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ

tạo ra một cơ chế quan trọng khác nhằm củng cố sự ổn định kinh tế của

khu vực Đông Á và tạo cơ sở duy trì sự tăng trưởng kinh tế. Một mặt,

hiệp định này có thể tạo ra hiệu ứng “domino”: các cường quốc kinh tế

trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ cũng sẽ tìm cách ký

hiệp định mậu dịch tự do với ASEAN. Tại Hội nghị cấp cao APEC

tháng 10/ 2002, Tổng thống Mỹ George Bush đã đưa ra “Sáng kiến hành

động ASEAN” (EAI), tuyên bố sẵn sàng thương lượng lập FTA với bất

kỳ thành viên nào của tổ chức này. Tình hình đó tạo cơ hội cho ASEAN

trở thành trung tâm thương mại của Châu Á. Mặt khác, hiệp định này sẽ

góp phần đẩy nhanh quan hệ hợp tác có quy mô rộng hơn trong khu vực

Đông Á. Cụ thể ACFTA được thiết lập sẽ có tác động tích cực tới hợp

tác kinh tế khu vực ở châu Á, nhất là Đông Nam Á, cuối cùng rất có thể

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 111 -

là việc gia nhập của Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ tạo nên "khu mậu dịch tự

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam do Đông Á" (EAFTA) với số dân hơn 2 tỷ người và GDP hơn 7000 tỷ

USD [26], hình thành sự hợp nhất về kinh tế ở Đông Á.

Thứ ba, sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Quốc còn có thể coi là bước khởi đầu trong tiến trình hợp tác giữa các

nước đang phát triển. Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc không chỉ nhằm giảm và xoá bỏ các hàng rào thuế quan và

phi thuế quan hiện nay giữa hai bên mà còn tạo nên một khuôn khổ hoàn

chỉnh, bao gồm những chính sách hội nhập thị trường, ví dụ như khuyến

khích xuất khẩu, tạo thuận lợi cho thương mại và đem lại sự hài hoà cho

các luật lệ và tiêu chuẩn thương mại với đầu tư. Nếu thành lập một cơ

chế bổ trợ cùng với việc thành lập khu vực mậu dịch tự do này, thì cơ

chế này sẽ tăng cường khả năng đối phó với các rủi ro kinh tế bên ngoài,

giảm mức độ lệ thuộc quá nhiều vào thị trường của các nước phát triển.

Hơn thế nữa, nếu sự hội nhập kinh tế ASEAN - Trung Quốc có thể kết

hợp việc tự do hoá và quá trình xây dựng luật lệ với việc viện trợ cho

các nền kinh tế đang phát triển thì có thể sẽ thúc đẩy những nước đó

tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực, và nó cũng sẽ cho thấy

làm thế nào để các nước nghèo hơn hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 112 -

Giúp cho các nước này tự tham gia vào thị trường toàn cầu chính là cách

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tốt nhất giúp họ bớt phụ thuộc vào sự viện trợ từ các nước phát triển. Và

như vậy, khu vực mậu dịch tự do này sẽ trở thành một khuôn mẫu mới

cho việc hợp tác giữa các nước đang phát triển.

Hơn nữa, trong tình hình chính trị thế giới diễn biến phức tạp như

hiện nay, chủ nghĩa khủng bố đang lan tràn và trở thành hiểm họa và đe

dọa không loại trừ bất cứ nước nào thì chống chủ nghĩa khủng bố đã trở

thành một trong những chủ đề quan trọng được nhắc đến trong mọi diễn

đàn hợp tác kinh tế của tất cả các khu vực. Với việc thành lập ACFTA,

sự hợp nhất kinh tế Trung Quốc – ASEAN sẽ tạo nên một sức mạnh

chung trong cuộc chiến chống khủng bố của khu vực nói riêng và của

toàn cầu nói chung, góp phần gìn giữ và bảo vệ hoà bình thế giới.

Các lợi ích của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc có thể chưa thể hiện rõ ràng ngay lúc này bởi hai bên mới

chỉ ký kết hiệp định khung. Tuy nhiên, các cam kết trong một hiệp định

khung như vậy sẽ củng cố niềm tin vào quan hệ hợp tác thương mại và

kinh tế. Hai năm tới có thể sẽ là hai năm để “khởi động”. Một khi các

cuộc đàm phán về ACFTA được bắt đầu thì các lợi ích của việc thành

lập khu vực mậu dịch tự do này sẽ hé lộ ra sau khi các biện pháp cụ thể

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 113 -

được đưa ra. Quan hệ thương mại và đầu tư song phương giữa ASEAN

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam và Trung Quốc có thể sẽ phát triển vượt bậc từ sau năm 2004, và đây sẽ

là nền tảng vững chắc cho sự phát triển và ổn định kinh tế của khu vực

Đông Á trong tương lai. Đến lúc đó, thế giới sẽ xuất hiện "thế chân vạc"

với 3 khu vực lớn mạnh là Bắc Mỹ, EU và Đông Á, có lợi cho hòa bình

thế giới và phát triển kinh tế toàn cầu.

Tóm lại, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được xây

dựng không những có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng cường sự

hợp tác kinh tế vốn có giữa hai bên mà còn có lợi cho việc mở rộng mậu

dịch, đầu tư và du lịch song phương. Ngoài ra, đây sẽ là bước mở đầu

quan trọng cho tiến trình nhất thể hoá kinh tế khu vực Đông Á, góp phần

làm phồn vinh khu vực châu Á. Trong sự phồn vinh chung ấy, vị thế của

ASEAN và Trung Quốc nhất định sẽ được nâng cao hơn nữa.

2.2. Thách thức

2.2.1. Loại hình tổ chức của ACFTA

Loại hình tổ chức của ACFTA hiện nay vẫn đang gây ra nhiều

tranh cãi bởi lẽ nếu xây dựng Khu vực mậu dịch tự do kiểu mở cửa thì

ưu đãi mà các nước thành viên được hưởng sẽ tương đối ít. Nếu xây

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 114 -

dựng Khu vực mậu dịch tự do kiểu khép kín, cơ chế hóa, chỉ mở cửa và

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam áp dụng chế độ thuế ưu đãi đối với các nước thành viên thì sẽ có lợi cho

phát triển kinh tế của các nước thành viên, khiến các nước này có được

những lợi ích lớn nhất. Tuy nhiên, hiện nay trình độ phát triển của các n-

ước trong khu vực còn khác nhau, điều này sẽ tạo nên trở lực từ những

chế độ xã hội khác nhau và trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau,

thậm chí có thể hình thành hàng rào mậu dịch mới, đi ngược lại với xu

thế phát triển nhất thể hóa kinh tế toàn cầu.

Trước thực tế đó, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng thể thức của

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có thể dựa vào thể thức

của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Việc thực thi AFTA sẽ

đem lại những bài học tham khảo có tính xây dựng cho việc thiết lập

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Sau 10 năm đàm phán

trong tất cả các lĩnh vực có liên quan tới việc xây dựng một khu vực

mậu dịch tự do cho Đông Nam Á, ASEAN đã có nhiều kinh nghiệm

trong việc xây dựng các khu vực mậu dịch tự do. Trước thực tế là

ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí xây dựng một khu vực mậu dịch tự

do thì cách thức đơn giản nhất để hình thành khu vực này là dựa vào các

cơ chế hiện hành của AFTA. Điều này sẽ giúp giảm bớt việc đàm phán

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 115 -

lại các tiêu chí của khu vực mậu dịch tự do giữa 10 nước thành viên

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ASEAN và Trung Quốc. Một số biện pháp cụ thể có thể được xem xét

lại tuỳ theo nhu cầu của hai bên nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí.

2.2.2. Tình trạng phân hóa hai cực

Một số nước lạc hậu trong ASEAN lo ngại rằng tham gia khu

mậu dịch tự do không những không nâng cao sức cạnh tranh của mình

mà ngược lại còn bị lạc hậu hơn về kinh tế, sự phân hóa giữa hai cực

càng nghiêm trọng, bởi lẽ:

Thứ nhất, những nước này cho rằng sức sản xuất trong nước

không cao, một khi mở cửa thị trường có thể sẽ bị tràn ngập bởi khối

lượng lớn hàng xuất khẩu của các nước có trình độ phát triển cao hơn,

dẫn đến việc trở thành "thuộc địa kinh tế" của các nước này. Do vậy, để

bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, một số nước ASEAN sẽ gặp phải trở

lực khá lớn trong việc giảm mức thuế và tiến trình thúc đẩy nhất thể

hóa kinh tế khu vực.

Thứ hai, cùng với việc ký kết một FTA với Trung Quốc, các nước

ASEAN cũng không ngừng tìm kiếm các FTA song phương khác như

FTA ASEAN – Nhật Bản, FTA ASEAN – Ấn Độ, FTA Mỹ –

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 116 -

Singapore, FTA Singpore – New Zealand, FTA Thái Lan – Ấn Độ,

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam FTA Thái Lan – UAE, … và nếu các nước trong khối vẫn tiếp tục chạy

đua ở cuộc chơi FTA như vậy thì tiến trình thực hiện AFTA có thể bị

đe doạ. Vì khi đạt được FTA, các nước sẽ lo tới quyền lợi của mình với

các nước ngoài khối, còn việc thực hiện lộ trình giảm thuế chung trong

ASEAN sẽ bị xếp xuống hàng thứ yếu, làm cho hố sâu về hoà nhập tự

do thương mại giữa các nước ASEAN ngày càng lớn dần. Nếu ASEAN

có khoảng 5 FTA như vậy thì sẽ dẫn tới sự ra đời các “tiểu vùng kinh

tế” trong khu vực và tình trạng cạnh tranh cục bộ là chắc chắn. Khi đó,

AFTA sẽ chỉ là cái “vỏ bọc” của những FTA riêng biệt.

2.2.3. Cạnh tranh

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là khu vực tự do

lớn nhất, có tiềm năng tạo ra những nguồn lợi rất lớn, song nó cũng tạo

ra môi trường cạnh tranh rất gay gắt. Mặc dù các nước thành viên

ASEAN được hưởng lợi từ thặng dư mậu dịch và những lợi thế về chính

trị, song nhiều nước trong khối này vẫn cho rằng sự trỗi dậy của Trung

Quốc sẽ tạo ra sức hút lớn đối với đầu tư nước ngoài mà trước đây đổ

nhiều vào khu vực ASEAN, dẫu rằng khi nền kinh tế Trung Quốc được

tăng cường thì các nhà đầu tư Trung Quốc cũng sẽ đầu tư vào các nước

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 117 -

ASEAN nhiều hơn và tự do hơn. Thêm vào đó, với việc Trung Quốc gia

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nhập WTO, nhiều người lo ngại rằng Trung Quốc sẽ đạt được sự thịnh

vượng trong khi làm tổn hại đến các nước láng giềng. Vậy phải chăng

Trung Quốc là một mối đe doạ? Theo các chuyên gia, câu trả lời phụ

thuộc vào nền kinh tế của nước nào đó có khả năng cạnh tranh hay bổ

sung lẫn nhau với nền kinh tế Trung Quốc hay không, và phụ thuộc vào

khả năng tận dụng những cơ hội có thể có ở thị trường Trung Quốc.

Nhìn chung, các nước ASEAN và Trung Quốc đều thuộc các quốc

gia đang phát triển, nhất là Trung Quốc với ASEAN- 6 (trừ Singapore và

Bruney) đều đang trong giai đoạn phát triển kinh tế tương đối gần nhau,

cơ cấu ngành khá giống nhau, tính phụ thuộc trong kinh tế đối ngoại khá

lớn, trong một số lĩnh vực còn tồn tại cạnh tranh khá quyết liệt. Cạnh

tranh kinh tế giữa ASEAN với Trung Quốc chủ yếu thể hiện trên ba mặt

là: cạnh tranh về mậu dịch, cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp

nước ngoài và cạnh tranh tại thị trường thứ ba.

2.2.3.1. Cạnh tranh về mậu dịch

Tuy mậu dịch song phương giữa Trung Quốc và ASEAN phát triển

nhanh, nhưng hai bên đều chưa phải là đối tác chính của nhau. Sau khi

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được thiết lập, cộng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 118 -

thêm bối cảnh Trung Quốc đã gia nhập WTO, ASEAN lo ngại hàng hoá

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giá rẻ của Trung Quốc có khả năng tràn nhập thị trường nội địa các nước

này. Những lo ngại này không phải không có lý.

Trước hết, các nước ASEAN phải gánh chịu áp lực ngày càng tăng

của ngành công nghiệp trong nước bởi Trung Quốc có lợi thế so sánh rất

lớn:

 Trung Quốc có một nguồn tài nguyên khá phong phú, nhiều

chủng loại và trữ lượng lớn.

 Trung Quốc chiếm ưu thế tuyệt đối về nguồn nhân lực. Hiện tại

lực lượng lao động thực tế của Trung Quốc có 731.22 triệu người. Trong

10 năm tới, lực lượng này sẽ được bổ sung thêm khoảng 150 triệu người

[30]. Điều đó càng gia tăng lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực của

Trung Quốc.

 Trung Quốc có ưu thế về vốn. Nhiều năm qua mức tích luỹ

trong nước luôn xấp xỉ 40% GDP [30]. Với chính sách thu hút vốn linh

hoạt và đa dạng, mức độ tích luỹ vốn và lợi thế so sánh của Trung Quốc

cũng dần dần chuyển từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang sản

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 119 -

phẩm sử dụng nhiều vốn và đầu tư cao.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Với những lợi thế so sánh trên, các nước ASEAN sẽ gặp phải khó

khăn rất lớn từ sự lớn mạnh của Trung Quốc. Và thực tế hiện nay, hàng

tiêu dùng của Trung Quốc đã tràn ngập thị trường các nước ASEAN với

lợi thế cạnh tranh về giá cũng như sự đa dạng về chủng loại.

Thứ hai, cả ASEAN và Trung Quốc đều có nét tương đồng và cạnh

tranh gay gắt với nhau đối với các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao

động như điện tử, thiết bị điện gia dụng và dệt may. Với việc gia nhập

WTO, khả năng cạnh tranh của Trung Quốc đối với những sản phẩm này

sẽ ngày càng quyết liệt hơn. Do đó, có thể nhận thấy, khi khu vực mậu

dịch tự do hoàn thành với các rào cản thương mại được dỡ bỏ, ưu thế

của Trung Quốc về các mặt hàng này trên thị trường ASEAN sẽ ngày

càng gia tăng. Điều này sẽ tạo nên những thách thức lớn đối với các

ngành công nghiệp của các nước ASEAN, nhất là các xí nghiệp có quy

mô vừa và nhỏ.

Thứ ba, vốn dựa vào xuất khẩu, các nước ASEAN coi Trung Quốc

- với 1.3 tỷ dân [5] và một nền kinh tế đang phát triển - là một trong

những thị trường quan trọng nhất trên thế giới. Trong khi đó, Trung

Quốc coi các nước ASEAN vừa là thị trường tiêu thụ vừa là nguồn cung

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 120 -

nguyên liệu thô, đặc biệt là dầu mỏ cho mình. Tuy nhiên, khả năng hợp

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tác với Trung Quốc rất khác nhau giữa các nước ASEAN. Trong

ASEAN, các nền kinh tế như Singapore, Malaysia và Thái Lan có khả

năng bổ sung lớn cho nền kinh tế Trung Quốc, trong khi đó, nền kinh tế

của những nước ASEAN khác hiện đang trên đường nâng dần sức cạnh

tranh của mình. Chính vì vậy, hiện tại một số nước ASEAN như

Indonesia, Philippines, Malaysia còn tỏ ra rất e dè về việc nhanh chóng

thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, xuất phát từ lo

ngại về nguy cơ phá hoại nền kinh tế của họ bởi những hàng hoá nhập

khẩu tự do có tính cạnh tranh hơn của Trung Quốc. Bản thân chính phủ

một số nước ASEAN hiện đang chịu sức ép mạnh mẽ từ các doanh

nghiệp trong nước đối với việc thực hiện Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc. Các nước này cho rằng các ngành công nghiệp

của họ, đặc biệt là dệt may, đồ chơi và sản xuất xe máy sẽ bị tác động

tiêu cực bởi hiệp định này. Hơn nữa, Trung Quốc sẽ cạnh tranh với

ASEAN về chỗ đứng trong hàng loạt các sản phẩm giá trị gia tăng trước

thực tế là sản xuất ở Trung Quốc ngày càng tinh vi. Mặc dù trước mắt

ASEAN có thể dẫn đầu, kiếm lời từ việc cung cấp nhu yếu phẩm cần

thiết cho sự phát triển của Trung Quốc nhưng trong tương lai, Trung

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 121 -

Quốc đủ lớn, đủ tinh vi để thực hiện tất cả các khâu trong dây chuyền

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng và với diện tích rộng lớn của

mình, Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc kinh tế ở khu vực và có

lợi thế chính trị nhờ vị thế đó.

Như vậy, nguồn lợi mà Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Quốc mang lại không đồng đều cho các nước thành viên. Điều này tuỳ

thuộc năng lực thâm nhập thị trường của từng nước và của từng nhà sản

xuất. Trong khi các nhà sản xuất định hướng thị trường quốc tế có khả

năng nắm bắt thị trường nhu cầu hàng hoá của Trung Quốc sẽ được

hưởng lợi thì các nhà sản xuất chỉ chăm lo hướng vào thị trường nội địa

có nguy cơ cao bị hàng hoá của Trung Quốc cạnh tranh quyết liệt và

người thua thiệt sẽ là các nhà sản xuất của ASEAN. Lý do rõ ràng là

Trung Quốc có lợi thế chi phí thấp trong các ngành hàng sản xuất sử

dụng nhiều lao động. Các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu ở các

nước ASEAN có thể sẽ mất tính cạnh tranh một khi thuế quan được hạ

thấp.

Có thể nỗi lo lắng lớn nhất khi trao đổi thương mại với Trung

Quốc là con rồng kinh tế sẽ nuốt chửng toàn bộ lợi nhuận thương mại

thu được với sự trả giá của ASEAN. Thêm vào đó, việc tạo ra một khu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 122 -

vực mậu dịch tự do, bất chấp những lợi ích hiển nhiên thu được từ chi

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phí nhập khẩu thấp hơn và thị trường rộng lớn hơn, vẫn đặt ra một vài

rủi ro. Trong số đó phải kể tới nguy cơ nhập khẩu đắt hơn từ các bạn

hàng, cho dù những hàng hoá này đến từ một vài nước có chi phí sản

xuất thấp. Đây chính là hiện tượng chuyển hướng thương mại. Không

nghi ngờ gì nữa, Trung Quốc đã tự xếp mình như một trong những nhà

sản xuất hàng đầu các sản phẩm công nghiệp giá rẻ và đang chuyển

hướng về sản xuất những sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng lớn

hơn. Tuy nhiên, trao đổi thương mại với Trung Quốc không phải là trò

chơi một mất một còn, khi Trung Quốc tiếp nhận toàn bộ lợi ích, phần

còn lại của ASEAN sẽ lên tiếng phản đối. Chắc chắn sẽ có cạnh tranh,

đặc biệt là để tìm thị trường xuất khẩu, tuy nhiên sự khác biệt giữa các

sản phẩm sẽ bổ sung lẫn cho nhau.

2.2.3.2. Cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài

Về đầu tư, với một thị trường rộng lớn lại có sự ổn định chính trị

xã hội cao, có nền kinh tế đang công nghiệp hoá tăng trưởng cao và ổn

định, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ có sức hút mạnh

mẽ đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên rủi ro có thể xảy ra là

phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thu hút bởi Khu vực mậu dịch

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 123 -

tự do này sẽ do Trung Quốc chiếm giữ.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Thật vậy, chế độ đầu tư tự do hơn của Trung Quốc cũng như chi

phí sản xuất thấp của nước này so với các quốc gia khác sẽ rất có thể kéo

một số nhà đầu tư ra xa các nước ASEAN. ASEAN và Trung Quốc đều

là những nước đang phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế cần thu

hút một khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sau khủng hoảng

tài chính tiền tệ châu Á năm 1997, đầu tư nước ngoài bắt đầu rút khỏi

các nước Đông Nam Á, trong khi đó, Trung Quốc với thị trường nội địa

khổng lồ và với sự điều hành kinh tế vĩ mô vững chắc đã khiến cho

nguồn vốn bên ngoài ồ ạt chảy vào. Năm 2000, tỷ lệ FDI vào 10 nước

ASEAN trong tổng ngạch đầu tư vào các nước đang phát triển châu Á

vẫn thấp hơn mức trước khi xảy ra khủng hoảng tiền tệ, từ trên 30% thời

kỳ giữa thập kỷ 90 xuống còn 10% vào năm 2000, trong khi đó đầu tư

trực tiếp của nước ngoài vào Trung Quốc từ 14.38% năm 1990 tăng vọt

lên 45.9% vào năm 2001 [28].

Mặt khác, phần lớn các nước ASEAN trong 30 năm qua chủ yếu

dựa vào đầu tư trực tiếp từ bên ngoài, nhất là vốn từ Nhật Bản. Nhưng

việc ASEAN thiết lập khu mậu dịch tự do với Trung Quốc sẽ gạt các thế

lực truyền thống như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản ra ngoài, do vậy trước hết

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 124 -

sẽ phải chịu sức ép từ phía Nhật Bản, cụ thể đầu tư của Nhật Bản tại khu

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vực có thể sẽ giảm mạnh gây nên tổn thất trực tiếp về kinh tế. Đồng thời,

Trung Quốc lại có sức thu hút to lớn đối với các nhà đầu tư Nhật Bản,

Mỹ, Hồng Kông, thậm chí Đài Loan. Hiện nay có tới 80% [28] vốn quốc

tế đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc, điều này tạo nên một sức ép rất lớn

đối với sự phát triển kinh tế và là một thách thức mới đối với ASEAN.

Hơn nữa, tuy nguồn vốn đầu tư từ Hồng Kông, Đài Loan chiếm vị

trí quan trọng trong đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc nhưng từ khi gia

nhập WTO, chính phủ Trung Quốc đã sửa đổi “Danh mục chỉ đạo ngành

đầu tư ngoại thương” và “Quy định chỉ đạo hướng đầu tư ngoại

thương”, mở rộng lĩnh vực đầu tư nước ngoài, đồng thời nới lỏng hạn

chế tỷ lệ cổ phần đầu tư nước ngoài. Do vậy, những năm gần đây, Mỹ,

Nhật Bản và Châu Âu đã đẩy mạnh đầu tư vào Trung Quốc. Theo thống

kê của Bộ Tài chính Nhật Bản, 6 tháng đầu năm 2002, đầu tư trực tiếp

của Nhật Bản vào Singapore giảm 30.5%, vào Thái Lan giảm 44.4%,

vào Indonesia giảm 31.7%, vào Malaysia giảm 55% và vào Việt Nam

giảm 47.6%; trong khi đó đầu tư của Nhật Bản vào Trung Quốc lại tăng

23.2% [28]. Nguyên nhân chủ yếu khiến Nhật Bản giảm đầu tư vào

ASEAN và chuyển vốn đầu tư sang Trung Quốc là do Trung Quốc có ưu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 125 -

thế giá nhân công rẻ, thị trường lớn. Ví dụ, công ty sản xuất đồ điện

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam NEC của Nhật Bản đã đóng cửa cơ sở sản xuất máy vi tính cá nhân ở

Malaysia, chuyển sang sản xuất tại Trung Quốc. Hay trong ngành công

nghiệp sản xuất ô tô cũng vậy, các nhà hoạch định chính sách đang lo

ngại rằng Trung Quốc sẽ thu hút hết nguồn đầu tư nước ngoài vào ngành

này và sẽ dần “xoá sổ” thị phần của ASEAN trên thị trường Trung

Quốc. Như vậy, có thể thấy triển vọng thị trường Trung Quốc đang ngày

càng có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Và đây chính là

điều mà các nước ASEAN đều lo ngại.

Mặc dù thách thức cạnh tranh với Trung Quốc, cả hiện tại và tương

lai, là rất lớn song đứng ở góc độ chiến lược, hội nhập của ASEAN và

Trung Quốc là cần thiết bởi lẽ căn cứ vào tình hình xuất nhập khẩu của

các nước ASEAN, có thể thấy, cơ cấu ASEAN có tính hướng ngoại với

hơn 77% khối lượng ngoại thương diễn ra với bên ngoài khối, giao dịch

nội khối chỉ chiếm 23% [25]. Xét rộng ra, không chỉ các nước ASEAN

mà các nước thuộc khu vực Đông Á nói chung như Nhật Bản, Hàn

Quốc, Đài Loan, Trung Quốc đều mang thuộc tính này. Không những

thế, cơ cấu sản phẩm của các nước cũng tương đối giống nhau. Chính

thuộc tính này làm cho các nước xích lại gần nhau hơn trong những năm

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 126 -

qua. Các nước ASEAN dường như bị chi phối bởi ảnh hưởng của Nhật

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Bản, song cũng được lợi từ mối quan hệ này. Rõ ràng cạnh tranh trong

xuất khẩu mới là nguy cơ lớn nhất, làm chia rẽ các nước. Điều này xét

về mặt nào đấy chỉ có lợi cho bên thứ ba.

Hơn nữa, bài học từ khối các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) cho

thấy một cơ cấu tương tự là rất cần thiết đối với các nước trong khu vực,

không chỉ ASEAN mà cả Trung Quốc. Thế giới ngày nay đang đứng

trước trào lưu tự do hoá thương mại và ngày càng có xu hướng trở thành

thị trường chung bị chi phối bởi các công ty đa quốc gia. Trong bối cảnh

đó, những nước đang phát triển chịu nhiều thiệt thòi và bất lợi đang có

xu hướng xích lại gần nhau hơn để tự bảo vệ và tạo điều kiện phát huy

sức mạnh tập thể, hỗ trợ và tăng cường khả năng cạnh tranh. Xét trên

quan điểm này, một sự hợp nhất ASEAN - Trung Quốc có lợi hơn là đối

đầu lẫn nhau, đúng như nhận định của Cựu tổng thư ký ASEAN Rodolfo

C. Severino: “Cạnh tranh là điều không còn phải bàn cãi. Toàn bộ hàm

ý của toàn cầu hoá chính là cạnh tranh, thương mại như vậy, kinh tế

cũng là như vậy. Cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh tự do công bằng thì

không phải là điều xấu, cũng không đáng lo sợ” [28]. Như vậy, xây

dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ khiến cho

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 127 -

ASEAN và Trung Quốc trở thành một thị trường thống nhất và đây

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chính là con đường hiệu quả để khắc phục cạnh tranh “ác tính” giữa hai

bên.

2.2.3.3. Cạnh tranh tại thị trường thứ ba

Sau hơn 20 năm cải cách và thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh

tế Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng với tiềm lực kinh tế to lớn,

đứng thứ hai trên thế giới sau Mỹ về GDP tính theo sức mua tương

đương. Đồng thời, cả GDP và ngoại thương của Trung Quốc đều phát

triển với tốc độ nhanh. Sức mạnh kinh tế đó của Trung Quốc đang tác

động rất mạnh đến các nước ASEAN, đặc biệt tại thị trường thứ ba.

Trước hết, ASEAN, với tư cách là một khối thống nhất, đang dần

mất đi vị trí trung tâm chế tạo hàng giá thành thấp của thế giới. Trung

tâm này đã dần dần chuyển sang Trung Quốc. Đó là do Trung Quốc và

đa số các nước ASEAN đều có nguồn nhân lực và nguồn tài nguyên

thiên nhiên phong phú, trình độ phát triển và cơ cấu ngành về cơ bản

cùng thứ hạng, còn những nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và các

nước công nghiệp mới khác lại đều là đối tác thương mại và nguồn thu

hút vốn chủ yếu. Theo điều tra của báo Nikkei (Nhật Bản), năm 2000,

Trung Quốc chiếm 40% tổng lượng sản xuất máy điều hoà không khí,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 128 -

24% tivi màu, 11% máy tính cá nhân và 10% điện thoại di động của thế

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giới [30]. Hơn nữa, với chất lượng hàng công nghiệp ngày càng được cải

thiện rõ rệt, Trung Quốc đã nhanh chóng thâm nhập vào các thị trường

quan trọng trên thế giới như Mỹ và Nhật Bản, đây đồng thời cũng là

những thị trường xuất khẩu quan trọng nhất đối với cả phần lớn các

thành viên ASEAN và Trung Quốc. Lấy ví dụ với bốn nước ASEAN có

trình độ phát triển gần với Trung Quốc là Thái Lan, Malaysia,

Philippines và Indonesia. Thị phần của các nước này tại Mỹ và Nhật Bản

có thể bị thu hẹp lại do sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc. Theo

thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), trong thập niên 90, thị phần của

Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia chỉ thay đổi đáng kể trong

khi thị phần của Trung Quốc lại tăng vượt bậc. Từ năm 1991 đến năm

2001, thị phần của 4 nước ASEAN này trong tổng nhập khẩu của Mỹ chỉ

tăng từ 3.7% đến 5% trong khi Trung Quốc tăng từ 2% lên 7%. Cũng

trong thời gian đó, trong tổng nhập khẩu của Nhật Bản, thị phần của 4

nước ASEAN: Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonesia tăng từ

11.1% đến 12.7% trong khi Trung Quốc tăng từ 4.9% lên 13% [30].

Như vậy, có thể thấy trong số những thị trường xuất khẩu chính

của các nước ASEAN, chừng nào cuộc cạnh tranh với Trung Quốc còn

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 129 -

tiếp diễn, Châu Âu, Nhật Bản và Mỹ sẽ là những thị trường cạnh tranh

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lớn. Vì Trung Quốc đang hướng hàng xuất khẩu của họ vào cùng một thị

trường với ASEAN nên hàng hoá của các nước ASEAN sẽ phải cạnh

tranh trực tiếp với hàng Trung Quốc. Hiện nay, các thị trường chính của

Trung Quốc là Mỹ, EU và Nhật Bản với mức xuất khẩu trên tổng số

(khoảng 195.2 tỷ USD vào năm 2000) lần lượt là 45%, 26% và 22%

[31]. Thương mại của Trung Quốc tập trung chủ yếu vào các sản phẩm

chế tạo bao gồm: hàng tiêu dùng (đồ chơi, các chương trình trò chơi,

thiết bị nội thất); trang thiết bị văn phòng và viễn thông, máy và dụng cụ

chạy điện, hàng dệt may và quần áo.

Thật vậy, từ cuối thập kỷ 80, với chiến lược trở thành trung tâm

của thế giới về hàng chế tạo, Trung Quốc đã là nước sản xuất và xuất

khẩu lớn nhất các mặt hàng chế tạo tập trung nhiều lao động. Trong giai

đoạn 1993 – 1998, nhóm hàng này bao gồm dệt may, giầy dép, đồ chơi

trẻ em, dụng cụ thể thao và đồ gỗ, ..., chiếm 36% [32] tổng kim ngạch

xuất khẩu của Trung Quốc. Đây cũng là những mặt hàng đóng góp nhiều

nhất cho thặng dư thương mại của Trung Quốc kể từ năm 1995 trở lại

đây. Hiện nay, khoảng 94% và 96% tổng lượng hàng xuất khẩu của

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 130 -

Trung Quốc sang thị trường Mỹ và EU là hàng chế tạo. Tại Nhật, gần

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 15% lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc là sản phẩm nông nghiệp và

khoảng 80% là hàng chế tạo [31].

Mặc dù xuất khẩu dệt may bị hạn chế bởi những quy định của Hiệp

định đa sợi nhưng dệt may vẫn là nhóm hàng xuất khẩu quan trọng nhất

trong giai đoạn kể trên. Ví dụ, tại thị trường hàng may mặc nhóm G7, thị

phần của Trung Quốc đã tăng gấp đôi lên mức 20% những năm 90, lợi

nhuận về thị phần này phần lớn thu được từ thiệt hại của các nhà xuất

khẩu của các nước công nghiệp mới Châu Á (NICs); tuy nhiên, thị phần

của các nước Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan vẫn còn khá

trì trệ ở mức khoảng 8% [34]. Thị trường hàng giày dép G7 hiện cũng

đang bị Trung Quốc chiếm lĩnh, với thị phần tương đối tăng từ 10% cuối

những năm 80 đến mức 38% [33] cuối những năm 90. Một lần nữa, việc

này đã gây thiệt hại không nhỏ cho ASEAN.

Sở dĩ như vậy là vì chi phí nhân công ở Trung Quốc rất thấp. Nếu

lấy giá nhân công làm tiêu chí để so sánh thì các nước ASEAN phải đối

mặt với sức ép rất lớn trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá. Từ bảng 12 có

thể thấy Trung Quốc là nước có đơn giá nhân công thấp nhất (0.07

USD), trong khi đơn giá nhân công của các nước ASEAN lại rất cao,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 131 -

đặc biệt là Singapore, Thái Lan và Malaysia với chỉ số nhân công trên

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam dưới 0.5 USD. Điều này đã lý giải tại sao Trung Quốc lại có nhiều ưu

thế hơn so với các nước ASEAN trong quá trình xuất khẩu những mặt

hàng có hàm lượng lao động cao. Một nguyên nhân khác là do các nước

phát triển và một số nước công nghiệp mới đã thực hiện cải cách cơ cấu

công nghiệp theo hướng tập trung sản xuất các mặt hàng có hàm lượng

công nghệ cao và nhập khẩu các mặt hàng có hàm lượng lao động cao từ

các nước đang phát triển.

Bảng 12: So sánh đơn giá nhân công giữa Trung Quốc và một số

nước ASEAN

Đơn vị: USD

1985 1986 1987 1988 1999

Trung 0.07 0.06 0.07 0.07 0.07

Quốc

Indonesia 0.21 0.16 0.14 0.09 0.09

Malaysia 0.4 0.37 0.25 0.25 0.25

Philippine 0.29 0.3 n.a. n.a. n.a.

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 132 -

s

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Singapore 0.46 0.41 0.68 0.71 0.59

Thái Lan n.a. n.a. 0.28 0.36 0.33

Nguồn: Lee and Abeysinghe (1999) [33].

n.a. : không có số liệu

Có thể lấy ví dụ một nhóm hàng tập trung nhiều lao động của

Trung Quốc đang phát triển rất nhanh và chắc chắn sẽ là mối đe doạ

đáng kể cho lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá của các nước ASEAN, đó là

máy móc và đồ điện gia dụng như thiết bị ghi âm, linh kiện tivi và các

thiết bị viễn thông khác. Giá trị xuất khẩu của nhóm hàng này đã tăng từ

2.82% năm 1986 lên 23.75 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung

Quốc [32]. Theo thống kê của báo Nikkei (Nhật Bản), tại thị trường

Nhật Bản, hàng vải, may mặc nhập khẩu từ Trung Quốc chỉ có 4 tỷ JPY

vào năm 1990 nhưng đã tăng lên 1,800 tỷ JPY vào năm 2000, làm cho tỷ

lệ nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng nhập khẩu các mặt hàng này của

Nhật Bản trong thời gian đó tăng từ 0.2% lên đến 68%. Vào năm 1990,

hầu như Trung Quốc chưa xuất khẩu đồ điện gia dụng sang Nhật Bản,

nhưng đến năm 2000 đã chiếm gần 30% tổng lượng nhập khẩu máy điều

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 133 -

hoà không khí của nước này, trên 30% máy giặt, 25% tivi và video [30].

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Thứ hai, xem xét từ cơ cấu xuất khẩu hàng hoá, những năm gần

đây, hệ số tương quan đẳng cấp hay còn gọi là “chỉ số đặc thù”

(specification index) [34] của hàng xuất khẩu Trung Quốc và ASEAN

ngày càng cao. Đánh giá của Viện nghiên cứu Nomura (Nhật Bản) về

“chỉ số đặc thù” của hàng hoá công nghiệp của các nước Đông Á (xem

bảng 13) cho thấy hầu hết các nước ASEAN hiện đang trong tình trạng

cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc về thương mại, cơ cấu hàng xuất

khẩu của hai bên ngày càng giống nhau, sự cạnh tranh trên thị trường

thứ ba ngày càng quyết liệt. Trong đó, hệ số tương quan giữa Trung

Quốc và Thái Lan cao nhất, tới mức 0,98 (nghĩa là khả năng bổ sung

nhau rất thấp, cơ cấu hàng xuất khẩu hai nước giống nhau nhất và mức

độ cạnh tranh do đó cũng cao nhất).

Bảng 13: Chỉ số đặc thù của Trung Quốc và các nước ASEAN 5

trong một số ngành công nghiệp

Chế phẩm Công nghiệp có Các loại Công nghiệp

Nước Hoá chất hàm lượng nguy Máy móc tạp phẩm

liệu cao

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 134 -

Trung Quốc - 0.40 - 0.02 -0.08 0.76

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Indonesia - 0.31 0.52 -0.04 0.84

Thái Lan - 0.36 - 0.08 0.05 0.69

Malaysia - 0.29 - 0.09 0.13 0.34

Philippines - 0.80 - 0.54 -0.06 0.33

Singapore 0.15 - 0.28 0.06 -0.09

Nguồn : Viện nghiên cứu Nomura (Nomura Research Institute), Nhật

Bản, 2001, tính theo số liệu thống kê của ADB.

Hơn nữa, Trung Quốc và các nước ASEAN không chỉ có các mặt

hàng xuất khẩu giống nhau mà còn có nhiều thị trường xuất khẩu trùng

nhau. Về thị trường xuất khẩu, cả Trung Quốc và các nước ASEAN đều

dựa khá nhiều vào các nước phát triển. Các năm qua, Hồng Kông luôn là

thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc (tham khảo Phụ lục 9),

nhưng một khối lượng lớn hàng hoá xuất qua Hồng Kông để vào các thị

trường khác. Vì vậy, nếu không tính lượng hàng hoá xuất khẩu qua trung

gian này, tính tới thời điểm năm 1998 thì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn

nhất của Trung Quốc, sau đó là Nhật Bản. Trong khi đó, đối với các

nước ASEAN, khoảng 20.5% tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước

này là sang thị trường Mỹ; 16.3% sang thị trường Châu Âu và 11% được

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 135 -

xuất sang Nhật Bản [32].

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Như vậy, với việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do với Trung

Quốc, thoạt đầu các nước ASEAN sẽ thu được lợi nhờ cắt giảm quan

thuế của Trung Quốc nhưng ASEAN sẽ mất dần cho Trung Quốc thị

phần ở Mỹ, Châu Á và các thị trường khác.

2.2.4. Yếu tố chính trị

2.2.4.1. Vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông

Biển Đông (phía Trung Quốc gọi là Nam Hải, người phương Tây

gọi là biển Nam Trung Hoa) là vấn đề còn tồn tại và gây căng thẳng giữa

một số nước Đông Nam Á với Trung Quốc. Trong vấn đề biển Đông,

Trường Sa là điểm tranh chấp gay gắt nhất trong việc công nhận phạm vi

chủ quyền và lợi ích biển của các nước có liên quan. Biển Đông chiếm

25% vận tải biển của thế giới, trữ lượng dầu mỏ ước tính khoảng 23.5 tỷ

tấn và lượng khí đốt thiên nhiên khoảng 8269 tỷ m3 [35]. Cho nên có thể

nói, sự phức tạp của vấn đề Biển Đông mang tính tổng hợp, nó không

chỉ bao gồm yếu tố lịch sử, lợi ích chiến lược, chạy đua khai thác các

nguồn tài nguyên thềm lục địa như dầu lửa, khí tự nhiên mà còn gọi là

“tâm địa chấn” của mọi hoạt động trên biển giữa các nước trong khu vực

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 136 -

Châu Á - Thái Bình Dương.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Trong những năm gần đây, quan hệ láng giềng giữa Trung Quốc

với các nước ASEAN đã có bước cải thiện và phát triển đáng kể làm cho

tình hình ở Biển Đông gió im sóng lặng, nhưng thực chất các nước vẫn

không hề nới lỏng sự khống chế quân sự của mình. Trung Quốc tăng

cường cơ sở hạ tầng trên biển như cảng, sân bay, đèn biển, doanh trại và

tăng cường kiểm soát hành chính, còn các nước ASEAN tăng chi phí

quốc phòng và tích cực tiến hành các cuộc diễn tập trên Biển Đông. Sau

4 năm vắng bóng tại vùng biển gần quần đảo Trường Sa, ngày 21/ 2/

2000, Mỹ cùng Philippine diễn tập quân sự mang tên “Tinh thần đồng

đội Mỹ – Philippine” với quy mô lớn. Tiếp đến, vào tháng 5/ 2000, lần

đầu tiên Singapore cùng Thái Lan và Mỹ diễn tập chung “Hổ mang

2000” trong vòng 14 ngày. Ngày 3/ 7/ 2000, các nước Singapore,

Malaysia, Australia, New Zealand và Anh tiến hành cuộc diễn tập “Cá

bay 2000” với 5000 lính, 34 tàu chiến và 98 máy bay chiến đấu. Đáp lại

những cuộc diễn tập của các nước Đông Nam Á, trung tuần tháng 4/

2000, đội tàu của hải quân Trung Quốc diễn tập với nội dung 35 hạng

mục, huấn luyện và kiểm tra phương hướng chiến đấu trong môi trường

chiến đấu biển. Với những cuộc tập trận này, Biển Đông trở nên không

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 137 -

yên ả. Nhiều nhà quan sát lo ngại rằng nó có thể trở thành thùng thuốc

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam súng của Châu Á và có thể gây ra bão táp và trở thành “Trung Đông thứ

hai”. Mặc dù Trung Quốc và các nước ASEAN có liên quan đã đề cập

đến vấn đề này trong các cuộc hội nghị riêng về Biển Đông hoặc trong

các diễn đàn chung giữa hai bên nhưng vẫn chưa đạt được kết quả đáng

kể.

Như vậy, rõ ràng là tình hình biển Đông luôn là vấn đề nhạy cảm

trong quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN. Đây cũng có thể là trở ngại

lớn nhất trong việc phát triển quan hệ Trung Quốc – ASEAN trong thế

kỷ mới. Chính vì vậy, làm thế nào để duy trì hòa bình, ổn định và phi hạt

nhân hóa tại Biển Đông đã trở thành vấn đề mà Trung Quốc và ASEAN

cần phải đối mặt trước tiên một khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc được thành lập. Sớm ký kết bộ quy tắc ứng xử Biển Đông

(COC) có thể sẽ là sự bảo đảm quan trọng cho việc duy trì ổn định trong

khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác chặt chẽ và toàn diện hơn

giữa ASEAN và Trung Quốc trong ACFTA.

2.2.4.2. Vấn đề về quyền chủ đạo trong ACFTA

Sự thành công của bất cứ một hiệp định thương mại khu vực nào

thường có xu hướng là nhờ vào một nền kinh tế vững mạnh hoặc phát

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 138 -

triển. Tuy nhiên, không thể cho rằng xu hướng này sẽ bất biến về lâu

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam dài. Một khi Trung Quốc trở nên ổn định hơn với các cuộc cải cách của

mình với tư cách là thành viên của WTO, quốc gia này có thể sẽ tích cực

tìm cách gây ảnh hưởng đến quá trình tự do hoá thương mại trong khu

vực. Trong số các nước ASEAN, không một nước nào có thực lực kinh

tế bằng Trung Quốc, nhưng nếu coi ASEAN là một khối thì lại có thể so

sánh được với Trung Quốc. Việc ai sẽ đóng vai trò chủ đạo ACFTA

trong tương lai là một vấn đề khá hóc búa.

Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng đóng vị trí đầu tầu trong khu

vực mậu dịch tự do này sẽ là Trung Quốc. Do vậy, sẽ không có gì ngạc

nhiên khi nước này rất quan tâm đến việc triển khai hiệp định này.

Ngoài những nguồn lợi to lớn về kinh tế nhờ vào sự ra đời của Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, Trung Quốc còn có thể đánh bật

Nhật Bản ra khỏi vị trí hàng đầu ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,

như nhận định của Jonathan Anderson, phụ trách bộ phận nghiên cứu

Châu Á - Thái Bình Dương của công ty UBS Securities tại Hồng Kông:

“ Trong 5 năm qua, nền kinh tế Trung Quốc hoạt động tốt hơn hẳn so

với các nước khác trong khu vực, và giới chức Trung Quốc rõ ràng

muốn được đánh giá là họ đang nhường chút gì đó cho các nước láng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 139 -

giềng của mình. Và một FTA do Trung Quốc dẫn đầu sẽ là một bước

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tiến đáng kể hướng tới việc củng cố vai trò của họ như là nhà lãnh đạo

mới của khối này, khéo léo hất cẳng Nhật Bản trong tiến trình đó” [24].

Thật vậy, hiện nay, trong khi kinh tế Nhật Bản còn chưa thoát ra khỏi

khủng hoảng thì kinh tế Trung Quốc vẫn tiếp tục đạt được những thành

tựu rất đáng tự hào. Mặc dù quan hệ ASEAN – Nhật Bản đã có lịch sử

phát triển hơn 40 năm qua, song mối quan hệ này trong thời gian gần

đây đã trở nên mờ nhạt hơn. Quan hệ ASEAN – Nhật Bản dựa vào mô

hình “đàn nhạn bay”, trong đó Nhật Bản là con chim đầu đàn, song mô

hình này đã thay đổi khi đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở nên quan

trọng hơn. Trên thực tế, Nhật Bản và các nước ASEAN hiện không phải

là đối tác bình đẳng bởi sự chênh lệch quá lớn về thu nhập, lương và

tổng thu nhập quốc nội. Khác với Nhật Bản, các nước ASEAN hiện

đang rất phụ thuộc vào thương mại, cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Tại

các nước này, thương mại chiếm tới 134% GDP, trong khi đó chỉ tiêu

tương ứng của Nhật Bản chỉ là 18% GDP [23]. Đây là lý do của sự bất

đồng lớn, tuy rằng Nhật Bản cũng là một thị trường khá lớn. Trong khi

đó, Trung Quốc là một nền kinh tế khổng lồ và có nhiều nét tương đồng

với khu vực ASEAN, ví dụ như nước này còn có chênh lệch về kinh tế

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 140 -

giữa các khu vực duyên hải và những vùng sâu trong nội địa đang ngày

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam càng tăng lên. Mặc dù Trung Quốc phát triển mạnh các lĩnh vực như

điện thoại di động và máy tính cá nhân song 70% của nền kinh tế nước

này vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp [23]. Như vậy, nếu như trước đây

Mỹ và Nhật Bản đóng vai trò là các nhà đầu tư chủ yếu vào nền kinh tế

các nước Đông Nam Á thì hiện nay Trung Quốc đang dần thay thế các

vị trí đó.

Chính vì vậy, trước đề xuất của Trung Quốc về việc thành lập một

khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc, một số nước

ASEAN cho rằng họ đang bị Trung Quốc lôi cuốn vào cuộc chơi do

Trung Quốc dẫn đầu. Các nước này cho rằng đề xuất hiệp định này của

Trung Quốc chủ yếu xuất phát từ mục tiêu chính trị. Trung Quốc muốn

làm giảm thiểu nỗi lo sợ của các nước ASEAN về một cường quốc

Trung Quốc đang nổi lên. Đồng thời, Trung Quốc muốn vượt qua Nhật,

lãnh đạo khu vực, thiết lập một trật tự kinh tế mới ở Đông Á không bị

Mỹ ngự trị. Trung Quốc đã tuyên bố thẳng thừng rằng họ muốn giúp bảo

vệ lợi ích của các quốc gia đang phát triển trong WTO. Ban lãnh đạo

nước này đã kêu gọi thành lập một hệ thống thương mại đa phương quốc

tế, trong đó các nước đang phát triển được đảm bảo sẽ không bị cản trở

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 141 -

và không bị phân biệt đối xử khi tiếp cận thị trường quốc tế cho các sản

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phẩm và hàng hoá của họ. Tại Hội nghị thượng đỉnh kinh tế Đông Á vào

tháng 10/ 2002 tại Kuala Lampur, Thứ trưởng Ngoại thương Trung

Quốc Long Vĩnh Đồ đã công khai nhấn mạnh rằng Châu Á cần phải có

một diễn đàn “để tiếng nói của chúng ta lớn hơn trong tiến trình đưa ra

quyết định” [11] hiện bị phương Tây chi phối. Trong bài báo đăng trên

tờ Japan Times ngày 15/ 11/ 2002 dưới đầu đề "Sức mạnh đang chuyển

lên hướng Bắc", Brad Losserman, Giám đốc nghiên cứu và Brailey

Fritschi, Nghiên cứu viên tại Diễn đàn Thái Bình Dương của Trung tâm

nghiên cứu chiến lược và quan hệ quốc tế CSIS (Indonesia) cũng đã

nhận xét rằng “FTA giữa Trung Quốc và ASEAN sẽ chuyển trọng tâm

định đoạt ở khu vực lên hướng Bắc, thay đổi một cách cơ bản cách thức

hội nhập của các nước ASEAN và tất yếu làm chuyển đổi nguyên tắc của

tổ chức này” [36].

Nhận định này không phải không có lý. Đối với nền kinh tế

ASEAN, mặc dù các nhà lãnh đạo thường xuyên khuyếch trương khu

vực này là một thị trường hấp dẫn với 500 triệu người thì các nhà đầu tư

nhận thức được rằng các thị trường của 10 nước ASEAN còn bị phân tán

và đến chừng mực nào đó còn chưa phát triển. Cuộc khủng hoảng tài

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 142 -

chính đã làm vỡ mộng về sự thần kỳ ASEAN và những cải cách ở hầu

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hết các nước còn lâu mới kết thúc. Hoạt động kinh tế còn chưa đạt được

mức trước khủng hoảng và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Châu Á đã

chuyển nhiều sang Đông Bắc Á. Hơn thế nữa, sự phát triền kinh tế mạnh

mẽ của khu vực và sự nổi lên của ASEAN như là một đối tác trên trường

quốc tế (ít nhất là đến năm 1997) đã làm lu mờ vai trò quan trọng nhất

của ASEAN như là một tổ chức để xây dựng hình mẫu nhằm đối phó với

những thay đổi ở một khu vực đầy biến động. Một FTA mà do một nước

ngoài ASEAN chiếm ưu thế có thể làm đảo lộn quá trình trên. Chính phủ

của các nước trong khu vực không còn trông đợi ở nhau để tìm giải đáp

cho các vấn đề kinh tế, chính trị mà trông đợi ở Trung Quốc. Như vậy,

sự cân nhắc yếu tố kinh tế sẽ là trên hết và sẽ vượt lên trên những sự

quan tâm của cộng đồng. Trong cả 2 cấp độ này, ASEAN là những ngư-

ời thua thiệt. Chỉ có một cách để hạn chế sự thua thiệt này là các nước

ASEAN phải gắn bó mật thiết hơn với nhau, có chung một tiếng nói và

như vậy mới có thể làm đối trọng được với Trung Quốc. Đây có thể sẽ là

điều kỳ diệu vì hiện nay có nhiều khác biệt lớn giữa các nước ASEAN

do lịch sử đã chia rẽ họ. Nhưng có thể thu hẹp được những khác biệt

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 143 -

giữa các nước ASEAN, nếu chính phủ các nước này ngồi lại với nhau.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Tuy nhiên, vẫn có mối quan ngại rằng ngay cả khi các nước

ASEAN đã đạt được sự hợp tác chặt chẽ hơn thì liệu ASEAN có thể

vượt qua Trung Quốc để thực sự trở thành một trung tâm cho ACFTA?

Có thể, dẫu là một trung tâm không hoàn hảo. Phạm vi ảnh hưởng của

ASEAN đối với quá trình hình thành ACFTA sẽ phụ thuộc vào 2 nhân tố

hữu quan: sự thống nhất liên tục của ASEAN và tình trạng nền kinh tế

của khu vực này. Không có một nước ASEAN nào – thậm chí ngay cả

nước thành viên lớn nhất là Indonesia – có đủ sức nặng chiến lược để có

thể cạnh tranh với những sáng kiến từ Trung Quốc. Cách duy nhất mà

ASEAN có cơ hội kiềm chế có hiệu quả sức mạnh của Trung Quốc là sự

thống nhất của cả khối. Chính vì vậy, ASEAN đã không ngừng nỗ lực

trong việc đẩy nhanh thời hạn cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ

CEPT/ AFTA nhằm thúc đẩy tự do hoá thương mại càng nhanh càng tốt,

thông qua việc rút ngắn thời gian cắt giảm thuế quan sớm hơn 1 năm đối

với các nước ASEAN 6 và cho phép áp dụng khung cắt giảm thuế quan

dài hơn đối với các nước thành viên kém phát triển hơn là Việt Nam,

Lào, Campuchia và Myanmar. Việc đưa ra nhân nhượng này tuy khác

thường song là cần thiết trong bối cảnh có những khác biệt lớn về kinh

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 144 -

tế giữa các nước thành viên mới và cũ. ASEAN không tin rằng đường

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lối chung của EU – các nước thành viên phải đáp ứng những tiêu chuẩn

về kinh tế của các nước khác trước khi gia nhập liên minh nhằm tránh

bất cứ khoảng cách phát triển nào – sẽ được thực hiện ở Đông Nam Á.

Cựu tổng thư ký ASEAN Rodolfo C. Severino chỉ ra một cách khéo léo

rằng “điều duy nhất tồi tệ hơn một cơ cấu ASEAN hai tầng là một cơ cấu

Đông Nam Á hai tầng – một tầng ở ASEAN và tầng kia ở ngoài ASEAN”

[11]. Quan điểm linh hoạt này của ASEAN không chỉ kích thích phát

triển kinh tế của các nước thành viên mới mà nó còn giúp các nước định

hình chính sách thương mại theo hướng thúc đẩy hội nhập một cách

suôn sẻ vào hệ thống thương mại toàn cầu. Điều đáng nói là các nước

thành viên mới đã tự nguyện rút ngắn lịch trình tự do hoá thị trường: vào

năm 2008 thay vì 2010 như kế hoạch. Nỗ lực của ASEAN đã tạo ra

những kết quả đáng ghi nhận: mức thuế quan trung bình giữa các nước

ASEAN trong giai đoạn 1993 – 2000 đã giảm từ 111.4% xuống còn

3.2% [11]. Theo lời của Severino, “ASEAN hiện nay là một khu vực đã

tiến rất sát tới Khu vực mậu dịch tự do” [11] với các chương trình cắt

giảm thuế quan được mở rộng và đẩy nhanh.

Tuy nhiên, những nỗ lực tự do hoá nói trên của ASEAN cũng sẽ

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 145 -

chẳng thấm gì nếu đặt lên bàn cân, vì có rất nhiều khả năng cán cân sẽ

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nghiêng về phía người láng giềng khổng lồ Trung Quốc. Theo các nhà

phân tích, FTA ASEAN - Trung Quốc sẽ là một vật cản nhiều hơn là nỗ

lực xây dựng Khu vực mậu dịch tự do AFTA của các nước ASEAN nếu

những bức tường thuế quan trong 10 nước thành viên không được cắt

giảm một cách hiệu quả. Do đó, các nước thành viên ASEAN nên nhất

trí với khuôn khổ chung về ACFTA để tránh những bất trắc và những

mâu thuẫn trong việc chồng chéo các thoả thuận mà có thể cản trở tiến

trình tự do hoá khu vực. Muốn vậy, các nước ASEAN phải hội nhập

hơn, liên kết hơn và phải không ngừng nỗ lực tăng cường tự do hoá

trong nội bộ khối.

Nói tóm lại, mặc dù giữa ASEAN và Trung Quốc hiện nay đang

tồn tại nhiều yếu tố cạnh tranh về kinh tế nhưng hai bên hoàn toàn vẫn

có thể tìm thấy nhiều dư địa trong hợp tác để phát triển kinh tế. Dù thế

nào đi nữa, ACFTA hình thành sẽ thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ khu

vực Đông Nam Á và Đông Á, thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN

+ 3, tạo vị thế tốt hơn cho cả khu vực và cho mỗi thành viên trong tiến

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 146 -

trình tham gia vào toàn cầu hoá.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

CHƯƠNG 3: VIỆT NAM VÀ ACFTA

3.1. Quan hệ hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc

Trong 4 thành viên mới của ASEAN, Việt Nam là nước phát triển

nhất và có lẽ sẵn sàng nhất cho quá trình tự do hoá thương mại và hội

nhập kinh tế quốc tế. Hơn nữa, Việt Nam lại có rất nhiều điểm tương

đồng về điều kiện tự nhiên, chính trị, văn hoá, xã hội, … với Trung

Quốc. Là hai nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông”, quan hệ

ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại giữa hai nước đã hình thành từ

lâu như một tất yếu khách quan và cũng trở thành một quan hệ truyền

thống bền vững. Những biến động chính trị xã hội trong lịch sử có thể có

những thời kỳ đã có ảnh hưởng tiêu cực nhưng chưa bao giờ làm triệt

tiêu hoàn toàn mối quan hệ giữa nhân dân hai nước. Chính vì vậy, sau

một thời kỳ sóng gió, với sự nỗ lực của cả hai bên, quan hệ giữa hai

nước đã trở lại bình thường hoá vào cuối năm 1991. Từ đó cho đến nay,

quan hệ hợp tác giữa hai nước nói chung và trên lĩnh vực ngoại giao,

kinh tế, thương mại, đầu tư nói riêng đã được khôi phục và phát triển

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 147 -

ngày càng vững mạnh, toàn diện cả về bề rộng lẫn chiều sâu.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.1.1. Hợp tác chính trị, ngoại giao

Hiện nay, sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên

lĩnh vực chính trị và ngoại giao rất thuận lợi và tốt đẹp. Đầu năm 1999,

lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được thoả thuận chung về khung của

quan hệ Việt – Trung là 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn

diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Cuối tháng 12/ 2000, Tuyên

bố chung về sự hợp tác toàn diện trong thế kỷ mới giữa CHXHCN Việt

Nam và CHND Trung Hoa được ký kết tại Bắc Kinh. Đây chính là sự

khẳng định và cụ thể hoá của khung quan hệ 16 chữ nói trên. Cuối năm

1999, tháng 4 và tháng 8 năm 2001, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung

Cơ, Phó Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Chủ tịch Quốc hội Lý Bằng lần lượt

sang thăm hữu nghị chính thức và tham dự Đại hội lần thứ IX của Đảng

Cộng sản Việt Nam. Những văn kiện và sự kiện trên đánh dấu quan hệ

ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được nâng cấp lên giai

đoạn mới cao hơn so với khi quan hệ hai nước mới bình thường hoá.

Đồng thời với những biến đổi tích cực trong quan hệ ngoại giao

Việt Nam - Trung Quốc, hai trong ba vấn đề biên giới lãnh thổ còn tồn

tại giữa hai nước do lịch sử để lại cũng được giải quyết một cách trọn

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 148 -

vẹn, đó là việc Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước Việt –

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Trung và Hiệp định phân chia Vịnh Bắc Bộ lần lượt được ký kết tại Hà

Nội và Bắc Kinh vào ngày 31/ 12/ 1999 và 25/ 12/ 2000, biến đường

biên giới giữa hai nước trên đất liền và trong vịnh Bắc Bộ thành đường

biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác lâu dài giữa nhân dân

hai nước, tạo cơ sở thuận lợi cho việc phát triển các quan hệ thương mại

và đầu tư song phương.

3.1.2. Hợp tác thương mại

Kể từ khi bình thường hoá quan hệ đến nay, hoạt động thương mại

giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển theo chiều hướng toàn diện

hơn, tích cực hơn và đã đạt được những thành tựu đáng kể.

Trước hết, điều dễ dàng nhận thấy là hoạt động ngoại thương giữa

hai nước được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau như

buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch, tạm nhập tái xuất trong đó

buôn bán chính ngạch và tiểu ngạch là hai phương thức chính. Đa dạng

hoá phương thức trao đổi đã làm cho hoạt động thương mại giữa Việt

Nam và Trung Quốc có nhiều nét đặc trưng và cũng là lợi thế của hai

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 149 -

bên về mặt địa lý.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.1.2.1. Về xuất nhập khẩu chính ngạch:

Bảng 14: Kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc,

1995-2002

Đơn vị: triệu USD

VN xuất VN nhập Tổng kim Cán cân

Năm khẩu sang khẩu ngạch thương thương mại

TQ Từ TQ mại VN - TQ VN – TQ

1995 361.9 329.7 691.6 32.2

1996 340.2 329.0 669.2 11.9

1997 474.1 404.4 875.5 69.7

1998 478.9 510.5 989.4 -31.6

1999 858.9 683.4 1,542.3 175.5

2000 1,534.0 1,423.2 2,957.2 110.8

2001 1,418.1 1,629.1 3,047.2 -211

2002 1,500.0 2,200.0 3,700.0 -700.0

Nguồn: Trung tâm tin học và thống kê, Tổng cục hải quan Việt Nam

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 150 -

[37].

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Có thể thấy kể từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu

giữa hai nước đã tăng đều qua các năm. Đặc biệt, năm 2000, tổng kim

ngạch xuất nhập khẩu đạt 2957 triệu USD, tăng 78 lần so với năm 1991,

trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1534 triệu USD,

nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc đạt 1423 triệu USD [37], đưa

Trung Quốc trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam

năm 2000, chiếm khoảng 10.6% tổng xuất khẩu của Việt Nam, đồng

thời Trung Quốc cũng đứng thứ 5 trong số các nước cung cấp hàng nhập

khẩu cho Việt Nam, đóng góp 9.1% vào ngoại thương của Việt Nam

[25] (tham khảo Phụ lục 10).

Xét trong cả giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2002, kim ngạch

thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đã tăng 87 lần, từ 37.7 triệu

USD lên 3.7 tỷ USD; riêng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang

Trung Quốc tăng 76 lần, từ 19.3 triệu USD lên 1.5 tỷ USD, trong khi

kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam tăng 116 lần, từ

18.4 triệu USD lên 2.2 tỷ USD [37].

Cùng với sự tăng lên của kim ngạch xuất nhập khẩu, cơ cấu xuất

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 151 -

nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng phát triển theo hướng

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ngày càng đa dạng hoá về mặt hàng và chủng loại, đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của hai bên.

Hàng hoá của Việt Nam xuất sang Trung Quốc gồm 4 nhóm chính:

nhóm hàng nguyên liệu (như than đá, dầu thô, quặng kim loại, các loại

dầu, cao su tự nhiên, …); nhóm hàng nông sản (lương thực, chè, rau,

gạo, sắn lát, hạt điều, các loại rau quả nhiệt đới như chuối, xoài, thanh

long, chôm chôm, …); nhóm hàng thuỷ sản tươi sống, thủy sản đông

lạnh (như cá, tôm, cua, …) và nhóm hàng tiêu dùng (hàng thủ công mỹ

nghệ, giày dép, đồ gia dụng cao cấp, …) (xem bảng 15).

Bảng 15: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung

Quốc

(số liệu năm 2003 là dự kiến)

Đơn vị: triệu USD, khối lượng 1000 tấn

1998 1999 2000 2001 2002 2003

Khối Khối Khối Khối

Khối

Mặt hàng l- Giá l- Giá l- Giá Giá l- Giá Giá

lư-

ượn trị ượn trị ượn trị trị ượn trị trị

ợng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 152 -

g g g g

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

2,27 331. 3,21 749. 3,06 591. 3,23 618. 711.

Dầu thô 841.7 86.7 5.0 7 0.7 0 0.5 4 4.4 7 5

110. 139.

Cao su 75.6 64.8 94.7 51.8 6 66.4 96.2 51.2 9 76.3 87.8

Thuỷ hải 223. 240. 185. 213.

sản 51.5 51.7 0 0 5 4

120. 142. 118. 136.

Rau quả 10.5 35.7 4 8 3 1

9,55

Hạt điều 12.1 58.6 9.3 54.5 11.2 53.3 0.0 30.6 12.5 36.5 42.0

235. 441. 1,02 2,23

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 153 -

Than đá 349.3 5.2 5 3.6 6 7.9 9.0 18.7 5.6 41.4 47.7

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Nguồn: Trung tâm tin học và thống kê, Tổng cục hải quan Việt Nam

[37]; [38].

Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thuộc 4 nhóm trên cũng tăng dần

qua các năm, nhất là ba năm gần đây, trong đó nhiều mặt hàng đã khẳng

định được thị phần và sức cạnh tranh của mình trên thị trường Trung

Quốc như dầu thô, thuỷ hải sản, hoa quả, cao su, hạt điều, … Một số

hàng tiêu dùng, thực phẩm cũng đã mở rộng thêm thị phần như giày dép

xuất khẩu năm 2002 tăng 53.7% về giá trị xuất khẩu so với năm 2000,

chè tăng 393%, hải sản tăng 52%, rau quả tăng 48.3%, … [37].

Hàng hoá của Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc bao gồm 5

nhóm mặt hàng chính là: Dây chuyền sản xuất đồng bộ (dây chuyền sản

xuất đường, dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng, …); máy móc thiết bị

(thiết bị y tế, thiết bị vận tải, máy nông nghiệp, …); nguyên nhiên liệu

(xăng dầu, phân bón, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, …); hàng

nông sản (lương thực, bột mỳ, đường, hoa quả ôn đới như táo, lê, …) và

hàng tiêu dùng (như sản phẩm điện tử, xe máy, quần áo, đồ chơi trẻ em,

…) (xem bảng 16).

Bảng 16: Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc sang Việt

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 154 -

Nam

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Đơn vị: triệu USD, khối lượng 1000 tấn

1998 1999 2000

Mặt hàng Khối Giá Khối Giá Khối Gi¸

trÞ lượng trị lượng trị lưîng

Phô tïng, linh kiÖn xe m¸y

(CKD, IKD) 0.8 46.8 419.0

M¸y mãc, thiÕt bÞ, phô tïng 103.7 166.5

X¨ng dÇu 84 12.8 259 46.0 545 131.6

Ph©n bãn 82 15.0 134 24.0 713 104.6

S¾t thÐp 218 49.5 206 42.8 368 75.1

Linh kiÖn ®iÖn tö 9.0 20.3

Ph­¬ng tiÖn ®iÖn tö 190 3.4 83 4.4 205 2.7

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 155 -

Nguån: Trung t©m tin häc thèng kª, Tæng côc H¶i quan ViÖt Nam [38].

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Sang năm 2001, tỷ lệ hàng tiêu dùng nhập khẩu giảm đáng kể so

với năm 2000 và chủ yếu thông qua mậu dịch tiểu ngạch qua biên giới;

trong khi đó, tỷ lệ nhập khẩu hàng nguyên liệu phục vụ công nghiệp,

nông nghiệp, giao thông vận tải tăng đáng kể, cụ thể xăng dầu tăng 76%,

dược phẩm tăng 57%, máy móc thiết bị phụ tùng tăng 49%, nguyên liệu

dệt may da tăng 79% [37].

Từ cơ cấu hàng xuất nhập khẩu nêu trên có thể thấy rõ hoạt động

ngoại thương đã khai thác được thế mạnh của hai bên. Hàng hoá xuất

nhập khẩu như trên có tác dụng bổ sung cho nhu cầu tiêu dùng của nhân

dân hai nước và cũng phù hợp với đặc thù về trình độ phát triển kinh tế

của hai nước trong thập kỷ vừa qua.

3.1.2.2. Về xuất nhập khẩu tiểu ngạch:

Do đặc thù nước ta có chiều dài trên 600 km biên giới với Trung

Quốc, có nhiều cửa khẩu quốc tế, quốc gia, cửa khẩu phụ và các lối mòn

giữa hai nước rất thuận tiện cho giao thương của cư dân hai bên, trên

thực tế xuất nhập khẩu tiểu ngạch đã diễn ra trong thời gian dài và có vai

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 156 -

trò rất quan trọng trong quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Trong những năm đầu, tỷ lệ dao động giữa buôn bán chính ngạch

và tiểu ngạch với Trung Quốc thường là ở mức từ 50% – 60% [38]. Vào

thời gian này, không chỉ chiếm tỷ trọng lớn (khoảng trên dưới 40% [38]

tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước), xuất nhập khẩu tiểu ngạch còn

góp phần không nhỏ vào kích thích sản xuất trong nước phát triển và

thúc đẩy cơ cấu lại nền sản xuất cả đối với công nghiệp, nông nghiệp và

dịch vụ, nhất là đối với các địa phương biên giới. Năm 2000, kim ngạch

mậu dịch qua cửa khẩu Thanh Thuỷ (Hà Giang) đạt 16.5 triệu USD, năm

2001 đạt 32.5 triệu USD [39]. Tại cửa khẩu Lào Cai, kim ngạch mậu

dịch hai bên trong 8 tháng đầu năm 2001 cũng đạt 160 triệu USD [39].

Ước cả năm 2001, kim ngạch biên mậu đạt 400 triệu USD [40].

Với kim ngạch buôn bán ngày càng tăng, xuất nhập khẩu tiểu

ngạch đang góp phần đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng; cải thiện

rõ rệt diện mạo các địa phương biên giới; hình thành nhanh chóng nhiều

trung tâm thương mại, dịch vụ và cụm dân cư mới; kích thích lưu thông

hàng hoá và dịch vụ, đáp ứng nhu cầu trao đổi của cư dân hai nước; giải

quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống cư dân biên giới; giảm tỷ lệ

đói nghèo, tăng nguồn thu cho địa phương. Điều này đã góp phần đáng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 157 -

kể vào việc ổn định và duy trì mối quan hệ hữu nghị giữa hai bên.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.1.3. Hợp tác đầu tư

Bảng 17: Đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam

Tổng kim ngạch đầu tư

Thời gian Tổng số dự án đầu tư

theo giấy phép (USD)

Tính đến tháng 12/ 1991 200,000 1

Tính đến tháng 12/ 1992 3,044,143 10

Tính đến tháng 12/ 1994 24,000,000 22

Tính đến tháng 12/ 1995 60,000,000 33

Tính đến tháng 12/ 1998 120,000,000 61

Tính đến tháng 12/ 1999 130,000,000 76

Tính đến tháng 12/ 2000 148,000,000 92

Tính đến tháng 12/ 2001 110 221,000,000

Nguồn: Vũ Phương, “Nhìn lại tình hình đầu tư trực tiếp của Trung Quốc

tại Việt Nam 10 năm qua (11/ 1991 – 11/ 2001) - Tạp chí Nghiên cứu

Trung Quốc, số 2 (42), tháng 4/ 2002, trang 31.

Từ bảng trên có thể thấy trong 10 năm qua, đầu tư trực tiếp của

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 158 -

Trung Quốc tại Việt Nam có sự tăng trưởng với tốc độ vừa phải, năm

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 1995 tăng gấp 3.3 lần về số dự án đầu tư và gần 20 lần về kim ngạch đầu

tư so với năm 1991; tính đến cuối năm 2001, tăng gấp hơn 3.3 lần về số

dự án đầu tư và hơn 3.5 lần về tổng kim ngạch đầu tư so với năm 1995,

đứng thứ 22 trong tổng số các nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam

[41].

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư [42], trong 11 tháng đầu năm 2003,

các doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam thêm 48 dự án

với số vốn hơn 115 triệu USD (lớn gấp 2 lần so với năm ngoái), đứng

thứ 3 trong tổng số 37 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Như

vậy, tính đến nay, Trung Quốc có tất cả 237 dự án còn hiệu lực, với tổng

số vốn đầu tư đăng ký là 488.2 triệu USD, đứng thứ 16 trong số 64 nước

và vùng lãnh thổ. Tổng số vốn pháp định được những dự án trên cam kết

là hơn 67.87 triệu USD. Tuy nhiên, lượng vốn mà các dự án của Trung

Quốc thực hiện được còn thấp, tính đến nay mới chỉ đạt tổng cộng

khoảng 137.17 triệu USD.

Nhìn chung, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam hơn 10

năm qua tuy chưa nhiều song cũng đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai

phía đầu tư và tiếp nhận đầu tư. Thông qua các dự án đầu tư trực tiếp mà

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 159 -

phía Trung Quốc triển khai, Việt Nam có thêm một số xí nghiệp nhà

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam máy với những máy móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại và công nghệ sản

xuất mới, tạo ra nhiều loại sản phẩm mới và doanh thu cho xã hội, giải

quyết được hàng nghìn việc làm cho người lao động Việt Nam, … Đây

là những đóng góp cụ thể và có tác dụng tích cực trên mức độ nhất định

của đầu tư trực tiếp của Trung Quốc đối với công cuộc xây dựng kinh tế

và phát triển đất nước mà Đảng và nhân dân Việt Nam tiến hành.

Nói tóm lại, quan hệ hợp tác kinh tế, chính trị và ngoại giao giữa

hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp

trong hơn một thập kỷ qua, đặt cơ sở vững chắc và tạo điều kiện thuận

lợi cho những bước đột phá mới trong quan hệ hợp tác giữa hai bên

trong tương lai, đặc biệt là sau khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc được thành lập trong vòng 10 năm tới.

3.2. Tác động của ACFTA đối với Việt Nam.

3.2.1. Cơ hội đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA

Kinh nghiệm cho thấy rằng các nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn

nếu như họ cởi mở hơn đối với thương mại và đầu tư quốc tế. Việc tham

gia của Việt Nam vào ACFTA sẽ chứng tỏ thêm cam kết của Việt Nam

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 160 -

trong việc hợp tác và hội nhập vào kinh tế khu vực cũng như mở cửa nền

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam kinh tế và tự do hoá thương mại. Một số lợi ích mà Việt Nam có thể đạt

được thông qua việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc bao gồm:

3.2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng thương mại song phương

Trước hết, thị trường hơn 1.3 tỷ dân của Trung Quốc mở ra theo cơ

chế ACFTA sẽ là một thị trường vô cùng rộng lớn cho các sản phẩm

xuất khẩu của Việt Nam. Thật vậy, theo ước tính của Cục thống kê

Trung Quốc (NBS), xuất khẩu của Trung Quốc chỉ đóng góp từ 5 – 6%

[43] tăng trưởng kinh tế trong 15 năm tới do nhập khẩu vẫn tăng. Thực

tế cho thấy trong hơn 20 năm qua, xuất khẩu của Trung Quốc sang các

nước ASEAN chậm hơn nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước này

(tính bình quân, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm của Trung Quốc

đối với ASEAN thấp hơn tỷ lệ nhập khẩu hàng năm từ các nước này là

2.5% [43]). Bởi vậy, ngoại thương Trung Quốc tăng trưởng trong bối

cảnh ra đời ACFTA sẽ rất có lợi cho các nước ASEAN, trong đó có Việt

Nam. Đặc biệt, điều kiện gần gũi về địa lý, về tập quán tiêu dùng và văn

hoá kinh doanh giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ tạo cho các doanh

nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội để xuất khẩu các sản phẩm như nông sản,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 161 -

lâm sản, thuỷ sản, khoáng sản … Trong khi một số sản phẩm của Việt

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Nam chưa đủ khả năng xuất khẩu đi các thị trường quốc tế đòi hỏi cao

về chất lượng, tiêu chuẩn hàng hoá, phương thức giao dịch, điều kiện

giao hàng, … thì vị trí của thị trường Trung Quốc là hết sức quan trọng

so với các nguồn cung khác về cùng các sản phẩm đó. Hơn nữa, cũng do

vị trí địa lý gần Trung Quốc nên việc trùng ngành hàng chưa hẳn đã

đáng lo vì chúng ta có thể khai thác ưu thế vận chuyển, cự ly tiêu thụ.

Cụ thể như về than đá, dù Trung Quốc là nước xuất khẩu than đá lớn

nhất trên thế giới nhưng lượng than đá chúng ta xuất sang Trung Quốc

vẫn chiếm 50% [44] sản lượng than của ta. Đó là do than đá Trung Quốc

vận chuyển từ Đông Bắc đến các tỉnh phía Nam Trung Quốc làm giá

thành tăng gấp đôi, trong khi đó vận chuyển từ Hòn Gai (Việt Nam) đến

sẽ rẻ hơn nhiều. Như vậy, cơ hội xuất khẩu lớn hơn sẽ giúp Việt Nam ổn

định và tiếp tục phát triển ngành công - nông nghiệp, ngành đang đóng

vai trò rất quan trọng về kinh tế xã hội ở Việt Nam.

Thứ hai phải kể đến Chương trình thu hoạch sớm (Early Harvest

Programme - EHP), bắt đầu có hiệu lực từ 1/ 1/ 2004. Đây là một cơ chế

đặc biệt nhằm thực hiện sớm các cam kết tự do hóa trong hiệp định, trên

cơ sở dành ưu đãi có đi có lại giữa từng nước thành viên ASEAN và

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 162 -

Trung Quốc để phát huy ngay lợi ích của Khu vực mậu dịch tự do này

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trong ngắn hạn. Theo chương trình này, sẽ có nhiều dòng thuế được cắt

giảm nhanh hơn và thậm chí nằm ngoài khuôn khổ CEPT/ AFTA đã

thoả thuận. Trái với những lo ngại sụt giảm nguồn thu ngân sách khi

thực hiện cắt giảm thuế quan theo các hiệp định thương mại, việc thực

hiện chương trình thu hoạch sớm được nhiều chuyên gia kinh tế ủng hộ

bởi nhiều lợi ích thấy rõ ngay từ bây giờ.

Chương trình thu hoạch sớm (EHP) chứa đựng nhiều nội dung cụ

thể rất có lợi cho cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của nước ta hiện nay khi

thâm nhập thị trường xuất khẩu của ASEAN và Trung Quốc. EHP tập

trung vào cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng nông sản chưa chế

biến từ chương 1 - 8 trong Danh mục biểu thuế xuất nhập khẩu của mỗi

nước, loại trừ một số ngoại lệ nhất định của từng nước. Đáng chú ý là

các mặt hàng từ chương 1 - 8 trong Biểu thuế xuất nhập khẩu bao gồm

nhiều sản phẩm nông, thủy sản có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam.

Những mặt hàng này đang khai thác hữu ích nguồn lao động dồi dào

cũng như các nguồn tài nguyên sẵn có của đất nước, điều kiện tự nhiên

của các vùng, lãnh thổ và tạo việc làm cho hàng triệu lao động. 15 mặt

hàng ngoại lệ của Việt Nam gồm một số sản phẩm thịt gia cầm, trứng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 163 -

gia cầm và nhiều loại hoa quả có múi. Theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hiện hành (ban hành theo Quyết định số 110/ 2003/ QĐ-BTC ngày 25/ 7/

2003 của Bộ Tài chính), Việt Nam sẽ có 484 mặt hàng tham gia Chương

trình thu hoạch sớm. Ngược lại, phía Trung Quốc cũng có khoảng gần

500 mặt hàng tham gia chương trình này.

Theo đánh giá ban đầu, Chương trình thu hoạch sớm ít ảnh hưởng

đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN, vì giữa

các nước ASEAN đang thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu

lực chung (CEPT) trong khuôn khổ AFTA với lộ trình cắt giảm thuế

nhanh hơn. Thực tế là nước ta vẫn xuất siêu sang các nước ASEAN nh-

ưng giá trị nhỏ (khoảng trên 35 triệu USD [45]). Do đó, lợi ích của Chư-

ơng trình thu hoạch sớm đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chủ yếu

nhờ vào khai thác các mối quan hệ thương mại với Trung Quốc.

Hơn nữa, về tổng thể, Việt Nam hiện đang nhập siêu từ Trung

Quốc, song đối với các mặt hàng tham gia trong EHP thì Việt Nam lại

đang xuất siêu sang thị trường này. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan

Việt Nam, năm 2001 [45], các mặt hàng từ chương 1 - 8, Việt Nam xuất

khẩu sang Trung Quốc với kim ngạch khá cao, chiếm khoảng 27.5%

tổng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc; trong đó các mặt hàng nông

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 164 -

sản và thuỷ sản đạt 455.6 triệu USD giá trị xuất khẩu, chiếm 32% tổng

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giá trị xuất khẩu sang thị trường này. Năm 2002, Việt Nam xuất khẩu

được 279 triệu USD, bằng 19.5% tổng giá trị xuất khẩu sang Trung

Quốc. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là các loại cá (chương 3), rau và

hoa quả ăn được (chương 7, 8). Sở dĩ giá trị xuất khẩu năm 2002 giảm

cả về số tuyệt đối và tương đối là do nhiều nguyên nhân khác nhau, như

giá mặt hàng nông sản giảm sút, thay đổi trong cơ cấu xuất khẩu và việc

Trung Quốc thay đổi chính sách thuế theo cam kết trong WTO.

Hiện tại, mức thuế suất MFN bình quân các mặt hàng thuộc các

chương 1 - 8 của Trung Quốc là 18.8% [45]. Trong số 206 dòng thuế có

kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam, chỉ có 7 dòng thuế có thuế suất MFN

0% (tức là Trung Quốc không có nghĩa vụ cắt giảm) nhưng có tới 123

dòng thuế có thuế suất trên 15% thuộc nhóm 1 và 76 dòng thuế có thuế

suất từ 5% - 15% thuộc nhóm 2 [45]. Đây sẽ là điều kiện thuận lợi đối

với các doanh nghiệp Việt Nam phát triển thị trường xuất khẩu sang

Trung Quốc do phần lớn các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang

Trung Quốc sẽ được cắt giảm thuế quan. Mặt hàng được hưởng lợi nhiều

nhất là hải sản với giá trị xuất khẩu năm 2001 là 240 triệu USD [45],

tương đương với kim ngạch năm 2000 nhưng gần gấp 4 lần so với giá trị

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 165 -

năm 1999. Năm 2002, khả năng xuất khẩu hải sản sang Trung Quốc ước

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đạt trên 400 triệu USD. Tiếp đến là các loại quả và hạt với giá trị xuất

khẩu là 142 triệu USD [45], thấp hơn 30 triệu USD so với năm 2000

nhưng gần gấp 2 lần so với năm 1999.

Về phía Việt Nam, theo cam kết cắt giảm thuế trong EHP, từ 2004,

Việt Nam sẽ phải cắt giảm 88 dòng thuế nhập khẩu từ Trung Quốc thuộc

3 nhóm (trên 30%; 15% - 30%; và dưới 15%) xuống còn 0% vào năm

2008 (xem bảng 8, phần 1.2.2.3.vii.). Hiện nay, thực tế đã có 8 dòng

thuế có thuế suất bằng 0% nên Việt Nam chỉ phải cắt giảm 80 dòng thuế.

Ngược lại, Trung Quốc sẽ phải cắt giảm 206 dòng thuế nhập khẩu

từ Việt Nam đạt tới thuế suất bằng 0% vào trước ngày 01/ 01/ 2006;

trong đó 123 dòng thuế suất trên 15%, 76 dòng có thuế từ 5% - 15% và

có 7 dòng thuế hiện nay đã áp dụng 0%. Theo lộ trình, phía Trung Quốc

sẽ cắt giảm thuế khá mạnh và nhanh (xem bảng 7, phần 1.2.2.3.vii.).

Như vậy, không phải chờ đến năm 2006 mà từ năm 2004 sẽ có rất

nhiều mặt hàng xuất khẩu không phải chịu thuế và sang năm 2005, tất cả

các mặt hàng chỉ còn chịu thuế ở mức 0% - 5%. Điều này sẽ mang lại lợi

ích khá lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Theo tính toán của Bộ

Thương mại [46], nếu năm 2001, nhóm mặt hàng có thuế suất trên 15%

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 166 -

phải chịu mức thuế trung bình chung là 21.3% và các doanh nghiệp đã

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam phải nộp 66.65 triệu USD tiền thuế thì ngay năm đầu tiên cắt giảm thuế

theo chương trình EHP (2004), số thuế này sẽ giảm quá nửa, còn 32.7

triệu USD và chỉ còn 16.3 triệu USD vào năm 2005, và đến năm 2006

thì giá trị tính thuế sẽ không còn nữa, nó sẽ chuyển thành lợi nhuận và

ưu thế cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường Trung Quốc.

Điều đáng nói là đa số các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh như

nông sản, thuỷ sản… chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu

của Việt Nam (khoảng 28% [46]) đều đang thuộc nhóm chịu mức thuế

cao trên 15% sẽ được giảm thuế mạnh ngay từ đầu, trong khi đó chúng

ta nhập khẩu không nhiều các sản phẩm cùng loại từ Trung Quốc

(khoảng 1.7 % [46]). Các nhóm hàng thuế suất từ 5% - 15% tuy giá trị

cắt giảm tuyệt đối không nhiều (6.9 triệu USD năm 2001 xuống 3 triệu

USD [46] năm 2004 và khoản thuế này sẽ không còn vào năm 2005)

nhưng sẽ mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu các mặt hàng mới sang thị

trường đông dân này.

Điều lo ngại lớn nhất của các doanh nghiệp là cắt giảm thuế theo

EHP sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam,

gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước khi họ có quá ít

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 167 -

thời gian đối phó với các cơ sở sản xuất hàng giá rẻ của Trung Quốc.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Tuy nhiên, theo cam kết trong EHP, các nhóm hàng Việt Nam cắt giảm

thuế đều không phải các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Trung Quốc

sang thị trường Việt Nam. Năm 2001, các nhóm hàng này chỉ chiếm

0.2% kim ngạch nhập khẩu, khoảng 28 triệu USD [46]. Trong khi đó,

năm 2001, Việt Nam đã xuất siêu 361 triệu USD các sản phẩm cùng loại

sang nước bạn, gấp hơn 13 lần giá trị nhập về [46]. Thực tế thị trường

hiện nay cho thấy, các nhóm hàng này bao gồm: các loại trứng chim, hải

sản, nấm, lông vũ để nhồi, hoa quả tươi, một số giống cây, các loại gà

thịt, … thường chỉ đi qua đường tiểu ngạch hoặc nhập về sản xuất trong

nước với số lượng ít, không cạnh tranh được với sản phẩm của Việt Nam

về chất lượng. Bên cạnh đó, sẽ có nhiều mặt hàng phải chịu sự kiểm dịch

và quản lý chuyên ngành gắt gao.

Vì thế, Bộ Thương mại khẳng định: việc cắt giảm thuế theo

chương trình thu hoạch sớm sẽ không ảnh hưởng đến sản xuất và thị

trường trong nước, nguồn thu ngân sách cũng không bị sụt giảm. Chúng

ta có nhiều thuận lợi về khung thời gian cắt giảm (sau 2 năm), chủng

loại và khối lượng xuất khẩu tăng nhanh khi thực hiện EHP, cho nên các

khoản thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ đủ bù

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 168 -

đắp lượng giảm thuế từ xuất nhập khẩu trực tiếp. Do vậy, việc thực hiện

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chương trình thu hoạch sớm vẫn sẽ rất có lợi cho các doanh nghiệp Việt

Nam.

Theo tính toán của Bộ Thương mại dựa trên số liệu xuất nhập khẩu

năm 2001, EHP sẽ tác động có lợi cho xuất khẩu nước ta khoảng 389

triệu USD và tác động tiêu cực đến nhập khẩu Trung Quốc 28 triệu USD

nhập khẩu. Trong đó, mặt hàng có lợi nhất là hải sản với giá trị tăng

thêm khoảng 201 triệu USD, tiếp đến là các loại rau quả với 129 triệu

USD; riêng mặt hàng hải sản có thể sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 400 triệu

USD sau khi có cắt giảm thuế [46]. Rõ ràng là thực hiện chương trình

thu hoạch sớm sẽ mang lại nhiều kết quả tốt đẹp. Đây thực sự là một cơ

hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng, đa

dạng hoá thị trường cho các sản phẩm có thế mạnh như nông sản, thuỷ

sản, …

Thứ ba, với việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc, xuất khẩu các hàng hoá nông nghiệp, lương thực và những

hàng hoá dựa trên tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam sẽ có nhiều khả

năng được mở rộng, ví dụ như các sản phẩm ngũ cốc như đậu nành và

các hạt chứa dầu, rau quả nhiệt đới, cao su, len và các sản phẩm len.

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 169 -

Theo các nghiên cứu về chỉ số lợi thế so sánh cạnh tranh, Việt Nam có

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam lợi thế cạnh tranh tương đối đối với các sản phẩm nông nghiệp và lương

thực của Trung Quốc và do đó Trung Quốc sẽ có thể là thị trường tiềm

năng đối với các sản phẩm này của Việt Nam. Cơ hội hãy còn nhiều khi

Trung Quốc mỗi năm nhập 45 tỷ USD (đại lục nhập 30 tỷ USD nông sản

và Hồng Kông nhập 15 tỷ USD) trong khi Việt Nam một năm chỉ sản

xuất ra khối lượng nông lâm thuỷ sản trị giá 4.3 tỷ USD [47]. Hơn nữa,

theo các nghiên cứu sơ bộ, việc gia nhập WTO sẽ giúp Trung Quốc tăng

thêm 1% GDP, tương đương với 12 tỷ USD mỗi năm. Theo đó, nhu cầu

của Trung Quốc đối với hàng nhập khẩu ASEAN sẽ tăng 10%, từ mức

22.2 tỷ USD năm 2000 tăng lên 35.5 tỷ USD năm 2005 [47]. Nhờ đó,

xuất khẩu các hàng hoá nông nghiệp, thực phẩm và các sản phẩm dựa

vào tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam chắc chắn sẽ được mở rộng.

Thứ tư, Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc

được ký kết cũng sẽ nâng cao năng lực thâm nhập thị trường Trung

Quốc của doanh nghiệp Việt Nam. Với việc ký kết hiệp định khung này,

Trung Quốc đã cam kết cho Việt Nam được hưởng ngay lập tức và đầy

đủ sự đãi ngộ MFN theo các chuẩn mực của WTO liên quan đến cắt

giảm thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, dịch vụ, đầu tư và sở hữu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 170 -

trí tuệ. Với điều kiện thuận lợi hơn về mặt địa lý và được bình đẳng hay

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ưu đãi trên thị trường Trung Quốc, lúc này doanh nghiệp Việt Nam cần

chủ động hơn trong việc nghiên cứu và xem xét một cách kỹ lưỡng các

cam kết của Trung Quốc khi gia nhập WTO, lợi ích của Hiệp định

khung ASEAN - Trung Quốc, chuẩn bị về mặt tư tưởng và vật chất, xây

dựng và khai thác thị trường Trung Quốc, phát huy mọi nguồn lực của

đất nước và thực sự tham gia hiệu quả vào quá trình hội nhập của khu

vực.

3.2.1.2. Tăng đầu tư, chuyển giao công nghệ, du lịch và hợp tác đào

tạo nguồn nhân lực

Theo nhận định của ông Trần Đức Minh, Phó tổng thư ký ASEAN,

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc một khi được thành lập

sẽ thu hút lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài rất lớn vì đây là “một thị

trường thống nhất, khả năng rủi ro, bất ổn sẽ giảm đi đáng kể so với

tổng thị trường riêng lẻ. Tính cạnh tranh cao và hiệu quả kinh tế quy mô

lớn sẽ là động lực mạnh mẽ để các doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn cho

nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy các sáng kiến công nghệ” [48].

ACFTA có sức thu hút FDI từ bên ngoài, vì các nhà đầu tư có thể tránh

bị đánh thuế bằng cách xây dựng các cơ sở sản xuất trong khu vực mậu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 171 -

dịch tự do .

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Trong trường hợp của Việt Nam, ACFTA cũng sẽ thúc đẩy đầu tư

và các mối quan hệ hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Trung Quốc với Việt

Nam mà hệ quả là đầu tư, đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp,

chuyển giao công nghệ, du lịch, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực của

Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ tăng lên. Lấy ví dụ trong ngành nông

nghiệp, tính đến hết năm 2001, Trung Quốc có 62 dự án đăng ký vào

ngành nông nghiệp với số vốn đăng ký đầu tư là 190.8 triệu USD; số dự

án đã và đang thực hiện là 41 dự án, với số vốn thực hiện là 81.7 triệu

USD, chiếm gần 7% số vốn thực hiện trong toàn ngành, đứng thứ 6

trong tổng số các nhà đầu tư vào ngành nông nghiệp [49] (sau Đài Loan,

Pháp, Singapore, Anh và Thái Lan). Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu là sản

xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, chăn nuôi và thức ăn

chăn nuôi. Quy mô của các dự án này tuy tương đối nhỏ nhưng triển

khai luôn có hiệu quả. Các chuyên gia cho rằng nếu Việt Nam khắc phục

được những yếu kém về thủ tục hành chính, cơ sở hạ tầng, trình độ quản

lý, ngoại ngữ, Trung Quốc, với thế mạnh về công nghiệp chế biến nông

lâm thuỷ sản của mình, chắc chắn sẽ tăng đầu tư vào nông nghiệp Việt

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 172 -

Nam để tận dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, giá nhân công rẻ. Đấy là

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chưa kể nguồn FDI từ các nước khác trong khối vào Việt Nam cũng sẽ

tăng lên để tranh thủ thâm nhập thị trường Trung Quốc.

Những thuận lợi trong lĩnh vực đầu tư của Việt Nam không chỉ

nằm ở khả năng hấp dẫn nguồn vốn từ bên ngoài khu vực và từ Trung

Quốc, mà còn ở chỗ một khi Trung Quốc mở cửa khu vực dịch vụ, các

nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp của ASEAN, trong đó có Việt

Nam, sẽ có cơ hội khai thác lĩnh vực này. Đặc biệt, cơ hội tìm kiếm việc

làm cho các nhà chuyên môn trong lĩnh vực dịch vụ như tư vấn pháp

luật, quản lý, kiến trúc sư, giáo viên, kế toán và cán bộ ngân hàng cũng

sẽ tăng lên.

Thêm vào đó, ngành công nghiệp du lịch của Việt Nam sẽ có nhiều

khả năng được lợi từ việc hội nhập kinh tế với Trung Quốc. Trong thời

điểm hiện tại, nhìn chung thì nền kinh tế Việt Nam đang được lợi từ hai

dự án khu vực liên quan đến du lịch là Hành lang kinh tế Đông – Tây

(EWEC) và Tuyến đường xe lửa liên quốc gia Singapore – Việt Nam –

Nam Trung Quốc. Hai dự án này đã được các chính phủ thông qua và đã

được cấp vốn từ các thể chế tài chính quốc tế như Ngân hàng phát triển

Châu Á ADB. Hơn nữa, do dân số Trung Quốc đông, kinh tế liên tục

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 173 -

phát triển, mức sống của người dân được nâng cao, chính phủ khuyến

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khích tiêu dùng, tăng thời gian nghỉ ngơi cho người dân, vì thế chắc

chắn nước này cũng sẽ là một thị trường du lịch tiềm năng đối với Việt

Nam. Mỗi năm Trung Quốc có 8,4 triệu người tham gia các tuyến du

lịch quốc tế. Do vị trí địa lý gần kề Trung Quốc, từ chỗ chiếm 5% tổng

số khách du lịch quốc tế vào Việt Nam năm 1995 và 25% vào năm 2000,

đến nay, số khách du lịch Trung Quốc đã chiếm gần 30% tổng số khách

du lịch Việt Nam năm 2001 [47]. Trong tương lai, chắc chắn con số này

sẽ tăng hơn nữa khi Trung Quốc đẩy mạnh tự do hoá trong khuôn khổ

của WTO và xa hơn nữa là ACFTA.

3.2.1.3. Tự do hoá thị trường và gắn chặt với cải cách

Không chỉ thúc đẩy thương mại, đầu tư và du lịch, việc tham gia

vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc còn giúp Việt Nam

tự do hoá hơn nữa và gắn chặt với quá trình cải cách. Thật vậy, cạnh

tranh tăng và tự do hoá hơn sẽ buộc Việt Nam phải sản xuất các hàng

hoá và dịch vụ ở những ngành có lợi thế cạnh tranh lớn nhất, trong khi

chủ nghĩa bảo hộ sẽ chỉ làm cản trở và bóp méo sự phát triển của một

nền kinh tế có tính cạnh tranh quốc tế. Trên thị trường thế giới, sức cạnh

tranh sẽ tiếp tục là yếu tố duy nhất và quan trọng nhất đối với tương lai

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 174 -

của kinh tế Việt Nam. Những người nhận được lợi ích to lớn của quá

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trình tự do hoá thương mại của Việt Nam đã, đang và sẽ là chính những

doanh nghiệp Việt Nam. Nói cách khác, cải cách thương mại theo

ACFTA sẽ cho phép các doanh nghiệp Việt Nam có được sự tiếp cận lớn

nhất đối với các cơ hội trên toàn cầu.

Bên cạnh đó, mối quan hệ gần gũi hơn giữa Việt Nam và Trung

Quốc trong khuôn khổ ACFTA sẽ cho phép Việt Nam học hỏi từ những

kinh nghiệm cải cách kinh tế của Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc

có điểm tương đồng ở chỗ hai nước trước đây từng là những nền kinh tế

xã hội chủ nghĩa và hiện đang dần chuyển sang nền kinh tế thị trường để

đưa nền kinh tế thu nhập thấp của mình tới một mức độ thịnh vượng

nhất định. Việt Nam có thể học tập Trung Quốc trong việc duy trì và cải

thiện môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,

mở cửa thị trường trong nước để tăng sự cạnh tranh về đầu tư, cải cách

khu vực dịch vụ tài chính và khu vực doanh nghiệp nhà nước, phát triển

và tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, …, từ đó góp phần đẩy

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 175 -

nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.2.1.4. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong các vòng đàm phán song

phương và đa phương

Việc tham gia của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

- Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam có thêm kinh nghiệm trong đàm phán

thương mại và cho phép Việt Nam có sức mạnh lớn hơn trong việc tạo

ảnh hưởng đối với các chương trình nghị sự thương mại quốc tế nói

chung và việc đàm phán thương mại đa phương nói riêng. Trước đó,

Việt Nam đã có được một số kinh nghiệm từ việc tham gia vào AFTA và

APEC mà Việt Nam có thể tận dụng khi tham gia đàm phán về việc thực

hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Việc tham gia vào

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có thể được xem là một

“bài diễn tập hội nhập kinh tế” cho Việt Nam và là một quá trình mà

Việt Nam đang thực hiện để hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.

Hơn nữa, việc tham gia của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc sẽ gửi những tín hiệu quan trọng tới những thành

viên mới khác của ASEAN là Campuchia, Lào và Myanmar rằng họ cần

phải hết sức cố gắng để cải thiện tình hình kinh tế và các hệ thống thể

chế nếu như họ không muốn bị tụt hậu. Trong số những nước này, có thể

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 176 -

nói rằng Việt Nam là nước đề ra được tinh thần và cách thức tham gia

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức đa phương và khu vực. Đặc biệt, chiến lược mở cửa

kinh tế của Việt Nam và cách thức phối hợp những chính sách này với

chiến lược tổng thể của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh

tế thế giới là những bài học mà Campuchia, Lào và Myanmar có thể học

tập.

Một điểm quan trọng nữa là sự tham gia của Việt Nam vào

ACFTA sẽ hỗ trợ quá trình xin gia nhập WTO của Việt Nam và làm

tăng lòng tin của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Gia nhập WTO

là mối quan tâm đối với Việt Nam bởi lẽ: Thứ nhất, Việt Nam cam kết

mở cửa càng sớm theo yêu cầu của WTO thì lòng tin của các nhà đầu tư

và theo đó là tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người sẽ càng

tăng sớm. Thứ hai, những thoả thuận ưu đãi đang được dành cho thành

viên của AFTA có thể dẫn tới sự chệch hướng thương mại. Bằng việc đa

phương hoá những cam kết này như một phần của quá trình gia nhập

WTO, nguy cơ mất mát những lợi ích do việc chia rẽ thương mại có thể

được tránh. Tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ

giúp Việt Nam đẩy nhanh tốc độ cơ cấu lại nền kinh tế, cải cách các hệ

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 177 -

thống thương mại và pháp lý cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trường. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc Việt Nam sớm gia nhập WTO

và các thể chế quốc tế khác.

3.2.2. Thách thức đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA

Tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc,

ngoài những thách thức nói chung đối với các thành viên ASEAN như đã

phân tích ở các phần trước, Việt Nam còn phải đối mặt với những khó

khăn cụ thể như:

3.2.2.1. Cán cân thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc dễ tiếp tục

phát triển theo hướng Việt Nam nhập siêu nhiều hơn từ Trung

Quốc

Thực tế đã cho thấy rằng rủi ro sẽ ít hơn khi FTA được thực hiện

giữa các quốc gia có tiềm lực kinh tế ngang nhau, quan hệ “hàng đổi

hàng” trong một không gian thuế quan thấp sẽ kích thích sự tăng trưởng

kim ngạch buôn bán giữa các bên. Trong trường hợp một bên có tiềm

lực kinh tế yếu hơn, khả năng nhập siêu đối với bên đó là khó tránh khỏi

khi FTA được thực hiện. Điều này rất đúng đối với trường hợp của Việt

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 178 -

Nam khi tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Thật vậy, khi ACFTA hình thành, mặc dù triển vọng tăng cường

xuất khẩu giữa Trung Quốc và ASEAN là rất lớn song đối với Việt Nam

cơ cấu kinh tế và cơ cấu hàng hoá trao đổi dễ dẫn đến tình trạng quan hệ

thương mại Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục phát triển theo quan hệ

hàng dọc, trong đó Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu, nông lâm thuỷ sản

và nhập khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc. Điều này khác với các

nước ASEAN- 6 có quan hệ ngang hàng với Trung Quốc, xuất nhập

khẩu chủ yếu đều là hàng công nghiệp. Thái Lan, Singapore và có thể cả

Malaysia rõ ràng không gặp trở ngại gì khi gia nhập khu vực mậu dịch

tự do mới này. Các nước này đều đã là thành viên WTO, khoảng cách

đến Trung Quốc cũng xa hơn, hơn nữa cơ cấu sản phẩm của các nước

này có mức độ chế biến khá sâu, giá thành của nhiều mặt hàng thậm chí

còn rẻ hơn cả Trung Quốc (ô tô của Malaysia, dệt may của Thái Lan).

Các nước khác như Lào, Campuchia và Myanmar là những nước có nền

kinh tế công nghiệp, chủ yếu nhập khẩu hàng công nghiệp do vậy cũng ít

bị ảnh hưởng bởi việc tham gia ACFTA. Trường hợp Việt Nam, do cơ

cấu hàng công nghiệp của hai nước có sự giống nhau khá đặc biệt, hàng

Trung Quốc lại thường rẻ hơn (như trường hợp động cơ cỡ nhỏ của

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 179 -

Trung Quốc) nên sức cạnh tranh rất lớn. Trong tương lai, khi mở cửa

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc, với khoảng cách rất gần và cơ

cấu công nghiệp còn chưa kịp điều chỉnh đến 2012, rõ ràng Việt Nam sẽ

gặp nhiều bất lợi hơn các nước khác cả trong quan hệ thương mại lẫn

trong cố gắng công nghiệp hoá nền kinh tế.

Hơn nữa, trong quan hệ trao đổi hàng hoá với Việt Nam hiện nay,

Trung Quốc nhập khẩu khoảng 90% là nguyên liệu và các sản phẩm sơ

chế như dầu thô, nông sản, thuỷ sản, khoáng sản, … và xuất khẩu

khoảng trên 70% là các thành phẩm công nghiệp [50]. Với cơ cấu hàng

hoá nêu trên, trong bối cảnh chiều hướng giá cả quốc tế trong những

năm gần đây luôn biến động theo hướng giảm sút bất lợi cho những

nước xuất khẩu nguyên liệu và nông sản, Việt Nam sẽ khó có thể cải

thiện cán cân thương mại với Trung Quốc mà thậm chí có thể sẽ nhập

siêu nhiều hơn từ người bạn hàng lớn này.

3.2.2.2. Sức ép cạnh tranh trên thị trường nội địa Việt Nam sẽ càng

thêm nặng nề.

i. Trong lĩnh vực công nghiệp:

Điều dễ nhận thấy là các doanh nghiệp Trung Quốc mạnh hơn

doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là đối với các ngành công

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 180 -

nghiệp non trẻ của Việt Nam. Ngay trong các ngành Việt Nam đang

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tương đối có lợi thế cạnh tranh như dệt may, da giầy, sản xuất hàng tiêu

dùng, … thì hàng hoá Trung Quốc cũng đang chiếm ưu thế khá lớn. Đối

với các ngành Việt Nam đang mong muốn đi vào phát triển như các sản

phẩm công nghệ cao (thiết bị điện tử, điện tử, công nghệ thông tin, …),

hoá chất, cơ khí, … thì Trung Quốc đều đã và đang phát triển mạnh, với

năng lực cạnh tranh cao. Khi hàng rào thuế và phi thuế được hạ thấp,

hàng hoá và doanh nghiệp Trung Quốc sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường

Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải rất vất vả mới có thể đứng

vững trên thị trường nội địa, còn những ngành mới sẽ không dễ có cơ

hội phát triển.

ii. Trong lĩnh vực nông nghiệp:

Trung Quốc là nước sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản lớn nhất

thế giới, đồng thời Trung Quốc lại có trình độ phát triển cao hơn Việt

Nam về khoa học công nghệ, nhất là giống, công nghệ chế biến, thiết bị

máy móc, vật tư nông nghiệp, … do vậy tự do hoá thương mại trong

khuôn khổ ACFTA sẽ là thách thức không nhỏ đối với hàng nông sản

nước ta. Hiện nay, thuế nhập khẩu MFN đối với các nhóm hàng mà

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 181 -

nước ta nhập từ Trung Quốc như sau:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Bảng 18: Thuế nhập khẩu MFN đối với các mặt hàng Việt Nam

nhập khẩu từ Trung Quốc

Đơn vị: %

Mặt hàng Thuế nhập khẩu MFN

Giống cây trồng các loại 0

Rau tươi 30

Quả (lê, táo, cam, quýt, …) 40

Rau quả, thịt chế biến 50

Ngô 5

Lúa mỳ 0

Phân bón 0

Thuốc bảo vệ thực vật 0 – 1

Thuốc thú y 0

Da các loại 5

Nguồn: “Đánh giá tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc đến ngành nông nghiệp Việt Nam”- Tham luận của Bà

Phạm Thị Tước, Vụ phó Vụ Kế hoạch và Quy hoạch, Bộ Nông nghiệp &

phát triển nông thôn tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 182 -

thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel,

CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002.

Mức thuế trên cho thấy nước ta đang bảo hộ rất cao đối với hàng

nông sản, thực phẩm chế biến và rau quả, trong khi những ngành này lại

đang là thế mạnh của Trung Quốc. Khi Trung Quốc thiếu thì nhập khẩu

hàng của Việt Nam rất mạnh, nhưng khi được mùa, dư thừa thì không

những không nhập khẩu mà còn thâm nhập thị trường Việt Nam rất

mạnh làm chao đảo cả một số ngành hàng của Việt Nam (như trứng gà,

dưa hấu). Hơn nữa, do Trung Quốc thường mua nông sản thô về chế

biến tiêu dùng trong nước nên mặc dù cơ hội tăng xuất khẩu đối với sản

phẩm thô là có thực nhưng giá trị giá tăng thấp, trong khi cơ hội xuất

khẩu hàng nông sản chế biến không nhiều, thậm chí còn gặp khó khăn

ngay cả trên thị trường Việt Nam.

Ngoài ra, khi thực hiện tự do hoá thương mại trong khuôn khổ

ACFTA, các nhóm hàng này sẽ gặp phải thách thức đáng kể không chỉ

từ hàng hoá của Trung Quốc mà còn cả từ các nước ASEAN khác. Cụ

thể, lấy ví dụ về mặt hàng gạo: Thái Lan là một nước xuất khẩu gạo lớn

trong ASEAN. Với việc hưởng lợi từ mức thuế quan thấp mà ACFTA

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 183 -

mang lại, các mặt hàng của Thái Lan, mà trước hết là gạo, sẽ có lợi thế

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cạnh tranh hơn hẳn so với Việt Nam. Trong vòng 10 năm tới, khi FTA

ASEAN - Trung Quốc từng bước được thực hiện, cho dù có chung một

mức thuế quan thấp, nhưng khi đó các sản phẩm của Việt Nam liệu có

tạo được sức cạnh tranh ngang bằng với các sản phẩm cùng loại của

Thái Lan và một số nước ASEAN khác hay không cũng là một vấn đề

không nhỏ đặt ra đối với Việt Nam khi tham gia vào Khu vực mậu dịch

tự do này.

iii. Trong lĩnh vực dịch vụ:

Khi mở cửa, thực hiện cam kết ACFTA, sẽ có thể có hai tình

huống. Một là, các dịch vụ của Việt Nam có thể trụ vững và vươn ra

ngoài, chiếm lĩnh trên thị trường. Hai là, các doanh nghiệp Việt Nam có

thể bị mất thị phần, phải liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài và

phụ thuộc vào họ để sống.

So sánh với các quy định của GATS được lấy làm cơ sở cho việc

hình thành ACFTA, có thể thấy khu vực dịch vụ của Việt Nam còn chịu

nhiều quy định không thích hợp. Nhiều lĩnh vực độc quyền chỉ có một

doanh nghiệp nhà nước duy nhất được phép hoạt động như bưu chính

viễn thông, hàng không, … hoặc phải trải qua một quá trình cấp phép

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 184 -

chưa được minh bạch, công khai. Bên cạnh đó, hàng loạt dịch vụ hiện

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam nay hầu như chưa tồn tại như một dịch vụ thương mại, có tỷ trọng tương

xứng. Ví dụ, dịch vụ nghiên cứu thị trường, tiếp thị, dịch vụ kế toán qua

mạng, … cần được phát triển gấp, nếu không sẽ bị doanh nghiệp Trung

Quốc chiếm lĩnh. Dịch vụ bất động sản hiện nay cũng đang tồn tại nhiều

bất cập do chịu sự can thiệp quá nhiều của các cơ quan hành chính, dẫn

tới bị biến dạng làm cho giá cả, luật lệ kinh doanh rất thất thường, năng

lực cạnh tranh thấp. Thị trường môi giới lao động cũng vậy.

Du lịch Việt Nam tuy có khả năng tăng trưởng nhất định, chủ yếu

nhờ vào ưu thế thiên nhiên, truyền thống văn hoá, lịch sử song không thể

quá lạc quan vì sản phẩm du lịch còn thiếu sự đa dạng, chất lượng chưa

cao và giá cả chưa phải hấp dẫn so với các nước trong khu vực, tỷ lệ

khách quay lại lần thứ hai rất ít so với các nước khác như Thái Lan và

Trung Quốc.

Dịch vụ ngân hàng tuy có nhiều tiến bộ song năng lực cạnh tranh

còn thấp, nhất là năng lực đánh giá dự án, giám sát tín dụng. Hệ thống

bảo hiểm cũng gặp khó khăn tương tự.

Các loại hình dịch vụ khác như tư vấn pháp lý, tư vấn quản lý,

kiểm toán, kế toán còn khá mới mẻ đối với Việt Nam. Kết quả điều tra

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 185 -

của Dự án phát triển Mekong (MPDF) 1998 về sử dụng 7 loại dịch vụ

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam khác nhau cho thấy nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam chưa

có đủ tài chính và cũng chưa quen sử dụng các dịch vụ như kế toán, vi

tính, tư vấn, quảng cáo, … Trong khi đó, ở Trung Quốc, các ngành nghề

này đã và đang phát triển rất mạnh mẽ, do vậy sẽ tạo ra khoảng cách

chênh lệch khá lớn khi các cam kết về dịch vụ được thực hiện trong

khuôn khổ ACFTA.

Dịch vụ chữa bệnh, kết hợp Đông y với Tây y như châm cứu, bấm

huyệt và các bài thuốc Đông y đặc hiệu có tiềm năng phát triển, song

trình độ còn yếu, chưa thích hợp để tiếp nhận khách quốc tế. Do vậy, khi

ACFTA hình thành, có khả năng tầng lớp trung lưu ở Việt Nam sẽ sang

Thái Lan hay Trung Quốc để chữa bệnh và thị trường của dịch vụ này ở

Việt Nam có thể bị các doanh nghiệp Trung Quốc chiếm lĩnh.

Tóm lại, năng lực cạnh tranh và trình độ phát triển của khu vực

dịch vụ của Việt Nam tương đối thấp. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

- Trung Quốc sẽ mở ra thị trường rộng lớn nhưng cạnh tranh gay gắt,

trong đó Trung Quốc sẽ là một đối thủ cạnh tranh mạnh trên hầu hết các

loại hình dịch vụ. Nếu không có sự chuẩn bị năng động, có hệ thống và

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 186 -

đồng bộ cho từng loại hình dịch vụ, sức ép cạnh tranh sẽ ập đến các loại

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hình dịch vụ của Việt Nam và thời gian đầu của thời kỳ mở cửa trong

khuôn khổ ACFTA sẽ rất khó khăn.

iv. Trong lĩnh vực đầu tư

Khi ACFTA được hình thành, sức thu hút của Trung Quốc đối với

đầu tư và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ

càng lớn hơn so với ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Không

chỉ thu hút 80% [28] nguồn vốn FDI, Trung Quốc còn đang thu hút số

lớn các ngân hàng nước ngoài, các chi nhánh của các công ty đa quốc

gia và các nước khác đang hoạt động trong khu vực về lãnh thổ của

mình. Khi ACFTA mở ra cho Trung Quốc, Việt Nam và các nước

ASEAN khác sẽ càng khó cạnh tranh hơn trong việc thu hút các nguồn

lực đó. Thậm chí đối với Việt Nam, do sự kém hấp dẫn của môi trường

đầu tư nên ngay cả việc giữ chân các nhà đầu tư, các công ty nước ngoài

đang có mặt ở Việt Nam để họ khỏi chuyển đi những nơi có môi trường

kinh doanh tốt hơn trong khu vực cũng không phải là điều dễ dàng.

Nói tóm lại, trong cạnh tranh thương mại quốc tế luôn có được và

có mất, đó là một thực tế. Tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc trước hết phải thấy được những lợi ích rõ rệt mà

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 187 -

nó mang lại cho tự do hoá thương mại, xoá bỏ dần những rào cản trong

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam buôn bán, tăng cường hoạt động kinh tế, thúc đẩy thực hiện các quy chế

của WTO, … Đó là những điều mà Việt Nam đang rất cần trong tiến

trình gia nhập tổ chức này. Cũng như các cuộc tranh chấp thương mại

luôn xảy ra giữa các “ông lớn” như Mỹ – EU, Mỹ – Nhật Bản, Trung

Quốc – Nhật Bản, Trung Quốc – Mỹ, …, sự đối đầu giữa ASEAN nói

chung và Việt Nam nói riêng với Trung Quốc trong một FTA mà tất cả

các thành viên đang hướng tới là hoàn toàn có thể diễn ra. Các nhà

hoạch định chính sách thương mại và các doanh nghiệp Việt Nam cần

đặt ra cho mình một đích đến khả quan để có thể trụ vững trong cuộc

cạnh tranh này.

3.3. Một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vào ACFTA

Mặc dù Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc ra đời sẽ

mang lại không ít những thách thức đối với Việt Nam, nhưng nếu Việt

Nam biết cách biến những thách thức này thành cơ hội, biết cách đưa ra

những điều chỉnh đúng đắn để giảm bớt những thách thức này đồng thời

biết cách tận dụng những lợi thế so sánh của mình, tận dụng phát huy

những cơ hội đã có trước đây và sẽ có được từ hợp tác trong ACFTA sắp

tới, thì ACFTA sẽ thực sự trở thành một cơ chế hợp tác có hiệu quả

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 188 -

mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam. Sau đây là một số kiến nghị để

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vào ACFTA nhằm đạt được sự hợp tác

các bên cùng có lợi và sự phát triển có hiệu quả hơn của ACFTA trong

tương lai.

3.3.1. Chuyên môn hoá sản xuất và chế biến những mặt hàng xuất

khẩu mà Việt Nam có năng lực cạnh tranh hơn so với Trung Quốc

3.3.1.1. Tập trung phát triển lĩnh vực sản xuất chế biến hàng nông

lâm hải sản để tăng dần tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu hàng

xuất khẩu và mở rộng xuất khẩu.

Về nông sản, các nước ASEAN có nhu cầu về sản phẩm nhiệt đới

còn Trung Quốc lại có ưu thế về sản phẩm ôn đới và hàn đới. Do vậy,

Trung Quốc có nhu cầu nhập sản phẩm nhiệt đới và tài nguyên của

ASEAN và nhu cầu đó chắc chắn sẽ còn tăng mạnh hơn khi Trung Quốc

gia nhập WTO. Việt Nam nên tận dụng lợi thế này bởi vì một con đường

khôn ngoan là phải biết tận dụng thế mạnh của mình để vươn lên chứ

không chỉ tìm cách nâng cao sức mạnh thuộc nhiều lĩnh vực phải cạnh

tranh gắt gao.

Để phát huy thế mạnh trong xuất khẩu những mặt hàng này, Việt

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 189 -

Nam có thể tiến hành một số biện pháp như:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

 Đầu tư đầy đủ vào việc sản xuất, nuôi trồng những mặt hàng

nông sản nhiệt đới nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm

cũng như tăng số lượng sản phẩm xuất khẩu.

 Tăng cường đầu tư vào khâu chế biến các loại sản phẩm này

nhằm giảm tỷ lệ hàng hóa sơ chế trong tổng lượng hàng nông sản xuất

khẩu. Đây cũng là một biện pháp đảm bảo các mặt hàng nông sản xuất

khẩu trở nên đa dạng và phong phú hơn. Chẳng hạn, từ một loại trái cây

như vải, có thể đầu tư sản xuất thêm nhiều sản phẩm khác như vải ngâm

nước đường, vải sấy khô và nhiều loại sản phẩm khác.

 Nghiên cứu thay đổi bao bì sản phẩm xuất khẩu theo hướng

ngày càng đa dạng, hấp dẫn hơn nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng

hàng hoá đóng gói bên trong và tiết kiệm chi phí bao bì.

 Thống nhất cao tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật đối với

các sản phẩm xuất khẩu song song với nới lỏng các hàng rào phi thuế

quan.

 Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng nông sản

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 190 -

tích cực và chủ động thâm nhập thị trường thế giới, đẩy mạnh công tác

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam đàm phán song phương và đa phương nhằm khai thác không chỉ thị

trường Trung Quốc mà cả những thị trường mới.

3.3.1.2. Tăng cường đẩy mạnh các ngành sản xuất công nghiệp và

dịch vụ để tạo ra những sản phẩm đạt giá trị gia tăng cao hơn.

Cụ thể, Việt Nam nên tập trung vào xuất khẩu các sản phẩm điện

tử cơ khí, một số nguyên vật liệu dùng cho sản xuất hoặc tập trung phát

triển những ngành dịch vụ mà Trung Quốc đang có nhu cầu lớn như tư

vấn, tài chính, giáo dục, quản lý cơ sở hạ tầng, quy hoạch đô thị, …

Đồng thời, để khắc phục xu hướng ngày càng trở nên yếu thế trước

Trung Quốc trong những ngành hàng mà cả hai bên đều có ưu thế cạnh

tranh sau khi ACFTA được thành lập, cộng thêm với nhân tố Trung

Quốc đã gia nhập WTO, tránh tình trạng hàng hoá Trung Quốc thâm

nhập ồ ạt vào thị trường nội địa, Việt Nam cần cố gắng xác lập lợi thế so

sánh bằng cách nhanh chóng tăng năng suất lao động và hàm lượng tri

thức trong sản phẩm tiêu thụ cuối cùng để tạo nên những mặt hàng có

nét độc đáo. Tuỳ theo mỗi chủng loại hàng hoá và thị hiếu mà có thể cải

thiện theo những hướng khác nhau. Chẳng hạn, đối với hàng may mặc,

nên tăng tính thời trang, chú ý sự quan trọng của kiểu dáng vì khi không

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 191 -

tính tới nhân tố giá cả thì mẫu mã và kiểu dáng của sản phẩm may mặc

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam là nhân tố thu hút sự chú ý nhất của người tiêu dùng; hay đối với sản

phẩm tạp hóa, đồ dùng trong nhà, trong văn phòng, điểm quan trọng cần

chú ý lại là sự tiện dụng và hữu ích.

3.3.1.3. Không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh đối với những

mặt hàng có khả năng cạnh tranh thấp hơn so với hàng hoá Trung

Quốc

Trước hết, lấy ví dụ trong ngành máy móc là ngành mà Việt Nam

đang rất nỗ lực xác lập lợi thế so sánh để cạnh tranh với Trung Quốc.

Phạm vi các ngành này rất rộng và có thể chia làm hai nhóm chính:

Nhóm các loại máy móc gia đình và văn phòng và nhóm các loại máy

móc cao cấp có hàm lượng công nghệ cao.

Nhóm các loại máy móc gia đình và văn phòng gồm có: Phần cứng

công nghệ thông tin (máy tính, máy điện thoại di động, máy in, máy fax,

linh kiện và bộ phận điện từ...), đồ điện, điện tử gia dụng. Đối với nhóm

này, như đã phân tích, Trung Quốc hiện đang trong quá trình tăng lợi thế

so sánh còn đối với Việt Nam, hiện nay sức sản xuất các loại hàng này

còn rất yếu. Do vậy, chiến lược của Việt Nam là phải tạo môi trường để

tiếp tục thu hút FDI, thúc đẩy đầu tư và nâng cao chất lượng trong lĩnh

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 192 -

vực sản xuất các loại máy móc thuộc nhóm này.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Nhóm các loại máy móc cao cấp có hàm lượng công nghệ cao gồm

xe hơi, máy công cụ, người máy, … Đối với những loại máy móc này,

trong tương lai hứa hẹn Trung Quốc sẽ nhập khẩu một số lượng lớn sản

phẩm thuộc nhóm này. Những nước xuất khẩu chính sẽ là Nhật, Mỹ,

Hàn Quốc, Đài Loan. Việt Nam mặc dù không có nhiều lợi thế để phát

triển nhưng có thể cải thiện việc sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm này

dựa trên việc tạo điều kiện để các công ty đa quốc gia chọn khu vực này

làm cứ điểm sản xuất một số bộ phận của các loại máy móc đó.

Ngoài ra, trong khi Trung Quốc luôn được coi là trung tâm công

nghiệp chế tạo của thế giới, mặc dù Trung Quốc không phải là cơ sở sản

xuất duy nhất, sẽ có ngành công nghiệp khác như công nghiệp chế biến

tài nguyên, công nghiệp nguyên liệu thô mà Việt Nam sẽ có cơ hội tận

dụng để phát triển những ngành công nghiệp này, vừa là nhân tố bổ sung

cho kinh tế Trung Quốc.

Nói tóm lại, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá là yếu tố chủ

yếu để hàng hoá Việt Nam có thể xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường

rộng lớn của Trung Quốc, đồng thời có thể cạnh tranh được với hàng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 193 -

hoá các nước trên thế giới trong đó có Trung Quốc. Để nâng cao sức

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cạnh tranh, cần quan tâm tới các góc độ sau: giảm giá thành sản phẩm,

nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã, marketing quản lý.

 Nâng cao chất lượng sản phẩm là khâu đầu tiên cần làm để có

thể có sản phẩm mang thương hiệu nổi tiếng trên thị trường thế giới. Các

ngành công nghiệp phải đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ; kỹ thuật

quản lý, điều hành sản xuất cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Thu hút

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc tự bỏ vốn đầu tư là hai cách thức

mà Chính phủ và các nhà kinh doanh có thể lựa chọn khi quyết định đổi

mới thiết bị, máy móc, công nghệ, trong đó thu hút FDI hiện là con

đường được Chính phủ và nhà kinh doanh lựa chọn nhiều nhất.

 Hạ giá thành: Hai hàng hoá có cùng chất lượng, mẫu mã mà

hàng nào rẻ hơn thì sức cạnh tranh tất nhiên sẽ cao hơn. Các doanh

nghiệp Việt Nam có thể dựa vào việc sử dụng lợi thế của mình về giá lao

động rẻ kết hợp với giảm chi phí đầu vào, đồng thời kết hợp các khâu

của quá trình sản xuất một cách chặt chẽ để hạ giá thành sản phẩm. Tận

dụng quy chế tối huệ quốc cũng là biện pháp hết sức hữu ích để giảm giá

hàng hoá.

 Thay đổi mẫu mã sản phẩm, tăng cường chất lượng các khâu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 194 -

quảng cáo, marketing trong bán hàng và phân phối từ lâu đã trở thành

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tiêu chí được các nhà kinh tế quan tâm. Thực hiện biện pháp này sẽ giúp

cho hàng hoá kịp thay đổi và đáp ứng nhanh nhạy với nhu cầu, thị hiếu

rất đa dạng và phức tạp của người tiêu dùng Trung Quốc. Bởi vậy, đây

cũng là một yếu tố tạo khả năng cạnh tranh lớn cho hàng hoá Việt Nam.

3.3.2. Thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng cường tự do hoá thương mại

và xúc tiến đầu tư

Như đề cập ở trên, với việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc, Việt Nam sẽ có nhiều tiềm năng để thúc đẩy

thương mại và đầu tư. Tuy vậy, Việt Nam vẫn có thể lâm vào thế bất lợi

so với Trung Quốc do sức ép cạnh tranh từ người láng giềng khổng lồ

này. Mặc dù vậy, cơ hội để phát triển vẫn còn nhiều. Chìa khoá để mở

cửa những cơ hội đó là ở tốc độ cải cách kinh tế và chiến lược xúc tiến

đầu tư.

3.3.2.1. Đẩy nhanh tốc độ cải cách kinh tế và tự do hoá thương mại

Thứ nhất, Việt Nam nên tiếp tục chính sách công nghiệp hoá

hướng về xuất khẩu nhằm đẩy mạnh tiến trình tự do hoá thương mại. Đa

dạng hoá xuất khẩu sẽ tiếp tục làm giảm sự phụ thuộc nặng nề vào dầu

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 195 -

thô, gạo, hải sản, nông nghiệp và ngư nghiệp; đồng thời tạo điều kiện

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, thu hút các

nguồn lực bên ngoài hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá đất nước.

Thứ hai, cải cách doanh nghiệp và cải cách tài chính phải đi kèm

với tự do hoá giá cả và tự do hoá thương mại. Hội nhập thị trường trong

nước và hội nhập những lĩnh vực trên vào thị trường thế giới phải được

tiến hành đồng thời để đảm bảo giảm thiểu những yếu tố tiêu cực bên

ngoài của những nhân tố gây bóp méo còn tồn tại và để tối đa hoá lợi ích

từ thương mại. Việc tạo ra những thể chế liên quan tới thị trường có vai

trò quan trọng trong việc tối đa hoá lợi ích của Việt Nam trong quá trình

hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Với việc không ngừng nỗ lực phát

triển các thể chế và thị trường, Việt Nam sẽ nổi lên là một nền kinh tế

mạnh hơn sau khi hội nhập.

3.3.2.2. Xúc tiến đầu tư

Đầu tư nước ngoài vẫn luôn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy

xuất khẩu của các quốc gia. Đầu tư nước ngoài đồng nghĩa với việc tăng

cường thu hút vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tạo khả năng cho

nước nhận đầu tư hiện đại hoá các ngành sản xuất, nâng cao chất lượng

và hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài cũng là một nhân

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 196 -

tố làm gia tăng các công ty xuyên quốc gia tại nước nhận đầu tư, mà một

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trong những mục đích của các công ty này là lợi dụng giá rẻ ở nước

nhận đầu tư để sản xuất và sau đó xuất khẩu. Kết hợp hai yếu tố này, có

thể thấy đầu tư nước ngoài đóng vai trò rất lớn trong thúc đẩy xuất khẩu.

Không đi đâu xa, có thể nhìn vào tấm gương của Trung Quốc: một trong

những yếu tố đưa quốc gia này trở thành “cỗ máy xuất khẩu khổng lồ”

chính là nhờ có nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài. Do vậy, để tăng cường

thu hút đầu tư, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:

Trước hết, Việt Nam cần đảm bảo hơn nữa tính hấp dẫn của môi

trường đầu tư. Trong những năm bùng nổ kinh tế của ASEAN, nhiều

nhà đầu tư nước ngoài sẵn lòng đầu tư vào Việt Nam bởi sự phát triển

mạnh mẽ của khu vực này đã đem lại cho họ niềm tin sẽ thu được lợi

nhuận cao. Tuy nhiên, khi Trung Quốc mở cửa thị trường thì các nhà

đầu tư đã và đang có những thay đổi rất lớn về địa điểm đầu tư bởi tại

đất nước này, khả năng thu lợi nhuận ngày càng cao và môi trường đầu

tư cũng ngày một cải thiện hơn. Dòng đầu tư dang có xu thế dịch chuyển

theo hướng chuyển dần từ Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói

chung sang Trung Quốc. Để vượt qua thử thách về sức thu hút đầu tư

của một thị trường lớn như ở Trung Quốc, Việt Nam cần nỗ lực cải thiện

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 197 -

môi trường đầu tư bằng việc đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích, tạo ra

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam môi trường pháp lý và chính trị thuận lợi, cải thiện cơ sở hạ tầng phù

hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và khuyến khích việc bảo vệ và bảo đảm

lợi ích cho sở hữu trí tuệ. Chiến lược đầu tư của Việt Nam nên nhằm vào

thu hút FDI, trong đó tập trung vào chuyển giao công nghệ và bao gồm

nhiều ngành từ những ngành công nghiệp hướng vào công nghệ cao để

khai thác nguyên liệu cũng như những ngành dịch vụ.

Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến đầu tư cần được đẩy mạnh hơn

nữa. Nhà nước cần có các chính sách nhằm đa phương hoá các đối tác

đầu tư nước ngoài, thu hút các nguồn vốn từ khu vực có trình độ công

nghệ cao như Bắc Mỹ, Tây Âu. Các địa phương nên tích cực, chủ động

hơn trong quá trình tiến hành vận động đầu tư. Chính quyền địa phương

có quyền cân nhắc các dự án, tập đoàn, các nhà đầu tư có tiềm năng trên

cơ sở quy hoạch của Nhà nước và danh mục đã được phê duyệt. Các bộ

ngành có liên quan như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ

Ngoại giao nên phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc nghiên cứu thị

trường đầu tư, tình hình kinh tế và chính sách luật pháp của các nước,

các tập đoàn đa quốc gia, song song với việc nghiên cứu các chính sách

của các quốc gia trong khu vực để xây dựng cho Việt Nam một chính

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 198 -

sách thu hút FDI hợp lý.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Thứ ba, để thu hút FDI nhiều hơn, Việt Nam cũng cần cải thiện các

điều kiện để có thể cung ứng các dịch vụ cần thiết cho nền kinh tế như

lao động, cơ sở hạ tầng… Theo nhiều nhà đầu tư nước ngoài, trên thị

trường lao động Việt Nam, lao động giản đơn thì dư thừa quá nhiều

trong khi kỹ sư và các chuyên viên có trình độ cao trong các ngành khoa

học tự nhiên lại thiếu nên tiền lương phải trả cho họ rất cao, làm cho môi

trường đầu tư kém hấp dẫn. Hiện nay, Trung Quốc đã đi trước Việt Nam

cũng như các nước ASEAN khác về việc giải quyết vấn đề này. Theo

điều tra của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại

Bangkok [29], hàng năm Trung Quốc đào tạo 410,000 sinh viên các

ngành khoa học tự nhiên như cơ khí, điện tử, vật lý và toán (nghĩa là

trung bình 3,000 dân có một sinh viên ngành này) trong khi Thái Lan chỉ

có 10,000 (6,000 dân mới có một sinh viên). Việt Nam cũng đang gặp

trình trạng tương tự Thái Lan, và đặc biệt vấn đề không chỉ là số lượng

mà còn là chất lượng sinh viên ra trường. Chính vì vậy, Việt Nam cần

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 199 -

chú ý cải thiện môi trường đầu tư theo hướng này.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.3.3. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại

3.3.3.1. Đối với cơ quan quản lý

 Nắm bắt kịp thời những thay đổi của bạn để đề ra các giải pháp

thích hợp phục vụ tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam trong công tác

xuất khẩu hàng sang Trung Quốc.

 Một trong những trở ngại lớn lớn cho việc đẩy mạnh trao đổi

hàng hoá giữa Việt Nam - Trung Quốc trong thời gian qua là diện mặt

hàng trao đổi chưa vững chắc, khối lượng chưa lớn. Do vậy, hai bên cần

thoả thuận ký kết một danh mục hàng hoá trao đổi có tiềm năng và nhu

cầu ổn định, lâu dài. Danh mục này có tính định hướng để doanh nghiệp

hai bên hợp tác sản xuất và ký kết hợp đồng ngoại thương.

 Đề nghị Trung Quốc giải quyết hạn ngạch một số mặt hàng: Đối

với những mặt hàng Trung Quốc quản lý bằng hạn ngạch như cao su và

một số hàng hoá khác, đề nghị tăng hạn ngạch nhập khẩu cho Việt Nam,

ví dụ: cao su đề nghị tăng hạn ngạch lên từ 120,000 – 150,000 tấn.

Ngoài ra, cũng đề nghị Trung Quốc Trung Quốc tăng mức nhập khẩu từ

Việt Nam các mặt hàng: than đá, dầu thực vật, thuỷ hải sản, rau quả

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 200 -

nhiệt đới.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

 Tổ chức các kênh thông tin giao lưu, trao đổi giữa doanh nghiệp

hai nước thông qua:

 Hội chợ triển lãm: Hàng năm, Cơ quan xúc tiến thương mại

Trung Quốc sẽ tổ chức cho các doanh nghiệp Trung Quốc tham gia Hội

chợ thương mại quốc tế do Bộ thương mại Việt Nam chủ trì. Ngược lại,

Cục xúc tiến thương mại Việt Nam cũng tổ chức cho các doanh nghiệp

Việt Nam tham gia các hội chợ lớn của Trung Quốc.

 Trao đổi đoàn quan lại: Các cơ quan quản lý hai nước cần tạo

điều kiện thuận lợi dể các tổ chức kinh tế xã hội, các doanh nghiệp ở

trung ương cũng như ở các tỉnh có chung biên giới thường xuyên trao

đổi đoàn qua lại. Hai bên giới thiệu các đối tác kinh doanh có thực lực,

có uy tín cho nhau để các doanh nghiệp ngoại thương hai nước tiến hành

trao đổi, buôn bán.

 Tổ chức hội thảo: Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo

chuyên đề cũng như tuần giao lưu thương mại Việt – Trung tại các địa

điểm thuận lợi ở khu vực biên giới để đẩy mạnh sự hợp tác kinh tế

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 201 -

thương mại hai nước.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

 Thông tin: Tổ chức xúc tiến thương mại hai nước nối mạng

trang web để phục vụ cho doanh nghiệp hai bên (hiện nay đã có trang

web www.sinoviet.com do Cục xúc tiến thương mại hai nước là VISTA

và GXSTI cùng xây dựng). Định kỳ hàng năm tổ chức xúc tiến thương

mại hai bên gặp gỡ nhau luân phiên tại thủ đô hai nước để trao đổi

chương trình hợp tác.

3.3.3.2. Đối với các doanh nghiệp

Về phía các doanh nghiệp, dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của Nhà

nước, cũng nên chủ động tìm ra những biện pháp hợp tác có hiệu quả,

đồng thời không ngừng nỗ lực tự đổi mới, tăng cường sức cạnh tranh

của doanh nghiệp, có thể thông qua một số biện pháp cụ thể như sau :

 Bằng các kênh thông tin của mình hoặc thông qua kênh thông

tin của Bộ Thương mại, tìm hiểu tình hình thị trường, tình hình cung

cầu, đặc điểm, yêu cầu, biến động và những tiềm năng phát triển của thị

trường Trung Quốc, việc này sẽ giúp các doanh nghiệp khai thác thị

trường, tìm ra và nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh ở nước bạn.

 Tìm hiểu chính sách, chủ trương của Nhà nước Trung Quốc một

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 202 -

mặt là để nắm bắt kỹ hơn về thị trường và kinh doanh có hiệu quả trong

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thị trường đó, mặt khác rất quan trọng là để so sánh các cơ hội kinh

doanh giữa thị trường Trung Quốc với thị trường các nước ASEAN khác

nhằm lựa chọn thị trường kinh doanh có hiệu quả nhất về một ngành

nghề cụ thể nào đó.

 Tìm hiểu chính sách, cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp ở

Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đây là điều kiện tiền đề

cho sự hợp tác có hiệu quả. Trước đây đã có không ít những thất bại

trong hợp tác giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và Việt Nam mà

nguyên nhân chủ yếu là do sự hiểu biết chưa đầy đủ về nhau cho nên dẫn

đến nhiều bất đồng về quan điểm trong các quyết định và cả trong quá

trình hoạt động của các doanh nghiệp hợp tác. Thời gian gần đây, cùng

với công cuộc cải cách mở cửa, hệ thống hoạt động và các nguyên tắc

quản lý của các doanh nghiệp Trung Quốc có nhiều thay đổi. Các doanh

nghiệp Việt Nam nên tìm hiểu những chế độ sở hữu khác nhau, những

đặc điểm mới trong thể chế lãnh đạo, hệ thống quản lý, chính sách

marketing, … của các doanh nghiệp có quy mô khác nhau của Trung

Quốc. Đặc biệt, trong quá trình thành lập ACFTA sắp tới, trong cơ cấu

của nền kinh tế nói chung cũng như của các doanh nghiệp hai bên nói

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 203 -

riêng còn có nhiều điều chỉnh nữa đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa cho sự hợp tác có hiệu quả trong tương

lai.

 Tích cực tham gia vào các cuộc triển lãm, khảo sát thị trường

nước ngoài, tổ chức nhiều đợt xúc tiến thương mại, toạ đàm kinh tế, …

để tìm hiểu thông tin, tìm đối tác, tạo cơ hội giao thương, đầu tư và tăng

cường sự hiểu biết lẫn nhau cho doanh nghiệp hai nước.

 Thành lập các hiệp hội doanh nghiệp trong một số ngành cùng

với các doanh nghiệp khác trong khu vực để cùng trao đổi ý kiến, cùng

hợp tác sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh

nghiệp trong khu vực. Ví dụ có thể thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp

trong một số ngành vốn là thế mạnh của Việt Nam như những ngành

hàng nông nghiệp như gạo, hạt điều, cao su, thuỷ hải sản… hoặc một số

ngành công nghiệp điện tử, may mặc… để đẩy mạnh những ngành này

phát triển, hợp tác sản xuất trên quy mô lớn, nâng cao chất lượng sản

phẩm và có thể điều tiết giá xuất khẩu những mặt hàng này trên thị

trường quốc tế một cách hợp lý.

 Đồng thời, bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực tự

đổi mới về cách thức quản lý kinh doanh sản xuất, tiếp cận và kịp thời

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 204 -

đưa các kỹ thuật mới vào sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao sức cạnh tranh từ nội lực

doanh nghiệp cũng như tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá vì

người tiêu dùng Trung Quốc đã khác nhiều so với mấy năm trước đây.

Hơn nữa, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã tiếp cận được nhiều

với trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới, đời sống vật chất

của người dân đã được nâng cao rõ rệt, họ đòi hỏi hàng hoá có chất

lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, có như vậy thì hàng hoá Việt

Nam mới có cơ hội đứng được trên thị trường Trung Quốc.

3.3.4. Phát huy lợi thế về vị trí địa lý để nâng cao kim ngạch thương

mại song phương, trở thành đầu cầu và cửa ngõ của Trung Quốc ở

thị trường ASEAN

Về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở giữa Trung Quốc và các nước

ASEAN, Việt Nam lại có vùng bờ biển dài 2500 km với nhiều cảng

nước sâu từ Bắc tới Nam. Nếu phát triển tốt các hệ thống đường bộ

xuyên Á cả theo hướng Bắc – Nam và Đông – Tây thì các cảng biển này

sẽ thực sự trở thành cửa ngõ cho quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc.

Hơn nữa, một số tỉnh phía Nam Trung Quốc có thể qua cảng Hải Phòng,

Cái Lân tới các nước ASEAN. Trung Quốc cũng có thể thông qua các

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 205 -

cảng ở miền Trung và Nam Bộ Việt Nam tới Lào, Đông Bắc Thái Lan,

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Myanmar, Campuchia. Việt Nam còn có thể là một điểm trung chuyển

chế xuất sang các nước Đông Nam Á. Vị trí địa lý trên cho phép Việt

Nam phát huy vai trò là một “đầu cầu và cửa ngõ” cho sự phát triển quan

hệ Trung Quốc – ASEAN, nhưng vai trò này lại tuỳ thuộc vào các nhân

tố như:

Thứ nhất, phải xây dựng những kết cấu hạ tầng cần thiết cho một

“đầu cầu và cửa ngõ” bao gồm: các tuyến đường xe lửa, đường cao tốc,

đường hàng không xuyên Á theo cả hướng Bắc Nam và Đông Tây, các

cảng nước sâu cần thiết, hệ thống thông tin liên lạc xuyên Á thuận lợi,

Thứ hai, cần có chính sách và cơ chế đầu tư hấp dẫn, linh hoạt để

kích thích nhu cầu sử dụng “đầu cầu và cửa ngõ” Việt Nam của Trung

Quốc và các nước ASEAN khác, đồng thời thể hiện Việt Nam sẵn sàng

là một “đầu cầu và cửa ngõ” cho Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc.

Biện pháp thứ ba và cũng là biện pháp quan trọng nhất, đó là đẩy

mạnh mậu dịch biên giới phát triển. Nói cách khác, mậu dịch biên giới

phải được coi là một bước khởi đầu đối với Việt Nam để thúc đẩy phát

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 206 -

triển kinh tế tiểu vùng và đây đồng thời cũng là nội dung quan trọng của

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ACFTA vì mậu dịch biên giới sẽ không chỉ đóng vai trò như một thí

điểm cho ACFTA, mà còn thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế thương

mại giữa Trung Quốc và Việt Nam. Có thể áp dụng một số biện pháp

như sau:

 Cơ chế quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu ưu đãi: Ngoài những

ưu đãi về thuế quan và phi thuế sẽ được bãi bỏ theo Hiệp định khung về

Hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc, các hàng hoá

xuất nhập khẩu qua biên giới nên được hưởng những ưu đãi riêng và

trong thời gian sớm hơn. Trừ một số mặt hàng cấm, những mặt hàng

trọng điểm của chính phủ, những hàng hoá dùng trong quân sự hoặc một

số mặt hàng đặc biệt khác, các hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới có

thể bỏ hạn ngạch và giấy phép xuất nhập khẩu.

 Cơ chế quản lý thuế ưu đãi: Các mặt hàng được sản xuất ở các

nước láng giềng và sau đó xuất khẩu qua cửa khẩu chỉ định và được sử

dụng và tiêu thụ tại thị trường của một trong các nước trong khu vực, trừ

những mặt hàng bắt buộc phải nộp thuế theo quy định của Nhà nước thì

vẫn có thể tiếp tục áp dụng chế độ thu 50% thuế nhập khẩu và thuế giá

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 207 -

trị gia tăng như hiện nay. Sau đó thuế này sẽ được hoàn lại một phần

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hoặc toàn bộ, phần thuế được hoàn này có thể được dùng vào việc xây

dựng các cơ sở hạ tầng tại cửa khẩu.

 Thuận lợi hoá mậu dịch biên giới thông qua việc đẩy mạnh hợp

tác trong các lĩnh vực về hải quan, kiểm nghiệm, kiểm dịch, ngân hàng,

bảo hiểm, trọng tài, …. Cần tăng cường những công tác bảo vệ an ninh

biên giới, chống buôn lậu và các hành vi gian lận thương mại khác, bảo

đảm một môi trường an toàn và thuận lợi cho mậu dịch biên giới phát

triển.

 Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng ở các khu cửa khẩu như

đường sá, kho bảo thuế; trang bị các thiết bị kiểm tra hàng hoá hiện đại;

đẩy mạnh đầu tư xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, các khu thương

mại biên giới để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển, lưu thông, tiêu thụ

hàng hoá được nhanh chóng, tiện lợi.

 Giải quyết những vướng mắc trong biên mậu:

 Khẩn trương nghiên cứu, sớm trình Thủ tướng chính phủ Quy

chế quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá tiểu ngạch qua

biên giới đường bộ với các nước láng giềng theo Nghị quyết số 05/

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 208 -

2002/ NQ-CP ngày 24/ 2/ 2002 của Chính phủ.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

 Thành lập Ban biên mậu trung ương và địa phương nhằm thực

hiện thoả thuận về cơ chế phối hợp quản lý buôn bán biên giới với Trung

Quốc trên các mặt sau: kịp thời thông báo cho nhau về những thay đổi,

điều chỉnh trong cơ chế, chính sách thương mại; thảo luận các biện pháp

thúc đẩy quan hệ trao đổi tiểu ngạch một cách ổn định và lành mạnh; cố

gắng mỗi quý gặp nhau một lần để cùng nhau tìm biện pháp tháo gỡ

những vướng mắc nảy sinh.

3.3.5. Tiến hành đàm phán với Trung Quốc để được hưởng các điều

kiện ưu đãi hơn trong việc mở cửa thị trường và thực hiện nguyên

tắc tối huệ quốc cũng như trong việc cung cấp hỗ trợ kinh tế kỹ

thuật

Thực tế cho thấy việc thực hiện Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc được quyết định bởi việc thực hiện nhanh chóng và thu

hoạch sớm những lợi ích của một thị trường mở rộng được thuận lợi hóa

nhờ công khai thừa nhận khác nhau về năng lực điều chỉnh. Rõ ràng các

thành viên kém phát triển (trong đó có Việt Nam) trong một ngành hoặc

một lĩnh vực cụ thể có thể được kéo dài thời gian trong việc mở cửa thị

trường, thực hiện nguyên tắc MFN như đối với các thành viên của WTO

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 209 -

hoặc được hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt trong việc tự do hóa

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam những ngành bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, Việt Nam cần xác định rằng,

những đối xử đặc biệt như vậy chỉ nên diễn ra tạm thời và mục tiêu

chính của nó là giúp đỡ các nền kinh tế đang phát triển và kém phát triển

về thời gian và cơ hội để tiến hành sửa đổi luật pháp; định hướng lại

chính sách và đưa ra các chính sách mới, thiết lập cơ sở hạ tầng hành

chính và thể chế cần thiết; hạn chế và quản lý có hiệu quả hơn những

thiệt hại và biến động kinh tế không thể tránh khỏi liên quan đến các

nghĩa vụ mới của họ; và quan trọng hơn cả là xây dựng năng lực cạnh

tranh để tham gia một cách có lợi và lâu dài vào hệ thống thương mại đa

biên.

Mặt khác, việc cải cách toàn diện và quá độ từ nền kinh tế xã hội

chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường là một quá trình khó khăn và lâu

dài đối với Việt Nam và vì không có mô hình hiện tại nào để học tập trừ

Trung Quốc, cho nên Trung Quốc và những thành viên ASEAN phát

triển hơn có thể hỗ trợ Việt Nam bằng việc thiết lập một uỷ ban để giúp

đỡ việc nghiên cứu, giám sát và quản lý các vấn đề phát sinh từ việc

thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Sự hỗ trợ này

sẽ giúp Việt Nam phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực giải

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 210 -

quyết những giao dịch kinh doanh quốc tế. Ví dụ như những chương

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trình đào tạo giúp Việt Nam trong việc thông qua tiêu chuẩn ISO, hiệp

định tránh đánh thuế hai lần, quản lý FDI, công nhận lẫn nhau các tiêu

chuẩn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ giúp Việt Nam giải

quyết tốt vấn đề thương mại quốc tế và đầu tư. Bên cạnh đó, Việt Nam

có thể chủ động hợp tác với các nước ASEAN phát triển hơn và với

Trung Quốc trong việc giáo dục, đào tạo quản lý và phát triển nguồn

nhân lực. Sự cộng tác có thể theo những hình thức như trao đổi sinh

viên, thực tập sinh, cử chuyên gia đi học tập tại nước ngoài, …

3.3.6. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nước

ASEAN khác

Trong nhóm ASEAN- 4, Việt Nam có trình độ phát triển khá hơn,

mối liên kết trong ASEAN cũng sâu rộng hơn. Vì vậy, lợi ích mà chúng

ra có thể có được từ hợp tác trong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc cũng quan trọng hơn. Các công việc trước mắt Việt Nam có

thể làm để đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực, thu hẹp khoảng cách

phát triển, đồng thời góp phần vào củng cố tính bền vững của ASEAN

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 211 -

có thể là:

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 3.3.6.1. Tổng kết quá trình phát triển quan hệ hợp tác khu vực, từ

đó xây dựng một quan điểm hợp tác với ASEAN mang tính chiến

lược lâu dài xuất phát từ chiến lược phát triển chung của đất nước.

Trước hết, chúng ta cần đúc kết bài học kinh nghiệm từ lịch sử rút

ngắn khoảng cách chính trị an ninh, tiến tới rút ngắn khoảng cách kinh tế

và hợp tác về nhiều mặt. Cần tìm hiểu sâu hơn, phân tích tỉ mỉ, so sánh

toàn diện chính sách của Việt Nam và các nước trong khu vực, cũng như

các nước có liên quan để tìm ra những lợi ích tương đồng nhằm thúc đẩy

quan hệ hợp tác trong ASEAN và các nước khác.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần hết sức chú trọng đến việc củng

cố các cơ chế hợp tác hiện nay, đồng thời đề xuất những sáng kiến mới

trong khu vực. Điều này không chỉ nâng cao hơn uy tín và vị trí của Việt

Nam trong hợp tác khu vực mà là để tạo ra thế chủ động trong hợp tác.

Một điều đáng quan tâm là sau khủng hoảng, vai trò lãnh đạo của

Indonesia đã mất đi, trong khi chưa có một quốc gia nào có đủ tiềm lực

kinh tế, cũng như vị trí chính trị để thay thế. Việt Nam cần nhận thấy

khoảng trống này để cố gắng xác lập vị trí và ảnh hưởng trong thời gian

tới. Có như vậy, việc thu hẹp khoảng cách phát triển mới mang lại ý

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 212 -

nghĩa đối với Việt Nam trong tiến trình tham gia vào Khu vực mậu dịch

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tự do ASEAN - Trung Quốc, bởi trong bất kỳ thời điểm nào, việc trao

đổi hợp tác càng tăng lên bao nhiêu thì lợi ích quốc gia càng tăng lên

bấy nhiêu.

3.3.6.2. Thúc đẩy tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam

Trong quá trình phân tích những thách thức đối với các nước

ASEAN khi tham gia một FTA với Trung Quốc, có thể thấy nếu khó

khăn đối với 7 nước ASEAN đã là thành viên WTO là một thì đối với 3

nước Việt Nam, Lào, Campuchia, thách thức phải tăng lên gấp nhiều

lần. Hàng hoá ba nước này xuất khẩu đi 146 nước thành viên WTO sẽ

không được hưởng ưu đãi như Trung Quốc. Vốn nổi tiếng bởi sức cạnh

tranh về giá cả, mẫu mã, nay lại được hưởng mức thuế nhập khẩu thấp,

hàng Trung Quốc sẽ là đối thủ mà hàng hoá ASEAN-3 khó có thể cạnh

tranh nổi. Hơn thế nữa, một nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh

của ASEAN so với Trung Quốc là ở chỗ Trung Quốc là một quốc gia

thống nhất trong khi đó ASEAN lại là một tập hợp 10 quốc gia với trình

độ phát triển kinh tế và mức độ hội nhập không đồng đều. Muốn tăng

khả năng cạnh tranh hàng hoá của khu vực này với Trung Quốc, giảm

thiểu những sức ép của hàng hóa Trung Quốc so với hàng hoá ASEAN,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 213 -

cần nỗ lực rút ngắn khoảng cách kinh tế của 10 quốc gia, tạo điều kiện

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cho sự phát triển đồng đều của khu vực. Việc gia nhập WTO của ba

nước thành viên còn lại nói chung và của Việt Nam nói riêng có thể coi

là một bước tất yếu không thể thiếu được cho việc thực hiện những nỗ

lực này.

Để thúc đẩy Việt Nam nhanh chóng gia nhập WTO, có thể tiến

hành một số giải pháp sau:

 Xem xét, đánh giá một cách cẩn trọng và chính xác về những

cái lợi, cái hại khi gia nhập WTO để có những bước đi đúng đắn và

chiến lược hợp lý;

 Học tập kinh nghiệm đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc;

 Xây dựng một cơ chế thị trường hoàn thiện. Từ những nền kinh

tế mang mô hình công hữu xã hội chủ nghĩa đi lên, thời gian thực hiện

cơ chế thị trường còn rất ngắn, thiếu kinh nghiệm, cơ cấu tổ chức chưa

hoàn thiện. Để thích ứng với cơ chế vận hành WTO, trước hết cần có sự

thay đổi nhận thức, quan niệm, cần có cơ chế thị trường hoàn thiện và hệ

thống luật, văn bản đồng bộ tương ứng.

 Điều chỉnh cơ cấu ngoại thương theo hướng: giảm thuế nhập

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 214 -

khẩu cho phù hợp và đạt mức bình quân của các thành viên WTO; tăng

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam cường cải cách xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp kinh doanh ngoại thương quyền kinh doanh rộng hơn;

thông qua giao dịch điện tử và các phương tiện truyền thông tăng cường

hiệu quả của chính sách ngoại thương.

 Chính phủ cần tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đàm phán song

phương và đa phương với các nước thành viên WTO. Tuy nhiên, cũng

không nên vì quá nôn nóng mà sẵn sàng nhượng bộ mọi đòi hỏi có thể

gây ảnh hưởng xấu và tiêu cực tới nền kinh tế trong nước.

Việt Nam hy vọng sẽ gia nhập WTO vào năm 2004, Lào,

Campuchia cũng đang nỗ lực trong quá trình xúc tiến gia nhập. Thực

hiện những biện pháp trên sẽ là lực đẩy cho những nước này sớm gia

nhập WTO, sớm tạo nên một khối ASEAN đồng đều và vững mạnh.

3.3.7. Tích cực hợp tác với với các nước trong khối ASEAN để đi

đến nhất thể hoá thị trường khu vực nhằm cạnh tranh với thị

trường Trung Quốc.

Các nước ASEAN đều có lợi ích chung từ việc thành lập ACFTA.

Hợp tác với Trung Quốc, một nền kinh tế lớn mạnh và có quy mô lớn

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 215 -

hơn cả 10 nước ASEAN gộp lại, sẽ đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng có

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam không ít thách thức. Nếu trong nội bộ các nước ASEAN không có sự

đoàn kết hợp lực trong quan hệ với Trung Quốc thì ASEAN sẽ khó có

thể đạt được những lợi ích chung đó, thậm chí còn kìm hãm sự phát triển

chung của cả khu vực này. Vì vậy, trong quá trình xây dựng ACFTA,

Việt Nam và các nước ASEAN cần phải đẩy mạnh đoàn kết nhất trí hơn

nữa, đứng trên lập trường chung trong giải quyết các vấn đề kinh tế cũng

như chính trị, cùng hợp lực để bảo vệ quyền lợi của mình trong các quan

hệ hợp tác với Trung Quốc, cùng giúp đỡ nhau phát triển, khắc phục

những khó khăn trong việc thực hiện các cam kết trong ACFTA. Đặc

biệt là đối với những nước ASEAN mới, trong đó có Việt Nam, cần có

sự giúp đỡ của các nước khác trong ASEAN để theo kịp trình độ phát

triển của các nước phát triển hơn trong ACFTA và để hạn chế bớt những

tiêu cực do việc thực hiện ACFTA đem lại.

3.3.7.1. Tăng cường thương mại nội khối, giành lại thị phần ở chính

thị trường các nước ASEAN.

Không có lý do gì để những nước ASEAN lại chỉ chú ý xuất khẩu

sang các thị trường bên ngoài mà bỏ ngỏ chính thị trường các nước nội

khối để cho hàng hóa Trung Quốc và các nước khác xâm nhập trong khi

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 216 -

nếu thực hiện thương mại nội khối, các nước ASEAN sẽ có ưu thế hơn

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam hẳn Trung Quốc vì những cam kết cắt giảm hàng rào thương mại và thuế

quan trong khu vực. Để tăng cường thương mại nội khối, Việt Nam và

các nước ASEAN khác cần tiến hành đồng bộ các biện pháp sau:

 Đẩy mạnh việc thực hiện các cam kết về cắt giảm thuế quan

theo Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong

khuôn khổ AFTA. Lợi ích cơ bản nhất của AFTA đối với ASEAN là

hàng hoá trong khu vực này sẽ tăng thế cạnh tranh về giá cả, giao dịch

thương mại tiến hành trên cơ sở không có thuế quan. Lúc đó, ASEAN sẽ

trở thành một khu vực rộng lớn với các dòng hàng hóa lưu chuyển tự do.

Nhìn một cách tổng quan, có vẻ điều này không liên quan gì nhiều tới

khả năng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá ASEAN ra thị trường quốc tế

trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn trước sự cạnh tranh từ hàng hoá

Trung Quốc. Tuy nhiên, xét về lâu dài, đây chính là bước khởi đầu cho

sự phát triển bình đẳng, đồng đều giữa các quốc gia trong khối ASEAN,

tạo điều kiện cho các nước này hợp tác toàn diện, cùng tận dụng những

lợi thế chung trong khu vực để nâng cao vai trò và vị trí trên thị trường

thế giới. Việc thúc đẩy buôn bán nội khối cũng sẽ giúp hoạt động ngoại

thương các nước này được cải thiện nhiều, và do đó, tạo đà cho các nước

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 217 -

ASEAN tăng khả năng xuất khẩu những mặt hàng có sức cạnh tranh hơn

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam về chất lượng, giá cả… ra thị trường các nước ngoài khu vực. Bởi vậy,

thúc đẩy quá trình thực hiện AFTA cũng là một phương cách hữu hiệu

để giảm thiểu khó khăn và nâng cao cơ hội cho xuất khẩu của ASEAN

trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc.

 Tăng cường hợp tác lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước

ASEAN khác trong các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là các nước ASEAN

cần đẩy nhanh việc hoàn thành các chương trình hợp tác trong nội bộ

khối như Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Chương trình hợp tác công

nghiệp ASEAN (AICO), Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS),

… vì điều này sẽ tạo tiền đề cho việc triển khai Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến việc thúc đẩy

hoàn thành các chương trình hợp tác trong Khu vực mậu dịch tự do này,

mà cụ thể là chương trình cắt giảm thuế quan cũng như các biện pháp

tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư.

3.3.7.2. Thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng ASEAN nhằm tăng

cường hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của

ASEAN.

Nhiều người đặt ra câu hỏi là tại sao ASEAN lại cần có Cộng đồng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 218 -

ASEAN (ASEAN Community – AC) trong khi đã có Khu vực mậu dịch

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS),

Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), Chương trình hợp tác công nghiệp

ASEAN (AICO) và Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI). Liệu có phải

những chương trình về hợp nhất kinh tế vốn có chưa đủ để có thể đạt

được mục tiêu đề ra của Tầm nhìn ASEAN 2020? Câu trả lời thực ra rất

đơn giản và rõ ràng, đó là những chương trình hiện có không đủ hiệu

quả để có thể đưa ASEAN đạt được mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hội nhập

kinh tế và tăng cường năng lực cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh một

Khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN với người láng giềng khổng lồ

Trung Quốc vừa được thiết lập. Nếu ASEAN không hội nhập một cách

sâu rộng hơn, mỗi nước thành viên trong khối sẽ có nguy cơ bị gạt ra

bên lề. Với dân số khoảng 530 triệu và tổng GDP vào khoảng 560 tỷ

USD [14], thị trường ASEAN có quy mô chỉ bằng một nửa thị trường

Trung Quốc. Chỉ có một con đường là đoàn kết hơn nữa trong ASEAN

thì mới có thể cạnh tranh được với thị trường hùng hậu này và Cộng

đồng ASEAN chính là một cách để ASEAN có thể có vị trí quan trọng

như một trung tâm của Đông Á.

Cộng đồng ASEAN bao gồm 3 trụ cột chính là hợp tác an ninh

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 219 -

chính trị (hình thành Cộng đồng an ninh ASEAN – ASEAN Security

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Community - ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng kinh tế ASEAN –

ASEAN Economic Community - AEC) và hợp tác văn hoá xã hội (Cộng

đồng văn hoá xã hội ASEAN – ASEAN Socio-Cultural Community -

ASCC); trong đó Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là mục tiêu cuối

cùng trong hội nhập kinh tế nhằm hình thành một khu vực kinh tế

ASEAN ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao, trong đó

hàng hoá, dịch vụ, đầu tư được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển

đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế xã hội được giảm thiểu. Cộng

đồng sẽ thực hiện Chương trình hành động kinh tế Bali, giải quyết vấn

đề khoảng cách phát triển của Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar

sao cho những lợi ích của quá trình hội nhập được chia sẻ và tạo điều

kiện cho tất cả các quốc gia thành viên phát triển theo phương thức

thống nhất. Hơn thế nữa, sự hội nhập sâu hơn giữa các nền kinh tế Đông

Nam Á sẽ củng cố sức mạnh của toàn bộ khu vực và tạo ra khả năng

chống chọi tốt hơn đối với các rủi ro và bất trắc nảy sinh từ sự ra đời của

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Chính vì vậy, Việt Nam

và các nước ASEAN khác phải tích cực hợp tác với nhau nhằm đẩy

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 220 -

nhanh tiến trình hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN nói riêng và

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Cộng đồng ASEAN nói chung, góp phần hình thành nên một ASEAN

hoà bình, ổn định, và thịnh vượng.

3.3.7.3. Tích cực phối hợp với các nước còn lại trong khối nhằm

thiết lập một cơ chế hợp tác thích hợp trong Khu vực mậu dịch tự

do ASEAN - Trung Quốc

Dựa trên những cơ chế có sẵn như Khu vực đầu tư ASEAN (AIA)

và Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) là những cơ chế

nhằm thúc đẩy thương mại và đầu tư phát triển, ASEAN và Trung Quốc

có thể cân nhắc việc thiết lập một Khu vực đầu tư ASEAN - Trung Quốc

và Lịch trình hợp tác công nghiệp ASEAN - Trung Quốc trong khuôn

khổ của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, nhằm làm cho

khu vực mậu dịch tự do này mang tính toàn diện hơn. Các nội dung và

phương tiện cụ thể của các cơ chế này tuỳ thuộc vào sự mong muốn và

sự đồng tình của hai bên nhằm mang lại lợi ích đồng đều cho tất cả các

thành viên tham gia.

Ngoài ra, Trung Quốcvà các nước ASEAN cũng cần nỗ lực tìm

hướng giải quyết triệt để những mâu thuẫn chính trị đang tồn tại giữa hai

bên, mà chủ yếu là vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông, đồng thời

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 221 -

cần đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực an ninh phi truyền thống nhằm

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam bảo vệ an ninh chính trị của mỗi nước và toàn khu vực, hợp lực chống

chủ nghĩa khủng bố và các lực lượng phản động khác để duy trì hoà

bình, ổn định chung, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác kinh tế thương

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 222 -

mại phát triển ngày càng vững mạnh hơn.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

KẾT LUẬN

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) được

thành lập đánh dấu một bước ngoặt mới trong quan hệ hợp tác hữu nghị

giữa ASEAN và Trung Quốc, đồng thời cũng là một quyết định mang

tính lịch sử mà hai bên đã đưa ra để tìm kiếm những cơ hội phát triển

mới. Với hơn 1.7 tỷ người tiêu dùng, tổng thu nhập quốc nội vào khoảng

2 nghìn tỷ USD và tổng kim ngạch thương mại ước tính lên đến 1.23

nghìn tỷ USD, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc ra đời

hứa hẹn sẽ đem lại nhiều cơ hội tốt đẹp cho sự tăng trưởng kinh tế,

thương mại và đầu tư của các nước thành viên. Hơn thế nữa, Khu vực

mậu dịch tự do có quy mô lớn nhất thế giới này còn có thể coi là biện

pháp chiến lược có ý nghĩa trọng đại để ASEAN và Trung Quốc đi đến

nhất thể hoá kinh tế, nâng cao vị thế chính trị trong các vòng đàm phán

đa phương cũng như trên các diễn đàn khu vực và quốc tế. Quan trọng

hơn, đây chính là viên gạch đầu tiên đặt nền móng vững chắc cho việc

xây dựng một khu vực mậu dịch tự do Đông Á (EAFTA) trong tương

lai, có lợi cho hoà bình thế giới và phát triển kinh tế toàn cầu.

Bên cạnh những cơ hội trên, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 223 -

Trung Quốc ACFTA cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam các nước thành viên, bao gồm thách thức về loại hình tổ chức của

ACFTA, tình trạng phân hoá hai cực, yếu tố cạnh tranh, vai trò chủ đạo

trong ACFTA; trong đó có thể nói thách thức lớn nhất mà ASEAN và

Trung Quốc phải đối phó là sự cạnh tranh gay gắt giữa hai bên trong các

lĩnh vực thương mại, đầu tư và phân công tại khu vực Châu Á - Thái

Bình Dương. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng cạnh tranh bao giờ cũng là

nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển, qua cạnh tranh mỗi bên sẽ

nỗ lực hơn, từ đó nền kinh tế của mỗi nước thành viên trong khối sẽ có

triển vọng phát triển với tốc độ nhanh hơn và đi vào chiều sâu hơn. Và

như vậy, khác với trò chơi được mất của bóng đá, sân chơi của Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ là một sân chơi đem lại lợi ích

cho tất cả các thành viên tham gia.

Là một trong những nền kinh tế năng động với tốc độ tăng trưởng

kinh tế cao nhất Đông Nam Á cộng thêm nhiều yếu tố tương đồng với

Trung Quốc về điều kiện tự nhiên, văn hoá, xã hội, …, Việt Nam có rất

nhiều cơ hội để đạt được sự tăng trưởng cao hơn nữa về thương mại, đầu

tư cũng như vai trò chính trị một khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc được thành lập. Tuy vậy, cũng giống như các nước thành

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 224 -

viên ASEAN khác, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam trong sân chơi cạnh tranh với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc.

Hơn thế nữa, do Việt Nam chưa gia nhập Tổ chức thương mại thế giới

WTO như Trung Quốc và bảy nước thành viên ASEAN khác nên những

khó khăn mà Việt Nam phải đối mặt sẽ càng nhiều hơn. Tuy vậy, về mặt

tổng thể, cơ hội còn nhiều hơn thách thức. Hơn nữa, cần nhận thức rằng

những thách thức đó chỉ mang tính chất tạm thời và đằng sau những

thách thức là những lợi ích lâu dài. Điều quan trọng là Việt Nam cần

phải có những điều chỉnh thích hợp để nắm bắt, tận dụng cơ hội và ứng

phó với những thách thức nhằm được hưởng lợi nhiều nhất từ ACFTA

trong tương lai, mà tựu trung lại có thể thông qua một số biện pháp như:

Thứ nhất, chuyên môn hoá sản xuất và chế biến những mặt hàng

xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh hơn so với Trung Quốc. Thực hiện biện

pháp này sẽ giúp Việt Nam có cơ hội mở rộng xuất khẩu, tận dụng tối đa

thế mạnh của mình, phân bổ nguồn lực hợp lý vào những ngành được sử

dụng có hiệu quả và năng suất hơn.

Thứ hai, đẩy nhanh tốc độ cải cách kinh tế song song với tăng

cường tự do hoá thương mại và xúc tiến đầu tư. Điều này sẽ thúc đẩy

tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, đồng thời cũng chính là chìa

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 225 -

khoá để Việt Nam mở cửa hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam giới, trở thành một nền kinh tế đủ mạnh để chống chọi với sự cạnh tranh

khốc liệt từ cường quốc khu vực Trung Quốc.

Thứ ba, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt chú

trọng phát triển mậu dịch biên giới nhằm phát huy lợi thế về vị trí địa lý,

giúp Việt Nam trở thành đầu cầu và cửa ngõ của Trung Quốc ở thị

trường ASEAN.

Thứ tư, nỗ lực đàm phán với Trung Quốc để được hưởng những

điều kiện ưu đãi hơn trong việc mở cửa thị trường và thực hiện nguyên

tắc tối huệ quốc, giúp Việt Nam nhanh chóng thích ứng trong môi

trường cạnh tranh mới. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy hơn

nữa và nâng cao chất lượng tham gia của Việt Nam vào Khu vực mậu

dịch tự do ASEAN - Trung Quốc nói riêng và hệ thống thương mại toàn

cầu nói chung.

Thứ năm, tích cực hợp tác với các nước trong khối ASEAN, thu

hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nước thành viên khác,

thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng ASEAN nhằm tăng cường hội nhập

kinh tế quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó đi đến nhất thể

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 226 -

hoá thị trường khu vực, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đối phó với

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam những rủi ro nảy sinh từ sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc.

Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã hết sức cố gắng để

đưa ra những phân tích cơ bản nhất. Hy vọng rằng ở một mức độ nhất

định, khoá luận đã cung cấp được cho người đọc một cái nhìn tổng quan

về các tác động sâu rộng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Quốc đối với các nền kinh tế tham gia, trong đó có Việt Nam, giúp các

nước nói chung và Việt Nam nói riêng chuẩn bị đầy đủ những hành

trang cần thiết nhằm đạt được lợi ích tối đa từ Khu vực mậu dịch tự do

này.

Tuy nhiên, do những hạn chế về kiến thức và thời gian, khuôn khổ

khoá luận không cho phép đi quá sâu vào từng lĩnh vực, từng ngành

hàng cụ thể; mặt khác, đây lại là một vấn đề khá mới mẻ, tài liệu nghiên

cứu chưa nhiều, do vậy đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 227 -

mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý từ các thầy cô và các bạn.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chú thích:

[1] Theo Lập luận về tạo thương mại và chuyển hướng thương

mại của J. Viner (1950), khi một nước tham gia vào một FTA, nguồn

cung cấp hàng hoá và dịch vụ từ các bạn hàng sẽ tăng lên nhưng có thể

lại làm giảm nguồn cung cấp trong nước và từ những nước khác trên thế

giới. Nếu tổng cung tăng lên và giá nhập khẩu cao hơn giá sản xuất

trong nước thì sẽ có trade creation. Ngược lại, nếu nguồn nhập khẩu từ

các bạn hàng trong FTA thay thế nhập khẩu thấp hơn từ các nước khác

(do chính sách ưu đãi về nhập khẩu) thì sẽ có trade diversion theo đó

nước này sẽ bị thua thiệt do thương mại trong khối FTA. (theo Dương

Quốc Thanh, “Hợp tác kinh tế từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997

và khả năng hình thành Khu vực mậu dịch tự do Đông Á” – Tạp chí

Nghiên cứu quốc tế số 2 (51), tháng 4/ 2003, trang 56).

[2] http://www.wto.org/english/tratop_e/region_e/region_e.htm

[3] N.T., “Trào lưu ký kết các hiệp định FTA” - Tạp chí Ngoại

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 228 -

Thương số 21 (21 – 31/ 7/ 2003), trang 33.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

[4] Thanh Phương, “Thuận lợi và khó khăn của xu thế hình thành

các Khu vực mậu dịch tự do” – Tạp chí Thương mại số 22, tháng 6/

2003, trang 18.

[5] Ellen H. Palanca, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và

ASEAN” - Báo cáo nghiên cứu của Hệ thống trung tâm nghiên cứu

APEC của Philippines (Philippines APEC Study Center Network -

PASCN), Manila, 2001.

[6] V. Trân, “Vai trò tương lai của Trung Quốc ở Châu Á” – Tạp

chí Ngoại Thương số 3 (21 – 31/ 1/ 2003), trang 32.

[7] P.Q.L., “Những thành tựu kinh tế của Trung Quốc” - Thời báo

kinh tế Việt Nam số 137, ngày 15/11/2002, trang 18.

[8] Phạm Thái Quốc, “Trung Quốc sau 1 năm gia nhập WTO”–

Chuyên đề Kinh tế 2002-2003 Việt Nam và Thế giới, tập san cuối năm

của Thời báo kinh tế Việt Nam, trang 93.

[9] Nguyễn Anh Hồng, “Trung Quốc: ngoại thương tăng 30 lần”–

Thời báo Kinh tế Việt Nam số 12, ngày 20/1/2003, trang 18.

[10] “Tin thế giới: Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đứng thứ hai

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 229 -

trên thế giới”, Thông tin Tài chính, số 6, tháng 3/ 2003, trang 28.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

[11] Eng Chuan Ong, Bộ Ngoại giao Singapore, “Gắn thương mại

tự do Đông Á vào ASEAN”, Washington Quarterly 2003 – Tài liệu dịch

số TL 2922, Trung tâm thông tin tư liệu, Viện nghiên cứu quản lý kinh

tế TW (CIEM).

[12] TS. Trần Cao Thành, Viện nghiên cứu Đông Nam Á,

“ASEAN thực hiện và mở rộng Khu vực mậu dịch tự do” - Tạp chí

Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 (53)/ 2002, trang 8.

[13] S. Pushpanathan, Bộ phận Quan hệ quốc tế, Ban thư ký

ASEAN, “ASEAN and free trade area cover China, Japan, India” - Tạp

chí Jakarta Post, 14/ 11/ 2002.

[14] “Các bộ trưởng kinh tế ASEAN thoả thuận các mục tiêu quan

trọng”, Tin Kinh tế quốc tế, Thông tấn xã Việt Nam

(www.vnagency.com.vn) ngày 4/ 9/ 2003.

[15] Bản tin hội nhập và phát triển, số tháng 2/ 2003, Uỷ ban quốc

gia về hội nhập kinh tế quốc tế (DEI).

[16] “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học viện Thương mại quốc tế và Hợp tác

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 230 -

kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác

kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel,

CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002.

[17] “Việt Nam tham dự diễn đàn Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc”, Tin đã đưa của Thông tấn xã Việt Nam tại Bắc

Kinh, ngày 25/ 2/ 2003.

[18] “Kim ngạch thương mại Trung Quốc – ASEAN tăng hơn

45%”, Tin Kinh tế quốc tế, Thông tấn xã Việt Nam

(www.vnagency.com.vn) ngày 18/ 8/ 2003.

[19] Statistics of Foreign Direct Investment in ASEAN (Extended

Data Set); ASEAN Secretariat; World Investment Report 2001.

[20] Việt Nga, “Hợp tác toàn diện Trung Quốc – ASEAN” - Tạp

chí Ngoại Thương số 20, ngày 11 – 20/ 7/ 2003, trang 32.

[21] D.M.H., “Hiện trạng và triển vọng quan hệ kinh tế Trung

Quốc - Đông Á” - Kinh tế quốc tế tham khảo (Thông tấn xã Việt Nam),

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 231 -

số 034 - TTX, ngày 31/ 8/ 2003, trang 4.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

[22] Văn Nghĩa, “Dư luận xung quanh Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc” - Thời báo Tài chính Việt Nam, số 134, ngày 8/

11/ 2002, trang 14.

[23] V. Trân, “Quan hệ kinh tế ASEAN – Nhật Bản - Trung Quốc”

– Tạp chí Ngoại Thương số 19 (1 – 10/ 7/ 2002), trang 29.

[24] Minh Nga, “FTA ASEAN - Trung Quốc: Ai được lợi nhất?” –

Kinh tế quốc tế tham khảo (Thông tấn xã Việt Nam), số 036 – TTX,

ngày 14/ 9/ 2003, trang 1.

[25] Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế

(ASEAN – China Expert Group on Economic Cooperation), “Xây dựng

quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21”

(bản tiếng anh – Forging closer ASEAN – China economic relations in

the twenty first century), Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org),

tháng 10/ 2001.

[26] “Luận đàm về việc thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông Á

và các hệ quả của nó” – Tham luận của Inkyo Cheong, Viện chính sách

kinh tế Hàn Quốc (KIEP) tại Hội thảo “Những thuận lợi và thách thức

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 232 -

của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam phối hợp với Quỹ Hanns Seidel,

CHLB Đức đồng tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30/ 8/ 2002.

[27] “Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc: Thích

nghi để vươn lên”, Báo điện tử www.vninvest.com , ngày 12/ 11/ 2002.

[28] “Tính cạnh tranh và bổ sung lẫn nhau giữa kinh tế ASEAN và

Trung Quốc”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam, số

190 ngày 19/ 8/ 2003, trang 16.

[29] Lý Hướng Dương, “Tính khả thi của việc thành lập Khu vực

mậu dịch tự do giữa Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc” - Tạp chí

Kinh tế Trung Quốc và thế giới (China and World Economy), Trung

Quốc, số 1, tháng 2/ 2002.

[30] “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Quốc” - Tham luận của Nguyễn Hoài Sơn, chuyên viên Vụ chính sách

thương mại đa biên, Bộ thương mại tại Hội thảo khu vực về “Những

thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và

Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 233 -

ngày 21/ 6/ 2002.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

[31] “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc: Phải chăng

đây là một giải pháp thắng – thắng?” - Tham luận của George Manzano,

Trợ lý giáo sư, Khoa Kinh tế, Đại học Châu Á Thái Bình Dương,

Manila, Philippine tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách

thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác

kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel,

CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002.

[32] Th.S. Trương Mai Hương, “Trung Quốc gia nhập WTO và

ảnh hưởng đối với các nước ASEAN” - Chuyên đề Kinh tế và Kinh

doanh quốc tế (Trường Đại học Ngoại Thương), số quý IV/ 2001, trang

63.

[33] “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc: Cơ hội,

thách thức và tác động đối với các nước thành viên mới của ASEAN” -

Tham luận của Thitapha Wattanapruttipaisan, Chuyên viên cao cấp, Bộ

phận dịch vụ công nghiệp, Ban thư ký ASEAN tại Hội thảo khu vực về

“Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam

và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 234 -

ngày 21/ 6/ 2002.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

[34] Chỉ số đặc thù - Specification Index - được tính bằng (xuất

khẩu – nhập khẩu)/ (xuất khẩu + nhập khẩu). Chỉ số đặc thù có trị số từ -

1 đến +1, trong đó -1 là chỉ có nhập khẩu, xuất khẩu không đáng kể; +1

là trường hợp ngược lại; trị số 0 chỉ trường hợp xuất nhập khẩu gần như

bằng nhau.

[35] Nguyễn Phương Hoa, “Quan hệ Trung Quốc – ASEAN năm

2000” - Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3 (37), tháng 6/ 2001, trang

48.

[36] “Japan Times nói về ASEAN - Trung Quốc”, Tài liệu của Sứ

quán Việt Nam tại Osaka, ngày 15/ 11/ 2002.

[37] “Quan hệ thương mại Việt Nam và Trung Quốc: hiện tại và

triển vọng” – Báo Thương mại, số 22&23, ngày 20 – 24/ 2/ 2003, trang

20.

[38] GS. TS. Nguyễn Thị Mơ, “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc

trên lĩnh vực ngoại thương: nhìn lại 10 năm và triển vọng” - Tạp chí

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 235 -

Nghiên cứu Trung Quốc số 6 (40), tháng 3/ 2001, trang 36.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

[39] “Việt Nam hướng tới Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc”, Bộ Tài chính Việt Nam (www.mof.gov.vn), ngày 4/ 11/

2002.

[40] Đ.Đ - V.P., “Giao thương với Trung Quốc bao giờ mới không

bị động?”– Tin đã đưa bởi trang web www.sinoviet.com do Cục xúc tiến

thương mại hai nước Việt Nam và Trung Quốc là VISTA và GXSTI

cùng xây dựng, ngày 28/ 8/ 2003.

[41] Vũ Phương, “Nhìn lại tình hình đầu tư trực tiếp của Trung

Quốc tại Việt Nam 10 năm qua (11/ 1991 – 11/ 2001) – Tạp chí Nghiên

cứu Trung Quốc, số 2 (42), tháng 4/ 2002, trang 31.

[42] “Thêm 48 dự án đầu tư của doanh nghiệp Trung Quốc”, Thời

báo kinh tế Việt Nam số 193, ngày 3/ 12/ 2003, trang 4.

[43] Nguyễn Ngọc Mạnh, “Trung Quốc có thể trở thành động lực

tăng trưởng mới ở Châu Á?” – Thông tin Tài chính số 15, tháng 8/ 2003,

trang 27.

[44] “Đưa hàng Việt Nam vào Trung Quốc vẫn còn nhiều cơ hội”,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 236 -

Báo Sài gòn tiếp thị, ngày 18/ 7/ 2002.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

[45] Lê Quang Lân, “Chương trình thu hoạch sớm ASEAN - Trung

Quốc: Doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng gì?” – Thời báo kinh tế

Việt Nam, số 139, ngày 20/ 11/ 2002, trang 16.

[46] Hà Nguyễn, “Thực hiện chương trình thu hoạch sớm với

Trung Quốc: xuất khẩu hải sản sẽ có lợi thế” – Báo Doanh nghiệp, số 39

(25/ 9 – 1/ 10/ 2003), trang 8.

[47] Anh Thư, “Tham gia ACFTA là chuẩn bị gia nhập WTO” –

Tạp chí Công nghiệp Việt Nam, số 16 (1 – 15/ 9/ 2002), trang 48.

[48] “Triển vọng thành lập ACFTA”, Tham luận của ông Trần Đức

Minh, Phó tổng thư ký Ban thư ký ASEAN, tại Hội thảo khu vực về

“Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam

và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh,

ngày 21/ 6/ 2002.

[49] “Đánh giá tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -

Trung Quốc đến ngành nông nghiệp Việt Nam” - Tham luận của Bà

Phạm Thị Tước, Vụ phó Vụ Kế hoạch và Quy hoạch, Bộ Nông nghiệp &

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 237 -

phát triển nông thôn tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác

kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel,

CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002.

[50] “ACFTA và tác động đối với ngành công nghiệp Việt Nam” –

Tham luận của Ông Lê Minh Đức, Viện nghiên cứu chiến lược chính

sách công nghiệp Việt Nam tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và

thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ

hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns

Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002.

Tài liệu tham khảo khác

1. Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc

(FAACCEC), (bản tiếng anh) – Ban thư ký ASEAN

(www.aseansec.org).

2. John Lawrence Avilla, “Torn between two lovers: ASEAN and its

evolving economic relations with China and Japan” - PASCN

Discussion Paper No. 2002-06.

3. Summary Report, ASEAN - China Dialogue: “The Challenges of

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 238 -

Cooperation”, 15 & 16/ 2/ 2002, ASEAN Secretariat.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 4. Chuyên đề Kinh tế Việt Nam và Thế giới (Thời báo kinh tế Việt

Nam) các năm 2000 – 2001; 2001- 2001; 2002 – 2003.

5. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế: số 4 (47) – tháng 8/ 2002; số 2 (51) –

tháng 4/ 2003.

6. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới: số 6/ 2002.

7. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc: số 1 – tháng 2/ 1999; số 6 – tháng

12/ 1999; số 3 – tháng 6/ 2001; số 6 – tháng 12/ 2001; số 1 – tháng

2/ 2002; số 2 – tháng 4/ 2002; số 6 – tháng 12/ 2002; số 1 – tháng 2/

2003; số 4 – tháng 8/ 2003.

8. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á: số 3 – tháng 6/ 2003.

9. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á: số 2, 5/ 2002.

10. Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương: số 4 – tháng 12/ 1999;

số 1 – tháng 2/ 2002; số 4 – tháng 8/ 2002; số 1 – tháng 2/ 2003.

11. Thông tin Thương mại – Bộ thương mại: số ra các ngày 16/ 9/ 2002;

4/ 11/ 2002; 24/ 2/ 2003.

12. Tạp chí Kinh tế và dự báo: các số 4, 5 / 2002.

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 239 -

13. Tạp chí Công nghiệp: số 16/ 2002; số 7/ 2003.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam 14. Các trang web:

http://www.aseansec.org/ http://www.mofa.gov.vn

http://www.china.org.cn http://www.mot.gov.vn

http://www.chinadaily.com.cn http://www.mof.gov.vn

http://peopledaily.com.cn http://www.dei.gov.vn

http://www.mofcom.gov.cn http://www.vista.gov.vn

htpp://www.xinhuanet.com http://www.vnagency.com.vn

http://www.chinaview.cn http://vneconomy.com.vn

http://www.sinoviet.com http://vnexpress.net

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 240 -

http://vninvest.com

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Các khu vực mậu dịch tự do ở Đông Á

Năm Thành viên và quy chế

1. Các khu vực mậu dịch tự do đã có hiệu lực

Khu vực mậu dịch tự do

1992 10 nước thành viên ASEAN

ASEAN (AFTA)

Hiệp định mậu dịch tự do

2001 Có hiệu lực tháng 1/ 2002

Singapore - New Zealand

Hiệp định đối tác kinh tế

2002 Có hiệu lực tháng 11/ 2002

Nhật Bản- Singapore

Hiệp định mậu dịch tự do

Ký kết tháng 6/ 2002 và có hiệu

giữa Singapore và Hiệp hội 2002

lực tháng 1/ 2003

thương mại tự do Châu Âu

2. Các hiệp định đang được đàm phán, nghiên cứu và xem xét

Được đưa ra tại cuộc gặp thượng

Khu vực mậu dịch tự do

2000 đỉnh ASEAN + 3 (Trung Quốc,

Đông Á

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 241 -

Nhật Bản, Hàn Quốc)

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Được thực hiện trong vòng 10

năm theo thoả thuận đạt được

Khu vực mậu dịch tự do trong cuộc gặp thượng đỉnh

2001

ASEAN - Trung Quốc ASEAN -Trung Quốc (hiệp định

khung được thông qua tháng 11/

2002)

Được thực hiện trong vòng 10

Sáng kiến đối tác kinh tế

năm theo thoả thuận đạt được

chặt chẽ hơn giữa Nhật Bản 2002

trong cuộc gặp thượng đỉnh

và ASEAN

ASEAN -Nhật Bản

Xem xÐt mét hiÖp ®Þnh trong cuéc

Hiệp định thương mại và đầu

2002 gÆp th­îng ®Ønh ASEAN – Ên

tư ASEAN – Ấn §é

§é

Singapore: Australia, Canada,

Mehico, Đài Loan, Mỹ.

Các hiệp định mậu dịch tự

Thái Lan: Australia, ấn Độ, Nhật

do song phương

Bản.

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 242 -

Trung Quốc: Hồng Kông, Ma

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Cao.

Philippines: Nhật Bản, New

Zealand, Mỹ, Panama, Singapore.

Nhật Bản: Mehico, Philippines,

Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan.

Nguồn: Báo cáo của JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản),

thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), tháng

1/ 2003.

Phụ lục 2: Các nội dung cơ bản của một số FTA

Mỹ – NAFTAMỹ – MERCOSURFTAACanada Mehico EU AFTA

ANZCERT Israel Jordan - Chile - Chile Mehico

A

Loại bỏ

thuế quan * * * * * * * * * *

Cấm các

hạn chế * * * * * * *

số lượng

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 243 -

Các biện

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam pháp tự vệ *

* * * * * * *

Chống phá

* giá và thu * * * * * *

đối kháng

Các nguyên

* tắc về xuất * * * * * * * * *

xứ

Đánh giá

* * * * * * * * thuế quan

và thủ tục

hải quan

Đầu tư * * * * * * * *

Dịch vụ * * * * * * * * * *

Đánh giá

* * * * * * * tiêu chu

hợp chuẩn

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 244 -

(MRAs)

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Vệ sinh

* * * * * * * dịch tễ

Mua sắm

* * * * * * * * chính ph

Quyền sở

* * * * * * * * Hữu trí tuệ

* * * * * Cạnh tranh *

Giải quyết

* * * * * * * * * tranh ch

Điều khoản

* * * cán cân

thanh toán

quốc tế

Các ngo

* * * * * * * lệ chung

Hợp tác

* * kinh tế v *

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 245 -

kỹ thuật

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Các uỷ ban

* * * * * * hỗn hợp

Thương

* mại điện tử

Đi lại của

* * * * * thể nhân

Môi trường + * +

Lao động + * +

* : các mục có trong văn bản chính

+ : các mục không có trong văn bản chính nhưng có trong các hiệp định bổ

trợ

Nguồn: Báo cáo “Thực trạng của các FTA chính và các phân tích từ

khía cạnh luật pháp”, trang 15 – Trung tâm thương mại và đầu tư Nhật

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 246 -

Bản (JMCTI), Tokyo, 2000.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Phụ lục 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN và Trung Quốc

(1997 - 2001)

Đơn vị: triệu USD

Nước 1997 1998 1999 2000 2001

Brunei

701.7 573.3 596.0 600.2 243.5

Darussalam

Campuchia -14.7 230.4 214.0 179.3 113.0

Indonesia 4,677.0 -356.0 -2,745.0 -4,550.0 -3,277.0

Lào 86.3 45.3 51.5 33.9 23.9

Malaysia 6,324.0 2,714.0 3,895.3 3,787.6 553.9

Myanmar 387.2 314.5 253.1 254.8 123.0

Philippine 1,249.0 1,752.0 578.0 1,241.0 1,792.0

Singapore 10,746.0 6,389.0 11,803.2 5,406.6 8,608.8

Thái Lan 3,626.0 5,143.0 3,561.0 2,813.0 3,759.0

Việt Nam 2,587.0 1,700.0 1,483.9 1,289.0 1,300.0

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 247 -

ASEAN 30,369.5 18,505.5 19,691.0 11,055.4 11,940.1

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

China 44,237.0 43,751.0 40,319.0 40,772.0 46,846.0

Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2002

(http://www.unctad.org/Templates/WebFlyer.asp?intItemID=2110&lang

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 248 -

=1).

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Phụ lục 4: Thương mại của Trung Quốc với những đối tác chủ yếu

(1999 - 2001)

Đơn vị: Tỷ USD

1999 2000 2001

Giá Tốc Giá Tốc Giá Tốc độ

trị độ trị độ trị tăng

tăng tăng trưởng

thươn trưởng thươn trưởng thươn (%)

g (%) g (%) g

mại mại mại

(tỷ (tỷ (tỷ

USD) USD) USD)

Trung Quốc 360.65 11.3 474.3 31.5 509.7 7.5

1 7

Nhật Bản 66.17 14.2 83.17 25.7 87.75 5.5

Mỹ 61.43 12.0 74.47 21.2 80.49 8.1

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 249 -

EU 55.68 13.9 69.04 24.0 76.63 11.0

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Hồng Kông 43.78 -3.6 53.95 23.3 55.97 3.7

ASEAN * 27.04 14.9 39.52 45.3 41.62 5.3

Hàn Quốc 25.04 17.7 34.50 37.8 35.91 4.1

Đài Loan 23.48 14.5 30.53 30.1 32.34 5.9

Australia 6.31 25.0 8.45 33.9 9.00 6.4

Nga 5.72 4.4 8.00 39.9 10.67 33.3

Canada 4.77 9.2 6.92 44.9 7.38 6.7

* : Số liệu ASEAN năm 1999 không bao gồm Campuchia.

Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc (theo “Triển vọng của Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học

viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo

khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao

Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 250 -

Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Phụ lục 5: Thương mại của Trung Quốc với từng nước ASEAN

Đơn vị: triệu USD

1999 2000 2001

Tổng XK NK Tổng XK NK Tổng XK NK

Trung Qu27,202 12,275 14,927 39,522 17,341 22,181 41,615 18,385 23,229

Singapore8,563 4,502 4,061 10,821 5,761 5,060 10,934 5,792 5,143

Malaysia 5,279 1,674 3,606 8,045 2,565 5,480 9,425 3,220 6,205

Indonesia4,830 1,779 3,051 7,464 3,062 4,402 6,725 2,837 3,888

Thái Lan 4,216 1,436 2,780 6,624 2,243 4,381 7,050 2,337 4,713

Philippine2,287 1,379 908 3,142 1,464 1,677 3,566 1,620 1,945

Việt Nam1,318 964 354 2,466 1,537 929 2,815 1,804 1,011

Myanma 508 407 101 621 496 125 632 497 134

Campuchia160 104 56 224 164 59 240 206 35

Bruney 8 8 0 74 13 61 165 17 148

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 251 -

Lào 32 22 10 41 34 6 62 54 7

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc (theo “Triển vọng của Khu vực

mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học

viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo

khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do

ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao

Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 252 -

Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002).

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Phụ lục 6: Tỷ lệ FDI từ ASEAN trong tổng FDI vào Trung Quốc

9.3

10

8.1

7.6

7.6

7

6.9

8

6.1

5.5

6

Đơn vị: %

%

3.6

4

2.5

2.1

2

0

91

92

93

94

95

96

97

98

99

00

01

N¨ m

Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC)

(theo “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”,

Tham luận của Li Wei, Học viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế

Trung Quốc” tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức

của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh

tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 253 -

Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002).

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Phụ lục 7: Tác động của ACFTA tới các nền kinh tế ASEAN và

Trung Quốc theo mô hình CGE

Bảng 1: Tác động của ACFTA tới GDP của khu vực

Đơn vị: %

Tác động của ACFTA

ACFTA

tới Tự do hoá thương

Tự do hoá thương

GDP mại

mại

Nước và tích luỹ vốn

Trung Quốc 0.076 0.441

ASEAN 0.229 2.077

ROW (Phần còn lại của thế

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 254 -

giới) -0.004 -0.075

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Bảng 2: Tác động của ACFTA tới mức độ thịnh vượng của khu vực

Đơn vị: %, triệu USD

(Các con số trong ngoặc đơn là các biến số tương đương tính bằng triệu

USD)

Tác động của ACFTA

ACFTA

Tự do hoá Tự do hoá thương

thương mại mại và tích luỹ vốn Nước

0.37 0.59

Trung Quốc

(3,274) (5,271)

0.96 2.25

ASEAN

(5,54) (13,044)

ROW (Phần còn lại của thế -0.02 -0.07

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 255 -

giới) (-4,533) (-14,426)

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 256 -

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Bảng 3: Tác động của ACFTA tới xuất khẩu của khu vực

Đơn vị: %

Tác động của ACFTA

ACFTA

Tự do hoá thương

Tự do hoá

mại

Nước thương mại

và tích luỹ vốn

Trung Quốc 3.04 2.45

ASEAN 4.28 1.99

ROW (Phần còn lại của thế

giới) -0.01 -0.10

Bảng 4: Tác động của ACFTA tới nhập khẩu của khu vực

Đơn vị: %

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 257 -

Tác động của ACFTA

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam ACFTA

Tự do hoá thương

Tự do hoá

mại

thương mại Nước

và tích luỹ vốn

3.61 Trung Quốc 3.40

4.89 ASEAN 3.31

ROW (Phần còn lại của thế

giới) -0.13 -0.16

Nguồn: “Luận đàm về việc thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông Á và

các hệ quả của nó” – Tham luận của Inkyo Cheong, Viện chính sách

kinh tế Hàn Quốc (KIEP) tại hội thảo “Những thuận lợi và thách thức

của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh

tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam phối hợp với Quỹ Hanns Seidel,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 258 -

CHLB Đức đồng tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30/ 8/ 2002.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Phụ lục 8: Tác động của ACFTA đến cơ cấu xuất khẩu của ASEAN

và Trung Quốc theo mô hình GTAP

Bảng 1: Tác động của ACFTA đến cơ cấu xuất khẩu của ASEAN

sang Trung Quốc

Đơn vị: triệu USD

Indone Malay Philipp Singap Thái Việt

Tổng

sia sia ine ore Lan Nam

129.5

Thực phẩm -5.57 -4.86 42.05 -1.27 -6.02 153.89

6

Dầu thực vật 42.97 505.54 4.21 34.87 2.83 20.88 611.30

290.7

Nông phẩm khác 139.26 145.65 12.27 72.91 30.08 690.94

7

Khai khoáng 55.91 25.72 52.18 18.86 9.89 12.28 174.84

Dệt may và quần 1698.

735.35 465.62 68.54 101.93 9.39 3079.60

áo 77

164.8

Hoá chất 94.75 186.37 14.54 369.29 9.05 838.89

9

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 259 -

Xe máy 287.91 618.62 5.03 755.72 60.11 150.29 1877.68

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Máy móc, thiết

230.2

28.02 495.07 58.82 1344.15 0.30 2156.64

8 bị điện

323.7 Hàng chế tạo

1281.84 773.63 77.34 948.33 44.50 3449.37

3 khác

Các ngành hàng

-4.34 -4.07 -4.17 -9.21 -3.06 -3.72 -28.57

khác

3207.2 2907. 13004.5

2656.10 330.81 3635.58 267.03 Tổng

9 77 8

Bảng 2: Tác động của ACFTA đến cơ cấu xuất khẩu của Trung

Quốc sang ASEAN

Đơn vị: triệu USD

Indone Malay Philipp Singap Thái Việt

Tổng

sia sia ine ore Lan Nam

Thực phẩm 58.75 163.54 82.93 117.12115.82 31.96 570.12

Dầu thực vật 42.39 1.64 0.67 6.09 10.67 0.10 61.56

Nông phẩm khác 31.08 11.47 14.47 80.36 40.32 5.00 182.70

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 260 -

Khai khoáng 18.03 1.90 0.00 -0.68 13.54 0.23 33.03

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Dệt may và quần

402.76 307.61 622.66 58.62869.89240.71 2502.25

áo

Hoá chất 97.98 105.69 179.24 13.94196.81 31.32 624.97

Xe máy 74.44 45.67 173.97 54.82357.69 50.78 757.37

Máy móc, thiết

114.31 361.36 813.43 -12.15794.09 80.26 2151.31

bị điện

Hàng chế tạo

527.94 453.95 1169.78 329.84742.79499.15 3723.45

khác

Các ngành hàng

3.92 3.50 0.01 -4.02 -1.46 5.31 7.26

khác

1456.3 3140.1 10614.0

1371.60 3057.16 643.94 944.82 Tổng

3 6 2

Nguồn: Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế

(ASEAN – China Expert Group on Economic Cooperation), “Xây dựng

quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21”,

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 261 -

Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org), tháng 10/ 2001.

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Phụ lục 9: Các thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc giai

đoạn 1986 - 1998

Đơn vị: Tỷ USD

Hàn Đài

Hồng Cana ASEA Châu Austral

Nhật Mỹ Đức Quố Loa

Kông da N á ia

c n

1986 33.8 15.3 8.5 3.4 0.8 1.0 n.a. 5.9 60.9 0.7

1987 37.4 16.2 7.7 3.3 0.8 1.1 n.a. 5.9 61.8 0.8

1988 40.8 16.7 7.1 3.1 0.6 0.9 n.a. 5.6 64.1 0.9

1989 48.0 15.9 8.4 3.1 0.6 0.9 n.a. 5.8 64.5 0.9

1990 42.9 14.5 8.3 3.3 0.6 0.7 0.5 6.0 71.8 0.7

1991 44.7 14.2 8.6 3.3 0.7 0.8 0.8 5.8 74.2 0.8

1992 44.3 13.7 10.1 2.9 0.6 0.8 0.8 5.0 71.9 0.8

1993 24.0 17.2 18.5 4.3 0.7 1.3 1.6 5.1 57.3 1.2

1994 26.7 17.8 17.7 3.9 0.4 1.2 1.9 5.3 60.7 1.2

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 262 -

1995 24.7 19.1 16.8 3.8 0.3 1.0 n.a. 6.0 61.9 1.1

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

1997 24.0 17.4 17.9 3.6 5.0 1.0 1.9 6.9 59.6 1.3

1998 21.1 16.1 20.7 4.0 3.4 1.2 n.a. 6.0 53.4 1.5

Nguồn: Lee and Abeysinghe (1999) (theo Th.S. Trương Mai Hương,

“Trung Quốc gia nhập WTO và ảnh hưởng đối với các nước ASEAN” -

Chuyên đề Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Ngoại

Thương, số quý IV/ 2001, trang 63.)

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 263 -

n.a. : không có số liệu

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Phụ lục 10: Những thị trường xuất khẩu và nguồn nhập khẩu chủ

yếu của Việt Nam năm 2000

Thị trường xuất % tổng Nguồn % tổng

khẩu xuất khẩu nhập khẩu nhập khẩu

Nhật 18.1 Singapore 17.7

Trung Quốc 10.6 Nhật 14.4

Australia 8.8 Đài Loan 12.1

Singapore 6.1 Hàn Quốc 11.1

Đài Loan 5.2 Trung Quốc 9.1

Nguồn: The Economic Intelligent Unit, 2002 (theo Nhóm chuyên gia

ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế (ASEAN – China Expert

Group on Economic Cooperation), “Xây dựng quan hệ kinh tế ASEAN -

Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21”, Ban thư ký ASEAN

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 264 -

(www.aseansec.org), tháng 10/ 2001.)

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

MỤC LỤC

Lời nói đầu ............................................................................................ 1

Chương 1: Quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN

- Trung Quốc (ACFTA) ........................................................................ 6

1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA .......................... 6

1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do

(FTA) trên toàn cầu .......................................................................... 6

1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của

khu vực kinh tế năng động ASEAN. .............................................. 20

1.1.3. Những thành tựu hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc ....... 34

1.2. Sự hình thành ACFTA ............................................................... 54

1.2.1. Các mốc thời gian chính ....................................................... 54

1.2.2. Nội dung cam kết ................................................................. 61

Chương 2: Tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung

Quốc tới các quốc gia thành viên ....................................................... 77

2.1. Cơ hội ....................................................................................... 77

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 265 -

2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn .......................... 77

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

2.1.2. Tạo ra vị thế mới về chính trị trong các vòng thương lượng,

đàm phán đa phương toàn cầu ...................................................... 105

2.1.3. Tạo ra môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác ................. 110

2.2. Thách thức ............................................................................... 114

2.2.1. Loại hình tổ chức của ACFTA ........................................... 114

2.2.2. Tình trạng phân hóa hai cực ............................................... 116

2.2.3. Cạnh tranh .......................................................................... 117

2.2.4. Yếu tố chính trị .................................................................. 136

Chương 3: Việt Nam và ACFTA ..................................................... 147

3.1. Quan hệ hợp tác song phương Việt Nam - Trung Quốc ........... 147

3.1.1. Hợp tác chính trị, ngoại giao .............................................. 148

3.1.2. Hợp tác thương mại ............................................................ 149

3.1.3. Hợp tác đầu tư .................................................................... 158

3.2. Tác động của ACFTA đối với Việt Nam. ................................ 160

3.2.1. Cơ hội đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA ................. 160

3.2.2. Thách thức đối với Việt Nam khi tham gia ACFTA .......... 178

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 266 -

3.3. Một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam vào ACFTA188

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

3.3.1. Chuyên môn hoá sản xuất và chế biến những mặt hàng xuất

khẩu mà Việt Nam có năng lực cạnh tranh hơn so với Trung Quốc189

3.3.2. Thúc đẩy cải cách kinh tế, tăng cường tự do hoá thương mại

và xúc tiến đầu tư ......................................................................... 195

3.3.3. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại ......................... 200

3.3.4. Phát huy lợi thế về vị trí địa lý để nâng cao kim ngạch

thương mại song phương, trở thành đầu cầu và cửa ngõ của Trung

Quốc ở thị trường ASEAN ........................................................... 205

3.3.5. Tiến hành đàm phán với Trung Quốc để được hưởng các

điều kiện ưu đãi hơn trong việc mở cửa thị trường và thực hiện

nguyên tắc tối huệ quốc cũng như trong việc cung cấp hỗ trợ kinh

tế kỹ thuật .................................................................................... 209

3.3.6. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nước

ASEAN khác ............................................................................... 211

3.3.7. Tích cực hợp tác với với các nước trong khối ASEAN để đi

đến nhất thể hoá thị trường khu vực nhằm cạnh tranh với thị

trường Trung Quốc. ..................................................................... 215

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 267 -

Kết luận ............................................................................................. 223

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................... 228

Chú thích: ....................................................................................... 228

Tài liệu tham khảo khác ................................................................. 238

Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương

- 268 -

Phụ lục ............................................................................................... 241