intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bảo hiểm xã hội một lần và sự bền vững của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

14
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này sẽ làm rõ hơn về BHXH một lần và ảnh hưởng của nó đến sự bền vững của hệ thống ASXH ở Việt Nam nhằm giúp cho người lao động có cái nhìn đúng về BHXH một lần và nhận thức được sự bền vững ASXH có thể giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng xã hội của chính mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bảo hiểm xã hội một lần và sự bền vững của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam

  1. BẢO HIỂM XÃ HỘI MỘT LẦN VÀ SỰ BỀN VỮNG CỦA HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ThS. Nguyễn Xuân Tiệp Khoa Bảo hiểm - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Phạm Huyền Trang, Lê Văn Duy, Hoàng Minh Chiến, Vũ Mai Thanh Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Bảo hiểm xã hội (BHXH) là trụ cột trong hệ thống an sinh xã hội (ASXH), trong đó có BHXH một lần – khái niệm tưởng chừng như quen thuộc nhưng cũng khá mới và đôi khi gây hiểu lầm cho một bộ phận lớn người lao động Việt Nam. Việc hiểu sai, hiểu chưa rõ ràng về BHXH một lần và tình trạng gia tăng số người rút BHXH một lần trong thời gian qua đã có tác động không nhỏ đến hệ thống ASXH, ảnh hưởng đến mục tiêu mở rộng phạm vi BHXH đối với toàn dân của Nhà nước. Bài viết này sẽ làm rõ hơn về BHXH một lần và ảnh hưởng của nó đến sự bền vững của hệ thống ASXH ở Việt Nam nhằm giúp cho người lao động có cái nhìn đúng về BHXH một lần và nhận thức được sự bền vững ASXH có thể giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng xã hội của chính mình. Từ khóa: An sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội một lần 1. Đặt vấn đề An sinh xã hội đã, đang và sẽ luôn đóng vai trò rất lớn trong việc xây dựng và phát triển đất nước bền vững, ổn định đối với mọi quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng đó, hệ thống chính sách ASXH đã được Đảng ta chú trọng ngay từ trước khi đất nước giành độc lập cho đến ngày nay. Trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện chính sách ASXH, kế thừa và phát triển quan điểm lãnh đạo của các kỳ Đại hội trước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng hướng tới thực hiện ASXH toàn dân. Trong hệ thống ASXH của nước ta, BHXH được coi là trụ cột chính, có vai trò quan trọng trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; trực tiếp phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người lao động (NLĐ) trong quá trình đang làm việc. Chính sách BHXH càng mang tính ASXH hơn khi giúp đảm bảo cuộc sống cho NLĐ khi hết tuổi lao động bằng việc hưởng lương hưu hàng tháng đi kèm với dịch vụ chăm sóc sức khỏe, trong đó có BHXH một lần – chế độ cho phép NLĐ khi thôi việc, thất nghiệp chấm dứt đóng BHXH sẽ được rút BHXH theo phương thức hưởng BHXH một lần. Đây là khái niệm có lẽ không mới với NLĐ Việt Nam, tuy nhiên, để hiểu rõ, hiểu 397
  2. đúng và tận dụng đúng cách là một vấn đề đáng quan tâm bởi trong thời kỳ dịch bệnh COVID-19 bùng phát, BHXH Việt Nam đã ghi nhận số lượng tăng đáng kể NLĐ nhận BHXH một lần, gây ảnh hưởng không nhỏ đến Quỹ BHXH nói riêng và hệ thống ASXH nói chung. 2. Khái quát về hệ thống an sinh xã hội 2.1. Sự cần thiết khách quan của hệ thống an sinh xã hội Thứ nhất, khi dõi theo quá trình phát triển của loài người, chúng ta cần thừa nhận rằng, cuộc sống con người luôn chịu ảnh hưởng từ những thay đổi tự nhiên như: sinh, lão, bệnh, tử. Những rủi ro, khó khăn ngoài ý muốn đem lại những mất mát về cả vật chất lẫn tinh thần cho một nhóm người kém may mắn trong xã hội. Bộ phận dân cư rơi vào tình cảnh “yếu thế”, họ cần nhận được sự giúp đỡ của xã hội để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Ở đây, vai trò của Nhà nước sẽ được đề cao hơn cả. Nhà nước có nhiệm vụ điều phối, quản lý hoạt động trợ giúp xã hội trong hệ thống của mình. Thứ hai, cuộc sống của người dân ở mỗi quốc gia đều phải đối mặt với sự ảnh hưởng từ các điều kiện tự nhiên: bão, lũ lụt, hạn hán, động đất, sóng thần, núi lửa, … Thiên tai có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bất cứ khu vực nào mà con người khó có thể xác định chính xác mức độ thiệt hại của các hiện tượng tự nhiên nên có thể cùng một lúc làm hàng nghìn người thiệt mạng, hàng triệu gia đình bị mất nhà cửa, tài sản và rơi vào tình cảnh bần cùng. Điển hình khi nhắc đến thiên tai tại khu vực châu Á, cần phải nhắc tới Nhật Bản. Thế giới khó có thể quên được thảm họa kép xảy ra vào ngày 11/3/2011 tại đất nước này. Trận động đất mạnh 9 độ richter ngoài khơi vùng biển phía Đông Bắc Thái Bình Dương kéo theo những đợt sóng thần khổng lồ cao hơn 40m đã tàn phá nặng nề các khu vực ven biển Nhật Bản và lan rộng đến 20 quốc gia khác. Theo Cơ Quan Cảnh sát Quốc gia Nhật Bản xác nhận, thảm họa này đã làm 15.893 người thiệt mạng, 6.152 người bị thương, 2.572 người mất tích tại 18 tỉnh, hơn 125.000 công trình nhà ở bị hư hại hoặc phá hủy hoàn toàn và nhiều thị trấn bị xóa sổ khỏi bản đồ. Khủng khiếp hơn cả là động đất và sóng thần đã làm hỏng hệ thống làm lạnh tại 4 lò phản ứng của Fukushima I, kéo theo cuộc khủng hoảng hạt nhân tồi tệ nhất kể từ vụ nổ Nhà máy Chernobyl năm 1986. Sự rò rỉ phóng xạ hạt nhân đã khiến vùng dân cư xung quanh bị nhiễm phóng xạ nặng, nhiều nơi đến nay con người vẫn chưa thể sinh sống trở lại. Nhìn về Việt Nam, người dân vẫn đang chống chọi với bão lũ, hạn hán kéo dài, điển hình là tại miền Trung. Mưa lũ triền miên trong năm 2020 - 2021 khiến miền Trung không chỉ mất mát về con người, tài sản mà còn thiệt hại về kinh tế lên đến 38.000 tỷ đồng. Từ đây, vai trò quan trọng của hệ thống ASXH quốc gia càng được khẳng định hơn nữa. Sự trợ giúp của Nhà nước qua các chính sách trợ giúp xã hội như “chiếc phao cứu sinh” cuối cùng cho người dân tiếp tục duy trì cuộc sống của mình. Thứ ba, do chiến tranh và hậu quả để lại sau những cuộc chiến. Điều này được nhìn thấy rõ ở thực tiễn Việt Nam. Chiến tranh dù đã qua đi nhưng tàn dư của chiến tranh vẫn còn 398
  3. tồn tại. Không chỉ để lại thiệt hại nặng nề về con người, chiến tranh còn tàn phá cả môi trường với chất độc hóa học, bom mìn đã rải xuống tất cả các vùng, miền của Việt Nam. Hàng trăm nghìn tấn bom đạn, chất độc hóa học vẫn đang đe dọa tới sinh mạng của người dân. Hệ thống ASXH dành sự biết ơn đối với những người đã hy sinh cho độc lập của dân tộc qua việc hỗ trợ, bù đắp cho cuộc sống của thân nhân gia đình còn may mắn sống sót, tiếp tục duy trì cuộc sống. Bên cạnh đó, chiến tranh khiến nền kinh tế Việt Nam, bản thân xuất phát từ nền nông nghiệp lúa nước, càng khó khăn hơn trong việc tiếp nhận các tiên bộ của khoa học công nghệ, trình độ lao động có chuyên môn cao còn ít. Do đó, tình trạng đói nghèo còn phổ biến ở nhiều nơi. Thứ tư, lực lượng lao động đang chịu ảnh hưởng từ mặt trái của nền kinh tế thị trường. Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, tình trạng thất nghiệp càng phổ biến hơn. Thất nghiệp trở thành mối đe dọa thường trực đối với người lao động, đặc biệt là nhóm người trẻ tuổi có chuyên môn thấp, tay nghề còn yếu kém. Họ cảm thấy khó khăn khi gia nhập lại thị trường lao động nên rất cần sự hỗ trợ từ Nhà nước để có thể nâng cao trình độ, tìm công việc phù hợp mới và duy trì phần thu nhập bị mất khi chưa tìm được việc làm. Thứ năm, xu hướng già hóa dân số đang tiến triển khá nhanh ở nhiều quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia phát triển. Mức sống của người dân cao hơn, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngày càng được cải thiện để đáp ứng được nhu cầu tăng cao của người dân. Từ thực tế này đặt ra yêu cầu phải đảm bảo cho cuộc sống của người già khi họ đã hết tuổi lao động. Nhiều quốc gia coi đây là một thách thức rất lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đồng thời là một nội dung quan trọng trong hệ thống ASXH của mình. 2.2. Khái niệm an sinh xã hội Thuật ngữ “an sinh xã hội” được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo những tài liệu hiện có, thuật ngữ “an sinh xã hội” được sử dụng chính thức lần đầu tiên trong Luật 1935 về ASXH của Mỹ. Khi Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) được thành lập và thông qua Công ước 102 thì thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi hơn ở nhiều nơi. Bên cạnh đó, nhiều nhà khoa học đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau để đưa ra định nghĩa về ASXH. Ở Việt Nam, tại Hội thảo quốc tế với chủ đề: “Hệ thống ASXH ở Việt Nam” ngày 22/8/2007, đã đưa ra khái niệm về ASXH như sau: ASXH là một hệ thống các cơ chế, chính sách, biện pháp của Nhà nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho họ có nguy cơ bị suy giảm, mất nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì các nguyên nhân khách quan rơi vào cảnh nghèo khổ và cung cấp các dịch vụ sức khỏe cho cộng đồng, thông qua mạng lưới BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) và trợ giúp xã hội. 399
  4. Bản chất của ASXH là một chính sách xã hội nhằm giải quyết những vấn đề xã hội phát sinh mà chủ yếu bắt nguồn từ việc các thành viên trong xã hội bị mất hoặc giảm thu nhập, không thể đảm bảo được cuộc sống của bản thân họ cũng như người thân trong gia đình, giúp họ có thể ổn định cuộc sống ít nhất là ở mức tối thiểu. Chính sách ASXH giúp phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng đồng: lấy từ thu nhập của người giàu phân cho người có thu nhập thấp hoặc không may lâm vào cảnh yếu thế; và có thể điều phối thông qua chính sách tài khóa hoặc các tổ chức, cá nhân trực tiếp ủng hộ bằng tiền, hiện vật. 2.3. Cấu trúc của hệ thống an sinh xã hội Theo “Giáo trình An sinh xã hội” của PGS.TS. Nguyễn Văn Định xuất bản năm 2008, hệ thống ASXH bao gồm 5 trụ cột: BHXH, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, chính sách xóa đói giảm nghèo và quỹ dự phòng. Tại Việt Nam hiện nay, hệ thống ASXH gồm có: BHXH; BHYT; bảo hiểm thất nghiệp; cứu trợ xã hội; trợ giúp và ưu đãi xã hội; đi cùng với đó là 3 chức năng chiến lược: phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro, trong đó, BHXH là trụ cột quan trọng nhất của hệ thống ASXH tại Việt Nam. 3. Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội một lần 3.1. Bảo hiểm xã hội 3.1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của bảo hiểm xã hội Về khái niệm nói chung, BHXH là tổng thể các mối quan hệ giữa Nhà nước, người lao động, người sử dụng lao động; là sự đảm bảo thay thế, bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Theo khoản 1, Điều 3 Luật BHXH năm 2014, khái niệm về BHXH được nêu lên như sau: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH. BHXH là một trong những chính sách quan trọng, là trụ cột không thể thiếu trong hệ thống ASXH của mỗi quốc gia. Vậy BHXH có những đặc điểm gì? Thứ nhất, thời hạn bảo hiểm dài. Người lao động tham gia BHXH từ khi đi làm (đủ 15 tuổi) có thể đóng BHXH 30 - 40 năm và khi nghỉ hưu có thể được hưởng BHXH 25 - 30 năm. Thứ hai, chính sách BHXH chủ yếu là bắt buộc, từ đó bắt người sử dụng lao động có trách nhiệm tham gia vào hệ thống nhằm đảm bảo nguồn thu, đảm bảo mục tiêu phát triển và thể hiện trách nhiệm đối với người lao động. 400
  5. Thứ ba, sự kiện bảo hiểm thể hiện phạm vi bảo hiểm. Số lượng chế độ BHXH thể hiện độ rộng phạm vi bao phủ của BHXH. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc trường hợp nào thì sẽ được chi trả theo quy định của phạm vi chế độ đó. Thứ tư, phí BHXH được nộp định kỳ, hay theo khoảng thời gian nhất định. Ví dụ, theo khoản 1, Điều 85 Luật BHXH năm 2014, người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, đ và h, khoản 1, Điều 2 của Luật này, hằng tháng đóng bằng 8% mức tiền lương tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất; người lao động quy định điểm I, khoản 1, Điều 2 của Luật này, hằng tháng đóng bằng 8% mức lương cơ sở vào quỹ hưu trí và tử tuất. Thứ năm, BHXH được Nhà nước bảo hộ, được thể hiện ở Điều 6 Luật BHXH năm 2014 về “Chính sách của Nhà nước đối với BHXH”. Cụ thể, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia BHXH; hỗ trợ người tham gia BHXH tự nguyện; bảo hộ quỹ BHXH và có biện pháp bảo toàn, tăng trưởng quỹ; khuyến khích người sử dụng lao động và người lao động tham gia bảo hiểm hưu trí bổ sung; ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ thông tin trong quản lý BHXH. Thứ sáu, BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Mỗi quốc gia khác nhau sẽ có hệ thống khác nhau trên nền tảng Công ước 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), và khác nhau theo từng thời điểm. Từ những đặc điểm cũng như khái niệm đã nêu trên, vai trò của BHXH trên nhiều phương diện cũng phần nào được định hình, cụ thể như sau: - Vai trò đối với người lao động: BHXH giúp người lao động ổn định thu nhập, từ đó giúp họ có cuộc sống ổn định, no ấm. Bên cạnh đó, BHXH cũng đóng vai trò là chỗ dựa tinh thần cho người lao động. - Vai trò đối với người sử dụng lao động: BHXH giúp người sử dụng lao động thể hiện trách nhiệm của mình đối với xã hội, thông qua việc trích thu nhập để đóng BHXH định kỳ vào quỹ BHXH. Đồng thời, người sử dụng lao động cũng có thể ổn định tài chính nhờ có BHXH, thể hiện qua việc giúp doanh nghiệp giảm bớt trách nhiệm tài chính khi người lao động của họ gặp rủi ro (ví dụ như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…). Từ đó, người sử dụng lao động có thể ổn định sản xuất, kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. - Vai trò đối với kinh tế - xã hội: BHXH tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động: làm việc trong các cơ quan BHXH, bộ phận BHXH trong các doanh nghiệp hoặc khi doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh cần tuyển dụng nhiều lao động hơn. Bên cạnh đó, BHXH góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội: khi người lao động được BHXH hỗ trợ cuộc sống ổn định và là chỗ dựa tinh thần cho họ làm việc thì năng suất lao động cá nhân được nâng cao, từ đó năng suất lao động của doanh nghiệp tăng và năng suất 401
  6. lao động xã hội cũng được tăng lên. Ngoài ra, BHXH cũng giúp đảm bảo công bằng xã hội, góp phần đầu tư phát triển, tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội ổn định. 3.1.2. Hệ thống chế độ của bảo hiểm xã hội Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Gieneve, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: 1) Chăm sóc y tế; 2) Trợ cấp ốm đau; 3) Trợ cấp thất nghiệp; 4) Trợ cấp tuổi già; 5) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; 6) Trợ cấp gia đình; 7) Trợ cấp sinh đẻ; 8) Trợ cấp khi tàn phế; 9) Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng). Ở Việt Nam, ngày 29/6/2006, Quốc hội chính thức thông qua Luật BHXH. Theo Luật BHXH hiện hành, Việt Nam thực hiện loại hình BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. BHXH bắt buộc thực hiện với 5 chế độ sau đây: 1) Trợ cấp ốm đau; 2) Trợ cấp thai sản; 3) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; 4) Trợ cấp hưu trí; 5) Trợ cấp tử tuất. 3.1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội Thứ nhất, BHXH là trụ cột của hệ thống ASXH. Khi đề cập tới vai trò của BHXH, PGS.TS. Nguyễn Văn Định có nêu “BHXH được coi là “lưới” đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống ASXH. Việc thực hiện chính sách BHXH nhằm ổn định cuộc sống người lao động, trợ giúp người lao động khi gặp rủi ro như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp... sớm trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu cũng như sớm có việc làm. Các chính sách BHXH hướng tới nhóm đối tượng rất lớn trong xã hội là người lao động – chủ thể trực tiếp tạo ra của cải, vật chất trong xã hội. Sự hỗ trợ của các chế độ BHXH giúp người lao động an tâm hơn về cả mặt tài chính khi rơi vào rủi ro, biến cố không mong đợi lẫn sự ổn định về mặt tinh thần gặp khó khăn. Sự an tâm của người lao động khiến họ chuyên tâm vào công việc, nâng cao năng suất lao động và tạo ra nhiều giá trị hơn cho doanh nghiệp cũng như xã hội. Khi bảo vệ người lao động chính là bảo vệ ASXH quốc gia. Bên cạnh đó, BHXH 402
  7. đã chuyển giao trách nhiệm bảo vệ người lao động về phía xã hội, rủi ro được điều tiết trên phạm vi toàn xã hội, giúp cho chủ sử dụng lao động bớt những khó khăn, lo lắng về nguồn lao động của doanh nghiệp, yên tâm tổ chức sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, BHXH là sự bảo vệ và duy trì yếu tố lao động của quá trình sản xuất, kinh doanh – nguồn lực quyết định sự phát triển của đất nước. Ngoài ra, BHXH là một công cụ đắc lực của Nhà nước, góp phần vào việc phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và người lao động, đồng thời giảm chi cho ngân sách nhà nước, bảo đảm ASXH bền vững. Nếu thực hiện tốt chính sách BHXH, nhất là chế độ hưu trí, sẽ đảm bảo ổn định cuộc người lao động khi về già, gắn kết trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp cùng chung tay xây dựng hệ thống BHXH bền vững. Thứ hai, BHXH điều tiết các chính sách trong hệ thống ASXH. BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, hỗ trợ cho nhau và tất cả đều góp phần ổn định cuộc sống cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, từ đó góp phần ổn định xã hội. Khi tiến độ bao phủ BHXH ngày càng tới gần mức độ “bao phủ toàn dân” thì càng thể hiện đời sống của người lao động đang ngày một nâng cao, họ có thu nhập để có thể tham gia BHXH bắt buộc cũng như tự nguyện; từ đó sẽ góp phần làm giảm số đối tượng hưởng các chính sách ASXH khác như: ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội và làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Như vậy, khi kinh tế - xã hội phát triển thì hệ thống BHXH sẽ được mở rộng, lúc này những hình thức trợ giúp khác của xã hội chỉ là cái “lưới” cuối cùng cung cấp các điều kiện tối thiểu cho những người gặp hoàn cảnh khó khăn, bất lợi trong cuộc sống. 3.2. Bảo hiểm xã hội một lần 3.2.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm xã hội một lần BHXH một lần là chế độ cho phép người lao động khi thôi việc, thất nghiệp chấm dứt đóng BHXH sẽ được rút BHXH theo phương thức hưởng BHXH một lần. Bản chất của nó là người lao động không tiếp tục tham gia và rút ra khỏi hệ thống BHXH; đồng thời người lao động sẽ được nhận trợ cấp BHXH một lần theo từng chế độ nhưng còn phụ thuộc vào những điều kiện nhất định như: thời gian đóng BHXH, độ tuổi, tình trạng sức khỏe của người lao động… 3.2.2. Nội dung quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội một lần a) Cơ sở pháp lý - Luật BHXH năm 2014; - Nghị quyết số 93/2015/QH13 ngày 22/6/2015 của Quốc hội quy định về việc thực hiện chính sách hưởng BHXH một lần đối với người lao động; - Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ quy định về một số chế độ của BHXH bắt buộc như chế độ thai sản lao động nữ mang thai hộ, hưu trí, BHXH một lần, tử tuất; Quỹ BHXH…; 403
  8. - Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2015 của Bộ LĐ-TB&XH quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc; - Nghị định số 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật BHXH về BHXH tự nguyện; - Thông tư số 01/2016/TT-BLĐTBXH ngày 18/02/2016 của Bộ LĐ-TB&XH quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHXH tự nguyện; - Thông tư số 56/2017/TT-BYT ngày 29/12/2017 của Bộ Y tế quy định chi tiết thi hành Luật BHXH và Luật An toàn vệ sinh lao động thuộc lĩnh vực y tế. b) Điều kiện hưởng BHXH một lần ở Việt Nam - Theo khoản 1, Điều 60 và khoản 1, Điều 77 Luật BHXH (Luật số 58/2014/QH13) và khoản 1, Điều 1 Nghị quyết số 93/2015/QH13, người lao động có yêu cầu thì được hưởng BHXH một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau: + Đủ tuổi hưởng lương hưu mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH; + Người tham gia BHXH bắt buộc sau 01 năm nghỉ việc, người tham gia BHXH tự nguyện sau 01 năm không tiếp tục đóng BHXH mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH (theo khoản 1, Điều 1 Nghị quyết số 93/2015/QH13); + Đủ 55 tuổi mà chưa đủ 15 năm đóng BHXH và không tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện (đối với lao động nữ hoạt động ở xã, phường, thị trấn); + Ra nước ngoài để định cư; + Người đang bị mắc bệnh nguy hiểm đến tính mạng như: ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế; + Công an, bộ đội khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc mà không đủ điều kiện để hưởng lương hưu. c) Mức hưởng BHXH một lần Đối với người lao động đóng BHXH bắt buộc Khoản 2, Điều 8 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định cách tính bảo hiểm xã hội một lần dựa trên số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm được tính bằng: + 1,5 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH cho những năm đóng trước năm 2014; + 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH cho những năm đóng từ năm 2014 trở đi. Cụ thể, theo Điều 19 Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH, số tiền BHXH một lần được xác định theo công thức: 404
  9. Mức (1,5 * Mbqtl * Thời gian đóng (2 * Mbqtl * Thời gian đóng = + hưởng BHXH trước năm 2014) BHXH sau năm 2014) Trong đó: • Thời gian đóng BHXH có tháng lẻ thì từ 01 - 06 tháng được tính là 1/2 năm, từ 07 - 11 tháng được tính là 01 năm; • Trường hợp tính đến trước 01/01/2014 nếu thời gian đóng BHXH có tháng lẻ thì những tháng lẻ đó được chuyển sang giai đoạn đóng BHXH từ 01/01/2014 trở đi; • Mbqtl là mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. Lưu ý, mức hưởng BHXH một lần của người lao động có thời gian đóng BHXH chưa đủ 01 năm được tính bằng 22% các mức tiền lương tháng đã đóng BHXH. Mức tối đa bằng 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. Đối với người lao động tham gia BHXH tự nguyện Điều 6 Thông tư số 01/2016/TT-BLĐTBXH đã hướng dẫn cụ thể cách tính tiền BHXH một lần mà người lao động tham gia BHXH tự nguyện như sau: (1,5 * Mbqtl * Thời (2 * Mbqtl * Thời Số tiền Nhà nước Mức = gian đóng BHXH + gian đóng BHXH – hỗ trợ đóng BHXH hưởng trước năm 2014) sau năm 2014) tự nguyện Trong đó: • Thời gian đóng BHXH có tháng lẻ thì từ 01 - 06 tháng được tính là 1/2 năm, từ 07 - 11 tháng được tính là 01 năm; • Trường hợp tính đến trước 01/01/2014 nếu thời gian đóng BHXH có tháng lẻ thì những tháng lẻ đó được chuyển sang giai đoạn đóng BHXH từ 01/01/2014 trở đi; • Trường hợp mắc các bệnh nguy hiểm đến tính mạng theo quy định không bị trừ số tiền Nhà nước hỗ trợ đóng BHXH tự nguyện. • Số tiền Nhà nước hỗ trợ đóng BHXH tự nguyện (áp dụng từ ngày 01/01/2018) được tính bằng tổng số tiền Nhà nước hỗ trợ của từng tháng đã đóng BHXH tự nguyện; • Mbqtn là mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. Lưu ý, mức hưởng BHXH một lần của người lao động có thời gian đóng BHXH chưa đủ 01 năm được tính bằng 22% các mức thu nhập tháng đã đóng BHXH, trừ đi số tiền Nhà nước hỗ trợ đóng. Mức tối đa bằng 02 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. 405
  10. 3.2.3. Đặc điểm của bảo hiểm xã hội một lần Theo phân tích của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, việc lựa chọn nhận bảo hiểm xã hội một lần được coi là “lợi trước mắt, thiệt thòi về lâu dài” bởi việc hưởng BHXH một lần có những đặc điểm sau: Thứ nhất, sau này người lao động sẽ không được cộng dồn thời gian đóng BHXH mà tính thành thời gian BHXH mới, mất cơ hội hưởng lương hưu, không có thu nhập để trang trải chi phí khi về già. Thứ hai, nếu chọn hưởng lương hưu, người lao động có rủi ro về sức khỏe sẽ được Quỹ BHXH trả kinh phí để cấp miễn phí thẻ BHYT, hưởng các quyền lợi khám, chữa bệnh BHYT. Thứ ba, khoản tiền đóng vào quỹ BHXH không mất đi mà được cơ quan BHXH đầu tư tăng trưởng, bảo lưu. Nếu không may qua đời, người thân của người lao động sẽ được nhận các trợ cấp mai táng, tử tuất. Thứ tư, nhận BHXH một lần sẽ thiệt thòi rất lớn vì mức 22% tiền lương tháng đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất thì một năm tổng mức đóng là 2,64 tháng lương, trong khi nếu tính toán, mức hưởng BHXH một lần cho mỗi năm đóng BHXH với những năm trước 2014 là 1,5 tháng lương bình quân đóng BHXH và từ năm 2014 trở đi là 2 lần tháng lương bình quân đóng BHXH. Thứ năm, tham gia BHXH, mức lương hưu của người lao động sẽ được điều chỉnh theo chỉ số giá tiêu dùng và mức tăng trưởng kinh tế. Như vậy, nếu người lao động lựa chọn hưởng BHXH một lần thì sẽ bị thiệt thòi khi chưa đến tuổi nghỉ hưu đã hết tiền dưỡng già. Đến khi về già, người lao động không có lương hưu sẽ phải phụ thuộc. 4. Ảnh hưởng của bảo hiểm xã hội một lần đến sự bền vững của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam 4.1. Thực trạng hưởng bảo hiểm xã hội một lần ở Việt Nam 4.1.1. Giai đoạn trước khi đại dịch COVID-19 bùng phát Trên cơ sở các quy định của pháp luật BHXH về chế độ BHXH một lần, từ giai đoạn 2014 - 2019 đã có gần 3,7 triệu người hưởng BHXH một lần (bình quân mỗi năm có hơn 600.000 người nhận BHXH một lần – tương đương số người tham gia mới trong năm). Nếu so sánh về tỷ lệ, số người nhận BHXH một lần so với số người tham gia BHXH bắt buộc chiếm bình quân 4,58% – tương đương tốc độ phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bình quân cả giai đoạn 2014 - 2019 là 5,72%. Điều này có nghĩa là cứ có 02 người mới tham gia vào BHXH, thì có 01 người rời khỏi hệ thống. 406
  11. Bảng 1. Tình hình hưởng BHXH một lần giai đoạn 2014 - 2019 Đơn vị: người Năm Số người hưởng Lượng tăng (giảm) 2014 471.951 - 2015 485.952 14.001 2016 493.318 7.366 2017 558.910 65.592 2018 666.883 107.973 2019 807.089 140.206 Nguồn: Bảo hiểm Xã hội Việt Nam Số người hưởng BHXH một lần liên tục tăng lên hàng năm. Những người hưởng BHXH một lần thường là những người có số năm đóng BHXH thấp. Theo thống kê của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam giai đoạn 2014 - 2018, có đến gần 50% số người đã hưởng BHXH một lần chỉ có dưới 03 năm đóng BHXH, tuy nhiên, số người đóng BHXH trên 10 năm có xu hướng ngày càng tăng. Số liệu cũng cho thấy những người hưởng chế độ BHXH một lần tập trung ở độ tuổi 20 - 39, chiếm 79% tổng số người hưởng BHXH một lần giai đoạn 2014 - 2018. 4.1.2. Giai đoạn trong bối cảnh đại dịch COVID-19 Năm 2020, nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu chịu hậu quả nặng nề của COVID-19, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là vấn đề việc làm của hàng triệu người lao động. Đời sống khó khăn do dịch bệnh khiến nhiều người lao động phải rút BHXH một lần để có một khoản tiền chi tiêu, trang trải cuộc sống. Ngoài ra, một số ít người vì lợi ích trước mắt, muốn rút BHXH một lần để có luôn một khoản “tiền tươi”. Điều này khiến số người lao động hưởng BHXH một lần, đặc biệt trong giai đoạn 2020 - 2021, tăng lên nhanh chóng. Năm 2020, số lượng người hưởng BHXH một lần là 860.741, tăng 53.652 người (6,65%) so với năm 2019. Trong đó, số tham gia BHXH tự nguyện hưởng BHXH một lần là 11.868 người, tăng 51,55% so với năm 2019. Theo thống kê của BHXH, số người hưởng BHXH một lần năm 2020 tăng gấp 2 lần số người tham gia BHXH tăng thêm của năm 2020. Điều này có nghĩa là cứ 01 người tham gia BHXH thì có 02 người rời hệ thống. Sang tới năm 2021, nhất là từ khi đợt dịch lần thứ 4 bùng phát vào cuối tháng 4 năm 2021, thị trường lao động lại rơi vào trạng thái biến động khó lường. Trong bối cảnh dịch bệnh hết sức phức tạp, người lao động đối mặt với áp lực giảm thu nhập, không có thu nhập, thất nghiệp, không tìm được việc làm mới khiến cho số người nhận BHXH một lần tăng đột biến. Theo BHXH, đến hết tháng 11 năm 2021, cả nước có hơn 791.300 người hưởng BHXH 407
  12. một lần, tăng gấp 1,5 lần so với 6 tháng đầu năm 2022 và tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Đây là một thực tế đáng quan ngại bởi tình trạng này sẽ phá vỡ hệ thống BHXH. Người lao động rời bỏ hệ thống BHXH là tự tước đi quyền được tham gia thụ hưởng các chế độ BHXH, đặc biệt là các chế độ dài hạn như: hưu trí, tử tuất sẽ dẫn đến rủi ro đối với chính người lao động trong tương lai. Đồng thời, tạo ra những thách thức lớn trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng BHXH cũng như đảm bảo ASXH của đất nước. 4.2. Ảnh hưởng của bảo hiểm xã hội một lần đến sự bền vững của hệ thống an sinh xã hội Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã xác định BHXH là trụ cột chính của hệ thống ASXH, song thực tế hiện nay cho thấy, diện bao phủ của BHXH còn rất thấp, nhất là chế độ BHXH tự nguyện. Trong khi đó, số người nhận BHXH một lần đang có xu hướng ngày càng tăng lên. Đây là một thực tế đáng quan ngại bởi sẽ phá vỡ hệ thống BHXH. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến diện bảo vệ của BHXH, mà còn tạo ra những thách thức lớn trong việc đảm bảo ASXH ở nước ta. Cụ thể: - BHXH một lần không chỉ là thách thức đối với mục tiêu gia tăng tỷ lệ bao phủ của BHXH mà còn là thách thức trong việc duy trì đối tượng của hệ thống BHXH và ASXH. Tình trạng tăng số người hưởng BHXH một lần khiến phạm vi tham gia của người lao động và toàn xã hội vào hệ thống ASXH đã hẹp lại càng hẹp hơn. Mục tiêu và yêu cầu đảm bảo ASXH cho mọi người dân cũng như mục tiêu gia tăng độ bao phủ của BHXH rất khó được thực hiện. Bên cạnh đó, khi việc duy trì, phát triển đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH không tốt sẽ khó đảm bảo các nguyên tắc chia sẻ rủi ro, san sẻ tài chính; nguyên tắc số đông bù số ít trong bảo hiểm. - BHXH một lần là sự thách thức trực tiếp đối với chính người được hưởng. Khi người lao động rời bỏ hệ thống BHXH cũng là lúc họ tự tước quyền được tham gia thụ hưởng các chế độ BHXH, đặc biệt là các chế độ dài hạn như: hưu trí, tử tuất sẽ dẫn đến rủi ro đối với chính người lao động trong tương lai. Nếu duy trì tham gia BHXH, người lao động sẽ được trợ cấp theo từng chế độ BHXH. Họ sẽ được nhận một khoản thu nhập thay thế, bù đắp cho khoản tiền lương hay tiền công bị mất đi khi họ gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Nếu họ nhận trợ cấp BHXH một lần thì bản thân họ và gia đình có thể sẽ khắc phục được những khó khăn tức thời về thu nhập để ổn định cuộc sống. Số tiền nhận trợ cấp một lần thường được chi tiêu ngay vào nhiều mục đích khác nhau và khi đó chính người lao động tự đặt ra thách thức cho mình khi về hưu. Bởi lẽ, khoản tiền lương hưu do BHXH trợ cấp hàng tháng sẽ giúp đảm bảo ổn định cuộc sống của người lao động khi họ vẫn phải đều đặn chi tiêu hàng ngày, hàng tháng. Vậy nếu nhận BHXH một lần, mà nhất là trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, thì an ninh thu nhập của họ sẽ không được đảm bảo. Đây không phải là thách thức có thể dễ dàng vượt qua, nếu gia đình và con cháu họ lại rũ bỏ trách nhiệm với chính họ. 408
  13. - BHXH một lần còn là thách thức không nhỏ đến hệ thống hưu trí – hệ thống mang tính trụ đỡ của ASXH nước ta. Hiện nay, hệ thống hưu trí nước ta vẫn còn yếu do kinh tế - xã hội chưa thực sự phát triển. Bởi vậy, trong bối cảnh già hóa dân số diễn ra nhanh chóng như hiện nay, nếu những người tham gia BHXH nhận trợ cấp hưu trí một lần trước khi về hưu có xu hướng ngày càng gia tăng sẽ càng làm cho hệ thống hưu trí thiếu tính bền vững. Thực trạng này đang đặt ra một thách thức không nhỏ đến việc đảm bảo ASXH, đến việc duy trì thu nhập liên tục cho một bộ phận người già ở nước ta hiện nay. - Thực trạng nhận trợ cấp BHXH một lần đang có xu hướng gia tăng đã tạo ra một tâm lý đám đông trong số những lao động đang trong hệ thống BHXH. Đây là thách thức đối với việc hoàn thiện chính sách pháp luật trong quá trình cải cách, thực thi chính sách pháp luật BHXH trong tương lai, nhất là cơ quan BHXH nước ta. 5. Một số khuyến nghị Trong quá trình triển khai, thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW (ngày 23/5/2018) về cải cách chính sách BHXH ở Việt Nam, việc đề ra các biện pháp nhằm hạn chế tình trạng hưởng BHXH một lần càng cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Qua thực tiễn tình hình hưởng BHXH một lần ở Việt Nam trong thời gian vừa qua cùng những phân tích, đánh giá về các nhân tố ảnh hưởng tới ý định hưởng BHXH một lần ở Việt Nam, cũng như sự ảnh hưởng của việc hưởng BHXH tới đảm bảo ASXH quốc gia, nhóm tác giả có đưa ra một số khuyến nghị sau đây: Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách BHXH, BHTN đặc biệt là những chính sách hưởng BHXH một lần ở nước ta. Hiện tại, chính sách BHXH chưa có nhiều sức hút với người lao động, còn việc giải quyết nhận BHXH một lần khá nhanh chóng nên nhiều người lao động rơi vào tình trạng kinh tế khó khăn liền nghĩ tới khoản tiền từ BHXH một lần. Nhóm tác giả đề xuất việc điều chỉnh chính sách BHXH một lần theo hướng thắt chặt về các điều kiện được hưởng như: sau khi hưởng BHTN, qua các khóa đào tạo nâng cao tay nghề vẫn không tìm được việc làm để duy trì cuộc sống thì mới được xét hưởng BHXH, chấp nhận cho họ rời khỏi hệ thống. Cùng với đó, có thể cân nhắc việc giảm mức trợ cấp BHXH một lần để người lao động nhận thấy những thiệt thòi ngay về mặt tài chính. Thứ hai, tăng cường, đẩy mạnh công tác truyền thông về chính sách pháp luật về BHXH, để người lao động dễ dàng nhận thấy được lợi ích của việc đóng BHXH tại thời điểm hiện tại cũng như sự ổn định về thu nhập khi về hưu. Phương pháp tuyên truyền cần qua quá trình khảo sát thực tế từ các đối tượng tham gia vào thị trường lao động như: các hình thức tiếp cận thông tin của người lao động, nhu cầu cập nhật thông tin của họ để có thể đưa ra được phương pháp tuyên truyền phù hợp với số đông. Hiện nay, trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển vượt bậc, các nền tảng mạng xã hội, nền tảng thông tin được sử dụng phổ biến hơn bao giờ hết, đặc biệt là nhóm người trẻ tuổi. Công nghệ 4.0 cũng đem lại mặt trái là 409
  14. những nguồn tin không chính thống tràn lan, người dùng có thể bắt gặp mọi nơi. Qua một số nghiên cứu của các tác giả đi trước, nhóm đối tượng hưởng BHXH một lần nhiều nhất nằm trong độ tuổi 20 - 39. Nếu chúng ta có phương pháp truyền thông mới mẻ, phù hợp với nhóm đối tượng này thì họ sẽ tiếp cận được những thông tin chính xác một cách nhanh chóng hơn, nhận thức của họ sẽ có định hướng đúng đắn. Thứ ba, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, tạo môi trường làm việc năng động để thu hút, giữ chân người lao động tiếp tục làm việc, đóng góp BHXH. Các doanh nghiệp cần cải thiện các chế độ phúc lợi cho phù hợp với năng suất lao động và quan tâm đến nguyện vọng của người lao động nhằm tạo động lực cho người lao động hăng say làm việc, tạo niềm tin cho người lao động vào sự phát triển của doanh nghiệp cũng như an tâm gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Dịch bệnh COVID-19 hoành hành trong hai năm vừa qua đã để lại nhiều hậu quả nặng nề về kinh tế cũng như sức khỏe của người dân. Các doanh nghiệp nên tổ chức các buổi khám sức khỏe định kỳ cho nhân viên, đề xuất các bài tập cho toàn bộ người lao động trước và sau giờ làm để nâng cao sức khỏe cộng đồng, nâng cao chất lượng các bữa ăn. Đồng thời, thường xuyên quan tâm, thăm hỏi để nắm bắt được những tâm tư, nguyện vọng của người lao động, có những lời tư vấn, định hướng đúng đắn cho các lao động đang manh nha việc yêu cầu xét hưởng BHXH một lần. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bảo hiểm Xã hội Bộ Quốc phòng (2021), Vai trò trụ cột của bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội. 2. PGS.TS. Nguyễn Văn Định (2008), Giáo trình An sinh xã hội, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. 3. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật số 58/2014/QH13, ban hành ngày 20/11/2014. 4. TS. Nguyễn Thị Chính (2021), Thách thức của việc hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. 5. TS. Nguyễn Tiến Hùng (2022), “An sinh xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi số”, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://www.tapchicongsan.org.vn 6. Tổ chức Lao động Quốc tế – ILO (1988), Nguyên tắc cơ bản về an sinh xã hội. 410
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1