1
Phần I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa một trong bốn trụ cột của quá trình phát triển kinh tế - hội
Việt Nam. Trên sở nghiên cứu luận, tổng kết thực tiễn, Đại hội lần thứ XIII
của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của văn hóa phát huy vai trò của
văn hóa trong điều kiện mới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cần
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam. Bảo tồn, phát huy c giá trị văn
hóa dân tộc bảo tồn, giữ gìn thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu
tranh kiên cường dựngớc và giữ nước của dân tộc ta. Bảo tồn, phát huy các giá
trị văn a nhằm nâng cao sức mạnh nội sinh của n tộc, tạo động lực đphát
triển đất nước bền vững. Gigìn, phát huy các giá trị văn hóa giúp giữ được tính
độc đáo, bảo đảm tính thống nhất, khơi dậy, phát triển niềm to dân tộc. Sự
kết nối quá kh hiện tại chính là sở, nền tảng, hành trang cho tương lai của
đất nước.
Hướng dẫn Số: 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL ngày 16 tháng 01 năm 2013 của
Bộ Giáo dục Đào tạo - Bộ Văn hóa, Thể thao Du lịch chỉ rõ: Sử dụng di sản
văn hóa trong dạy học trường phổ thông, trung tâm Giáo dục thường xuyên nhằm
hình thành nâng cao ý thức tôn trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị của di sản
văn hóa; rèn luyện tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong đổi mới phương pháp
học tập rèn luyện; góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, phát
hiện, bồi dưỡng năng khiếu, tài năng của học sinh.
Thấm nhuần quan điểm chỉ đạo của Đảng, Bộ ngành Giáo dục, việc dạy
học gắn với bảo tồn gìn giữ di sản một yêu cầu bắt buộc đối với hệ thống giáo
dục. Thông qua giáo dục, những chủ trương chính sách, cũng như giá trị nhân văn
của tưởng được triển khai một cách hệ thống bài bản. Quan trọng hơn qua
giáo dục thế hệ trẻ sẽ được đánh thức tinh thần trách nhiệm tình yêu đối với các
di sản n hóa quý báu của ông cha.
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, ca trù được UNESCO ghi danh di sản văn hóa
phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây một loại hình nghệ thuật từ lâu đời, kết
tinh những giá trị tinh thần văn a lịch sử của dân tộc. Nghệ an 1/16 tỉnh
phía bắc sự hiện diện của thể loại ca trù. Vào thời nhà Lê ca trù phát triển mạnh
ra các huyện trong vùng như: Vinh, Yên Thành, Diễn Châu, Thanh Chương, Nam
Đàn... Nhưng hiện nay chỉ huyện Diễn Châu còn bảo tồn gìn giữ thể loại này.
Đây đơn vị đại diện cho Nghệ An tham gia các đợt Liên hoan tiếng hát ca trù
toàn quốc hàng năm.
Ca trù một vị trí danh dự trên bảng vàng di sản văn hóa phi vật thể
(DSVHPVT) của nhân loại. Tuy nhiên, việc bảo tồn và gìn giữ di sản này vẫn chưa
xứng tầm của nó. Nhất trên địa bàn tỉnh Nghệ An nói chung, huyện Diễn Châu
nói riêng. Việc dạy học gắn với bảo tồn di sản ca trù vẫn chưa được chú trọng
trong nhà trường. Mặc đây một di sản văn học đã nhắc đến qua thể thơ
Hát nói được đưa vào chương trình nhà trường giảng dạy từ những năm 1990.
2
người duyên được biết đến ca trù khi nghe một nghệ nhân ca trù
trăn trở: Mỗi lần tham gia Liên hoan tiếng hát ca trù toàn quốc vẫn chỉ những
khuôn mặt thân quen của các ca nương luống tuổi. Một mai thể loại này cũng mai
một, lãng quên trên mảnh đất Diễn Châu ta vốn vẫn được biết đến giàu giá trị
văn hóa tinh thần....(cười buồn, ngậm ngùi) - Nghệ nhân ưu Cao Xuân
Thưởng, CLB ca trù Diễn Châu, bản thân thấy mình cần phải làm một điều đó
góp phần bảo tồn gìn giữ một loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc của
quê hương Diễn Châu.
Xuất phát từ những lí do trên đã thôi thúc tôi lựa chọn đề tài Bảo tồn Ca trù
qua hoạt động dạy học môn Ngữ văn trong trường THPT ở huyện Diễn Châu”.
1.2. Mục tiêu, ý nghĩa, tính mới của đề tài
1.2.1. Mục tiêu
Đề tài đem đến một số giải pháp giúp bảo tồn Ca trù - di sản quý báu của dân
tộc nhân loại. Đồng thời nâng cao hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học, phát
huy tính tích cực chủ động sáng tạo cho hc sinh, tạo hứng thú trong học tập.Từ đó
đưa c giá tr tinh thần, văn hóa của dân tộc, quê hương gần hơn trong đi sng
tinh thn ca thế h trẻ. Giáo dục tinh thần trách nhiệm cho học sinh trong việc bảo
tồn và gìn giữ các DSVHPVT của nhân loại.
1.2.2. Đề tài có ý nghĩa
Tạo hội cho học sinh được đi sâu m hiu, khám phá về một loại hình
nghệ thuật đặc sắc của dân tộc. Giúp phát triển năng lực duy nghệ thut. Phát
hin nhng nhân t có s trường đam vi hoạt động sáng to ngh thuật văn
chương, âm nhạc. Góp phần bảo tồn loại hình nghệ thuật ca trù - di sản VHPVT
của nhân loại. Mặt khác hình thành và phát trin mt s k năng mềm: Kỹ năng
giao tiếp, trình bày, lắng nghe, hợp tác, biểu diễn, truyền thông...
1.2.3. Tính mới của đề tài
Đề tài được triển khai lần đầu tiên trường THPT trên địa bàn huyện Diễn
Châu, nhằm giúp giáo viên hướng đến giải quyết các vấn đề dạy học gắn với bảo
tồn các di sản văn hóa địa phương. Đề tài được thực hiện giá trị về lý thuyết
thực tiễn. Giúp học sinh tiếp cận giá trị độc đáo của ca trù - di sản văn hóa của
nhân loại, nâng cao ý thức bảo vệ, bảo tồn di sản. Đồng thời tạo niềm đam mê, bồi
dưỡng các nhân tố năng khiếu, sở trường tham gia vào quá trình gìn giữ ca trù.
Đề tài cũng hướng đến sự đổi mới trong phương pháp, hình thức tổ chức dạy học.
Nâng cao chất lượng giờ học Ngữ văn.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thông kê bằng biểu mẫu
- Phương pháp thc nghim khoa hc
3
1.4. Phm vi nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu áp dụng cho học sinh trường THPT Diễn Châu 3 trong năm học
2020-2021, 2021-2022.
Nghiên cứu văn bản Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ, Bài ca phong
cảnh Hương sơn - Chu Mạnh Trinh các văn bản của Câu lạc bộ Ca trù địa
phương Diễn Châu.
Phạm vi và khả năng nhân rộng cho các đối tượng học sinh, áp dụng cho học
sinh đại trà từ tiểu học đến trung học, góp phần nuôi dưỡng phát trin các tài năng
văn học, âm nhạc.
4
Phần II. NỘI DUNG
2.1. Tổng quan về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Di sản văn hóa phi vật thể (DSVHPVT) sản phẩm tinh thần gắn với cộng
đồng hoặc nhân, vật thể không gian văn hóa liên quan, giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Dạy học gắn với bảo tồn phát triển di sản văn hóa phi vật thể nhằm thực
hiện các mục tiêu: Hình thành và nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo tồn, phát huy,
tôn trọng, giữ gìn những giá trị di sản văn hóa; rèn luyện tính chủ động, tích cực,
sáng tạo trong đổi mới phương pháp học tập; góp phần nâng cao chất lượng
hiệu quả giáo dục, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, tài năng của học sinh.
Dy hc gn vi bo tn các di sản văn hóa phi vật th mt trong nhng
nhim v quan trng ca giáo dc. Qua tìm hiểu các đề tài SKKN đã làm của các
giáo viên, tôi thấy đã có nhiều đề tài đề cập đến vấn đề dy hc gn vi bo tn di
sản văn hóa cho hc sinh qua môn Ng văn. Tuy nhiên, các đề tài thường hướng
đến giáo dc ý thc qua các di sn vt th, hoặc nói đến các vấn đề chung ca dy
hc gn vi bo tn ch chưa đi sâu vào di sn VHPVT ca nhân loi mt
Ngh An như Ca trù. Trong các công trình nghiên cu, sách, bài viết sưu tầm
đưc, như 2 cuốn “Tuyển tập Hát nói”, “Ca trù nhìn từ nhiều phía” của tác gi
Nguyễn Đức Mậu; “Đặc kho ca trù Việt Nam” của Nhc vin Ni; nhng bài
viết ca PGS Ninh Viết Giao, ... ch yếu nghiên cu chuyên sâu v ngh thut ca
trù ca trù trong đi sng ca nhân dân. Ca trù trong nhà trưng và nht trên
địa bàn Ngh An chưa được nói tới. Ngày 1 tháng 10 năm 2009 UNESCO công
nhn ca trù là di sn VHPVT ca nhân loi cn bo v khn cp. Trách nhim
không riêng một ai. Đặc bit giáo dc ý thc bo tn di sn, các giá tr tinh thn
của đất nước, ca nhân loi vic làm ca tui tr ca c nn giáo dc. Biết
rằng để bo tn tr li thi v vang cho ca trù không th ch dựa vào đội ngũ
giáo viên và hc sinh, ca dy hc môn Ng văn mà nó đòi hỏi s đồng lòng c h
thng chính trị, văn hóa, c hi mi th nhanh chóng đưa ca tthoát khi
tình trng bo v khn cp. Kết qu nghiên cu của đề tài s có những đóng góp v
mt lun thc tin cho hành trình bo tn các giá tr ca ca tVit Nam nói
chung và nhất là trên quê hương x Ngh nói riêng.
2.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài
2.2.1. Ca trù - Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại
2.2.1.1. Khái niệm
Ca trù thực chất một tchữ Nôm, loại hình diễn xướng bằng âm nhạc
thính phòng rất được ưa chuộng tại Bắc bộ Bắc trung bộ Việt Nam. Ngoài ra
hình thức âm nhạc này còn được gọi với cái tên khác hát đầu, hát nhà trò, rất
được thịnh hành thế kỷ 15. Ca trù một loại hình âm nhạc kinh điển, đỉnh cao
của việc kết hợp thơ ca và âm nhạc.
5
Một chầu hát cần có ba thành phần chính:
Một nữ ca s (gọi là “đào” hay “ca nương”) sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp.
Một nhạc công nam giới (gọi “kép”) chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát.
Nhạc công đàn đáy lúc hát thể cách hát sử hát giai, vừa đàn vừa hát. Người
thưởng ngoạn (gọi là “quan viên”, thường là tác giả bài hát) đánh trống chầu chấm
câu biểu lộ chỗ đắc ý bằng tiếng trống.Vì nghệ thuật âm nhạc thính phòng,
không gian trình diễn ca trù phạm vi tương đối nhỏ. Đào hát ngồi trên chiếu
giữa. Kép và quan viên ngồi chếch sang hai bên. Khi bài hát được sáng tác và trình
diễn ngay tại chỗ thì gọi là “tức tịch,” ngha là “ngay ở chiếu”.
2.2.1.2. Lch s hnh thành và phát trin
Ca trù khởi nguồn từ lối hát Đào nương, một lối hát lấy giọng nữ làm trọng và
đã xuất hiện trong đời sống người Việt. Thời Tiền Lê, năm Thiên Phúc thứ 8 (987),
Đại Hành Hoàng đế sai Khuông Việt chế khúc để hát tiễn sthần phương Bắc
Giác về nước. Khác với lối làm thơ, chế khúc viết ca tcho một ca điệu sẵn,
ca nương dựa vào điệu mà “bẻ thành làn hát” đây chính là tiền thân của hát ca trù..
Thời Lý, năm Thuận Thiên thứ 16 (1025) tại Thăng Long vua Thái Tổ
định ra hát xướng, con trai gọi là Quản giáp, con gái gọi là Ả đào (dân gian vẫn gọi
quản đào). Lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, nghề ca xướng, những
người làm nghề ca xướng được nhà nước coi trọng và lập ra tổ chức để họ hành
nghề. Do vậy mà nghệ thuật quản – đào ngày càng phát triển và hoàn thiện..
Thời Trần (1225 -1400), âm nhạc quản giáp, đào ngày càng thịnh hành,
ngày càng thể hiện vai trò “bao sân” trong đời sống xã hội.
Thời Lê Sơ, năm thứ 4 Thiệu Bình (1437), vua Lê Thái Tông sai Lương Đăng
định ra quy chế lễ nhạc. Sinh hoạt nhạc quan đào thu hẹp dần quy phân
chia thành hai bộ phận Nhạc bát âm và Hát ả đào.
Từ niên hiệu Hồng Đức (1470) đến niên hiệu Đức Nguyên (1675), những
người hành nghề âm nhạc phải sinh hoạt trong một tổ chức mới gọi ty giáo
phường. Nghệ thuật trình diễn phục vụ cúng tế ấy những canh hát thờ thần, sau
này quen gọi là hát cửa đình.
Từ nửa cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX nhu cầu nghe hát ca trù phát
triển rầm rộ khắp nước. Nhiều đào nương nông thôn đua nhau ra Nội các
tỉnh thành, phố thị mưu sinh. Người nhiều tiền thì thuê địa điểm mở nhà hát ca trù
ngay ven đường, người ít tiền thì đi hát thuê. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
phát triển quá nóng nhà hát ca trù các đô thị Việt Nam thời bấy giờ. Để thu hút
khách, các chủ nhà hát đã chiêu mộ thêm những cô gái trẻ không biết hát làm công
việc chiêu đãi khách gọi là cô đầu rượu.
Theo Nguyễn Xuân Diện trong Đặc khảo ca trù Việt Nam thì ca trù được
hoàn thiện cơ bản về lối chơi vào thế kỷ thứ XV. Trong khi các tư liệu mỹ thuật và
khảo cổ học chưa đủ chứng lý khẳng định ca trù từ thời (Thế kỷ XI), thì bài