15/1/2016<br />
<br />
Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững<br />
<br />
Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền<br />
vững<br />
Nguyễn Thị Thu Hoài | Chủ Nhật, 05/07/2015 08:29 GMT +7<br />
<br />
Việt Nam là một đất nước thống nhất đa dân tộc với nền văn hóa nhiều màu sắc.<br />
Nhằm bảo tồn tính đa dạng của văn hóa dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã đề<br />
ra nhiều chính sách liên quan đến công tác bảo tồn văn hóa dân tộc thiểu số<br />
(VHDTTS), có tác dụng tích cực đối với việc kế thừa, phát triển truyền thống văn<br />
hóa tốt đẹp của dân tộc thiểu số, đồng thời thúc đẩy bình đẳng, đoàn kết, tiến bộ<br />
toàn dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các cấp chính quyền và người<br />
dân bản địa đã gặp không ít khó khăn trong việc cân bằng giữa phát triển kinh tế<br />
với bảo tồn văn hóa, gìn giữ sự phong phú đa dạng của VHDTTS.<br />
<br />
1. Ý nghĩa của việc bảo tồn di sản VHDTTS<br />
Di sản VHDTTS là những giá trị vật chất và tinh thần được tích tụ, gìn giữ trong toàn bộ quá<br />
trình lịch sử phát triển của dân tộc thiểu số, là bộ phận cấu thành quan trọng của VHDTTS.<br />
Trong thời kỳ CNH, HĐH, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số có ý<br />
nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng.<br />
Thứ nhất, bảo tồn di sản VHDTTS thúc đẩy phát triển. Sự phát triển của VHDTTS được xây<br />
dựng trên nền tảng không ngừng phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Di sản<br />
VHDTTS ghi lại quá trình phát triển lịch sử của các dân tộc, biểu hiện sự kết tinh trí tuệ dân tộc<br />
data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22font-size%3A%2019px%3B%20color%3A%20rgb(74%2C%2075%2C%2076)%3B%20margin%3A%200p…<br />
<br />
1/6<br />
<br />
15/1/2016<br />
<br />
Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững<br />
<br />
và văn hóa đặc sắc. Cùng với sự phát triển của thời đại, tuy một số văn hóa truyền thống thay<br />
đổi không ít, thậm chí một số nội dung do không còn phù hợp với thời đại mà dần dần tiêu<br />
vong, nhưng phần tinh hoa bao hàm trong đó sẽ không ngừng phát triển để thích ứng với yêu<br />
cầu của thời đại mới, được quần chúng trong dân tộc đó kế thừa, trở thành động lực tinh thần<br />
thúc đẩy phát triển.<br />
Thứ hai, bảo tồn di sản VHDTTS làm phong phú kho tàng văn hóa Việt Nam, lưu giữ tính đa<br />
dạng của văn hóa thế giới. Thời kỳ toàn cầu hóa, văn hóa truyền thống, trong đó bao gồm di<br />
sản VHDTTS, đều chịu tác động ở những mức độ khác nhau, có cái đang đứng trước nguy cơ<br />
biến mất, nhưng cũng có cái đã mất đi trước khi nhận thức, phát hiện ra nó. Với một đất nước<br />
đa tộc người như Việt Nam, bảo tồn di sản VHDTTS không chỉ làm phong phú kho tàng văn<br />
hóa dân tộc mà còn có cống hiến quan trọng duy trì sự đa dạng của văn hóa nhân loại.<br />
Thứ ba, việc bảo tồn di sản VHDTTS góp phần bảo đảm quyền lợi của VHDTTS, là một trong<br />
những nội dung quan trọng của vấn đề bảo vệ nhân quyền cho dân tộc thiểu số. Làm tốt công<br />
việc bảo tồn di sản VHDTTS là lời đáp trả hữu ích trước âm mưu diễn biến hòa bình, phá hoại,<br />
chia rẽ dân tộc dưới vỏ bọc nhân quyền của các thế lực thù địch.<br />
Thứ tư, bảo tồn di sản VHDTTS nhằm tăng cường khai thác nguồn tài nguyên văn hóa, thúc<br />
đẩy phát triển kinh tế khu vực dân tộc thiểu số. Hiện nay, hoạt động du lịch văn hóa ở các khu<br />
vực dân tộc thiểu số gia tăng, du lịch được thúc đẩy phát triển, thậm chí trở thành ngành chủ<br />
chốt của địa phương. Việc bảo tồn di sản VHDTTS đảm bảo cho tài nguyên du lịch văn hóa có<br />
thể phát triển bền vững, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực dân tộc thiểu số.<br />
2. Những nguy cơ văn hóa khu vực dân tộc thiểu số đang đối diện<br />
Sản phẩm thủ công dân gian và kỹ thuật thủ công của dân tộc thiểu số dần dần tiêu<br />
vong<br />
Sự phát triển của công nghiệp hiện đại đã gây ra hậu quả tất yếu: sản phẩm dân gian được chế<br />
tác thủ công của dân tộc thiểu số không có sức cạnh tranh do tốn sức, tốn thời gian, lại yêu<br />
cầu chi phí quá cao. Thế hệ hiện tại không muốn làm những sản phẩm thủ công bị lạnh nhạt<br />
này, kỹ thuật làm đồ thủ công do đó bị thất truyền, dần đi tới diệt vong. Có thể lấy thí dụ nghề<br />
dệt thổ cẩm của người Thái, nghề gốm của người Thái đen ở Chiềng Cơi và Mường Chanh Sơn La. Trước đây nghề gốm khá phát triển, vào lúc nông nhàn hầu như gia đình nào cũng<br />
làm gốm. Thời điểm hưng thịnh nhất vào các năm 1979 - 1985, khi đó, gốm Mường Chanh có<br />
mặt ở khắp các huyện, thị trong tỉnh và nhiều địa phương khác. Tới nay, gốm Mường Chanh<br />
đang phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm sành, sứ, nhựa nội ngoại được<br />
nhập ồ ạt trên thị trường. Các sản phẩm dệt, nhuộm, thêu ghép hoa văn thổ cẩm trên vải;<br />
nhạc cụ dân tộc được chế tác bằng chất liệu đá, đồng, tre, nứa, gỗ, vỏ bầu khô; công cụ săn,<br />
bắn, bẫy chim, thú, cá; sản phẩm mây tre đan gia dụng của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn<br />
khiến cho chúng ta khâm phục trong quá khứ thì trong những thập kỷ gần đây bị mai một, sa<br />
sút rất nhiều. Cả nước ta hiện có khoảng 1.500 làng nghề với khoảng 1,4 triệu thợ thủ công thì<br />
số làng nghề và thợ thủ công ở vùng dân tộc thiểu số lại quá nhỏ bé, ít ỏi, có thể đếm trên đầu<br />
ngón tay. Vì vậy, tất yếu sản phẩm từ nghề thủ công truyền thống của vùng dân tộc thiểu số<br />
lưu thông trên thị trường ngày càng thiếu vắng. Nguyên nhân là lâu nay, chúng ta thường chỉ<br />
nhìn nghề và làng nghề thủ công truyền thống dưới góc độ kinh tế, giải quyết việc làm, có<br />
thêm thu nhập cho người lao động, nên việc biến mất của các nghề thủ công truyền thống là<br />
data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22font-size%3A%2019px%3B%20color%3A%20rgb(74%2C%2075%2C%2076)%3B%20margin%3A%200p…<br />
<br />
2/6<br />
<br />
15/1/2016<br />
<br />
Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững<br />
<br />
không thể tránh khỏi.<br />
Nguy cơ của một số vấn đề văn hóa tinh thần<br />
Về ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn tự là linh hồn của văn hóa, là cơ sở và phương tiện truyền tải<br />
nghệ thuật cùng phong tục tập quán của các tộc người. Cùng với tốc độ truyền bá mạnh mẽ,<br />
nhanh chóng của văn hóa phương Tây và sự phổ cập rộng rãi của tiếng Việt trong khu vực dân<br />
tộc thiểu số, ngôn ngữ dân tộc thiểu số đang đứng trước nguy cơ tiêu vong.<br />
Đơn cử như trường hợp tộc người Thái ở Điện Biên, một trong những tộc người thiểu số có số<br />
lượng đông nhất ở Việt Nam, cũng là tộc người có chữ viết từ rất sớm, văn hóa Thái cũng có<br />
sự ảnh hưởng không ít đến đời sống văn hóa của các tộc người cộng cư trên địa bàn. Tuy<br />
nhiên, số người biết viết chữ trong tộc người Thái chỉ đếm trên đầu ngón tay. Một nguyên<br />
nhân khác xuất phát từ giáo dục. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính còn ngôn ngữ dân tộc thiểu số<br />
không được giảng dạy như một song ngữ cho chủ thể văn hóa là những dân tộc ít người.<br />
Ngoài ra, do ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa phương Tây, người ta ngày càng thiếu coi trọng<br />
văn hóa truyền thống của dân tộc thiểu số. Lấy sự giàu có làm thước đo đánh giá con người,<br />
rất nhiều người dần dần thiếu hụt hoặc mất đi niềm tự tin, nảy sinh cảm giác tự ti, từ đó chủ<br />
động rũ bỏ nhiều thứ thuộc về mình, trong đó có ngôn ngữ. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề cần<br />
hết sức lưu tâm. Tình trạng này chúng ta cũng gặp ở các dân tộc thiểu số Trung Quốc (1).<br />
Về âm nhạc, vũ đạo. Nếu như người Việt có đàn bầu thì cây tính tẩu của dân tộc Tày, Thái, tơ<br />
rưng, klong pút, cồng chiêng của các dân tộc Tây Nguyên, khèn của dân tộc Mông... là những<br />
nhạc cụ điển hình của các dân tộc thiểu số. Các nhạc cụ làm nên những dàn âm thanh văn hóa<br />
của các tộc người thiểu số trong suốt vòng đời của họ, từ khi sinh ra, lớn lên, dựng vợ gả<br />
chồng, cho đến khi trở về với đất mẹ. Nhịp đập khi khoan, khi nhặt của những ống tre, đầu<br />
gậy đập xuống sàn trong điệu múa tăng bu, múa gậy của đồng bào Khơ mú, múa sạp, múa<br />
chiêng của đồng bào Mường, Thái và còn biết bao âm thanh kỳ diệu trong điệu múa trống,<br />
múa xúc tép của dân tộc Cao Lan, múa chèo thuyền, múa hoa sen của đồng bào Khơme Nam<br />
Bộ... là những di sản văn hóa hết sức quý giá của các dân tộc thiểu số từ ngàn đời nay. Tuy<br />
nhiên, kinh tế toàn cầu hóa dẫn tới sự lan truyền của văn hóa tiêu dùng, khiến cho hoàn cảnh<br />
cư trú, phương thức tiêu dùng sinh hoạt ở khu vực dân tộc thiểu số có sự thay đổi rất lớn. Môi<br />
trường sinh tồn của ca múa nhạc dân gian cũng theo đó thay đổi. Biểu hiện cụ thể là những<br />
nghệ nhân ca múa nhạc dân gian dần dần già đi, còn thế hệ trẻ lại thoát ly đi lao động, không<br />
có thời gian và tâm trạng học tập lớp người đi trước. Một số thanh niên dân tộc thiểu số đi lao<br />
động ở bên ngoài về, chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa tiêu dùng, thậm chí còn nảy sinh<br />
tâm lý tự ti với văn hóa dân gian, cho rằng đó là những thứ lạc hậu, dần dần từ bỏ âm nhạc,<br />
vũ đạo truyền thống của dân tộc, khiến chúng đứng trước nguy cơ thất truyền. Ngoài ra, còn<br />
do rất ít người ý thức đầy đủ được giá trị của việc giữ gìn văn hóa dân tộc thiểu số trong công<br />
cuộc bảo tồn tính đa dạng của văn hóa quốc gia và thế giới. Cùng lúc với việc theo đuổi nhu<br />
cầu vật chất, người ta đã quên đi ý nghĩa và tầm quan trọng của văn hóa dân tộc thiểu số với<br />
việc duy trì cân bằng sinh thái toàn cầu. Phần lớn vẫn không nhận thức được tầm quan trọng<br />
của thời cơ bảo tồn văn hóa dân tộc, khiến văn hóa dân tộc tiêu vong hoặc đứt đoạn.<br />
3. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc thiểu số<br />
Phát triển bền vững trên cơ sở dung hòa giữa kinh tế và văn hóa<br />
Cần tận dụng tối đa ưu thế sinh thái tự nhiên và tài nguyên văn hóa của dân tộc thiểu số, tìm<br />
data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22font-size%3A%2019px%3B%20color%3A%20rgb(74%2C%2075%2C%2076)%3B%20margin%3A%200p…<br />
<br />
3/6<br />
<br />
15/1/2016<br />
<br />
Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững<br />
<br />
kiếm điểm giao nhau giữa bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế, dung hòa giữa kinh tế<br />
và văn hóa.<br />
Việt Nam có 54 dân tộc, mỗi dân tộc đều có văn hóa vật chất và tinh thần đặc sắc của riêng<br />
mình. Những phong tục độc đáo đó có sức hấp dẫn vô cùng lớn với con người sinh sống trong<br />
xã hội có nhịp sống gấp gáp như hiện nay. Một số khu vực dân tộc thiểu số có nguồn tài<br />
nguyên sinh thái tốt, môi trường sinh thái sơn thủy hữu tình, những thứ mà vùng phát triển<br />
không có được, nơi đây lại có. Những điểm này sẽ cung cấp điều kiện tìm kiếm điểm giao nhau<br />
giữa bảo tồn văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế.<br />
Kết hợp giữa khai thác văn hóa và phát triển<br />
Cần tăng cường nhận thức kinh tế của dân tộc thiểu số, đem phong tục văn hóa dân gian dân<br />
tộc tiếp cận thị trường, áp dụng phương thức đưa và lợi dụng vốn của cá nhân, doanh nghiệp<br />
vào công tác bảo tồn, khai thác văn hóa; biến nghệ thuật dân gian dân tộc thành nguồn tài<br />
sản, kết hợp văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số và phát triển kinh tế hữu cơ, đồng thời<br />
từng bước phát triển thành điểm tựa của kinh tế văn hóa. Bên cạnh đó, cần khai thác du lịch<br />
một cách hợp lý trên cơ sở thúc đẩy khai thác, bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống;<br />
khiến cho tinh hoa văn hóa dân tộc được tôi luyện, truyền bá và phát triển rộng rãi, giúp cho<br />
nền du lịch hiện đại và xã hội dân tộc thiểu số tìm được điểm giao nhau, thúc đẩy kinh tế xã<br />
hội phát triển bền vững. Văn hóa dân tộc thiểu số đã qua quy hoạch khoa học, quản lý thích<br />
hợp sẽ khiến ngành du lịch hiện đại và xã hội dân tộc thiểu số tìm được tiếng nói chung khiến<br />
nó vượt qua quá trình công nghiệp hóa, trực tiếp bước vào xã hội hậu công nghiệp hóa.<br />
Kết hợp khai thác văn hóa và những hình thức truyền thông<br />
Khai thác phong tục dân tộc thiểu số, hình thức sinh hoạt, âm nhạc, vũ đạo… chế tác thành<br />
phim điện ảnh, truyền hình; xuất bản nhiều tác phẩm có đề tài văn hóa dân tộc thiểu số. Lợi<br />
dụng sức hấp dẫn của văn học nghệ thuật, sự thịnh hành của âm nhạc vũ đạo, tính sinh động<br />
của mạng internet, các tác phẩm phim ảnh… khiến người dân có thêm hiểu biết về văn hóa dân<br />
tộc thiểu số, kích phát niềm yêu thích của họ với văn hóa dân tộc thiểu số, từ đó khiến họ ủng<br />
hộ thậm chí đầu tư vào hạng mục bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số.<br />
Giáo dục trong nhà trường phải đưa môn học kế thừa văn hóa dân tộc vào nội dung<br />
giảng dạy<br />
Việc bảo tồn văn hóa dân gian dân tộc cần bắt đầu từ giáo dục, muốn xây dựng một vùng đất<br />
giàu chất dinh dưỡng để tiến hành bảo tồn, kế thừa, phát triển văn hóa dân gian dân tộc, bắt<br />
buộc phải đưa văn hóa dân gian dân tộc vào nội dung giảng dạy, đặc biệt là ở khu vực dân tộc<br />
thiểu số, cần mở những môn học liên quan, duy trì chế độ giáo dục song ngữ. Từng bước đầu<br />
tư thêm cho bảo tồn văn hóa, đẩy mạnh công tác nghiên cứu văn hóa dân tộc, thúc đẩy tiến<br />
trình lập pháp của bảo tồn văn hóa dân tộc. Về vấn đề này, tác giả Tô Ngọc Thanh đã từng có<br />
ý kiến: “Đưa thêm vào chương trình giáo dục phổ thông những kiến thức về văn hóa các tộc<br />
người Việt Nam. Khôi phục việc dạy chữ dân tộc trong các trường trước đây do chiến tranh nên<br />
bị bỏ dở. Đồng thời, nghiên cứu việc tạo bộ chữ cho các tộc người chưa có chữ viết”(2).<br />
Bên cạnh đó, cần tiếp tục thúc đẩy công tác điều tra chỉnh lý văn hóa dân gian dân tộc. Liên<br />
quan đến vấn đề này, chúng tôi nhận thấy ở Trung Quốc có một cách làm có thể tham khảo.<br />
Trung Quốc đã đưa ra hạng mục: Bảo tồn di sản văn hóa vô hình của dân tộc thiểu số Trung<br />
data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22font-size%3A%2019px%3B%20color%3A%20rgb(74%2C%2075%2C%2076)%3B%20margin%3A%200p…<br />
<br />
4/6<br />
<br />
15/1/2016<br />
<br />
Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc thiểu số trong phát triển bền vững<br />
<br />
Quốc. Hành động bảo tồn dân ca, nguồn tiền do chính phủ Nhật Bản tài trợ, hiệp hội dân gian<br />
Trung Quốc và văn phòng UNESCO tại Bắc Kinh thực thi. Theo Báo cáo của họ, chương trình<br />
đã “phỏng vấn 235 ca sĩ của 10 dân tộc, ghi âm tổng cộng 385 bài hát, với thời lượng 42 tiếng<br />
đồng hồ, và ghi hình với thời lượng 57 tiếng; phim tuyên truyền chế tác hậu kỳ dài 50 phút, và<br />
tuyển tập tinh hoa dân ca dài 420 phút. Tổ khảo sát đã tiến hành điều tra, tìm hiểu toàn diện<br />
trên những phương diện như: sự phân bố của các dân tộc thiểu số trong vùng, kho tàng dân<br />
ca dân tộc thiểu số, hình thức lưu truyền dân ca dân tộc thiểu số, tình hình ca sĩ…”(3). Thực tế<br />
cho thấy, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa của Việt Nam trong quá trình điền dã đã có sử dụng<br />
các thao tác và phương pháp trên đây, nhưng vẫn còn lẻ tẻ, thiếu quy mô và định hướng.<br />
Chúng ta cần nhanh chóng thay đổi cách tiếp cận để có thể đạt được hiệu quả như mong<br />
muốn.<br />
Bồi dưỡng ý thức về giá trị văn hóa dân tộc, đẩy mạnh tuyên truyền bảo tồn văn<br />
hóa dân tộc<br />
Chúng ta cần làm rõ hơn về vai trò to lớn và lâu dài của văn hóa trong phát triển kinh tế, nhận<br />
thức rằng văn hóa cũng là sức sản xuất. Đẩy mạnh tuyên truyền bảo tồn văn hóa trong quá<br />
trình khai thác, động viên toàn xã hội quan tâm bảo tồn và khai thác văn hóa dân tộc, giúp<br />
đồng bào dân tộc thiểu số biết rằng văn hóa có thể tạo ra lợi nhuận, vừa có lợi cho việc sáng<br />
tạo và phát triển kinh tế bền vững, vừa có lợi cho việc xây dựng văn hóa xã hội tại khu vực<br />
này... Về vấn đề này, ông Đan Chu Áng Bôn - Phó Chủ nhiệm Ủy ban dân tộc quốc gia Trung<br />
Quốc cho rằng: “Phát triển kinh tế là một nền tảng cơ sở, nếu kinh tế phát triển tốt, có thể đem<br />
lại sự đảm bảo vật chất cho công tác phát triển văn hóa; tuy nhiên, nếu văn hóa phát triển tốt,<br />
đồng thời cũng có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế. Do đó phát triển kinh tế và phát triển<br />
văn hóa có thể đồng thời tiến hành một cách hài hòa. Cả hai phương diện này đều quan trọng<br />
với khu vực dân tộc thiểu số, không thể thiên lệch bên nào”(4). Những trường hợp như Lệ<br />
Giang (5) của Vân Nam, Cửu Trại Câu (6) của Tứ Xuyên là những minh chứng rất cụ thể.<br />
Những năm gần đây, nhiều vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam đã thu hút được rất nhiều<br />
khách tham quan du lịch theo dạng tham quan trải nghiệm, du lịch cộng đồng như khu vực<br />
Tây Bắc, Tây Nguyên. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai lại không có được những cơ sở<br />
thực tiễn tốt nên ít nhiều đã không thu được hiệu quả như mong muốn. Đơn cử như trường<br />
hợp khu du lịch bản Lác ở thung lũng Mai Châu - Hòa Bình. Được biết đến như một địa điểm<br />
hàng đầu thu hút khách nước ngoài trong nhiều năm vừa qua, đến nay, lượng khách đã giảm<br />
hẳn do việc chỉ chú ý đến lợi nhuận mà không chú ý đến việc tổ chức đời sống cho du khách. Ở<br />
khu du lịch bản Lác, khách tham quan sẽ rất dễ dàng để nhận ra sự thiếu vắng của phong tục<br />
tập quán của dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, du lịch trải nghiệm, du lịch khám phá đã không<br />
thực hiện được. Mặc dù các ông chủ của những nếp nhà sàn khang trang (thường là người<br />
Việt) vẫn thuê người dân tộc nấu ăn, khách du lịch vẫn ngủ tập trung trong một nếp nhà sàn<br />
nhưng thường thì không được giao lưu đáng kể với dân bản địa. Đây quả là một điều đáng tiếc<br />
và cần phải có sự thay đổi về nhận thức và hành động, làm sao để hấp dẫn hơn nữa du khách,<br />
để di sản VHDTTS có dịp được truyền bá rộng rãi và văn hóa bản địa có thể tham gia một cách<br />
trực tiếp như một nguồn lực vào phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.<br />
Văn hóa truyền thống dân tộc là lực lượng quan trọng trong việc duy trì văn hóa dân tộc.<br />
Trong quá trình phát triển hiện đại hóa, những nhân tố văn hóa truyền thống không còn phù<br />
hợp với quy luật phát triển của xã hội, không thể duy trì cân bằng tự nhiên sinh thái và hài hòa<br />
xã hội sẽ bị loại bỏ. Tuy nhiên nên ý thức sâu sắc giá trị của văn hóa dân tộc thiểu số, nhận<br />
data:text/html;charset=utf-8,%3Ch1%20style%3D%22font-size%3A%2019px%3B%20color%3A%20rgb(74%2C%2075%2C%2076)%3B%20margin%3A%200p…<br />
<br />
5/6<br />
<br />