BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

................/............... ......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THÀNH CHUNG

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG

KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ

TỤC SƠ THẨM - TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Thừa Thiên Huế - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

................/............... ......../.......

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THÀNH CHUNG

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG

KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ

TỤC SƠ THẨM - TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

MÃ SỐ: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ VỆ QUỐC

Thừa Thiên Huế - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng.

Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách

trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn tình hình công tác quản lý.

Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào

khác.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2020 Học viên

Nguyễn Thành Chung

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban Giám đốc Học

viện Hành chính Quốc gia, Khoa sau Đại học, Phân viện miền Trung, quý

thầy cô đã truyền đạt kiến thức, tạo điều về mọi mặt để tôi hoàn thành khóa

học và công trình nghiên cứu của mình.

Đặc biệt, xin chân thành cảm ơn TS. Lê Vệ Quốc đã tận tình hướng

dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.

Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được

sự quan tâm, giúp đỡ, động viên, hướng dẫn tận tình của quý thầy cô, quý cơ

quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo, cơ quan, gia đình, bạn bè đã

giúp đỡ, động viên bản thân trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu

của mình.

Trân trọng cảm ơn! Học viên

Nguyễn Thành Chung

Mục Lục

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1 .......................................................................................................... 8

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN

CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ

ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ TỤC SƠ THẨM CỦA VIỆN KIỂM

SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH ........................................................................ 8

1.1. Quan niệm về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ......... 8

1.2. Nội dung về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ

án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ............. 20

1.3. Một số yếu tố bảo đảm việc bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát

các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm ................................................................ 26

Chƣơng 2 ........................................................................................................ 33

THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG

KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ

TỤC SƠ THẨM TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG

BÌNH HIỆN NAY .......................................................................................... 33

2.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình và tình hình kiểm sát

việc trả lại đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết án hành chính theo thủ tục sơ thẩm

của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình ........................................................... 33

2.3. Đánh giá chung về bảo vệ quyền con người qua công tác kiểm sát các vụ án

hành chính của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình những năm qua ........... 53

CHƢƠNG 3 .................................................................................................... 69

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ QUYỀN CON

NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH ........................................ 69

3.1. Quan điểm tăng cường bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải

quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm ở Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnh ................................................................................................................................. 69

3.2. Các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát

giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm từ thực tiễn Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Quảng Bình .......................................................................................... 75

KẾT LUẬN .................................................................................................... 92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, quyền con người, quyền công dân

không chỉ là quan tâm nội bộ của mỗi quốc gia mà đã trở thành vấn đề được

quốc tế hóa ngày càng sâu rộng. Một trong những chức năng quan trọng và là

tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ của một Nhà nước, đó là việc tôn trọng, bảo

vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đảng và Nhà nước ta chủ

trương xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì vấn đề

bảo đảm quyền con người, quyền công dân phải được chú trọng hàng đầu, đặc

biệt là trong các quan hệ tố tụng nói chung và tố tụng hành chính nói riêng.

Theo Hiến pháp 2013, ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các

quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội

được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật

(Điều 14); Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công

nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực

hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người

có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện (Điều

3). Bên cạnh đó, Điều 107, Hiến pháp 2013 cũng quy định về hoạt động của

Viện kiểm sát: Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối

cao và các Viện kiểm sát khác do luật định; Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm

vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ

xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của

tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh

và thống nhất.

Một trong những nguyên tắc cơ bản được Hiến định của pháp luật Việt

Nam ghi nhận là nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này yêu

cầu mọi chủ thể phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật,

đảm bảo tính thống nhất và thượng tôn của pháp luật. Trong tố tụng hành

chính, Viện kiểm sát nhân dân đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết

tranh chấp giữa “quan” và “dân”, là hình thức “dân kiện quan”, bảo vệ quyền

và lợi ích chính đáng của các bên tham gia tố tụng. Luật Tố tụng hành chính

hiện nay đã kế thừa, phát triển các quy định của pháp luật về thủ tục giải

quyết các vụ án hành chính ở nước ta từ trước đến nay, thể chế hóa các chủ

trương của Đảng về cải cách tư pháp trong hoạt động giải quyết các vụ án

hành chính. Trong đó, có nhiều nội dung đổi mới quan trọng liên quan đến

hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết vụ án hành chính. Luật

Tố tụng hành chính ghi nhận vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành

chính, cụ thể: Viện kiểm sát “là cơ quan tiến hành tố tụng hành chính”, Kiểm

sát viên “là người tiến hành tố tụng hành chính”. Do vậy, sự tham gia của

Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính nhằm bảo vệ quyền con người, bảo

đảm sự nghiêm minh của pháp luật, sự công bằng, bình đẳng và tuân thủ pháp

luật của các chủ thể là cần thiết. Sự ghi nhận về mặt lý luận cho thấy vai trò

quan trọng của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính. Tuy nhiên, trước yêu

cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là yêu cầu

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,

vì dân, các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền con người qua hoạt động

kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát

hai cấp nói chung và cấp tỉnh nói riêng còn nhiều bất cập, thiếu tính đồng bộ,

thống nhất, quy định về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong tố tụng hành

chính còn chung chung, chưa hoàn toàn phù hợp trong hoạt động kiểm sát

việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm. Thực tiễn trong thời

gian qua cũng cho thấy việc bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát

giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân

cấp tỉnh vẫn có những hạn chế, chưa thực sự đạt được hiệu quả tương xứng

với vị trí của mình. Cụ thể là: chưa thực hiện đúng đầy đủ quyền năng của

2

Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hành chính như chưa yêu cầu Tòa án

xác minh bổ sung chứng cứ, không tự mình yêu cầu đương sự và người có

liên quan cung cấp tài liệu chứng cứ phục vụ cho việc nghiên cứu hồ sơ; chưa

bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án hành chính được tuân thủ đúng quy

định pháp luật, không phát hiện được những vi phạm của Tòa án dẫn đến bản

án bị hủy, sửa ở cấp phúc thẩm hoặc có phát hiện vi phạm nhưng né tránh,

ngại va chạm không kháng nghị phúc thẩm.... Những thiếu sót đó là một trong

những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn

của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính còn chưa bảo đảm hiệu lực, hiệu

quả. Việc bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ

án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng

Bình cũng gặp vấn đề như vậy. Từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn

vấn đề “Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ

án hành chính theo thủ tục sơ thẩm - Từ thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân

dân tỉnh Quảng Bình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Luật

Hiến pháp – Luật Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia, nhằm góp

phần tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng bảo vệ quyền con người qua

công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện

kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, đáp ứng với yêu cầu của cải cách tư pháp trên

toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Xung quanh đề tài luận văn, đã có nhiều công trình liên quan được công

bố ở những mức độ, nội dung nghiên cứu khác nhau. Có thể kể tới như: Lê

Tuấn Phong (2017), “Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu của cải cách tư pháp ở

Việt Nam”, Luận án Tiến sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Thành phố

Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Ban (2017), “Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân

dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”, Luận

3

văn thạc sỹ luật học, Học Viện Hành chính quốc gia; Trần Thị Thu Hà (2014)

“Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính, qua thực tiễn thành phố

Hải Phòng”, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn

Huy Hoàn (2005), “Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp”, Luận án

tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Các bài viết

“Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát nhân dân đáp ứng

yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” của tác giả Nguyễn Hòa Bình; “Vai

trò của Viện kiểm sát trong vụ án hành chính và độc lập xét xử” của tác giả

Nguyễn Hoàng Anh; “Về một số điều của Luật tổ chức Viện kiểm sát và thẩm

quyền của Viện kiểm sát trong xét xử các vụ án hành chính, kinh tế và lao

động”của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh; “Nâng cao vai trò của Viện kiểm sát

trong vụ án hành chính theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Trần Đình

Khánh; “Kinh nghiệm kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, hành chính

tại phiên tòa sơ thẩm” của tác giả Mai Văn Sinh, Tạp chí Kiểm sát, số 15 năm

2016; Bài viết "Một số khó khăn, vướng mắc khi thực hiện Bộ luật Tố tụng

hành chính và Luật tố tụng hành chính” của tác giả Trịnh Đình Tân, Tạp chí

Kiểm sát online, tháng 10/2016; “Bàn về một số quy định Luật tố tụng hành

chính năm 2015” của tác giả Lê Văn Sua, đăng trên Trang tin điện tử Bộ Tư

pháp, 10/4/2017; “Báo cáo sơ kết 03 năm thực hiện Luật tố tụng hành chính

2015” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao...

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả mới đề cập

nhiều ở mặt lý luận và giới hạn ở một số khía cạnh của chức năng kiểm sát tố

tụng hành chính của Viện kiểm sát, hoặc chỉ mới đề cập đến việc nâng cao

chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết án hành chính. Đến nay chưa có

công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về vấn đề

bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành

chính theo thủ tục sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Đây là lý do

tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải

4

quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm - Từ thực tiễn tại Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Mục đích của Luận văn là đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ

quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo

thủ tục sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình.

3.2. Nhiệm vụ

Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người qua hoạt động

kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm tại Viện kiếm

sát nhân dân cấp tỉnh;

- Phân tích, đánh giá thực trạng và chất lượng công tác kiểm sát giải

quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh Quảng Bình.

- Đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật

và tăng cường bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ

án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát cấp tỉnh hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những quy định pháp luật về bảo

vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo

thủ tục sơ thẩm theo Hiến pháp 2013 và các quy định pháp luật liên quan.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là quyền và nhiệm vụ của Viện kiểm

sát cấp tỉnh nhằm bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính ở giai

đoạn sơ thẩm:

Về không gian: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình;

5

Về thời gian: 01/7/2016-31/5/2020;

Về nội dung: Các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền con

người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ

thẩm; Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người

qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm.

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở và phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp luật; đường lối quan

điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, về quyền con người và bảo vệ

quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính

theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn

đề liên quan đến vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát cấp tỉnh

trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính sơ thẩm theo quy

định của pháp luật và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được

nghiên cứu trong luận văn;

- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp

luật tố tụng hành chính hiện hành với pháp luật tố tụng hành chính trước đây.

- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực

tiễn hoạt áp dụng pháp luật, với các số liệu cụ thể về công tác kiểm sát việc

giải quyết các vụ án hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tìm ra

mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp

hay chưa? Các lý do? Từ đó mà xem xét nội dung quy định của pháp luật về

việc bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát cấp tỉnh trong công tác kiểm

6

sát việc giải quyết các vụ án hành chính sơ thẩm, với thực tiễn của đời sống

xã hội nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.

6. Ý nghĩa của luận văn

- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung, làm rõ những vấn

đề Lý luận và quy định về nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm

sát nhân dân cấp tỉnh trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành

chính ở giai đoạn sơ thẩm.

- Về thực tiễn: Những kết quả của luận văn sẽ góp phần nâng cao chất

lượng công tác kiểm sát án hành chính sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân

cấp tỉnh nói chung, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình nói riêng nhằm

bảo vệ quyền con người. Đồng thời, là nguồn tư liệu tham khảo tốt cho công

tác nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn. Bên cạnh đó, đề xuất với cơ quan

nhà nước có thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn

thiện Luật Tố tụng hành chính, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hành

chính được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo vệ quyền con

người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ

thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát

giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân

dân tỉnh Quảng Bình hiện nay

Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người

qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm

từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình hiện nay.

7

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN

CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ

ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ TỤC SƠ THẨM CỦA VIỆN KIỂM

SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH

1.1. Quan niệm về bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt động kiểm sát

giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát

nhân dân cấp tỉnh

1.1.1. Khái niệm về quyền con người, quyền con người trong tố tụng

hành chính, bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnh

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, quyền con người không chỉ là quan

tâm nội bộ của mỗi quốc gia mà đã trở thành vấn đề được quốc tế hóa ngày

càng sâu rộng. Quyền con người là quyền thiêng liêng, không thể bị tước

đoạt. Vấn đề bảo vệ quyền con người được mỗi quốc gia nói riêng và các

nước trong khu vực, trên thế giới nói chung ngày càng được quan tâm, củng

cố bằng việc ký kết các công ước quốc tế, các hiệp định đa phương, song

phương và cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật quốc gia trên nhiều lĩnh

vực, trong đó có tố tụng hành chính. Một trong những chức năng quan trọng

và là tiêu chí đánh giá mức độ dân chủ của một Nhà nước, đó là việc tôn

trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người. Đảng và Nhà nước ta chủ trương

xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì vấn đề bảo đảm

quyền con người phải được chú trọng hàng đầu, đặc biệt là trong các quan hệ

tố tụng nói chung và tố tụng hành chính nói riêng.Bảo vệ quyền con người

trong tố tụng hành chính là bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp,

là việc Nhà nước thiết lập các điều kiện cần thiết nhằm tôn trọng và thực hiện

8

các quyền công dân của các cá nhân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành

chính bằng con đường tố tụng.

Trên thế giới, có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, tuy

nhiên, quyền con người được định nghĩa một cách khái quát “là những quyền

bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ

không thể sống như một con người”.

Ở Việt Nam, đã có những khái nhiện khác nhau về quyền con người. Có

một số nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa về quyền con người, tuy nhiên,

tùy cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề khác nhau sẽ đưa ra khái niệm khác nhau

về quyền con người. Trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước ta, Chủ tịch Hồ

Chí Minh nêu rõ: Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho

họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có

quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đó chính là

những biểu hiện của quyền con người một cách rõ rệt nhất.

Khi xem xét về khái niệm quyền con người, chúng ta thấy rằng quyền

con người và quyền công dân là hai khái niệm gần gũi nhưng không đồng

nhất. Xét về nguồn gốc lịch sử, tư tưởng về quyền con người được hình thành

cùng với sự xuất hiện của những nền văn minh cổ đại, còn khái niệm quyền

công dân chỉ xuất hiện cùng với cách mạng tư sản, vì cách mạng tư sản đã

đưa con người từ địa vị thần dân trở thành công dân với tư cách là một thành

viên bình đẳng trong một nhà nước và pháp điển hoá các quyền tự nhiên của

con người dưới hình thức các quyền công dân. Như vậy, khái niệm quyền con

người xuất hiện trước khái niệm quyền công dân và về bản chất, quyền con

người bao hàm và chứa đựng các quyền công dân được các nhà nước thừa

nhận và áp dụng cho công dân của mình.

Ở Việt Nam, quyền con người muốn được hiện thực hóa phải quy định

cụ thể bằng pháp luật. Quyền con người được quy định trong Hiến pháp và

được thể chế hoá bằng các luật, đạo luật nhằm ghi nhận và bảo vệ quyền con

9

người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó quan hệ tố tụng hành

chính là lĩnh vực thể hiện quyền con người cụ thể nhất và có giá trị ảnh hưởng

sâu sắc nhất đối với mỗi con người. Tại Điều 14 Hiến pháp 2013 khẳng định:

“các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá,

xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp

luật”. Quyền con người cũng được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp luật

khác như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính

Chính vì vậy, dù ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, chế độ xã hội nào, quyền

con người cũng luôn được Nhà nước quan tâm tác động bằng chính sách, điều

chỉnh và bảo vệ bằng pháp luật.

Trong quá trình vận động và phát triển của đất nước tất yếu sẽ phát sinh

mâu thuẫn trong quản lý hành chính nhà nước. Thông qua hoạt động ban hành

các quyết định hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành chính, các chủ thể

quản lý hành chính nhà nước vì các lý do khác nhau, có thể gây thiệt hại đến

quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức (đối tượng quản lý) dẫn

đến việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu kiện yêu cầu chấm dứt, bồi thường

thiệt hại, tạo nên sự tranh chấp hành chính giữa nhà nước với cá nhân hoặc cơ

quan, tổ chức. Và dù muốn hay không Nhà nước phải thiết lập các cơ quan và

ban hành các quy định pháp luật tạo cơ sở pháp lý để xem xét và giải quyết

những tranh chấp này. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cá nhân, cơ

quan, tổ chức có quyền khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành

chính tại toà án khi có căn cứ cho rằng các quyết định hành chính, hành vi

hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của

mình sau khi đã thực hiện việc khiếu nại theo thủ tục hành chính mà không

đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc đã hết thời hạn do

pháp luật quy định mà khiếu nại vẫn không được giải quyết. Sau khi nhận

được đơn khởi kiện, nếu xét thấy thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì

toà án thụ lý và tiến hành giải quyết theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy

10

định. Như vậy, có thể khái quát rằng, Tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt

động của cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là Tòa án và Viện kiểm sát, người

tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có

quyền và nghĩa vụ liên quan trong việc giải quyết vụ án hành chính, cũng như

trình tự do pháp luật quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án

hành chính và thi hành bản án, quyết định của Tòa án, được giải quyết bởi

Tòa án nhân dân theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi ngành luật Tố

tụng hành chính.

Quyền con người trong tố tụng hành chính phải gắn với toàn bộ quá trình

tố tụng hành chính: Từ giai đoạn khởi kiện, nộp án phí, thụ lý đến giai đoạn

xét xử, ra quyết định xét xử, ra bản án và thi hành án hành chính. Đây là cách

tiếp cận từ quyền dân sự, kinh tế trong Công ước quốc tế về quyền con người.

Quyền con người trong tố tụng hành chính thể hiện xuyên suốt và trải dài

trong suốt quá trình diễn ra quan hệ tố tụng hành chính từ quyền được khiếu

kiện theo quy định của pháp luật, quyền được xem xét giải quyết vụ án hành

chính, quyền được đón nhận kết quả giải quyết công bằng, khách quan

Quyền con người trong quá trình tố tụng hành chính cũng được đảm bảo

bằng việc cụ thể hóa các quyền trong Luật Tố tụng hành chính 2015, như:

+ Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 5 Luật

Tố tụng hành chính 2015).

+ Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án

hành chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định hành

chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải

quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định giải quyết

khiếu nại trong hoạt động kiểm toán nhà nước, danh sách cử tri gây ra (Điều 7

Luật Tố tụng hành chính 2015).

+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án

hành chính. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi

11

kiện của người khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, người

khởi kiện có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện, thực hiện các

quyền tố tụng khác của mình (Điều 8 Luật Tố tụng hành chính 2015).

+ Đương sự khởi kiện có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp

tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và

hợp pháp. Hoặc yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ và tiến hành thu

thập, xác minh chứng cứ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu,

chứng cứ cho Tòa án hoặc đương sự (Điều 9 Luật Tố tụng hành chính 2015).

+ Trong tố tụng hành chính, mọi người đều có quyền bình đẳng trước

pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần

xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội (Điều 17 Luật Tố tụng

hành chính 2015).

+ Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được

Tòa án đảm bảo thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,

giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định (Điều 18 Luật Tố tụng hành chính

2015).

+ Đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hoặc người khác có đủ

điều kiện theo quy định của Luật này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

mình (Khoản 1 Điều 19 Luật Tố tụng hành chính 2015).

+ Người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý

được Nhà nước bảo đảm trợ giúp pháp lý để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp trước Tòa án. (Khoản 3 Điều 19 Luật Tố tụng hành chính

2015).

+ Không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự trong tố tụng hành chính. (Khoản 4 Điều 19 Luật Tố tụng hành

chính 2015).

+ Được Tòa án tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với

12

nhau về việc giải quyết vụ án. (Điều 20 Luật Tố tụng hành chính 2015).

+ Trong quá trình tố tụng, Luật Tố tụng hành chính 2015 còn cho phép

người tham gia tố tụng hành chính có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của

dân tộc mình; trường hợp này phải có người phiên dịch (Khoản 1 Điều 21

Luật Tố tụng hành chính 2015).

+ Trường hợp, người tham gia tố tụng hành chính là người khuyết tật

nghe, người khuyết tật nói hoặc người khuyết tật nhìn có quyền dùng ngôn

ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật; trường hợp này phải có

người biết nghe, nói bằng ngôn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng của người

khuyết tật để dịch lại (Khoản 2 Điều 21 Luật Tố tụng hành chính 2015).

+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân được thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của

mình đối với các hành vi, quyết định trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào

trong hoạt động tố tụng hành chính (Điều 28 Luật Tố tụng hành chính 2015).

Về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án

hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.

Hiện nay, chưa có một quy định cụ thể nào về khái niệm vụ án hành

chính. Tuy nhiên, theo tác giả, vụ án hành chính có thể hiểu là vụ án tranh

chấp giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết khi

cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định buộc thôi

việc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Bên cạnh đó, có thể hiểu giai đoạn sơ thẩm là giải quyết vụ án hành

chính ở Tòa án cấp thấp nhất theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 4, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

2014 quy định về chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát là: “hoạt động của

Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định

của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay

từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

13

và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án

hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,

lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động

tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.”

Như vậy, kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm là

tổng hợp các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát, có nội dung là kiểm tra,

giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia hoạt

động tố tụng hành chính theo các thủ tục sơ thẩm nhằm bảo đảm cho việc giải

quyết vụ án của Tòa án đúng quy định pháp luật, bảo vệ quyền con người, lợi

ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ

quan, tổ chức

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về bảo vệ quyền con

người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các án hành chính theo thủ tục sơ

thẩm như sau:

Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án

hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là một

phương thức bảo vệ các quyền của con người, được thực hiện trực tiếp bởi

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh theo trình tự chặt chẽ do luật định, sử dụng

các quyền năng pháp lý nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính

theo thủ tục sơ thẩm được diễn ra đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp

luật, phát hiện, xử lý kịp thời các vi phạm, bảo vệ quyền con người, các quyền

và lợi ích hợp pháp của công dân.

1.1.2. Vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnh qua hoạt động kiểm sát việc quyết các vụ án hành chính theo thủ tục

sơ thẩm

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân

dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Với bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa,

nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là quyền lực nhà nước là thống

14

nhất và tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân thuộc hệ

thống cơ quan nhà nước do Quốc hội bầu ra, là một thiết chế đặc thù trong tổ

chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là

một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, thống nhất từ Trung ương đến địa

phương. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Với vị trí, vai trò

hết sức quan trọng trong bộ máy quản lý nhà nước thì Viện kiểm sát là một

trong những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước ta, là một bộ

phận quan trọng và không thể thiếu trong bộ máy Nhà nước.

Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định rõ chức

năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng với sự thay đổi của tình

hình kinh tế - xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó thì khẳng định rõ Viện kiểm sát

nhân dân có chức năng quan trọng là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt

động tư pháp, cụ thể: nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân được

quy định tại Điều 2, 3, 4 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân 2014 thì Viện kiểm sát nhân dân thực hiện cả chức năng thực hành quyền

công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Khoản 1, Điều 4, Luật

Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định về chức năng kiểm sát của

Viện kiểm sát là: “hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp

pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt

động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án

hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và

gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo

quy định của pháp luật.”

15

Theo Điều 25 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định về vị trí, vai trò

của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng

hành chính như sau:

– Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành

chính, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của

pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng

pháp luật.

– Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc

việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa

án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của

pháp luật.

- Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến

quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành

vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong

nhận thức, làm chủ hành vi, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm

sát kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú cử người giám hộ

đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho

người đó.

Bên cạnh đó, Điều 32 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định về thẩm

quyền giải quyết vụ án hành chính của Tòa an nhân dân cấp tỉnh: Tòa án cấp

tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:

- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan

ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng

Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm

quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc

trụ sở trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người

16

khởi kiện không có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt

Nam thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm

quyền ra quyết định hành chính, có hành vi hành chính.

- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan

thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại khoản 1 Điều này và quyết

định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong cơ quan

đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng phạm

vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện không có nơi

cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền giải

quyết thuộc Tòa án nơi cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định hành

chính, có hành vi hành chính.

- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà

nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người

có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó.

- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân

dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa

giới hành chính với Tòa án.

- Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan đại

diện của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài hoặc của

người có thẩm quyền trong cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cư trú trên

cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án; trường hợp người khởi kiện

không có nơi cư trú tại Việt Nam thì Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nhân

dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.

- Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ

quan, tổ chức cấp tỉnh, bộ, ngành trung ương mà người khởi kiện có nơi làm

việc khi bị kỷ luật trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.

17

- Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc

cạnh tranh mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên

cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.

- Trường hợp cần thiết, Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án

hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định

tại Điều 31 của Luật này.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng kiểm sát

việc giải quyết các vụ án hành chính do Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết.

Phạm vi công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục

sơ thẩm của Viện kiểm sát cấp tỉnh là bắt đầu từ khi Tòa án thông báo trả lại

đơn khởi kiện vụ án hành chính hoặc từ khi Tòa án thông báo thụ lý vụ án

hành chính đến khi bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Tòa án

có hiệu lực pháp luật mà không có kháng nghị, không có yêu cầu, kiến nghị,

đề nghị xem xét lại theo quy định. Đối tượng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân

dân cấp tỉnh trong tố tụng hành chính sơ thẩm là việc tuân theo pháp luật của

Tòa án, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức,

cá nhân có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục

sơ thẩm. Mục tiêu của hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính

theo thủ tục sơ thẩm là bảo đảm vụ án hành chính được giải quyết kịp thời,

đúng pháp luật, qua đó, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi chính

đáng của đương sự.

Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong tố tụng hành chính

theo thủ tục sơ thẩm đối với những vụ án theo thẩm quyền nhằm bảo vệ

quyền con người được thể hiện qua các điểm sau:

Thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hiện diện hầu khắp trong các

giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm. Về

nguyên tắc, theo Luật Tố tụng hành chính, Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành

18

chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên

tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác

thi hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến

nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh xuất hiện trong các giai đoạn

giải đoạn giải quyết các vụ án hành chính sơ thẩm và có những quyền năng

quan trọng có thể gây áp lực hoặc thậm chí can thiệp trực tiếp vào hoạt động

này. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát có quyền đề nghị chuyển

giao để kiểm tra hồ sơ tố tụng. Tiếp đó, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa

án tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ, nếu Viện cho rằng cần thiết,

như: xác minh, thu thập chứng cứ, giám định v.v.. Trong trường hợp đặc biệt,

Viện kiểm sát còn có thể tự mình tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ. Tại

phiên tòa, sự tham gia của Viện kiểm sát là trực tiếp: không chỉ kiểm sát diễn

biến phiên tòa mà còn có thể đề nghị triệu tập bổ sung nhân chứng, người

giám định hay phiên dịch. Đặc biệt, trong giai đoạn thẩm vấn, đại diện Viện

kiểm sát có quyền đặt câu hỏi, tham gia xét hỏi trực tiếp. Cũng ở giai đoạn

này, Viện kiểm sát có quyền: đọc bài phát biểu của mình, trong đó nêu rõ sự

tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, nêu

rõ nhận định, đường hướng xét xử của vụ án. Kiểm sát xét xử bảo đảm cho

việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động của Tòa án, tuy nhiên, liệu có thể dẫn

đến khả năng can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua con

đường kiểm sát xét xử? Câu trả lời không thể luôn luôn là phủ định, vì lý do

khá đơn giản, nếu không theo sát đường hướng xét xử nêu ra trong bài phát

biểu của đại diện Viện kiểm sát, bản án, quyết định của Tòa án sẽ bị kháng

nghị. Nói cách khác, Viện kiểm sát thông qua quyền kháng nghị, có thể gây

áp lực trực tiếp đối với việc xét xử của Tòa án. Hơn nữa, những vấn đề mà

Viện kiểm sát đề xuất, theo một cách nghĩ khách quan nào đó, nó thông

thường là một quan điểm mang tính tham khảo có chất lượng, tuy không phải

19

có ý nghĩa bắt buộc phải thực hiện đối với các chủ thể liên quan. Nói tóm lại,

về nguyên tắc, chức năng kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát đều nhằm mục

đích bảo đảm pháp chế và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự, đặc biệt là quyền lợi của người dân, những đối tượng chịu thiệt

thòi trong xã hội.

Thứ ba, kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đối

với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án là một trong những biện pháp thể

hiện rõ nét nhất chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc

giải quyết vụ án hành chính của Tòa án. Kháng nghị phúc thẩm của Viện

kiểm sát nhân dân góp phần phát hiện và khắc phục vi phạm trong quá trình

giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, của Nhà nước và bên thứ ba.

Kháng nghị của Viện kiểm sát là văn bản pháp lý thể hiện quan điểm

của Viện kiểm sát đối với bản án, quyết định của Tòa án là có vi phạm pháp

luật, để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền đưa vụ án hành chính ra xem xét lại

theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm nhằm khắc phục những vi

phạm pháp luật của bản án, quyết định đó.

1.2. Nội dung về bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt động kiểm sát giải

quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân

dân cấp tỉnh

1.2.1. Thực hiện nguyên tắc “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

tố tụng hành chính”

Khoản 1 Điều 36 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định Viện kiểm sát

nhân là cơ quan tiến hành tố tụng hành chính cùng với Tòa án nhân dân.

Trong tố tụng hành chính, Viện kiểm sát nhân nhân danh quyền lực Nhà nước

thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể là kiểm sát tính hợp

pháp về các quyết định và hành vi của người tiến hành tố tụng và hành vi của

người tham gia tố tụng, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong tố tụng hành

20

chính phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh giúp cho việc giải

quyết vụ án hành chính được đúng đắn và khách quan.

Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 36 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định

Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên là những người tiến

hành tố tụng hành chính cùng với Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm

nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; tiếp tục kế thừa các quy định trước

đây của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 khi quy định “Viện kiểm sát kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc

giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật”. Viện kiểm sát nói

chung và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nói riêng kiểm sát các vụ án hành

chính theo thủ tục sơ thẩm từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án;

tham gia các phiên toà, phiên họp của Toà án; kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Toà án; thực hiện các

quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Thông qua

việc thực hiện chức năng này, Viện kiểm sát giúp Tòa án kịp thời sửa chữa

những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động xét xử nhằm bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự.

1.2.2. Tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ án hành chính và phát

biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa sơ thẩm

Điều 156 Luật Tố Tụng hành chính 2015 quy định về sự có mặt của

Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm như sau:

Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có

nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành

xét xử.

Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp

tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người

này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ

đầu.

21

Với quy định trên có thể thấy Luật Tố tụng hành chính 2015 có hai điểm

kế thừa Luật Tố tụng hành chính 2010: Một là, Kiểm sát viên được Viện

trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công phải có mặt tại phiên tòa xét xử sơ

thẩm vụ án hành chính; hai là, trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên

tòa hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên

dự khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có

mặt tại phiên tòa từ đầu. Tuy nhiên, Luật Tố tụng hành chính 2015 có một

điểm sửa đổi so với quy định của Luật Tố tụng hành chính 2010 là trong

trường hợp Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân

công vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử thay vì

phải hoãn phiên tòa như quy định trước đây. Sở dĩ Luật Tố tụng hành chính

2015 có sự sửa đổi này xuất phát từ lý do nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án

hành chính được xét xử kịp thời nhằm bảo đảm đúng thời hạn tố tụng đã được

quy định.

Điều 190 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định: “Sau khi những người

tham gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về

việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký

phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ

khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý

kiến về việc giải quyết vụ án.

Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát

biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án”.

Như vậy, theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, việc

phát biểu của Kiểm sát viên đã được sửa đổi so với Luật Tố tụng hành chính

năm 2010 theo hướng cho phép Kiểm sát viên được quyền phát biểu ý kiến về

việc giải quyết vụ án. Việc sửa đổi này là hợp lý, bởi lẽ, Kiểm sát viên là

người kiểm sát việc giải quyết vụ án ngay từ khi vụ án hành chính được khởi

kiện, Kiểm sát viên cũng được quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án nên hơn ai hết

22

Kiểm sát viên là người nắm rõ bản chất vụ việc. Do đó, Kiểm sát viên phát

biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án được xem như là kênh quan trọng để

Hội đồng xét xử tham khảo đánh giá về tính hợp pháp của đối tượng khiếu

kiện.

Thực tiễn thi hành Luật tố tụng hành chính trong thời gian qua cho thấy

quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát cấp tỉnh trong tố tụng hành chính ở

giai đoạn sơ thẩm đã tạo điều kiện cho Viện kiểm sát cấp tỉnh thực hiện được

đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân để bảo vệ quyền con người. Trong điều kiện thực

tiễn của Việt Nam, khi mà trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp

nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của mình trước Tòa án, khi có tranh chấp nhiều người dân chưa có điều

kiện mời Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình và đội ngũ Luật sư hiện nay cũng

chưa đáp ứng được yêu cầu tham gia tất cả các phiên tòa.Viện kiểm sát tham

gia phiên tòa và phát biểu về việc giải quyết vụ án là đại diện cho quyền lợi

của xã hội, không phải là đại diện của các bên đương sự, chỉ đưa ra quan điểm

về áp dụng pháp luật và không nghiêng về bên nào. Quy định này cũng nâng

cao vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên.

1.2.3. Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ

Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố

tụng hành chính góp phần giúp cho hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án,

đương sự được diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Đối

với việc xác minh và thu thập chứng cứ, khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành

chính 2015 kế thừa quy định trước đây của Luật Tố tụng hành chính năm2010

khi quy định “Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài

liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng nghị bản

án hoặc quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái

thẩm thì Viện kiểm sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo

23

đảm cho việc kháng nghị”; Bên cạnh đó, đối việc bảo vệ chứng cứ, khoản 2

Điều 97 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định “Trường hợp người làm

chứng bị đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ

hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Tòa án có quyền quyết định buộc

người có hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi

đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp hành vi đó

có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét về trách

nhiệm hình sự”, trong khi đó theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật Tố tụng

hành chính 2010 trước đây quy định “ Trường hợp hành vi đe doạ, khống

chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì Toà án chuyển cho Cơ quan

điều tra có thẩm quyền xem xét về trách nhiệm hình sự”. Có thể thấy, Luật Tố

tụng hành chính 2015 đã có sự quy định cụ thể, rõ ràng và chi tiết hơn giúp

cho Tòa án thuận lợi trong công tác xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm

pháp luật nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính được kịp thời, đúng

pháp luật.

1.2.4. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm

Pháp luật tố tụng nói chung, bao gồm các quy phạm, chế định pháp luật

về trình tự giải quyết vụ án tại Toà án. Nhằm đảm bảo cho vụ án được xét xử

một cách dân chủ và đúng pháp luật, pháp luật tố tụng quy định nguyên tắc

Toà án xét xử 2 cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Ngoài ra, để khắc phục những sai

lầm của những bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc

trong trường hợp phát hiện tình tiết mới, pháp luật tố tụng còn quy định thủ

tục xét xử đặc biệt được gọi là cấp giám đốc thẩm và tái thẩm. Theo quy định

tại Điều 42 Luật Tố tụng hành chính 2015, Viện trưởng Viện kiểm sát có

quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án,

quyết định của Tòa án.

Cơ sở quan trọng duy nhất để Toà án xét xử vụ án theo thủ tục phúc

thẩm cũng như thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chính là việc bản án có kháng

24

cáo (quyền chống án của đương sự) và kháng nghị. “ Kháng nghị là việc

người có thẩm quyền, bằng văn bản của mình gửi đến Toà án có thẩm quyền

làm ngừng hiệu lực phán quyết của Toà án trong bản án hoặc quyết định để

xét xử theo phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ án

được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật”. Tính chất chung của

kháng nghị là sự thể hiện phản ứng và yêu cầu, đề nghị từ phía công quyền

bằng văn bản đối với bản án có sai lầm (khác với kháng cáo là sự phản ứng,

chống lại bản án sơ thẩm của đương sự) nhằm thực hiện chức năng kiểm

tra, giám sát của Viện kiểm sát các cấp, Toà án cấp trên đối với Toà án cấp

dưới và là cơ sở cho việc xét xử lại với mục đích làm cho vụ án được xét xử

chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Có thể thấy quyền kháng nghị phúc

thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát có ý nghĩa rất quan trọng

trong việc đảm bảo sự tuân theo pháp luật của hội đồng xét xử và tòa án khi

giải quyết vụ án hành chính. Quyền năng này đã tạo ra một cơ sở hết sức quan

trọng cho Viện kiểm sát phát hiện và khắc phục vi phạm của Tòa án trong quá

trình kiểm sát của mình, đảm bảo tốt nhất quyền con người cho những người

tham gia tố tụng hành chính theo thủ tục sơ thẩm.

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh bảo vệ quyền con người bằng hoạt động

của mình nhằm ngăn chặn vi phạm quyền con người, phát hiện vi phạm, khôi

phục quyền, lợi ích bị vi phạm, áp dụng biện pháp loại trừ nguyên nhân và

điều kiện vi phạm. Với vị trí, chức năng và nhiệm vụ của mình trong tố tụng

hành chính theo thủ tục sơ thẩm, Viện kiểm sát cấp tỉnh có vai trò to lớn trong

việc bảo vệ quyền con người. Hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành

chính nhằm bảo đảm việc việc giải quyết đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp

thời bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ, bảo đảm quyền con người của

những chủ thể tham gia tố tụng. Luật Tố tụng hành chính đã có những quy

định chung về thời hạn kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cho

25

các vụ án hành chính làm nền tảng quan trọng cho hoạt động áp dụng trong

thực tế.

1.3. Một số yếu tố bảo đảm việc bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt

động kiểm sát các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm

1.3.1. Sự hoàn thiện của pháp luật về chức năng kiểm sát trong tố

tụng hành chính

Các chính sách của nhà nước đưa ra có ảnh hưởng trực tiếp đến nâng cao

chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính của Viện kiểm sát nhân dân đã

được quy định rõ trong các văn bản pháp luật. Hệ thống pháp luật về phát

triển chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính của Viện kiểm sát nhân dân

cần đảm bảo quy định rõ ràng, chi tiết và có hướng dẫn cụ thể về phương

thức, trình tự, thủ tục, đảm bảo thực hiện bằng các công cụ như thế nào

Ngoài ra, hệ thống văn bản cần mang tính chất dự báo, các quy định mang

tính chất điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh rộng...;

Ở nước ta hiện nay, tại Hiến pháp 2013 – luật cơ bản của nhà nước có

giá trị pháp lý cao nhất là cơ sở pháp lý cơ bản cho văn bản luật và dưới luật

triển khai chi tiết quy định về vấn đề này. Cùng với Hiến pháp, các văn bản

luật cũng quy định theo hướng ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn về nội

dung nâng cao chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính ở nước ta, đáp

ứng với yêu cầu chính trị, quá trình xây dựng kinh tế - xã hội ở nước ta trong

tình hình mới.

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và các văn bản hướng dẫn thi

hành được quy định làm nền tảng cơ bản và tạo ra cơ chế xử lý tương đối

hoàn thiện đối với chức năng, nhiệm vụ của phát triển chức năng kiểm sát

trong tố tụng hành chính. Thông qua các quy định trên đã thể hiện rõ nét sự

tiến bộ của Nhà nước ta trong việc quan tâm đến vấn đề nâng cao chức năng

kiểm sát trong tố tụng hành chính của ngành Kiểm sát nhân dân ở nước ta

hiện nay. Văn bản pháp lý này đã quy định nhiều nội dung phù hợp tạo điều

26

kiện tối đa để cho việc nâng cao chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính

của ngành Kiểm sát nhân dânở nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước.

Như vậy, có thể thấy pháp luật quy định khá thống nhất và xuyên suốt về

vấn đề nâng cao chức năng kiểm sát trong tố tụng hành chính của ngành Kiểm

sát nhân dân. Điều này tạo điều kiện để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của

các chủ thể ở nước ta hiện nay; thể hiện rõ nét sự quan tâm thường xuyên của

Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề này. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay

khi yêu cầu đổi mới và phát triển hệ thống tư pháp đáp ứng với yêu cầu của

công cuộc cải cách đất nước hiện nay. Đồng thời, cùng với hoạt động ban

hành các văn bản hướng dẫn nêu trên đã giúp cho quá trình áp dụng những

quy định của pháp luật về nâng cao chức năng kiểm sát trong tố tụng hành

chính ở nước ta được thực hiện một cách hoàn thiện hơn. Từ đó, hình thành

nền tảng pháp lý cơ bản trong việc thực thi nâng cao chức năng kiểm sát trong

tố tụng hành chính trong ngành Kiểm sát nhân dân, đảm bảo hành lang pháp

lý và các điều kiện đảm bảo cho tiến trình phát triển đất nước ta hiện nay và

trong tương lai.

1.3.2. Năng lực, sự tích cực thực thi công vụ và ý thức bảo vệ quyền

con người của người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm

sát trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục

sơ thẩm

Trong nền tư pháp hiện nay thì năng lực và sự tích cực thực thi công vụ

của người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong hoạt

động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính đóng vai trò quan trọng. Thông

qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp đảm bảo

cho điều kiện làm việc, trình độ năng lực của các cán bộ, công chức, cơ sở vật

chất là những yếu tố căn bản cho việc năng lực và sự tích cực thực thi công vụ

của người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong hoạt

27

động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính. Quá trình làm việc tốt là một

trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của cán bộ, công

chức cũng như quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động tại Viện kiểm

sát nhân dân các cấp, đơn vị trong lĩnh vực này nói riêng và thi hành pháp luật

nói chung. Thực tế cho thấy không ít cơ quan, đơn vị làm việc, năng lực trình

độ của các cán bộ, công chức chưa tốt dẫn đến những hậu quả có thể nhìn

thấy được như: Chất lượng, hiệu quả làm việc kém; mất đoàn kết; thậm chí

cán bộ, công chức có trình độ, năng lực xin thôi việc hoặc chuyển công tác

Để hoạt động tố tụng hành chính được thực hiện tốt, mỗi cơ quan cơ quan,

đơn vị, nhất là đối với người phụ trách phải xác định đây là nhiệm vụ cần

được ưu tiên hàng đầu song song với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên

từng lĩnh vực nói chung và trong vấn đề đào tạo và phát triển năng lực cho đội

ngũ Kiểm sát viên nói riêng. Việc bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất như

phòng làm việc, bàn, ghế, điện thoại, máy vi tính và các máy móc kỹ thuật

hỗ trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Tùy theo điều kiện thực tế

của cơ quan, đơn vị để trang bị cho cán bộ, công chức nhưng phải đảm bảo

các yếu tố của một cơ quan, công sở. Ngoài ra, cần thực hiện đào tạo, bồi

dưỡng theo đúng yêu cầu tiêu chuẩn của mỗi chức danh, ngạch, bậc cán bộ,

công chức và yêu cầu nhằm phục vụ cho quá trình thực hiện nhiệm vụ của các

cơ quan nhà nước cũng như năng lực và sự tích cực thực thi công vụ của

người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong hoạt động

kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính. Quá trình xây dựng làm việc cũng

như nâng cao chất lượng trình độ cho các cán bộ, công chức làm công tác

trong lĩnh vực này là một trong những nội dung, nhiệm vụ hàng đầu mà cơ

quan hay đơn vị phải quan tâm thực hiện, đáp ứng với yêu cầu công việc,

nhiệm vụ đã được đề ra.

Hiện nay, điều kiện để năng lực và sự tích cực thực thi công vụ của

người có thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát trong hoạt động

28

kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính cần thiết một nguồn đào tạo có chất

lượng và có khả năng kéo dài để từ đó xây dựng và hoàn thiện đội ngũ này

trong thực tế. Qua đó, phát huy hết được sức mạnh của ngành kiểm sát nhân

dân, và đảm bảo quyền con người được bảo vệ trong tố tụng hành chính.

Bên cạnh vai trò của Viện kiểm sát, vai trò bảo vệ quyền con người của

Tòa án cũng có ý nghĩa then chốt. Theo Hiến pháp 2013, chức năng của Tòa

án đã được quy định: Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Nhiệm vụ

của Tòa án được quy định tại khoản 3 Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án

nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân” đã được đưa lên thành nhiệm vụ hàng đầu

của Tòa án. Theo đó, quyền tự do của nhân dân, hạnh phúc của con người là

mục đích của quyền lực nhà nước, bao gồm cả quyền tư pháp.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, khoản 2 Điều 103 của Hiến pháp 2013

quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;

nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm

phán, Hội thẩm”, đây là nguyên tắc phổ quát trên thế giới, phù hợp với các

công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Việc “nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,

cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” có nghĩa là

những quyết định, bản án được ban hành mà có sự can thiệp là vi hiến và vô

hiệu, như vậy quyền hạn và tính độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm được tăng

lên. Muốn chống lại sự can thiệp, Thẩm phán vừa phải có dũng khí và tinh

thần yêu công lý, còn phải có trình độ và bản lĩnh. Để đảm bảo được nguyên

tắc “xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

1.3.3. Năng lực sử dụng pháp luật của đương sự

Năng lực sử dụng pháp luật của đương sự gắn liền với quyền tố tụng của

đương sự, sẽ quyết định hiệu lực, hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người

29

trong mối quan hệ với quyền kiểm sát của Viện kiểm sát trong giải quyết các

vụ việc hành chính.

Theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính 2015 thì:

Điều 5. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu

cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của

Luật này.

Điều 8. Quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện

Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án

hành chính. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án hành chính khi có đơn khởi

kiện của người khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, người

khởi kiện có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện, thực hiện các

quyền tố tụng khác của mình theo quy định của Luật này.

Điều 9. Cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành

chính

1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp tài

liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và

hợp pháp.

Cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng

minh như đương sự.

Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đương sự có thể sử dụng để đòi hỏi

công lý, là cơ sở để người tiến hành tố tụng ý thức được bổn phận phải tôn

trọng và bảo đảm các quyền căn bản này. Ngoài ra, các ghi nhận của pháp luật

tố tụng hành chính về các quyền cơ bản này còn thể hiện được bản chất của

một Nhà nước của dân, do dân và vì dân trong lĩnh vực tố tụng hành chính.

Tùy theo từng giai đoạn tố tụng, pháp luật trang bị cho các đương sự

những quyền tố tụng khác nhau để đương sự tự do lựa chọn và quyết định có

30

sử dụng hay không để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Các quyền

năng này được trao cho đương sự có ý nghĩa trong việc chống lại sự lạm

quyền, thiên vị hay sai sót của hệ thống Tòa án hoặc tạo điều kiện cho các bên

đương sự có cơ hội như nhau trong việc chứng minh bảo vệ quyền lợi của

mình, có phương tiện để chống lại sự thiếu trung thực, gian lận hay thiếu

thiện chí của bên đối phương.

Các quyền tố tụng được pháp luật ghi nhận cho đương sự còn có ý

nghĩa bảo đảm cho việc giải quyết án hành chính được thống nhất, khách

quan, nhanh chóng và đúng đắn. Các quyền tố tụng này không chỉ có giá trị

đối với đương sự mà nó còn là cơ sở pháp lý cho hoạt động giải quyết vụ việc

hành chính của những người tiến hành tố tụng, giúp cho Tòa án có thể bảo vệ

hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Quy định về các quyền tố tụng còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật

của người dân nói chung và các chủ thể khi tham gia quan hệ tố tụng hành

chính nói riêng. Qua đó, người dân có thể nhận thức được các quyền tố tụng

của mình và tôn trọng quyền tố tụng của các chủ thể khác đồng thời có ý thức

hơn về việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thông qua các

hoạt động tố tụng hành chính tại Tòa án. Người dân nhận thức được quyền

yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm là quyền quan

trọng để chống lại các hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của họ, họ có

quyền khởi kiện để Tòa án có thẩm quyền giải quyết bảo vệ quyền lợi chính

đáng của họ. Khi có yêu cầu, Tòa án xem xét và đưa ra xét xử bằng một bản

án, quyết định chính xác, khách quan thì người dân sẽ tin tưởng vào pháp luật

và họ coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để họ đấu tranh phòng chống vi phạm

pháp luật. Cũng từ đó mà pháp luật được tôn trọng, pháp chế xã hội chủ nghĩa

ngày càng được củng cố và tăng cường.

31

Tiểu kết chƣơng 1

Quy định về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết

các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân là một

chế định pháp lý quan trọng, là cơ sở cần thiết trong việc thiết lập và hoàn

chỉnh một hệ thống pháp luật quy định về ở nước ta hiện nay. Việc xác định

vai trò, ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm

sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát

nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực này sẽ hỗ trợ một phần lớn trong việc thiết

lập các quy phạm pháp luật chặt chẽ nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp

luật về tố tụng hành chính tại Việt Nam. Qua đó, góp phần quan trọng trong

hoạt động thi hành các bản án trên thực tế. Cùng với thời gian thì những quy

định về bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án

hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân đã được thay đổi

nhằm phù hợp hơn với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảm bảo hoạt động thực

hiện pháp luật là quá trình đưa pháp luật vào đời sống, áp dụng những quy

định trong văn bản vào hiện thực, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của

pháp luật. Chương I của Luận văn đã phân tích một cách khái quát cơ sở lý

luận của việc bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở

nước ta hiện nay. Trên cơ sở lý luận bảo vệ quyền con người qua hoạt động

kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm

sát nhân dân cấp tỉnh ở Chương I, tác giả vận dụng thực tiễn nhằm đánh giá

thực trạng các yếu tố ảnh hưởng và kết quả đạt được trong việc áp dụng và

những hạn chế, khó khăn gặp phải trong quá trình thi hành, từ đó tìm ra

nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như nguyên nhân của những

hạn chế được trình bày trong Chương 2 của luận văn.

32

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG

KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO THỦ

TỤC SƠ THẨM TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG

BÌNH HIỆN NAY

2.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình và tình

hình kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết án hành chính

theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

2.1.1. Khái quát về cơ cấu, tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Quảng Bình

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân tổ

chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành,

nguyên tắc độc lập không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan nhà nước nào ở địa

phương. Viện kiểm sát nhân dân có 04 cấp, gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối

cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, cấp tỉnh và cấp huyện. Ngoài ra còn có

Viện kiểm sát quân sự các cấp.

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có vai trò quan trọng trong hệ thống

Viện kiểm sát nhân dân, đây là cấp giải quyết phần lớn các vụ án mà Viện

kiểm sát thụ lý. Những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

từng bước củng cố, tăng cường và ngày càng hoàn thiện về cơ cấu tổ chức. Về

cơ bản, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đáp ứng được yêu cầu của

việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Việc phân công chỉ đạo, điều hành công việc của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Quảng Bình dựa trên nguyên tắc tập trung thống nhất dưới sự lãnh đạo và

điều hành của Viện trưởng.

Cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

gồm: 08 Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố, thị xã và 09 phòng trực

thuộc, cụ thể:

33

- Phòng 1: Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát

xét xử sơ thẩm án hình sự về an ninh, ma túy;

- Phòng 2: Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,kiểm sát sơ

thẩm án hình sự về trật tự xã hội;

- Phòng 3: Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra ,kiểm sát

xét xử sơ thẩm án hình sự ,về kinh tế, chức vụ tham nhũng;

- Phòng 7: Phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm

án hình sự;

- Phòng 8: Phòng kiểm sát, tạm giữ, tạm giam thi hành án hình sự; Thi

hành án dân sự; Khiếu nại – Tố cáo.

- Phòng 9: Phòng kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, vụ án

hành chính và những việc khác theo quy định của phápluật;

- Phòng 15: Phòng tổ chức cán bộ;

- Thanh tra;

- Văn phòng tổng hợp.

Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình có 68 biên chế, 12

hợp đồng lao đồng, trong đó có 04 Lãnh đạo.

Trong nội dung Luận văn này, tác giả sẽ phân tích cụ thể hơn về cơ cấu,

tổ chức của Phòng 9 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình: Phòng 9 là đơn

vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình có chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự,

hôn nhân và gia đình, vụ án hành chính, lao động, kinh doanh thương mại và

những việc khác theo quy định của pháp luật, theo thẩm quyền được quy định

trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố

tụng hành chính. Phòng có các nhiệm vụ cụ thể như sau:

- Tham mưu cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh thực hiện

nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ, việc

dân sự, hôn nhân và gia đình, vụ án hành chính, lao động, kinh doanh thương

34

mại và những việc khác theo quy định của pháp luật của Toà án cùng cấp và

cấp dưới theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính;

tham mưu cho Viện trưởng ban hành kháng nghị đối với các bản án, quyết

định của Toà án cùng cấp và cấp dưới có vi phạm pháp luật.

- Tham mưu cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh theo dõi,

quản lý, hướng dẫn, chỉ đạo và kiểm tra đối với Viện kiểm sát nhân dân

huyện, thị xã, thành phố về nghiệp vụ công tác kiểm sát giải quyết các vụ,

việc dân sự, hôn nhân và gia đình, vụ án hành chính, lao động, kinh doanh

thương mại và những việc khác theo quy định của pháp luật.

- Tổng hợp những vi phạm trong công tác của Tòa án cùng cấp và cấp

dưới, để tham mưu cho Viện trưởng kiến nghị với Chánh án Tòa án cùng cấp

và cấp dưới yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật. Quản lý, báo cáo tình hình

chấp hành pháp luật trong nhiệm vụ được giao.

- Giải quyết đơn khiếu nại thuộc lĩnh vực công tác và các việc khác

theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.

Cơ cấu tổ chức: Biên chế của phòng hiện có 08 công chức, trong đó có

01 Trưởng phòng, 01 Phó Trưởng phòng, 03 Kiểm sát viên trung cấp, 02

Kiểm sát viên sơ cấp.

2.1.2. Tình hình kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết

các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm

Khởi kiện vụ án hành chính là hiện tượng tất yếu nảy sinh trong quá

trình quản lý nhà nước về đời sống, kinh tế, xã hội Quá trình quản lý nhà

nước sẽ nảy sinh nhiều vấn đề, có thể xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của cơ

quan, tổ chức, cá nhân. Thông qua việc khởi kiện hành chính, các quyết định,

hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền quản lý nhà nước sẽ được phát

hiện và xử lý kịp thời.

Trong thời gian qua, tình hình khởi kiện các quyết định hành chính,

hành vi hành chí trên địa bàn tỉnh Quảng Bình diễn ra tương đối phức tạp.

35

Qua công tác kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, thụ lý giải quyết các vụ án

hành chính trong những năm qua đã xác định được số liệu như sau:

BẢNG SỐ LIỆU KIỂM SÁT TRẢ LẠI ĐƠN KHỞI KIỆN,

THỤ LÝ, GIẢI QUYẾT

Nội dung

Thông báo trả lại đơn khởi kiện

Cấp sơ thẩm

Tòa án giải quyết

KN

Tổng

Kiến

Chưa

TB có vi

VKS

được

Đối

Đã

số đã

nghị vi

giải

Đình

phạm

thụ lý

chấp

thoại

xét

KS

phạm

quyết

chỉ

nhận

Thời điểm

thành

xử

Từ

01/7/2016

6

20

8

1

11

đến

30/11/2016

Từ

01/12/2016

9

2

1

1

30

21

13

7

đến

30/11/2017

Từ

01/12/2017

10

3

1

1

16

17

3

3

đến

30/11/2018

Từ

01/12/2018

12

3

1

1

42

29

7

6

đến

30/11/2019

Từ

01/12/2019

2

0

0

8

2

2

10

0

đến

31/5/2020

39

6

3

116

69

25

3

Nguồn: Văn phòng Viện kiêm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

36

Qua số liệu trên, có thể nhận thấy tình hình khởi kiện vụ án hành chính

ngày càng tăng qua từng năm. Chỉ có năm 2020 là số lượng khởi kiện giảm,

bởi lẽ tình hình covit 19 nên người dân hạn chế tiếp xúc nên chưa khởi kiện.

Dự kiến số lượng khởi kiện sẽ tăng khi hết dịch.

Số lượng án có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, mà chủ yếu

khiếu kiện về đất đai. Bởi lẽ, những năm vừa qua, tình hình kinh tế - xã hội

của tỉnh có những khởi sắc, nhiều dự án, nhiều công trình được xây dựng.

Nhu cầu về đất đai của người dân ngày càng tăng, sẽ dẫn đến những sai sót

trong việc cấp đất, thu hồi, đền bù của cơ quan chính quyền. Bên cạnh đó,

vẫn còn những mâu thuẫn trong quy định của pháp luật về đất đai. Vì vậy, có

nhiều vụ án hành chính đã được xét xử xong, tuy nhiên người dân vẫn rất bức

xúc, không đồng tình với quyết định của bản án đó.

Một nguyên nhân nữa khiến số lượng khởi kiện án hành chính tăng

nhanh, đó là nhận thức về pháp luật của người dân ngày càng tăng. Một phần

cũng nhờ sự phát triển của mạng xã hội và internet. Có những vấn đề người

dân chưa biết, họ có thể lên mạng và tìm kiếm thông tin để giải quyết vấn đề.

Qua bảng số liệu, có thể thấy số vụ án được tòa án công nhận đối thoại

thành rất thấp. Qua đây, có thể thấy quyền tự thỏa thuận của các đương sự

trong việc giải quyết vụ án chưa được thể hiện nhiều. Đây là một quyền con

người, tuy nhiên, nó chưa được thể hiện nhiều trong việc giải quyết các vụ án

hành chính. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát quyết định công nhận đối thoại

thành và đình chỉ giải quyết vụ án, có thể thấy, cơ quan nhà nước có thẩm

quyền cũng cũng thừa nhận quyết định ban hành chưa đúng quy định, phải

hủy bỏ hoặc thay thế quyết định để người dân rút đơn khởi kiện.

2.2. Thực trạng thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ án

hành chính theo thủ tục sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền con ngƣời của Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình những năm qua

37

2.2.1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn

khởi kiện

Trả lại đơn khởi kiện là hoạt động của Tòa án, là nội dung quan trọng

trong tố tụng hành chính, bởi vì khi có hành vi này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến

quyền của người khởi kiện, đó là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp được quy định tại Điều 5 Luật Tố tụng hành chính, với việc trả

lại đơn khởi kiện, cũng có nghĩa người khởi kiện sẽ không được cơ quan Tòa

án chấp nhận giải quyết đối với yêu cầu của mình, vì vậy đảm bảo việc trả lại

đơn khởi kiện của Tòa án đúng quy định của pháp luật sẽ góp phần vào việc

đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi họ

tham gia vào quan hệ tố tụng hành chính. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân tỉnh

Quảng Bình rất chú trọng kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện. Việc kiểm sát

chặt chẽ, có hiệu quả việc trả lại đơn khởi kiện là một trong những nội dung

quan trọng thể hiện vấn đề bảo vệ quyền con người trong việc thực hiện hoạt

động tố tụng hành chính của cán bộ Viện kiểm sát. Bởi lẽ, quyền khởi kiện vụ

án hành chính yêu cầu Tòa án giải quyết là một trong những quyền quan trọng

của con người, là cơ chế cần thiết để các chủ thể trong xã hội thông qua đó có

cơ chế về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị

xâm phạm. Từ đó, việc trả lại đơn khởi kiện cần thiết phải được kiểm sát chặt

chẽ, đạt hiệu quả cao nhằm loại trừ việc Tòa án từ chối quyền này của các chủ

thể một cách tùy tiện. Ngoài ra, hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện

của Tòa án trong một số trường hợp như người khởi kiện không có quyền

khởi kiện nhìn dưới góc độ khác còn là một phương thức bảo vệ quyền con

người của chủ thể bị kiện, tránh để chủ thể khác lợi dụng quyền khởi kiện

xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của mình, nhất là đối với án hành

chính, mà chủ thể bị kiện là chính quyền, người thực thi công vụ... Trong

khoảng thời gian từ năm 2016 đến nay, có tổng cộng 39 trường hợp Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Bình trả lại đơn khởi kiện với các lý do là người khởi

38

kiện không có quyền khởi kiện, người khởi kiện chưa đủ điều kiện khởi kiện,

sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật. Qua việc thực hiện hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh Quảng Bình đã kiểm sát chặt chẽ việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Bình, qua đó, phát hiện một trường hợp Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Bình trả lại đơn khởi kiện không đúng quy định pháp luật đó là

Thông báo trả lại đơn khởi kiện của ông Lê Hữu Ư, cụ thể như sau:

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/12/2019 và các tài liệu, chứng cứ kèm theo

của ông Lê Hữu Ư gồm có: Quyết định số 31/QĐ-KTUB ngày 24/2/1998 của

UBND huyện TH về việc giao đất sản xuất nông nghiệp; Khế ước giao đất

rừng tự nhiên, có thảm thực vật cần bảo vệ thuộc rừng sản xuất; Quyết định

thu hồi đất số 2991/Qđ-UBND ngày 17/12/2018 của UBND huyện TH về

việc thu hồi đất để giải phóng mặt bằng và mở rộng đường tại thị trấn Đ,

huyện TH và Công văn số 93/UBND–TH ngày 17/7/2019 của UBND huyện

TH về việc trả lời đơn khiếu nại ông Lê Hữu Ư.

Ngày 08/01/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình ban hành Thông

báo số 03/TB-TA, trả lại đơn khởi kiện cho ông Lê Hữu Ư với lý do: Thửa

đất ông Lê Hữu Ư yêu cầu bồi thường, hỗ trợ là đất rừng chưa giao quyền sử

dụng đất theo quy định Điều 123 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án tỉnh trả lại

đơn khởi kiện cùng toàn bộ hồ sơ cho ông Ư.

Không đồng ý với thông báo trả lại đơn khởi kiện, ngày 14/01/2020, ông

Ước có đơn khiếu nại Thông báo trả lại đơn khởi kiện số 03/TB-TA ngày

08/01/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh và đề nghị Tòa án tỉnh xem xét nhận lại

đơn khởi kiện để thụ lý giải quyết.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh xét thấy:

Tại thông báo trả lại đơn khởi kiện số 03/TB-TA ngày 08/01/2020 của

Tòa án nhân dân tỉnh cho rằng ông Ư không có quyền khởi kiện là không

đúng quy định của pháp luật tố tụng hành chính, bởi lẽ: Với những tài liệu

39

chứng cứ ông Ư cung cấp cho thấy ông Ư là người có đất do nhà nước giao,

tuy nhiên khi nhà nước thu hồi nhưng không bồi thường, hỗ trợ cho ông nên

ông Ư có quyền khởi kiện là đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên họp xem xét khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện, Kiểm sát viên

đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh căn cứ điểm b khoản 4 Điều 124 Luật tố tụng

hành chính để giải quyết nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo

của ông Lê Hữu Ư để tiến hành thụ lý vụ án và được Tòa án chấp nhận.

2.2.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc thụ lý, giải

quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm

Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc thụ lý, giải quyết

vụ án hành chính là một trong những hoạt động nghiệp vụ quan trọng của cán

bộ kiểm sát liên quan đến quyền con người. Thông qua việc kiểm sát việc thụ

lý, giải quyết vụ án hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát tỉnh

Quảng Bình đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của các đương

sự khi tham gia tố tụng trong tố tụng hành chính theo thủ tục sơ thẩm. Thụ lý

vụ án được coi là giai đoạn khởi đầu cho cả quá trình giải quyết vụ án hành

chính. Do đó, việc Tòa án nhân dân thực hiện hoạt động thụ lý đúng theo quy

định của pháp luật sẽ đảm bảo quyền khởi kiện – một trong những quyền con

người. Ngược lại, việc thụ lý vụ án tùy tiện, trái quy định của pháp luật tất

yếu sẽ tạo điều kiện để xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Khi kiểm sát việc thụ lý, Kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát chặt chẽ các vấn

đề sau: Đối tượng bị khởi kiện có phải là quyết định hành chính hay hành vi

hành chính không? Người bị kiện là cá nhân hay cơ quan, tổ chức? Người

khởi kiện có quyền khởi kiện, có đủ điều kiện khởi kiện theo Điều 115 Luật

Tố tụng hành chính 2015 hay không? Thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Kiểm sát viên căn cứ vào quy định tại các Điều 30, 31, 32, 33 Luật Tố tụng

hành chính năm 2015 để xác định vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của

Tòa án hay không? Xác định thời hiệu khởi kiện: Kiểm sát viên căn cứ vào

40

Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015 để xem xét còn thời hiệu khởi kiện

hay không? Việc kiểm sát chặt chẽ thông báo thụ lý vụ án nhằm đảm bảo

quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Qua việc kiểm

sát thông báo thụ lý vụ án, Viện kiểm sát tỉnh Quảng Bình đã phát hiện được

nhiều vi phạm của Tòa án như thụ lý vụ án chậm, gửi thông báo thụ lý không

đúng thời hạn Tuy nhiên các vi phạm này không ảnh hưởng nghiêm trọng

đến quyền và lợi ích của đương sự nên Viện kiểm sát tỉnh đã tổng hợp và kiến

nghị khắc phục vi phạm chung. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã

phát hiện một trường hợp Tòa án thụ lý không đúng đối tượng khởi kiện, đã

kiến nghị yêu cầu khắc phục và đã được Tòa án chấp nhận:

Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B có văn bản ủy quyền nội bộ cho Phó

Chủ tịch ký các quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng. Ngày

01/3/2017, Phó Ủy ban nhân dân thị xã B ban hành quyết định xử phạt hành

chính trong lĩnh vực xây dựng đối với ông C chủ hộ của căn nhà số 10/1

đường N, thị xã B. Ông C khởi kiện và Tòa án thụ lý và xác định Phó Chủ

tịch Ủy ban nhân dân thị xã B là người bị kiện. Mặc dù Phó Chủ tịch được ủy

quyền ký quyết định, nhưng khi xác định người bị kiện trong vụ án hành

chính này phải là người mà Luật quy định có thẩm quyền ban hành xử phạt,

đó là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B chứ không thể xác định người bị kiện

là ông Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã B. Sau khi kiểm sát thụ lý, Viện

kiểm sát nhân dân tỉnh đã ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm và

đã được Tòa án chấp nhận.

Sau khi kiểm sát thông báo thụ lý vụ án, Kiểm sát viên sẽ lập hồ sơ

kiểm sát nhằm kiểm sát quá trình giải quyết vụ án, theo dõi thời hạn giải

quyết vụ án, việc kéo dài thời hạn giải quyết vụ án sẽ ảnh hưởng đến quyền và

lợi ích của một hoặc các bên đương sự. Đồng thời trong quá trình kiểm sát

việc giải quyết vụ án hành chính, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

luôn chú trọng đến các quy định về quyền của đương sự và những người tham

41

gia tố tụng khác để kiểm sát hoạt động của Tòa án nhân dân tránh việc tùy

tiện xâm phạm các quyền này như quyền quyết định và tự định đoạt của

đương sự; quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình; quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hành chính;

đảm bảo quyền kháng cáo và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính. Đây

đều là những quyền cơ bản của con người, của công dân. Trong quá trình

kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, Kiểm sát viên luôn nghiêm túc,

khách quan, công minh, chính trực để đảm bảo các quyền cơ bản trên cho các

đương sự. Trong khoảng thời gian từ 01/7/2016 đến 31/5/2020, Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Quảng Bình đã kiểm sát 100% việc thụ lý các vụ án hành chính

của Tòa án, gồm 106 vụ, phát hiện và ban hành 03 kiến nghị chung và 01 kiến

nghị riêng về vi phạm trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án.

Trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Quảng Bình sẽ kiểm sát các quyết định của Tòa án như: Quyết định công

nhận đối thoại thành và đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đình chỉ giải

quyết vụ án, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đưa vụ án ra

xét xử, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Đối với các loại quyết định trên, thời hạn xem xét kháng nghị phúc thẩm,

đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm rất ngắn nên Kiểm sát viên thường chủ

động nghiên cứu kiểm sát ngay sau khi nhận được quyết định; Lãnh đạo đơn

vị sớm kiểm duyệt kết quả kiểm sát để kịp thời ra văn bản yêu cầu Tòa án

chuyển hồ sơ để xem xét theo thẩm quyền nếu qua kiểm sát có nghi ngờ hoặc

xét thấy cần xem xét căn cứ tạm đình chỉ; căn cứ xác định việc đình chỉ có

đúng theo quy định của pháp luật hay không; kiểm tra việc Tòa án tuyên về

hậu quả của việc đình chỉ, tính án phí có đảm bảo quy định không (ví dụ: đình

chỉ trong trường hợp nguyên đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng

vắng mặt thì án phí phải sung công quỹ nhà nước nhưng Tòa án lại tuyên án

phí trả lại cho đương sự là vi phạm); tuyên quyền kháng cáo, kháng nghị có

42

đúng không?

Qua thực hiện công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã yêu cầu

Tòa án chuyển hồ sơ, nghiên cứu và ban hành quyết định kháng nghị phúc

thẩm đối với một quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính của Tòa án

do Tòa án đã căn cứ điểm d khoản 1 Điều 123 Luật Tố tụng hành chính 2015

“Sự việc đã được giải quyết bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”

để đình chỉ giải quyết vụ án không đảm bảo có căn cứ... Tòa án nhân dân cấp

cao tại Đà nẵng đã xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị phúc thẩm của

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, chuyển

hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý giải quyết (vụ yêu cầu hủy quyết định

hành chính là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa người khởi kiện là ông

Trượng - người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện MH).

Riêng đối với các quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, quyết

định công nhận sự thỏa thuận, do có hiệu lực pháp luật ngay, Viện kiểm sát

không có quyền kháng nghị phúc thẩm, tuy nhiên Viện kiểm sát luôn chú ý

kiểm sát để xác định việc thỏa thuận của đương sự đã phù hợp quy định của

pháp luật chưa, việc áp dụng án phí, lệ phí của Tòa án có đúng hay không, có

gây ảnh hưởng, thiệt hại đến quyền lợi của người thứ ba không, đây là nhiệm

vụ quan trọng của Viện kiểm sát để bảo vệ quyền con người của đương sự.

Qua đó xem xét kiến nghị hoặc báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm.

2.2.3. Bảo vệ quyền con người qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, yêu

cầu tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án

hành chính theo thủ tục sơ thẩm

Việc quyền con người, quyền công dân có thực sự được Tòa án đảm

bảo hay không qua hoạt động của Kiểm sát viên mấu chốt là ở giai đoạn này.

Khi được nhận được hồ sơ vụ án từ Tòa án, Kiểm sát viên được phân công

phải tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án nhằm đánh giá chứng cứ và các tài liệu

có trong hồ sơ, xem xét việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải

43

quyết vụ án của Thẩm phán, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố

tụng, nắm vững nội dung và các tình tiết của vụ án để dự thảo đề cương

những nội dung cần làm sáng tỏ và dự thảo bản phát biểu ý kiến của Viện

kiểm sát tại phiên tòa. Kiểm sát viên được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án

sẽ lập hồ sơ kiểm sát, trích cứu đầy đủ, trung thực lời trình bày của đương sự,

sao chụp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ do các đương sự nộp hoặc do Tòa án

thu thập có trong hồ sơ vụ án. Chủ yếu ở hoạt động này, Kiểm sát viên mới

trực tiếp thâm nhập vào vụ án, nắm được bản chất vụ án, các điều kiện cần và

đủ để giải quyết vụ án. Nếu xét thấy vụ án còn thiếu chứng cứ, Kiểm sát viên

sẽ yêu cầu tòa án thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được

đúng đắn và khách quan. Ở giai đoạn kiểm sát việc thụ lý vụ án tới trước khi

nhận hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên hầu như không thể biết quyền con người,

quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự bị xâm phạm hay không? Ví dụ,

Tòa án không gửi hoặc gửi chậm thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập cho

đương sự, Tòa án đã triệu tập đầy đủ người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

chưa thì Kiểm sát viên không thể biết. Nhưng khi nghiên cứu hồ sơ vụ án,

Kiểm sát viên sẽ xác định được Tòa án có vi phạm không Qua việc nghiên

cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên đã phát hiện được nhiều vi phạm của Tòa án,

ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời báo cáo

Lãnh đạo để yêu cầu hoặc kiến nghị Tòa án khắc phục các vi phạm. Một số

dạng vi phạm cụ thể mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã phát hiện

như: không đưa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng,

xác định sai tư cách tham gia tố tụng của đương sự, thu thập tài liệu, chứng cứ

không đủ để giải quyết vụ án một cách khách quan cụ thể:

Thứ nhất, vi phạm về không đưa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên

quan tham gia tố tụng: Ông Bùi L (con của bà Nguyễn Thị B) khởi kiện yêu

cầu Tòa án hủy Quyết định thu hồi đất và thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất (GCNQSDĐ) số 952/QĐ-UBND ngày 05/7/2002 của UBND huyện

44

MH; Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 6405/QĐ-UBND ngày

18/10/2016 của Chủ tịch UBND huyện MH và yêu cầu khôi phục lại quyền sử

dụng đất hợp pháp của bà B đối với 4,2 ha đất nông nghiệp tại thôn 2, xã

H.Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh lại không đưa bà Lê Thị N

vào tham gia tố tụng trong khi diện tích đất 4,2 ha này đã được UBND huyện

MH cấp cho bà Lê Thị N vào năm 2007 và hiện nay bà N vẫn đang quản lý,

sử dụng. Tòa án không đưa bà vào tham gia tố tụng, làm cho bà N không thực

hiện được các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại Điều 55 Luật

Tố tụng hành chính 2015.

Do đó, đối với trường hợp trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã ban hành

yêu cầu đưa người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng và

đã được Tòa án chấp nhận thực hiện, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của

bà N, ông D, Ủy ban nhân dân xã H.

Thứ hai, xác định không đúng tư cách pháp lý của người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính: Ngày 02/01/2019, ông Nguyễn

Văn A và bà Trần Thị B cùng đứng đơn khởi kiện quyết định thu hồi đất của

Chủ tich Ủy ban nhân dân huyện QT. Ngay cùng ngày, bà B ủy quyền cho

ông A là người đồng khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án xác

định bà B là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là không đúng, vì bà B

vẫn là nguyên đơn. Ngay khi phát hiện, Viện kiểm sát đã kiến nghị và yêu cầu

Tòa án khắc phục vi phạm.

Việc Viện kiểm sát đã phát hiện và yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm

về việc bổ sung người tham gia tố tụng hoặc xác định đúng tư cách tham gia

tố tụng nhằm bảo vệ quyền con người, quyền và lợi chích chính đáng của

đương sự. Bởi lẽ, nếu không được tham gia vụ án thì chủ thể đó không có

quyền kháng nghị, quyền đưa ra những chứng cứ để bảo vệ lợi ích của mình...

Hoặc nếu xác định sai tư cách tố tụng của nguyên đơn thành người liên quan

thì sẽ hạn chế quyền của họ, nhất là quyền rút yêu cầu khởi kiện.

45

Thứ ba, Vi phạm về thu thập chứng cứ chưa đầy đủ: Thửa đất số 425 có diện tích 1.151 m2, theo tờ bản đồ số 9 ở thôn N, xã H, huyện LT có nguồn

gốc của cụ T (chết năm 1976) và cụ P (chết năm 1978) là ông, bà nội ông C.

Toàn bộ thửa đất trên, sau khi các cụ nội chết, ông M (là bố đẻ ông C) quản

lý, sử dụng. Năm 2002, ông C kết hôn với bà Tr, ông M cho ông một phần

diện tích đất để làm nhà ở. Năm 2015, ông M chết thì ông C là người quản lý

sử dụng thửa đất trên. Năm 2017, vợ chồng ông C có đơn yêu cầu Ủy ban

nhân dân xã H xác nhận để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận cho ông C đối với thửa đất Thửa đất số 452, tờ bản đồ số 9, diện tích 1.151m2 do ông C đang

quản lý sử dụng nêu trên. Tuy nhiên, một phần của thửa đất trên đã được Ủy ban nhân dân xã H giao 200m2 đất cho hộ ông Q, bà T theo Quyết định số

453/QĐ-UB ngày 02/4/1994 của Ủy ban nhân dân huyện LT (thuộc thửa đất số 50b, tờ bản đồ số 07, diện tích 200m2 thôn A, xã H, huyện LT). Do đó, Ủy

ban nhân dân xã H không xác nhận diện tích đất ông C yêu cầu làm thủ tục, mà yêu cầu ông C phải giao phần diện tích đất 200m2 cho vợ, chồng ông Q,

bà T. Không nhất trí nội dung giải quyết, ngày 14/4/2017, ông C khiếu nại

hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã H về việc không giải quyết đơn

yêu cầu nói trên. Ngày 07/6/2017, Ủy ban nhân dân xã H hoà giải nhưng

không thành.

Ông C khởi kiện ra Toà án yêu cầu huỷ Quyết định giao đất số

453/QĐ-UB ngày 02/4/1994 của Ủy ban nhân dân huyện LT về việc giao 200m2 đất, thửa số 50b, tờ bản đồ số 07 ở xã H, huyện LT cho ông Q và vợ bà

T là không đúng, vì diện tích này là do ông C đang quản lý, sử dụng; buộc Ủy

ban nhân dân xã H thực hiện việc lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 452, tờ bản đồ số 9, diện tích 1.151 m2 cho vợ, chồng ông C

theo đúng quy định pháp luật về đất đai.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã yêu

cầu Tòa án tiến hành điều tra, xác minh hiện trạng sử dụng đất, ông C, bà Tr

46

quản lý sử dụng có hợp pháp không? Có tranh chấp hay không? Và đã được

Tòa án chấp nhận và thực hiện.

Việc thu thập tài liệu, chứng cứ đúng quy định và đầy đủ sẽ đảm bảo cho

vụ án được giải quyết một cách khách quan. Nếu tài liệu chứng cứ chưa đầy

đủ thì cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ giải quyết không chính xác,

gây thiệt hại lớn về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

2.2.4. Bảo vệ quyền con người qua việc tham gia phiên tòa và phát

biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án hành chính

Theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì :

“Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc

giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án;

thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp

luật”. Như vậy, Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên tòa giải quyết vụ án

hành chính nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự. Trong

thời gian từ 01/7/2016 đến 31/5/2020, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân

dân tỉnh Quảng Bình luôn tham gia đầy đủ các phiên tòa theo quy định của

pháp luật, không để xảy ra trường hợp phiên tòa vẫn diễn ra nhưng vắng mặt

Kiểm sát viên. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tại Điều 156 Luật Tố

tụng hành chính về sự có mặt của Kiểm sát viên thì “nếu Kiểm sát viên vắng

mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử”, do đó, để có thể đảm bảo hoạt

động kiểm sát tại phiên tòa, Kiểm sát viên luôn luôn sắp xếp, tôn trọng việc

tham gia phiên tòa, bởi lẽ, theo quy định của luật mới việc vắng mặt của

Kiểm sát viên không còn là căn cứ để hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa, Kiểm sát

viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hành chính và có thể tham gia

hỏi trong trường hợp cần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại

phiên tòa, trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Kiểm sát viên bổ sung vào bản

47

ý kiến của Viện kiểm sát đã chuẩn bị trước, phát biểu ý kiến về việc tuân theo

pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng

xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng hành

chính, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,

đồng thời phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án

theo quy định tại Điều 190 – Luật Tố tụng hành chính 2015. Khi Chủ tọa

phiên tòa tuyên án, Kiểm sát viên ghi lại những nhận định và các căn cứ pháp

luật cũng như phần quyết định giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử để có căn

cứ đối chiếu với bản án do Tòa án gửi tới Viện kiểm sát.

Bản phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là tổng hợp của cả quá

trình hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên từ khi Tòa án thụ lý vụ án, đến

thời điểm trước khi Hội đồng xét xử nghị án. Vì vậy, Kiểm sát viên luôn

chuẩn bị bài phát biểu chu đáo, lập luận chính xác, sắc bén, có căn cứ pháp

luật đối với từng vấn đề và kịp thời bổ sung những tình tiết, diễn biến mới

phát sinh tại phiên tòa, trình bày rõ ràng, mạch lạc. Qua việc phát biểu, Kiểm

sát viên sẽ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Những vi phạm trong quá trình

giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ảnh

hưởng như thế nào đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác sẽ được

Kiểm sát viên phân tích, đánh giá về tính chất, mức độ và đưa ra hướng xử lý.

Bản phát biểu Kiểm sát viên là một văn bản pháp lý quan trọng của Viện

kiểm sát trong tố tụng hành chính, thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát trong

toàn bộ quá trình xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn xét

xử sơ thẩm. Tại phiên tòa, bài phát biểu của Kiểm sát viên là một công cụ

quan trọng để thể hiện quan điểm về toàn bộ việc chấp hành pháp luật tố tụng

của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người gia tố tụng. Ngoài

ra, còn thể hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát

đối với những vi phạm của Tòa án, đảm bảo việc ra bản án, quyết định của

48

Tòa án có căn cứ và đúng pháp luật. Thông qua bài phát biểu của tại phiên tòa

hành chính sơ thẩm, Kiểm sát viên khẳng định được vị trí, vai trò của Viện

kiểm sát trong tố tụng hành chính. Bài phát biểu là nguồn tài liệu quan trọng

để Hội đồng xét xử tham khảo, xem xét ra một bản án có căn cứ và đúng pháp

luật. Việc Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành

chính nhằm đảm bảo cho phiên tòa, phiên họp được diễn ra đúng quy định,

đúng thành phần, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của

đương sự.

2.2.5. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính qua việc kiểm

sát bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên kiểm sát phần tuyên án, ghi chép những nội

dung cơ bản đồng thời thực hiện việc ghi âm để đảm bảo cho việc báo cáo kết

quả xét xử được chính xác. Để tránh tình trạng Tòa án cố tình gửi chậm bản

án, làm ảnh hưởng đến việc kháng nghị của Viện kiểm sát. Tòa án có chậm

gửi bản án cho Viện kiểm sát thì vẫn có căn cứ để thực hiện quyền kháng nghị

đúng thời hạn, sau đó kiến nghị với Tòa án về vi phạm chậm gửi bản án.

Khi kiểm sát bản án, Kiểm sát viên đối chiếu với ghi chép (bút ký phiên

tòa) về những người tiến hành tố tụng; sự có mặt của các đương sự và nội

dung bản án được công bố tại phiên tòa để xác định có đảm bảo đúng hay

không (thực tiễn đã cho thấy có Bản án vi phạm ghi không đúng thời gian xét

xử, không đúng họ tên Hội thẩm nhân dân do có sự thay đổi so với khi dự

thảo bản án, quyết định; ghi không chính xác sự có mặt của các đương sự...

Qua thực hiện công tác kiểm sát bản án, Kiểm sát viên đã nghiên cứu phát

hiện được nhiều vi phạm gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của

các đương sự như: Giải quyết không đúng yêu cầu của người khởi kiện;

không quyết định đình chỉ đối với phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn đã rút;

áp dụng pháp luật không đúng, tuyên xử lý tài sản bảo đảm không đúng;

nhầm lẫn, tính sai số tiền phải hoàn trả; tính sai án phí Qua đó, đã tham mưu

49

cho Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân ban hành nhiều kháng nghị phúc thẩm.

Đối với những trường hợp Tòa án không mở phiên tòa ban hành quyết

định giải quyết vụ án như quyết định công nhận kết quả đối thoại thành và

đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định tạm

đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên phải nghiên cứu các căn cứ giải quyết có đúng

với quy định tại Luật Tố tụng hành chính không. Qua công tác này, Kiểm sát

viên đã phát hiện được nhiều trường hợp vi phạm của Tòa án như: Ban hành

quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ giải quyết vụ án khi

chưa đủ thời hạn theo quy định của Luật tố tụng hành chính; Tòa án yêu cầu

đương sự cung cấp chứng cứ mà đương sự chưa cung cấp, hết thời hạn chuẩn

bị xét xử nên Tòa án tạm định chỉ là không đúng quy định (khoản 1 Điều 141

Luật Tố tụng hành chính không có căn cứ này); Nguyên đơn rút yêu cầu khởi

kiện, Tòa án đình chỉ vụ án nhưng tuyên sung quỹ khoản tiền tạm ứng án phí

là không đúng. Các trường hợp trên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

đã kịp thời ban hành kiến nghị, kháng nghị nhằm đảm bảo quyền lợi của

đương sự.

2.2.6. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính qua hoạt

động kiến nghị, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm

pháp luật

Kháng nghị, kiến nghị trong hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp nói

chung và trong tố tụng hành chính nói riêng là quyền năng pháp lý của Viện

kiểm sát được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ này nhằm phát hiện những vi phạm trong hoạt

động tư pháp, yêu cầu cơ quan vi phạm khắc phục bảo đảm cho hoạt động tư

pháp được thực hiện nghiêm minh, công bằng, dân chủ và khách quan, bảo vệ

quyền con người, các quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước, của các tổ

chức và công dân đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Trong giai đoạn

từ năm 01/7/2016-31/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ban

50

hành 12 kiến nghị và 05 kháng nghị phúc thẩm trong hoạt động kiểm sát giải

quyết các vụ án hành chính. Tất cả các kiến nghị, kháng nghị đều có chất

lượng, đã được Tòa án cùng cấp chấp nhận và trả lời kiến nghị, được Tòa án

cấp trên xét xử theo hướng kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Quảng Bình.

Quyền kiến nghị được Viện kiểm sát nhân dân thực hiện khi phát hiện

hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp

có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị nêu

trên thì Viện kiểm sát phải kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục

vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật; nếu phát

hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan, tổ chức

hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật

và tội phạm. Khi nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân cơ quan, tổ

chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị

của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật. Theo đó, Viện kiểm

sát có quyền kiến nghị tất cả các trường hợp Tòa án có vi phạm trong quá

trình tiến hành tố tụng, gồm từ khi thụ lý vụ án, tiến hành lập hồ sơ, áp dụng

biện pháp thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, quyết định áp dụng,

thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định tạm đình chỉ, đình

chỉ giải quyết vụ án hành chính. Tùy theo tính chất từng vụ,việc có vi phạm

để áp dụng các hình thức kiến nghị phù hợp.

Quyền kháng nghị được Viện kiểm sát nhân dân thực hiện khi phát hiện

hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt

động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con

người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của

tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải kháng nghị. Khi nhận được

kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cơ quan, người có thẩm quyền phải

giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp

51

luật. Kháng nghị phúc thẩm phải đảm bảo chất lượng về hình thức và tính căn

cứ: khi ban hành kháng nghị phúc thẩm, bản kháng nghị phải bảo đảm có căn

cứ pháp luật, chặt chẽ từ hình thức đến nội dung, đúng thủ tục, thời hạn kháng

nghị, thẩm quyền ban hành. Thận trọng, xem xét, cân nhắc, tôn trọng nguyên

tắc quyền tự định đoạt của đương sự đối với những trường hợp không liên

quan đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng hoặc có một bên đương sự là

người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần, nếu đương

sự không kháng cáo thì Viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị. Một số vi

phạm nghiêm trọng của Tòa án đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị,

cụ thể:

* Vụ thứ nhất: Theo đơn khởi kiện bà Phan Thị Thu K trình bày: Năm 2001 Uỷ ban nhân dân huyện BT thu hồi của bà diện tích đất 11.206 m2 thuộc

các thửa 133, 134, 135, 136, 137 và 138 tờ bản đồ số 01 xã P, huyện BT để

giao cho Công an huyện BT. Nhưng trong quá trình đền bù và hỗ trợ thiệt hại,

Uỷ ban nhân dân huyện BT đã thực hiện sai các quy định của pháp luật, thực

hiện không đúng phương án đền bù giải tỏa như đã cam kết, xâm hại đến

quyền lợi của bà, nên bà khởi kiện yêu cầu: Uỷ ban nhân dân huyện BT thực

hiện lại trình tự, thủ tục thu hồi đất theo đúng quy định pháp luật; Phải bố trí cho bà một nền đất ở tại khu tái định cư là 300m2 theo đúng phương án thỏa

thuận trước khi thu hồi đất; Hủy bỏ Thông báo số 72/TB-UBND ngày

07/5/2009 và Công văn số 332/CV-BT ngày 15/10/2007 của Uỷ ban nhân dân

huyện BT và Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng huyện BT.

Tòa án nhân dân tỉnh đã tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện

của bà Phan Thị Thu K đòi hủy bỏ Biên bản hiệp thương đền bù ngày

06/9/2001 của Uỷ ban nhân dân huyện BT và yêu cầu Uỷ ban nhân dân huyện

BT thực hiện lại trình tự, thủ tục thu hồi đất.

Trong vụ án hành chính này, bà K có 3 yêu cầu cụ thể là buộc Uỷ ban

nhân dân huyện BT thực hiện lại trình tự, thủ tục thu hồi đất theo đúng quy

52

định pháp luật; bố trí cho bà một nền đất ở tại khu tái định cư là 300m2 theo

đúng phương án thỏa thuận trước khi thu hồi đất. Hủy bỏ Thông báo số

72/TB-UBND ngày 07/5/2009 và Công văn số 332/CV-BT ngày 15/10/2007

của Uỷ ban nhân dân huyện BT và Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng

huyện BT. Bà K không yêu cầu hủy biên bản hiệp thương nhưng Tòa án tỉnh

lại tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K về việc hủy biên

bản hiệp thương là vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự, bên cạnh đó

cũng chưa xem xét đến các yêu cầu khởi kiện của đương sự là vi phạm tố tụng

nghiêm trọng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã kháng nghị cấp phúc thẩm hủy

vụ án nói trên để giải quyết lại đúng pháp luật.

* Vụ thứ hai: Ông H.V.T kiện Uỷ ban nhân dân huyện QN, yêu cầu

tuyên bố hành vi không giải quyết yêu cầu xác định lại diện tích đất ở là trái

pháp luật và buộc Uỷ ban nhân dân huyện QN xác định lại đất ở cho ông T

theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 24 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của

Chính phủ. Bản án sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện là có căn cứ. Tuy nhiên,

trong phần quyết định của bản án sơ thẩm lại tuyên: “Ông T có đủ điều kiện

công nhận đất ở mà không phải nộp tiền sử dụng đất ở nằm trong diện tích đất 2.342 m2 tại xóm L, xã B, huyện QN; ông T có quyền nộp hồ sơ xác định lại

diện tích đất ở theo quy định tại khoản 47 Điều 2 bổ sung Điều 72a Nghị định

số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ” là đã vượt quá thẩm

quyền của Toà án trong giải quyết vụ án hành chính. Viện kiểm sát tỉnh đã

kháng nghị bản án và cấp phúc thẩm đã xét xử theo hướng sửa bản án nói

trên.

2.3. Đánh giá chung về bảo vệ quyền con ngƣời qua công tác kiểm

sát các vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

những năm qua

2.3.1. Những thành tựu, ưu điểm và nguyên nhân

53

Thời gian vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã khẳng

định được vai trò của mình trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án

hành chính theo thủ tục sơ thẩm, là một thiết chế cơ bản bảo vệ quyền con

người trong tố tụng hành chính, là công cụ không thể thiếu trong công cuộc

đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Kể từ thời điểm Luật Tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực đến nay, qua

công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đã có những biện

pháp trao đổi, phối hợp, yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm đẩy nhanh quá

trình giải quyết vụ án, hạn chế rất thấp số lượng các vụ án hành chính tạm

đình chỉ kéo dài, quyền con người trong vụ án được đảm bảo hơn, nội dung

giải quyết vụ án đúng quy định, hạn chế bị cấp trên sửa, hủy.

Để nâng cao kỹ năng của Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát việc giải

quyết các vụ án hành chính tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Lãnh đạo Viện đã

rất quan tâm, chú trọng đến công tác đào tạo của đơn vị, đặc biệt là đào tạo

chuyên sâu những nội dung có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Tại các

buổi họp giao ban, Lãnh đạo Phòng đều tiến hành phổ biến, thảo luận những

thông báo rút kinh nghiệm của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên đến cán bộ,

công chức trong Phòng. Trong quá trình làm việc, mỗi khi có vấn đề gì vướng

mắc, mỗi cán bộ, công chức trong Phòng đều chủ động xin ý kiến của Lãnh

đạo Phòng hoặc đưa ra thảo luận trong Phòng để tìm được cách giải quyết tối

ưu nhất. Qua đó, cũng là cơ hội để mỗi cán bộ, Kiểm sát viên nghiên cứu sâu

hơn các quy định của pháp luật.

Các Kiểm sát viên của đơn vị luôn nêu cao tinh thần, trách nhiệm,

nghiên cứu kỹ các hồ sơ vụ án do Tòa án chuyển sang, đề xuất đường lối giải

quyết phù hợp, đúng quy định của pháp luật; tham gia 100% các phiên tòa,

phiên họp theo quy định có Viện kiểm sát nhân dân tham gia; kiểm sát chặt

chẽ các bản án, quyết định. Thông qua công tác kiểm sát bản án, quyết định

nếu phát hiện vi phạm sẽ kịp thời ban hành kháng nghị hoặc kiến nghị đối với

54

các vi phạm của Tòa án. Do đó, vi phạm của Tòa án cũng dần dần được khắc

phục, quyền con người, quyền công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của nhà

nướccũng được đảm bảo hơn; việc khiếu nại, tố cáo của đương sự đối với các

bản án, quyết định của Tòa án cũng ít hơn.

* Nguyên nhân cơ bản, quan trọng của những thành tựu trên là:

Một là, hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát cơ

bản đã được hoàn thiện hơn thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

năm 2014, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra được bám sát và kịp

thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp đối với

việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án.

Bên cạnh đó, Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh luôn quan tâm và

tăng cường công tác lãnh đạo, rèn luyện, bồi dưỡng cho đội ngũ Kiểm sát

viên về mọi mặt, có bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp

luật, không ngừng nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc kiểm

sát việc giải quyết các vụ án hành chính;

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh phối hợp với Tòa án tổ chức các phiên toà

rút kinh nghiệm xét xử các vụ án hành chính, bởi thông qua đó sẽ phát hiện

được những vi phạm, thiếu sót trong quá trình xét xử, từ đó các Thẩm phán,

Kiểm sát viên sẽ rút ra những bài học để khắc phục.

Hai là, hàng năm xây dựng các báo cáo chuyên đề nghiệp vụ về công

tác kiểm sát giải quyết án hành chính để góp phần nâng cao nhận thức Kiểm

sát viên trong toàn ngành Kiểm sát Quảng Bình đối với lĩnh vực này, đồng

thời cùng nhau trao đổi kinh nghiệm, học hỏi, xây dựng góp phần quan trọng

vào việc bảo vệ quyền con người. Bên cạnh đó, hàng quý, Viện kiểm sát nhân

dân tỉnh Quảng Bình ban hành các Thông báo rút kinh nghiệm nhằm chấn

chỉnh, khắc phục các vi phạm trong công tác kiểm sát giải quyết án hành

chính.

Ba là, ý thức pháp luật, thái độ thực hiện công vụ và trình độ chuyên

55

môn, nghiệp vụ của lực lượng Kiểm sát viên đã được nâng cao, góp phần

nâng cao hiệu quả trong quá trình giải quyết các nói chung, vụ án hành chính

nói riêng nhằm quyền con người. Phải nhìn nhận một cách khách quan rằng

đội ngũ lãnh đạo, Kiểm sát viên cần thiết phải có phẩm chất chính trị và năng

lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát việc

giải quyết các vụ án hành chính trong giai đoạn mới. Bên cạnh việc bồi dưỡng

chuyên môn nghiệp vụ thì cần thiết phải có đạo đức nghề nghiệp, có ý chí

vươn lên, khả năng tiếp cận nhanh được các kiến thức pháp lý mới nhằm đáp

ứng với yêu cầu của công tác hiện nay. Ngoài ra, đội ngũ Kiểm sát viên phải

là đội ngũ có khả năng ứng dụng được công nghệ thông tin trong công tác

quản lý và thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

Bốn là, thông qua hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các

hoạt động tư pháp nói chung và công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính

nói riêng cần thiết phải có sự tham gia tích cực của người dân, xã hội trong

đấu tranh, bảo vệ quyền con người cũng là yếu tố quan trọng giúp cơ quan

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình hoàn thành vai trò bảo vệ quyền con

người theo quy định của pháp luật hiện hành. Đồng thời, bên cạnh việc tuân

thủ thì người dân có sự tiếp thu thông tin và nghiên cứu quyền con người

nhằm hình thành nên ý thức trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người

đạt hiệu quả cao.

Một trong những cách làm hay để đáp ứng nhiệm vụ kiểm sát việc giải

quyết vụ án hành chính nói chung và nhằm bảo vệ quyền con người nói riêng

của Viện kiểm sát nhân dântỉnh Quảng Bình trong việc kiểm sát giải quyết án

hành chính là đăng tải trên Trang Thông tin điện tử của ngành Kiểm sát tỉnh

Quảng Bình (tại mục Văn bản pháp luật - Văn bản pháp luật theo chuyên đề)

các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai, đền bù giải phóng mặt

bằng qua các thời kỳ của cả nước và trên địa bàn thành phố, điều này có ý

nghĩa rất lớn phục vụ công tác tra cứu văn bản pháp luật, tăng cường hiệu quả

56

công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính liên quan đến quản lý

nhà nước về đất đai. Việc làm này của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã được

Uỷ ban nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ghi nhận.

Ngoài ra, trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo

thủ tục sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã chú trọng tăng cường công

tác phối hợp, ký kết quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát với Tòa án và các

cơ quan hành chính nhà nước. Đây là một kinh nghiệm thành công trong quá

trình giải quyết các loại vụ án nói chung và án hành chính nói riêng. Viện

kiểm sát cần phối hợp với Tòa án để có thể tham gia vào việc giải quyết vụ án

ngay từ đầu như tham gia các buổi đối thoại, các cuộc xem xét, thẩm định tại

chỗ để nắm bắt được nội dung cũng như nhanh chóng làm rõ những khúc mắc

còn chưa rõ ràng. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu phát hiện quyết định hành

chính, hành vi hành chính bị khởi kiện là trái với quy định của pháp luật, cần

phân tích và thẳng thắn chỉ ra những sai sót cho cơ quan hành chính nhà

nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước biết để sửa

đổi, hủy bỏ quyết định hoặc chấm dứt hành vi hành chính.

Ở Quảng Bình hiện nay, sau nhiều vụ án hành chính đã được giải quyết,

các cơ quan hành chính nhà nước đã thận trọng hơn khi tiến hành thu hồi đất,

trước khi tiến hành thu hồi đất, đều tham vấn ý kiến của các cơ quan, Sở, ban

ngành và tham vấn cả Tòa án, Viện kiểm sát để quá trình thu hồi đất được

đúng pháp luật. Phòng nghiệp vụ thường xuyên tham mưu cho Lãnh đạo Viện

ban hành góp ý cho các Ủy ban nhân dân thành phố, thị xã, huyện về hồ sơ

cưỡng chế của các hộ dân có đất bị thu hồi để thực hiện các dự án phát triển

giao thông đô thị, kinh tế xã hội của tỉnh; chỉ đạo các đơn vị cấp huyện chủ

động phối hợp với các cơ quan hữu quan địa phương giải quyết các vụ việc

tranh chấp phức tạp ở địa phương hạn chế việc khiếu kiện đông người, gây dư

luận không tốt trong nhân dân.

2.3.2. Những hạn chế, tồn đọng và nguyên nhân

57

Mặc dù vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính qua

hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm

của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình ngày càng được nâng cao so với

trước đây, tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế, tồn đọng nhất

định, cụ thể:

Một là, các khiếu kiện hành chính xảy ra rất nhiều trong cuộc sống,

nhiều khi trở thành vấn đề thời sự sôi động trong cả nước, nhưng các đơn khởi

kiện tại Tòa án không nhiều và số vụ án hành chính Tòa án đã thụ lý cũng còn

rất ít trên thực tế.Hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính và tham

gia phiên tòa nói riêng là một vấn đề hết sức tế nhị vì đụng chạm đến các cơ

quan hành chính nhà nước, đặc biệt cơ quan hành chính cùng cấp với Tòa án

địa phương. Chính vì vậy, Kiểm sát viên sẽ dè dặt và phát sinh tư tưởng ngại

tham gia phiên tòa xét xử các vụ án hành chính. Vì vậy, dẫn đến chất lượng

kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính sẽ bị giảm đi phần nào.

Hai là, việc đánh giá tính chất vụ án, đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ

vụ án hành chính còn chưa chính xác; Công tác kiểm sát bản án, quyết định

đôi lúc chưa được quan tâm đúng mức, nên không kịp thời phát hiện được

những sai sót, vi phạm trong một số bản án, quyết định để ban hành kháng

nghị, kiến nghị; vẫn còn có kháng nghị, chất lượng còn hạn chế, dẫn đến

không được Tòa án xét xử chấp nhận v.v

Ba là, Kiểm sát viên không chuẩn bị tốt cho việc tham gia phiên tòa,

dẫn đến việc tham gia xét xử có nhiều lúng túng, đặt câu hỏi đối với đương sự

không đúng trọng tâm, trọng điểm, hỏi lan man, không kịp bổ sung những

tình tiết mới diễn ra tại phiên tòa vào bài phát biểu của Kiếm sát viên

* Nguyên nhân của các hạn chế, tồn tại:

Thứ nhất, Công tác kiểm sát giải quyết án hành chính của Viện kiểm

sát nhân dân là lĩnh vực khó khăn, phức tạp, xuất phát từ các văn bản quy

phạm pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực quản lý nhà nước rất đa dạng,

58

phong phú, nhưng lại thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Mặt khác các văn bản

pháp luật còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, nhất là trong lĩnh vực pháp luật

về quản lý đất đai và xây dựng. Pháp luật về thi hành án hành chính chưa đầy

đủ, rõ ràng, chưa có tính bắt buộc.

Trong Luật Tố tụng hành chính 2015, vị trí, vai trò của Kiểm sát viên

tiếp tục được khẳng định, Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng trong giải

quyết các vụ án hành chính. Luật cũng đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn

của Kiểm sát viên, tạo cơ sở pháp lý cho Kiểm sát viên thực hiện chức năng

nhiệm vụ của mình trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính.

Tuy nhiên, Luật Tố tụng hành chính 2015 vẫn còn những tồn tại, bất cập về

cơ chế để đảm bảo các quyền yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát và chưa

quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn tranh tụng của Kiểm sát viên trong giải

quyết các vụ án hành chính. Trong một số điều luật quy định còn gây khó

khăn cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ như kiểm sát việc trả

lại đơn khởi kiện, thông báo thụ lý, thu thập chứng cứ, quyền tham gia các

phiên tòa, phiên họp . Cụ thể:

- Về kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện theo khoản 1 Điều 43

Nhiệm vụ, quyền hạn này được quy định cụ thể tại Điều 123 và 124

Luật Tố tụng hành chính 2015, theo đó:

Khoản 2 Điều 123 quy định: Thẩm phán, Thẩm tra viên được giao

nhiệm vụ phân loại xử lý đơn có trách nhiệm sao chụp lại đơn khởi kiện và

các tài liệu, chứng cứ trước khi trả lại cho người khởi kiện để lưu tại Tòa án

làm cơ sở cho việc giải quyết các khiếu nại của đương sự hoặc kiến nghị của

Viện kiểm sát. Tuy nhiên, Luật không quy định Tòa án phải gửi đơn và tài liệu

này cho Viện kiểm sát cùng cấp.

Khoản 2 điều này cũng quy định: “Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu,

chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản ghi rõ lý

do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho

59

Viện kiểm sát cùng cấp”, văn bản trả lại đơn khởi kiện thực tế là thông báo trả

lại đơn khởi kiện của Tòa án gửi cho Viện kiểm sát, nhưng luật không quy

định Tòa án gửi cho Viện kiểm sát kèm theo những bản sao của các tài liệu,

chứng cứ để Viện kiểm sát kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện có đúng quy

định hay không, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được

kịp thời, nhanh chóng.

Khoản 1 Điều 124 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định, trong thời

hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, Viện kiểm

sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên, nếu chỉ

căn cứ vào thông báo trả lại đơn khởi kiện mà không có đơn khởi kiện và các

tài liệu, chứng cứ kèm theo thì rất khó để Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến

nghị. Mặt khác, Viện kiểm sát cũng chỉ có thể kiểm sát việc trả lại đơn khởi

kiện của Tòa án khi Tòa án gửi thông báo trả lại đơn khởi kiện cho Viện kiểm

sát, trường hợp Tòa án không gửi thông báo thì Viện kiểm sát không thể thực

hiện chức năng kiểm sát vì Luật Tố tụng hành chính 2015 không quy định

Viện kiểm sát được quyền kiểm sát trực tiếp tại Tòa án về việc xem xét và thụ

lý đơn khởi kiện. Như vậy, sẽ ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của đương sự.

Đây là một trong những vướng mắc mà trong quá trình thi hành Luật Tố tụng

hành chính 2010 đã gặp phải, dẫn đến hiệu quả kiểm sát việc trả lại đơn khởi

kiện của Tòa án chưa cao, tuy nhiên chưa được sửa đổi tại Luật Tố tụng hành

chính 2015. Trên thực tế, có trường hợp khi ra văn bản trả lại đơn khởi kiện

Tòa án cũng không gửi cho Viện kiểm sát, đến khi đương sự có đơn khiếu nại

gửi Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát mới biết Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện

cho đương sự.

Theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính 2015, trong trường hợp

đương sự có khiếu nại hoặc Viện kiểm sát có kiến nghị về việc trả lại đơn

khởi kiện của Tòa án thì Tòa án phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu

60

nại, kiến nghị và phiên họp này mới có sự tham gia của đại diện Viện kiểm

sát.

- Về quy định sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên toà giải quyết vụ

án hành chính

Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính 2015 thì Viện kiểm sát có

nhiệm vụ tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp hành chính sơ thẩm, phúc

thẩm, tuy nhiên tại Khoản 1 Điều 156 và Điều 224 Luật Tố tụng hành chính

2015 lại quy định: Nếu kiểm sát viên vắng mặt thì hội đồng xét xử vẫn tiến

hành xét xử.

Quy định này là chưa hợp lý, bởi lẽ: Viện kiểm sát tham gia phiên tòa

với vai trò là cơ quan tiến hành tố tụng nhằm kiểm sát hoạt động của Toà án

và người tham gia tố tụng khác nhằm đảm bảo cho phiên toà diễn ra đúng

pháp luật, khách quan, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích của đương

sự nhưng khi Viện kiểm sát vắng mặt thì toà án vẫn xét xử mà Luật cũng

không quy định xem xét lý do vắng mặt là gì? Chính đáng hay không chính

đáng? Quy định này gần như phủ nhận lại vai trò của Viện kiểm sát mà pháp

luật tố tụng hành chính đã quy định, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát.

- Về quyền yêu cầu tạm đình chỉ giải quyết vụ án của đương sự:

Khoản 18 Điều 55 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định đương sự có

quyền đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, theo Khoản 1

Điều 141 Luật Tố tụng hành chính quy định về các trường hợp tạm đình chỉ

thì không quy định trường hợp đương sự yêu cầu tạm đình chỉ vụ án là căn cứ

để tạm đình chỉ. Như vậy, khi đương sự yêu cầu tạm đình chỉ vụ án mà không

thuộc các trường hợp quy định tại Điều 141 Luật tố tụng hành chính thì Tòa

án có được tạm đình chỉ hay không?

- Về kiểm sát phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai

chứng cứ và đối thoại

61

Luật Tố tụng hành chính 2015 đã quy định nguyên tắc đối thoại là

nguyên tắc bắt buộc. Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai

chứng cứ và đối thoại là thủ tục tố tụng cực kỳ quan trọng; là cơ hội để các

bên đương sự đối thoại hòa giải mâu thuẫn, đưa ra những tài liệu, chứng cứ để

bảo vệ quan điểm của mình. Nếu như trước đây, theo quy định của Luật Tố

tụng hành chính 2010, đối thoại không phải là một thủ tục bắt buộc mà trong

quá trình giải quyết vụ án hành chính, Tòa án tạo điều kiện để các đương sự

đối thoại về việc giải quyết vụ án (Điều 12 Luật Tố tụng hành chính 2010) và

chỉ tổ chức việc đối thoại giữa các đương sự khi có yêu cầu (Khoản 4 Điều 36

Luật Tố tụng hành chính 2010) thì đến Luật Tố tụng hành chính 2015, đối

thoại trở thành thủ tục bắt buộc. Theo quy định tại các điều 134, 136, 137,

138, 139 Luật Tố tụng hành chính2015 thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ

thẩm, Tòa án phải tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công

khai chứng cứ và đối thoại. Đây là phiên họp rất quan trọng giúp xác định các

tài liệu, chứng cứ, các yêu cầu cụ thể, cuối cùng mà đương sự yêu cầu giải

quyết, nghe lời trình bày của các bên về nội dung vụ kiện Tuy nhiên, Luật

Tố tụng hành chính lại không quy định vai trò của Viện kiểm sát trong phiên

họp này mà Viện kiểm sát chỉ biết thông qua Biên bản phiên họp kiểm tra

việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Biên bản đối thoại gửi kèm

theo hồ sơ chính khi Tòa án chuyển sang cho Viện kiểm sát nghiên cứu để

tham gia xét xử. Do đó, việc phiên họp diễn ra đúng hay sai, thành phần có

phù hợp hay không? Viện kiểm sát không nắm được ngay từ đầu mà phải qua

nghiên cứu hồ sơ mới phát hiện, có những trường hợp Tòa án không tiến hành

đối thoại, đối thoại không đầy đủ thành phần hay không lập biên bản không

tiến hành đối thoại được, đến nghiên cứu hồ sơ vụ án Kiểm sát viên mới phát

hiện được, dẫn đến việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà lẽ ra nếu có

sự kiểm sát ngay từ ban đầu thủ tục này sẽ hạn chế được các vi phạm. Quyền

hạn của Viện kiểm sát không thấy thể hiện trong thủ tục này của Tòa án. Do

62

vậy, Kiểm sát viên cần phải có mặt tại phiên họp để giám sát quá trình thực

hiện hoạt động tố tụng của Thẩm phán, Thư ký Tòa án. Điều này sẽ nâng cao

chất lượng phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và

đối thoại; nhằm bảo vệ quyền con người, đảm bảo việc giải quyết vụ án được

chính xác, đúng quy định của pháp luật.

- Về việc hỏi và tranh luận sau nghị án

Điều 192 Luật Tố tụng hành chínhquy định: "Qua tranh luận hoặc qua

nghị án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xét hỏi

chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết định

trở lại việc hỏi và tranh luận". Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận thấy có

tình tiết, chứng cứ cần phải làm rõ và quay trở lại việc hỏi và tranh luận.

Trường hợp việc hỏi và tranh luận phát sinh tình tiết mới thay đổi nội dung vụ

án, dẫn đến quan điểm giải quyết trong bài phát biểu của Kiểm sát viên không

còn đảm bảo, có thể trái với báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện trước đó thì

trường hợp này giải quyết như thế nào? Đây là một vấn đề vướng mắc cần

phải làm rõ.

- Về quyền yêu cầu Tòa án thu thập và quyền thu thập tài liệu, chứng

cứ của Kiểm sát viên

Theo khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành chính 2015, trong quá trình

giải quyết vụ án, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu tòa án thu thập tài liệu, chứng

cứ.

Theo quy định tại Điều 147 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì “Tòa án

phải gửi hồ sơ vụ án cùng với việc gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho

Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận

được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải trả hồ lại hồ sơ vụ án cho Tòa án”. Như

vậy, Viện kiểm sát chỉ được tiếp cận hồ sơ khi vụ án chuẩn bị xét xử, bởi sau

khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án mới gửi hồ sơ cho

Viện kiểm sát, Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ xong phát hiện cần phải xác

63

minh thu thập chứng cứ thì sẽ có văn bản yêu cầu và gửi kèm hồ sơ trả cho

Tòa án, thời điểm đó phần lớn các vụ án đã gần đến ngày xét xử, điều đó dẫn

đến việc tiến thành thu thập tài liệu, chứng cứ đối với Tòa án lại càng khó

khăn và nhiều trường hợp không thể thực hiện kịp phải hoãn phiên tòa và làm

cho thời hạn giải quyết vụ án bị kéo dài. Do vậy, cần bổ sung quyền của Viện

kiểm sát được tiếp cận hồ sơ vụ án ngay sau khi Tòa án thông báo thụ lý vụ

án, điều đó phù hợp với Khoản 2 Điều 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân, Khoản 2 Điều 25 Luật Tố tụng hành chính 2015 và làm cơ sở cho kiểm

sát tính hợp pháp, tính liên quan, tính khách quan của chứng cứ do Tòa án thu

thập được, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân tốt

hơn.

Luật Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định 07 biện pháp thu thập

chứng cứ Thẩm phán được phép tiến hành (khoản 2 Điều 84). Đối với Viện

kiểm sát, khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành chính chỉ quy định“Viện kiểm

sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc kháng

nghị” mà không quy định rõ Viện kiểm sát được tiến hành những biện pháp

thu thập chứng cứ nào.

Khoản 4 Điều 93 Luật Tố tụng hành chính quy định trường hợp Viện

kiểm sát có yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ thì cơ quan, tổ chức, cá nhân

có trách nhiệm thực hiện theo khoản 3 Điều 93. Như vậy, Luật đã quy định rõ

ràng những trường hợp Viện kiểm sát có quyền thu thập tài liệu, chứng cứ

trong giải quyết vụ án hành chính và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá

nhân trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho Viện kiểm sát. Tuy nhiên,

nếu trường hợp Viện kiểm sát đã có yêu cầu mà đối tượng bị yêu cầu có hành

vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ hoặc không cung cấp tài

liệu, chứng cứ cho Viện kiểm sát thì giải quyết như thế nào? Hiện nay Luật

chỉ quy định việc xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ

và không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án (Điều 318, Điều 325) mà

64

chưa quy định chế tài xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập

chứng cứ và không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Viện kiểm sát. Đây là

thiếu sót rất lớn, có thể ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chức năng, nhiệm

vụ nói chung và nhiệm vụ bảo vệ quyền con người nói riêng của Viện kiểm

sát trong việc kiểm sát giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm.

- Đối với quy định về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án: Theo Điều 147

Luật Tố tụng hành chính thì Viện kiểm sát nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án

trong thời hạn 15 ngày. Theo quan điểm của tác giả khoảng thời hạn luật định

nêu trên chưa đủ độ dài thời gian cần thiết để có thể nghiên cứu, xem xét hồ

sơ một cách thận trọng, đầy đủ, đặc biệt là những hồ sơ với số bút lục nhiều

và nhiều tài liệu phức tạp,dư luận xã hội quan tâm.Điều đó có thể dẫn đến tình

trạng nghiên cứu hồ sơ vụ án hời hợt, “cưỡi ngựa xem hoa”, đôi khi chưa bảo

đảm hết quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong vụ án hành chính

nếu bị xâm phạm. Mặt khác đặt trong mối quan hệ so sánh với thời hạn chuẩn

bị xét xử theo quy định của pháp luật thì thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện

kiểm sát tương đối ngắn. Do đó, có thể thấy Luật Tố tụng hành chính hiện

hành chưa thực sự quan tâm đến vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động

bảo đảm quyền con người trong tố tụng hành chính.

Thứ hai, bên cạnh một số hạn chế của quy định của pháp luật, nguyên

nhân dẫn đến vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát

việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm vẫn chưa thực sự hiệu

quả mong đợi là do một phần xuất phát từ nhận thức của một số Kiểm sát viên

về vấn đề bảo vệ quyền con người. Kiểm sát viên chưa phát huy hết tinh thần

trách nhiệm khi được phân công kiểm sát giải quyết án hành chính. Một số

Kiểm sát viên được phân công giải quyết án hành chính còn có tâm lý xem

nhẹ công tác này; chưa thật sự tự giác nghiên cứu tài liệu, văn bản pháp luật

liên quan đến giải quyết án; có những sai sót về chuyên môn đã được thông

báo rút kinh nghiệm, tập huấn nhắc nhở nhưng vẫn còn vi phạm; dễ dàng

65

chấp thuận hoặc đồng ý với quan điểm giải quyết của Tòa án; khi phát hiện vi

phạm nhưng không kịp thời áp dụng các biện pháp nghiệp vụ (yêu cầu, kháng

nghị, kiến nghị) theo luật định mà mới chỉ dừng lại ở việc trao đổi, góp ý.

Năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số Kiểm sát viên làm

công tác giải quyết các loại án này còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu công

tác và đòi hỏi của thực tiễn, sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa Thẩm phán và

Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết án. Thực tế cho thấy, nhiều vụ án

hành chính bị cấp phúc thẩm hủy án đa phần là do xác định không đúng tranh

chấp, bỏ sót người tham gia tố tụng hoặc xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ

chưa đầy đủ. Chính từ những nguyên nhân chủ quan nêu trên, vô hình chung

hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính vốn là cơ chế quan trọng

để bảo vệ quyền con người của các bên trong quan hệ tố tụng hành chính bị

triệt tiêu.

Thứ ba, một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng xâm phạm

quyền con người trong tố tụng hành chính xuất phát từ chính sự hạn chế về

nhận thức của các chủ thể bị xâm phạm quyền con người. Nhận thức pháp

luật của một số đương sự, kể cả phía người bị kiện (thường là cơ quan hành

chính nhà nước hoặc cán bộ, công chức) còn nhiều vấn đề cần phải được bổ

sung. Do đó, thực tế ngay chính những người bị xâm phạm nhân quyền lại

không biết, không hiểu nên không hề “lên tiếng” khi bị ảnh hưởng đến quyền

lợi của mình. Đây cũng chính là một trong những rào cản không hề nhỏ trong

quá trình kiểm sát việc giải quyết các án hành chính nằm bảo vệ quyền con

người. Sự thiếu hiểu biết của người tham gia tố tụng xuất phát từ hoạt động

tuyên truyền phổ biến tại địa phương trong vấn đề này còn kém hiệu quả,chưa

thực sự cung cấp một cách đầy đủ những nội dung cần thiết về nhận thức cho

người dân. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp đương sự cố tình né tránh, đối phó,

thậm chí chống đối bằng nhiều hình thức như: gây khó khăn trong việc cung

66

cấp lời khai, chứng cứ, không đến Tòa theo giấy triệu tập v.v... cũng làm ảnh

hưởng đến thời hạn và chất lượng giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân.

Bên cạnh đó, những hạn chế nêu trên còn một phần xuất phát từ nguyên

nhân là cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động kiểm sát

vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc. Những năm gần đây, mặc dù Nhà

nước cũng đã có những quan tâm đầu tư vật chất, phương tiện làm việc cho

ngành Kiểm sát nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Không gian làm việc

cho một Kiểm sát viên còn chật hẹp, thiếu phương tiện thiết yếu phục vụ cho

tác nghiệp. Công nghệ thông tin còn lạc hậu, cần truy cập những thông tin, tài

liệu, chứng cứ của các ngành khác như: Tài nguyên, môi trường, thuế, tài

chính, ngân hàng, kho bạc.. để phục vụ cho việc giải quyết án rất khó khăn,

vướng mắc.

67

Tiểu kết chƣơng 2

Như vậy, có thể thấy, từ khi Luật Tố tụng hành chính 2015 được thông

qua và có hiệu lực thì vấn đề nhân quyền được bảo đảm ngày càng hiệu quả

hơn thông qua hoạt động kiểm sát án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của

Viện kiểm sát cấp tỉnh. Theo đó, các quyền quan trọng của người tham gia tố

tụng cơ bản được bảo đảm. Những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân Quảng

Bình đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác kiểm sát hoạt động tố tụng

hành chính theo thủ tục sơ thẩm, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người, góp phần đảm bảo trật tự, an ninh xã hội, xây dựng xã hội ngày càng

ấm no, phồn vinh, hạnh phúc.

Tuy nhiên, bên cạnh đó còn những hạn chế, tồn đọng, phần có nguyên

nhân khách quan từ những thiếu hụt, vướng mắc trong hệ thống pháp luật,

phần có nguyên nhân từ hoạt động áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát, Tòa

án và năng lực sử dụng pháp luật của chính người tham gia tố tụng trong quá

trình giải quyết vụ án hành chính.

Ở Chương II, tác giả đã đánh giá được những mặt tích cực và hạn chế,

nguyên nhân trong việc bảo vệ quyền con người qua công tác kiểm sát việc

giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm tại Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh Quảng Bình. Chương 3 dưới đây người viết sẽ đưa ra một số quan điểm

và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải

quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm ở Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh Quảng Bình nhằm đáp ứng với yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp

trong giai đoạn mới.

68

CHƢƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ QUYỀN CON

NGƢỜI QUA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH THEO THỦ TỤC SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. Quan điểm tăng cƣờng bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt động

kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm ở Viện

kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

3.1.1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với việc thực hiện mục

tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ

án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh phải

gắn với việc thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền, tôn trọng

và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý

giữa nhà nuớc và công dân, thực hành dân, tiếp tục quán triệt các chủ trương

của Đảng về cải cách tư pháp.

Trong tố tụng hành chính bảo vệ quyền con người là một nhiệm vụ luôn

được đặt ra. Bảo vệ quyền con người không đơn thuần là yêu cầu, đòi hỏi từ

phía cá nhân trong hoạt động tố tụng hành chính mà còn là tiêu chí và thước

đo cho giá trị và sự tiến bộ xã hội, sự phát triển của quốc gia. Do vậy, việc

ghi nhận và bảo vệ quyền con người là một trong những nhiệm vụ mà các

quốc gia trên thế giới hiện nay đang thực hiện. Nước Việt Nam đang thực

hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc thực

hiện mục tiêu bảo vệ quyền con người nói chung, trong hoạt động kiểm sát

giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân

dân cấp tỉnh nói riêng là nhiệm vụ được quan tâm hàng đầu. Việc bảo vệ

69

quyền con người là thước đo phản ánh mối quan hệ giữa cơ quan, người tiến

hành tố tụng với các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác.

Như vậy, bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết

các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnh trong thời gian tới phải quán triệt quan điểm và nguyên tắc tất cả vì mục

tiêu bảo vệ quyền con người, quyền công dân; phải không ngừng nâng cao

trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nuớc và công dân, thực hành dân chủ.

3.1.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với nhiệm vụ xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật

Pháp luật không chỉ là phương tiện quan trọng nhất để Nhà nước thống

nhất quản lý xã hội, điều chỉnh và thiết lập trật tự phù hợp với lợi ích của Nhà

nước mà pháp luật còn là công cụ để cho người dân tổ chức, xây dựng cuộc

sống và đặc biệt pháp luật là phương tiện để bảo vệ các quyền con người,

quyền công dân trong đó pháp luật tố tụng hành chính là bộ phận quan trọng.

Chính vì vậy, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về

chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định phương hướng là: hoàn

thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các

thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch,

tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật

liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, thể chế hóa các quan điểm của

Đảng về chính sách pháp luật, Luật Tố tụng hành chính quy định những vấn

đề về trình tự, thủ tục và quy trình giải quyết vụ án hành chính, gắn với thẩm

quyền xét xử theo lãnh thổ, theo cấp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói

70

chung, pháp luật tố tụng hành chính nói riêng phải phân địch rõ chức năng

của các cơ quan và người tiến hành tố tụng như Viện kiểm sát, Tòa án và các

cơ quan bổ trợ tư pháp như Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý, Giám định, phiên

dịch Bảo đảm trong mỗi giai đoạn, mỗi quá trình không có sự chồng chéo

về chức năng, nhiệm vụ, không để tình trạng lạm dụng quyền lực, hay sử

dụng không đúng mục đích dẫn đến làm giảm hiệu quả bảo vệ quyền con

người, quyền công dân.

3.1.3. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với việc nâng cao chất

lượng của Kiểm sát viên

Để bảo vệ quyền con người qua kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó

có lĩnh vực tố tụng hành chính, thì vai trò của Viện kiểm sát là rất quan trọng

vô cùng cần thiết. Vai trò của Viện kiểm sát được thể hiện thông qua đội ngũ

Kiểm sát viên. Vai trò của Kiểm sát viên trong đấu tranh phòng, chống tội

phạm và vi phạm pháp luật đã được Đảng và Nhà nước ta ghi nhận. Kể từ khi

Hiến pháp 2013 có hiệu lực thi hành, các Bộ luật Tố tụng hình sự, Tố tụng

dân sự, Luật Tố tụng hành chính đều được thay thế theo hướng tăng cường

vai trò của Kiểm sát viên. Đội ngũ kiểm sát viên là nòng cốt của ngành Kiểm

sát.

Trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, tất yếu sẽ nảy

sinh nhiều tranh chấp, trong đó có tranh chấp về án hành chính. Luật tố tụng

hành chính 2015 đã khắc phục được những hạn chế của Luật tố tụng hành

chính năm 2010, như tăng thẩm quyết giải quyết của Tòa án, đảm bảo quyền

khiếu kiện và các quyền khác của đương sự, nâng cao vai trò của Kiểm sát

viên để hạn chế những vi phạm, thiếu sót trong tố tụng hành chính. Để bảo vệ

quyền con người một cách hiệu quả nhất trong hoạt động tố tụng hành chính

nói chung và theo thủ tục sơ thẩm nói riêng, Kiểm sát viên phải thực hiện tốt

công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính một cách hữu hiệu, tránh việc

71

kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân chỉ mang tính hình thức. Kiểm

sát viên phải bảo đảm cho pháp luật được người tiến hành tố tụng và tham gia

tố tụng chấp hành nghiêm chỉnh. Phải kịp thời phát hiện và yêu cầu khắc phục

vi phạm.

Việc nâng cao chất lượng Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính là một

yêu cầu cấp thiết. Kiểm sát viên phải tuân thủ quy định của pháp luật để bảo

vệ quyền con người, quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Mặt khác,

cũng như Thẩm phán, Kiểm sát viên phải độc lập trong hoạt động xét xử. Để

thực hiện được vấn đề đó, Kiểm sát viên phải khách quan, không nể nang,

ngại va chạm, không chịu sự tác động bởi bên bị kiện, bởi chủ thể bị kiện

trong các vụ án hành chính là các cơ quan công quyền, người có chức vụ

trong các cơ quan hành chính nhà nước, đảm bảo cho pháp luật được chấp

hành nghiêm chỉnh, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia tố

tụng.

3.1.4. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với việc phát huy vai trò

bảo vệ quyền con người của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng

Tố tụng hành chính là hoạt động đặc thù của nhà nước nhằm đảm bảo

việc giải quyết vụ án một các trung thực, khách quan. Vấn đề bảo vệ quyền

con người, quyền công dân trong tố tụng hành chính ngày càng nâng cao.

Trong tố tụng hành chính, trách nhiệm bảo vệ quyền con người thuộc về Tòa

án và Viện kiểm sát. Tòa án phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật,

đảm đảm công bằng, khách quan trong giải quyết vụ án, không được thiên

lệch về một chủ thể tham gia tố tụng nào. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát phải

chú trọng phát hiện vi phạm của Tòa án, nhất là các vi phạm về xâm phạm

quyền con người nhằm có biện pháp để yêu cầu khắc phục và xử lý vi phạm.

Việc xác định rõ vai trò của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

72

tụng về bảo vệ quyền con người có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trách nhiệm

này cần được luật hóa cụ thể nhằm có hình thức xử lý nếu cơ quan tiến hành

tố tụng, người tiến hành tố tụng xâm phạm quyền con người. Theo quy định

của Luật Tố tụng hành chính 2015, việc cung cấp tài liệu, chứng cứ phải được

thực hiện trong buổi công khai tài liệu, chứng cứ. Tuy nhiên, có những trường

hợp, đương sự nộp chứng cứ sau phiêp họp thì Thẩm phán vẫn bỏ vào hồ sơ

vụ án. Việc đó sẽ dẫn đến việc các đương sự còn lại không biết đã có những

tài liệu, chứng cứ chống lại mình. Đồng thời, qua công tác kiểm sát, Viện

kiểm sát cũng rất khó để biết. Vấn đề đó vẫn chưa có quy định cụ thể về xử lý

vi phạm đối với Thẩm phán, đương sự vi phạm và tài liệu, chứng cứ phải xử

lý thế nào.

3.1.5. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết các

vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm phải gắn với tăng cường công tác

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người

Hiện nay, công tác tuyên tuyền pháp luật đang diễn ra mạnh mẽ trên cả

nước nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng. Sau khi Hiến pháp năm 2013

ra đời, Nhà nước ta đã chú trọng tuyên truyền các quy định của Hiến pháp,

trong đó có quyền con người rất rộng rãi. Tuy nhiên công tác này lại chỉ chú

trọng về một số lĩnh vực nhất định như Hiến pháp, hình sự , về lĩnh vực

dân sự và hành chính chưa được chú trọng. Vì vậy, cần phải tăng cường công

tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tiếp công dân, khiếu kiện, tố

cáo, các quy định về đất đai, xây dựng bằng nhiều nội dung, hình thức

phong phú, đa dạng phù hợp với các tầng lớp nhân dân trên địa bàn, như tuyên

truyền trên mạng xã hội, các trang web, phương tiện thông tin đại chúng,

thông qua các loại hình văn hóa truyền thống, văn hóa quần chúng, các loại

hình nghệ thuật, sinh hoạt cộng đồng, thông qua việc tổ chức thi tìm hiểu

pháp luật, sinh hoạt của các loại hình câu lạc bộ nhằm góp phần giúp người

dân tăng thêm hiểu biết pháp luật, tự bảo vệ quyền con người của mình. Thởi

73

gian vừa qua, ngành Kiểm sát rất quan tâm tới việc tuyên truyền pháp luật,

bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nổi bật nhất là việc xây dựng phim

tài liệu về ngành Kiểm sát và bộ phim “Sinh tử” được phát sóng trên VTV1.

Qua việc tuyên truyền đó, người dân dần hiểu được chức năng, nhiệm vụ,

vai trò của ngành Kiểm sát. Hy vọng thời gian tới, ngành Kiểm sát sẽ chú

trọng hơn đến việc tuyên truyền pháp luật về dân sự, hành chính, để người

dân hiểu được vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, tố tụng

hành chính, đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt

động tư pháp nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

3.1.6. Phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các

cơ quan, tổ chức đối với công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính

Thông qua các báo cáo của Viện kiểm sát tại kỳ họp, Quốc hội và Hội

đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan tư pháp nói

chung và hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính nói riêng.

Vì vậy, Quốc hội, Hội đồng nhân dân cần phát huy hơn nữa việc tổ chức hoạt

động giám sát thường xuyên hoặc bất thường, giám sát theo chuyên đề hoặc

bằng các yêu cầu trả lời chất vấn nhất là đối với những vụ án hành chính

phức tạp tại địa phương và đang được nhiều người quan tâm theo dõi để đảm

bảo việc giải quyết vụ án được chính xác, đúng thời hạn. Đồng thời, Quốc hội

cần tăng cường công tác giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật

và giải thích pháp luật của cơ quan tư pháp.

Bên cạnh đó, để hạn chế và tránh tình trạng “nể nang”, “ngại va chạm”

trong hoạt động tố tụng hành chính vẫn còn tồn tại như hiện nay cần tăng cường

hoạt động giám sát của các cơ quan báo chí truyền thông nhằm phát huy dân

chủ xã hội chủ nghĩa và đồng hành cùng quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng.

Tất nhiên, việc phát huy dân chủ phải đi liền với việc nâng cao trách nhiệm cá

nhân trong việc giữ vững kỷ cương, tuân thủ pháp luật. Tránh những biểu hiện

74

dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức và kiên quyết xử lý những hành vi gắn

mác dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

3.2. Các giải pháp tăng cƣờng bảo vệ quyền con ngƣời qua hoạt

động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm từ

thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

3.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tố tụng hành chính

Đã trải qua hơn 04 năm thi hành Luật Tố tụng hành chính 2015, tuy nhiên

ngoài Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKS-TA ngày 31/8/2016 của Viện

kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao thì vẫn vẫn chưa có văn

bản nào hướng dẫn thi hành đối với Luật Tố tụng hành chính. Các văn bản

hướng dẫn đối với Luật Tố tụng hành chính 2010 của Hội đồng thẩm phán tòa

án nhân dân tối cao vẫn chỉ có giá trị tham khảo chứ chưa được thay thế. Do đó,

cần thiết phải hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng hành

chính 2015, nhất là quy định về vai trò, phạm vi, cách thức tranh tụng của Kiểm

sát viên trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, nhằm tháo gỡ những

khó khăn, vướng mắc trong luật, nâng cao chất lượng giải quyết và kiểm sát

việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, đảm bảo cho việc áp

dụng pháp luật được thống nhất, nghiêm chỉnh.

- Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật nội dung có liên quan

đến giải quyết vụ án hành chính. Có thể khẳng định muốn giải quyết căn bản

vấn đề của vụ án hành chính, hạn chế các khiếu nại, khiếu kiện nảy sinh thì

việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nội dung là đặc biệt quan trọng,

nhất là pháp luật về đất đai, pháp luật về cán bộ, công chức, pháp luật về xử

lý vi phạm hành chính...Quy định của pháp luật trên các lĩnh vực có đầy đủ,

thống nhất, phù hợp với thực tiễn thì mới tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan

hành chính nhà nước ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành

chính, quản lý hành chính trên các lĩnh vực, tránh được các khiếu kiện phát

sinh và trong trường hợp phát sinh tranh chấp hành chính thì có cơ sở, có căn

75

cứ để giải quyết vụ án, nâng cao chất lượng kiểm sát việc giải quyết vụ án

trong đó cần thiết phải đặc biệt chú trọng việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật

đất đai, nhất là các quy định về quản lý đất đai, việc bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư.

- Đối với sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên họp giải quyết khiếu nại,

kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện: Cần sửa đổi khoản 3 Điều 124 Luật Tố

tụng hành chính theo hướng nếu tại phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị

việc trả lại đơn khởi kiện nếu vắng mặt Kiểm sát viên thì Thẩm phán phải ra

quyết định hoãn phiên họp. Việc kiểm sát viên có mặt tại phiên họp sẽ đảm

bảo phiên họp diễn ra đúng thành phần, khách quan, góp phần bảo vệ vệ

quyền con người.

- Đối với thành phần phiên họp kiểm sát việc giao nộp, tiếp cận, công

khai chứng cứ và đối thoại: Cần sửa đổi theo hướng Kiểm sát viên phải tham

gia phiên họp. Kiểm sát viên phải được tham gia phiên họp để giám sát việc

tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thư ký tòa án, đương sự và trình tự phiên

họp, chứng cứ được giao nộp có khách quan và đúng pháp luật Việc có mặt

của Kiểm sát viên sẽ đảm bảo quyền lợi cho các đương sự, ngay cả những

đương sự vắng mặt tại phiên họp.

- Đối với việc tham gia phiên tòa và gửi bài phát biểu của Kiểm sát viên:

Cần sửa đổi luật theo hướng Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên tòa thì phải

hoãn phiên tòa. Sự có mặt của Kiểm sát viên sẽ phù hợp với các quy định của

pháp luật về hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, đảm

bảo cho việc Kiểm sát viên thực hiện nhiện vụ bảo vệ quyền con người tại

phiên tòa.

Bên cạnh đó, cần phải quy định thời hạn gửi bài phát biểu của Kiểm sat

viên sau khi kết thúc phiên tòa là 03 ngày làm việc. Hiện nay, để khắc phục

vướng mắc này, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã thống

76

nhất thời hạn gửi bài phát biểu sau khi kết thúc phiên tòa dân sự, hành chính

là 03 ngày làm việc.

- Đối với việc tiếp cận chứng cứ và quyền thu thập, tài liệu, chứng cứ

của Viện kiểm sát: Cần quy định Viện kiểm sát có quyền tiếp cận chứng cư

sau khi tòa án thu thập, xác minh; Bổ sung quy định Viện kiểm sát có quyền

thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hành chính và cung

cấp ngay cho Tòa án. Quy định xử lý đối với những hành vi chống đối hoặc

cản trở hoạt động Viện kiểm sát xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ. Có chế

tài xử lý đối với việc cơ quan, tổ chức, cá nhân cố ý không cung cấp tài liệu,

chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát. Viện kiểm sát bảo vệ quyền con

người trong kiểm sát giải quyết vụ án hành chính, thì việc có đầy đủ, tài liệu

chứng cứ sẽ đảm bảo hơn cho hoạt động bảo vệ quyền con người. Chính vì

vậy, cần phải sửa đổi luật theo hướng bổ sung các quy định về thu thập tài

liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát như đã nêu ở trên.

- Cần có nghiên cứu để có quy chế phối hợp giữa Tòa án nhân dân tối

cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Chính phủ để bảo đảm việc người bị

khởi kiện chấp hành tốt và phải thực hiện nghĩa vụ tham gia tố tụng, nhất là

việc tham gia đối thoại và phiên tòa, vì thủ tục đối thoại theo Luật Tố tụng

hành chính 2015 là quy định là bắt buộc nhưng thực tế cơ quan bị kiện,

người bị kiện thường hay né tránh việc đối thoại.

3.2.2. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện

3.2.2.1. Nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên kiểm sát

giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm.

Thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải

cách Tư pháp đến năm 2020”, những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Quảng Bình đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác

kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính bảo đảm đúng pháp luật, góp phần

77

giữ vững kỷ cương pháp luật, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa

bàn tỉnh.

Việc tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong trong tố

tụng hành chính thể hiện Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định và tin tưởng vào

vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư

pháp. Đây là vinh dự, đồng thời cũng là trách nhiệm mà Viện kiểm sát phải cố

gắng thực hiện để xứng đáng với sự tin tưởng của Đảng và Nhà nước, đáp

ứng được sự mong đợi của người dân đối với Ngành.

Để nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên kiểm sát việc

giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, bện cạnh việc quán triệt

nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân là nhiệm vụ rất quan trọng

mà Kiểm sát viên phải thực hiện, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

cần thực hiện một số giải pháp sau:

Giải pháp về quản lý chỉ đạo, điều hành.

Thứ nhất, Lãnh đạo viện cần phân công cán bộ nghiên cứu hồ sơ vụ án

đúng chuyên môn, đủ năng lực và kinh nghiệm giải quyết án; Kiểm sát viên

được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính phải có thời gian

công tác ổn định nhất định, đảm bảo tiếp cận được nhiều dạng án hành chính

khác nhau, có khả năng tổng hợp vi phạm của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy

ban nhân dân và của Tòa án cùng cấp, biết vận dụng, áp dụng đúng pháp luật

cũng như linh hoạt trong xử lý tình huống khi có vi phạm của Ủy ban nhân

dân hoặc Tòa án nhưng chưa đến mức phải kháng nghị hoặc để bảo đảm việc

thi hành bản án, quyết định của Tòa án bảo đảm tình hình an ninh, trật tự phục

vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Thứ hai, Lãnh đạo Viện cần áp dụng cơ chế động viên, khuyến khích kịp

thời khi cán bộ, Kiểm sát viên hoàn thành việc giải quyết những vụ án phức

tạp, dư luận quan tâm. Tổ chức chương trình tập huấn nghiệp vụ tại chỗ bằng

hình thức mở lớp tập huấn ngay tại đơn vị. Ngoài ra, thường xuyên yêu cầu

78

Kiểm sát viên soạn Thông báo rút kinh nghiệm tới các Viện kiểm sát nhân

dân cấp dưới để nghiên cứu, rút kinh nghiệm trong quá trình công tác. Tích

cực tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm để nâng cao kỹ năng kiểm sát tại phiên

tòa cho Kiểm sát viên. Xây dựng tiêu chí chỉ tiêu công tác đến từng công chức

để phát huy tính tự giác và chủ động thực hiện công việc chuyên môn như

Lãnh đạo đơn vị phải yêu cầu mỗi Kiểm sát viên, công chức được phân công

nghiên cứu hồ sơ vụ án và trực tiếp tham gia xét xử nắm chắc các quy định

của pháp luật về thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân và của Kiểm sát

viên, Kiểm tra viên tại Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tố tụng

hành chính, Luật Tổ chức chính quyền, các luật và văn bản hướng dẫn thi

hành luật liên quan đến ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính

hoặc lĩnh vực giải quyết khiếu kiện bị khởi kiện; lập Sổ tích lũy vi phạm từng

vụ án thông qua công tác chuyên môn hàng ngày....

Thứ ba, đẩy mạnh công tác góp ý, xây dựng pháp luật. Trong quá trình

thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính cần thực hiện tốt

công tác sơ kết, tổng kết, rút ra những bất cập, vướng mắc phát sinh từ thực

tiễn để kiến nghị đề xuất với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn

sửa đổi, bổ sung để góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính.

Giải pháp về nghiệp vụ

Kiểm sát viên cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau nhằm nâng cao chất

lượng công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính.

Thứ nhất, thực hiện tốt công tác kiểm sát việc thụ lý

Khi nhận được Thông báo thụ lý, Kiểm sát viên liên hệ với Thẩm phán

(Thư ký) để photo đơn khởi kiện để xác định được loại kiện là quyết định

hành chính hay hành vi hành chính, xác định được thời hiệu khởi kiện theo

Điều 116 Luật Tố tụng hành chính và thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy

định từ Điều 30-33 Luật Tố tụng hành chính 2015.

Tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015quy định:

79

“2. Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:

a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính,

hành vi hành chính …;”

Đối với trường hợp ngày nhận được quyết định hành chính thì thể hiện

bằng biên bản hoặc phiếu báo phát của Bưu điện nên dễ xác định được; còn

đối trường hợp biết được quyết định hành chínhthì thể hiện bằng nhiều hình

thức khác nhau, có thể có biên bản (thông qua cuộc họp tiếp xúc cử tri )

hoặc không có biên bản (lời nói ). Trong trường hợp này Kiểm sát viên cần

phải yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ để xác định người khởi kiện biết được

quyết định hành chính, hành vi hành chính để làm căn cứ xác định thời hiệu

khởi kiện.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án, tại khoản 1 Điều 34 Luật Tố tụng hành

chính 2015 quy định việc chuyển vụ án cho Tòa án khác như sau:

“Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, Tòa

án xác địnhvụ án đó không phải là vụ án hành chính mà là vụ án dân sự và

việc giải quyết vụ án này thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án giải quyết vụ

án đó theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định, đồng thời

thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp”.

Quy định tại khoản 1 Điều 34 Luật Tố tụng hành chính 2015 đã rõ nhưng

chưa có “cơ chế” để thực hiện nên cần có hướng dẫn của cấp có thẩm quyền.

Có một số trường hợp, bản chất vụ án là tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa

các cá nhân, tổ chức với nhau nhưng người khởi kiện chỉ yêu cầu Toà án

tuyên huỷ giấy chứng nhận sử dụng đất, không yêu cầu giải quyết tranh chấp

quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này, Kiểm sát viên cần yêu cầu Thẩm

phán giải thích rõ cho người khởi kiện biết thẩm quyền xét xử, nếu người

khởi kiện vẫn kiên quyết khởi kiện hành chính thì Toà án phải thụ lý giải

quyết.

80

Thứ hai, tăng cường kiểm sát việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ

của Tòa án.

Đối với những vụ án dư luận quan tâm hoặc có nhiều vụ tương tự nhau

thì Kiểm sát viên phải phối hợp với Thẩm phán để kiểm sát việc xác minh,

thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án ngay từ đầu để báo cáo ngay cho Lãnh

đạo cho ý kiến chỉ đạo, kịp thời yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu,

chứng cứ bổ sung theo quy định tại khoản 6 Điều 84 Luật Tố tụng hành chính

2015 và Điều 22 Thông tư liên tịch số 03/2016 (đối với những vụ án thông

thường thì kiểm sát sau khi Toà án chuyển hồ sơ và Quyết định đưa vụ án ra

xét xử cho Viện kiểm sát).

Lưu ý những vụ án có liên quan đến chủ trương, đường lối của Thường

vụ Tỉnh ủy thì Kiểm sát viên phối hợp với Thẩm phán nghiên cứu vụ án, đánh

giá toàn diện chứng cứ. Nếu phát hiện quyết định hành chính, hành vi hành

chính bị kiện không đúng quy định của pháp luật thì báo cáo ngay cho Lãnh

đạo để kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chỉ đạo người bị kiện khắc phục vi

phạm, nhằm phục vụ tốt tình hình chính trị tại địa phương và đảm bảo quyền

lợi chính đáng của công dân.

Thứ ba, nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án

đúng nội dung và có chất lượng.

Để làm tốt việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo kết quả nghiên cứu hồ

sơ vụ án Kiểm sát viên cần nghiên cứu và thực hiện theo Điều 14 Quy định về

quy trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính(Ban hành kèm theo

Quyết định số 286/QĐ-VKSTC ngày 08 tháng 07 năm 2019của Viện trưởng

Viện kiểm sát nhân dân tối cao).

Ngoài ra, Kiểm sát viên tự trang bị cho mình một hệ thống pháp luật có

liên quan, có thể tải trên các trang Web chính thống (Chính phủ, Bộ tư pháp,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao...) hoặc đăng ký

thành viên VIP các trang Web có thu phí (thuvienphapluat...) để họ gửi những

81

văn bản mới nhất và cập nhật các văn bản hết hiệu lực để thuận tiện cho việc

nghiên cứu.

Trước tiên, Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ nội dung đơn khởi kiện, các tài

liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện và các căn cứ pháp lý người khởi kiện

viện dẫn để chứng minh cho yêu cầu của mình. Qua đó đối chiếu với quy định

pháp luật để đánh giá sơ bộ về yêu cầu khởi kiện.

Tiếp theo, Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ văn bản nêu quan điểm của

người bị kiện và căn cứ pháp lý người bị kiện viện dẫn để bảo vệ quyết định

hành chính, hành vi hành chính của mình. Qua đó đối chiếu với quy định

pháp luật, đánh giá toàn diện chứng cứ do các đương sự cung cấp để xây dựng

Tờ trình báo cáo Lãnh đạo, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án.

Vấn đề cần lưu ý là văn bản pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án là văn

bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ban hành quyết định hành chính hoặc

thực hiện hành vi hành chính.

Thứ tư, xây dựng dự thảo đề cương hỏi và văn bản phát biểu ý kiến để

tham gia phiên tòa.

Kiểm sát viên cần nghiên cứu hướng dẫn tại Điều 15 Quy định về quy

trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính. Đối với văn bản phát biểu

ý kiến tại phiên tòa Kiểm sát viên phải tuân thủ quan điểm duyệt án của Lãnh

đạo viện và cần dự kiến các tình huống khác có thể xảy ra tại Toà và có quan

điểm xử lý để xin ý kiến Lãnh đạo. Tại phiên toà, Kiểm sát viên cần sử dụng

máy tính xách tay để chỉnh sửa dự thảo văn bản phát biểu cho phù hợp với

diễn biến tại toà; có đầy đủ các văn bản pháp luật có liên quan để viện dẫn khi

cần thiết và có phương án để kịp thời báo cáo Lãnh đạo cho ý kiến xử lý các

tình huống mới phát sinh tại toà. Nếu không báo cáo kịp thì Kiểm sát viên tự

quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

Thứ năm,báo cáo kết quả xét xử sơ thẩm và kiểm sát bản án.

82

Các nội dung này được hướng dẫn tại Điều 17, 18 Quy định về quy trình

kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính. Khi Hội đồng xét xử tuyên án,

Kiểm sát viên cần sử dụng máy ghi âm để ghi lại nội dung bản án, làm căn cứ

đối chiếu với Bản án toà gửi cho Viện kiểm sát. Vấn đề cần lưu ý là Bản án sơ

thẩm tuyên khác quan điểm của Viện kiểm sát nhưng Toà án không gửi bản

án trong thời hạn kháng nghị phúc thẩm. Khi đó, Kiểm sát viên đề xuất kháng

nghị phúc thẩm trên cơ sở nội dung bản án đã ghi âm tại Toà (trong nội dung

Quyết định kháng nghị phúc thẩm chừa trống số bản án); đồng thời đề xuất

kiến nghị việc Toà án vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 196 Luật Tố tụng

hành chính 2015.

Thứ sáu, đối với phiên tòa rút kinh nghiệm,

Sau phiên tòa, Viện kiểm sát tổ chức rút kinh nghiệm đối với Kiểm sát

viên tham gia phiên tòa; cán bộ, Kiểm sát viên tham dự phiên tòa. Nội dung

rút kinh nghiệm gồm:

- Việc nghiên cứu hồ sơ, lập hồ sơ kiểm sát, chuẩn bị tham gia phiên tòa

sơ thẩm; về tác phong, bản lĩnh nghiệp vụ của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

- Nhận xét, đánh giá xem Kiểm sát viên đã thực hiện đầy đủ quyền hạn,

trách nhiệm của Viện kiểm sát tại phiên tòa hay chưa? Phát hiện được đầy đủ,

chính xác các vi phạm và kiến nghị Hội đồng xét xử khắc phục chưa? Rút

kinh nghiệm về nhận thức pháp luật, kỹ năng áp dụng trong việc phân tích

đánh giá vi phạm, về việc giải quyết vụ án.

- Việc quán triệt và vận dụng ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị trong

quá trình kiểm sát tuân theo pháp luật tại phiên tòa, kiến nghị xử lý vi phạm,

về việc thay đổi, bổ sung quan điểm giải quyết vụ án như thế nào?

- Rút kinh nghiệm về kết quả xét xử vụ án của Hội đồng xét xử và trách

nhiệm của Viện kiểm sát.

Giải pháp về tăng cường đào tạo, bồi dưỡng

83

Trước yêu cầu của cải cách tư pháp, cần có sự quan tâm hơn nữa đến

công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Kiểm sát viên làm công tác kiểm

sát án hành chính nằm chuyên môn hóa bộ phận nghiệp vụ, nâng cao tinh thần

trách nhiệm và hiêu quả hoạt động của công tác kiểm sát. Bên cạnh việc đào

tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Quảng Bình cần thực hiện nhiều biện pháp tự đào tạo,

nghiên cứu nâng cao trình độ thông qua các hoạt động cụ thể như: Trong các

cuộc họp giao ban hàng tuần, lồng ghép phổ biến, quán triệt văn bản nghiệp

vụ để Kiểm sát viên nắm bắt kịp thời; tăng cường tổng hợp rút kinh nghiệm

thông qua công tác kiểm sát bản án, quyết định, công tác kiểm sát xét xử

những vụ án cụ thể; tổ chức các buổi tọa đàm nghiệp vụ để cùng trao đổi về

những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc, nhất là những vấn đề liên quan đến

kỹ năng kiểm sát phát hiện vi phạm của Tòa án. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ,

kỹ năng xây dựng bản phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, kỹ năng viết

kiến nghị, kháng nghị. Bố trí, phân công, giao nhiệm vụ cho Kiểm sát viên có

năng lực kinh nghiệm kèm cặp, hướng dẫn cán bộ, Kiểm sát viên mới còn ít

kinh nghiệm

3.2.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp với tòa án và các cơ quan liên

quan trong tố tụng hành chính

Với vị trí, chức năng rất quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, Viện

kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân có trách nhiệm phối hợp với nhau để

giải quyết vụ án hành chính đúng đắn, khách quan theo luật định nhằm bảo vệ

chế độ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Toà án

trong việc giải quyết các vụ án, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của

Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian

tới” đã nhấn mạnh: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong

hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

84

của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Các cơ quan

điều tra, kiểm sát, xét xử cần thực hiện đúng thời hạn tố tụng như luật định”.

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

2014 đều quy định trách nhiệm phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát, với

các cơ quan, tổ chức khác của Nhà nước trong hệ thống chính trị nhằm thực

hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành chính. Các cơ

quan tiến hành tố tụng không những có trách nhiệm phối hợp với nhau mà còn

phải phối hợp với các cơ quan nhà nước khác bằng những nội dung cụ thể,

thiết thực. Quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng

hành chính còn có mục đích chung là tìm ra nguyên nhân và điều kiện vi

phạm luật, kiến nghị hoặc yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện

pháp khắc phục và phòng ngừa vi phạm.

Để tăng cường phối hợp quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Quảng Bình trong tố tụng hành chính nhằm bảo vệ quyền con

người cần thiết thực hiện một số giải pháp đồng bộ sau:

Một là, thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa Viện kiểm sát và

Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện, nhất là thường xuyên tổ chức họp liên ngành

đưa ra những vụ án có tính chất phức tạp để có biện pháp giải quyết, đảm bảo

việc giải quyết vụ án kịp thời, đúng quy định của pháp luật. Cần xây dựng ký

kết quy chế phối hợp trong công tác giải quyết các vụ án hành chính để tạo

hành lang pháp lý giữa hai cơ quan để phối hợp với Tòa án giải quyết các vụ

án hành chính được nhanh chóng và đúng quy định pháp luật, tạo điều kiện để

cả hai đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền

con người trong tố tụng hành chính.

Ngoài ra, Viện kiểm sát tỉnh cũng cần tích cực, chủ động trong việc ban

hành yêu cầu tòa án xác minh, thu thập chứng cứ, phối hợp với Tòa án trong

việc xem xét, thẩm định tại chỗ, xuống địa bàn nơi có khiếu kiện để xác minh

tình hình thực tế của người bị kiện, từ đó có căn cứ để đưa ra phán quyết hợp

85

tình, hợp lý, đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia tố tụng. Viện kiểm

sát cũng phối hợp tốt với Tòa án tại các buổi đối thoại, buổi làm việc với

người bị kiện nhằm lắng nghe những ý kiến giải trình của người bị kiện về

tính có căn cứ của việc ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính.

Hai là, Phối hợp với Tòa án tổ chức các phiên tòa sơ thẩm rút kinh

nghiệm về lĩnh vực dân sự, hành chính. Các Kiểm sát viên mỗi năm phải

tham gia xét xử được từ 2-3, hoặc có thể nhiều hơn nữa các phiên tòa xét xử

sơ thẩm vụ án hành chính, dân sự. Kế hoạch tổ chức phiên tòa rút kinh

nghiệm cần cụ thể, chi tiết như: Chọn phiên tòa điển hình (Ví dụ loại tranh

chấp phức tạp, khó giải quyết, dư luận xã hội quan tâm, đa dạng người tham

gia tố tụng ); chuẩn bị đề cương hỏi người tham gia tố tụng; dự kiến tình

huống diễn ra trong quá trình xét xử và xử lý tình huống tại phiên tòa; dự thảo

bài phát biểu ý kiến của Viện kiếm sát tại phiên tòa. Kiểm sát viên tham gia

phiên tòa phải có kinh nghiệm, kỹ năng kiểm sát việc giải quyết các vụán

hành chính; sau mỗi phiên tòa tổ chức rút kinh nghiệm trong đơn vị.

Ba là, Tăng cường quan hệ phối hợp tốt giữa Viện kiểm sát với các cơ

quan hữu quan, đặc biệt là Ủy ban nhân dân các cấp và các tổ chức chính trị,

xã hội trong công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định

hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân các cấp cùng cấp, góp

phần đảm bảo việc xây dựng, ban hành các quyết định hành chính và việc

thực hiện hành vi hành chính đúng pháp luật và được thực thi một cách

nghiêm minh, qua đó góp phần thực hiện tốt công tác kiểm sát việc giải quyết

các vụ án hành chính.

Bên cạnh đó,Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 04/CT-VKSTC-

VPT1 ngày 17/5/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về

tăng cường công tác kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự, hành chính;

xác định công tác kháng nghị là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp. Do đó, bên cạnh sự phối hợp nhưng

86

cũng phải “mạnh tay” kháng nghị với một số vi phạm của Tòa án, đặc biệt với

những vi phạm đã xảy ra có tính hệ thống.

3.2.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ

lương, phụ cấp, ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ

Kiểm sát

Mặc dù nhân tố con người là quyết định, công tác tổ chức, bộ máy,

phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành là quan trọng nhưng nếu cơ sở vật

chất không đảm bảo thì hiệu quả thực hiện nhiệm vụ sẽ gặp không ít khó

khăn. Việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc, chế

độ lương, phụ cấp ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp, trong đó

có Viện kiểm sát nhân dân có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng đội

ngũ cán bộ. Chế độ, chính sách được đảm bảo là một động lực quan trọng

giúp cho cán bộ yên tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề, gắn bó với nghề.

Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chính sách sử dụng và quản lý cán bộ;

chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần đối với cán bộ, góp phần

khuyến khích động viên đội ngũ cán bộ phấn đấu, đóng góp vào sự nghiệp

cách mạng của Đảng, xây dựng ngành trong sạch vững mạnh.

Trong thời gian qua, ngành Kiểm sát nhân dân đã và đang triển khai

nhiều dự án nhằm tăng cường cơ sở vật chất phục vụ cho việc thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Quảng Bình nói riêng và ngành Kiểm sát nhân dân nói chung đã và đang tiến

hành xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng, trang thiết bị, cũng như số

hóa hệ thống quản lý trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành

Kiểm sát. Hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình đang sử dụng

hệ thống họp và giao ban trực tuyến. Hệ thống được xây dựng, bố trí một cách

hợp lý, khoa học, đáp ứng yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng trong quá

trình hoạt động của Kiểm sát viên. Bên cạnh đó Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

và huyện tại tỉnh Quảng Bình đã và đang xây dựng quản lý và theo dõi thời

87

hạn giải quyết phần mềm quản lý án hành chính, dân sự với yêu cầu đặt ra là

phần mềm tiện ích phong phú, đa dạng, bao quát toàn bộ các khâu trong quản

lý án hành chính, dân sự, sử dụng chung cho cả cấp tỉnh và cấp huyện

Tuy nhiên, những vấn đề nêu trên chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu

công việc của Kiểm sát viên. Các cấp, các ngành cần thiết phải triển khai thực

hiện đề án tiền lương, đề án tăng cường cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện và

trang thiết bị làm việc cho Viện kiểm sát nhân dân. Trong đó, có các định

mức, tiêu chuẩn phòng làm việc, trang thiết bị, phương tiện cho từng chức

danh Kiểm sát viên và công chức khác theo đặc thù Viện kiểm sát nhân dân.

Để thực hiện được những giải pháp trên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần

tập trung nghiên cứu, xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt các

đề án, chương trình, kế hoạch trong công tác bảo đảm tiền lương và phụ cấp,

cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị làm việc cho Kiểm sát viên và

công chức khác của Viện kiểm sát nhân dân theo lộ trình cụ thể, phù hợp với

yêu cầu cải cách tư pháp.

Bên cạnh những giải phải nêu trên, qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có

nhiều cách làm hay của các Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong việc nâng

cao chất lượng của Kiểm sát viên trong Kiểm sát giải quyết các vụ án hành

chính nhằm bảo vệ quyền con người như: Tổ chức cuộc thi “Xây dựng bài

phát biểu của Kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa dân sự hành chính” nhằm

đẩy mạnh phong trào tự học tập, nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp

luật, giúp đội ngũ Kiểm sát viên nâng cao hiểu biết và kỹ năng nghiệp vụ

kiểm sát tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hành chính, nhằm mục đích bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, lợi ích hợp pháp của nhà nước; Tổ chức

sinh hoạt vào ngày Pháp luật hàng tháng với nội dung: phổ biến các văn bản

hướng dẫn mới, còn quán triệt đầy đủ các Thông báo rút kinh nghiệm của

Viện kiểm sát cấp cao, Viện kiểm sát tối cao

3.2.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp

88

luật, vi phạm quyền con người của ngành

Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, vi

phạm quyền con người của ngành: cơ quan cấp trên kiểm tra cơ quan cấp

dưới, kiểm tra nội bộ trong ngành kiểm sát; trường hợp có cán bộ, kiểm sát

viên vi phạm cần xử lý theo quy định pháp luật.

Thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân là hoạt động phòng ngừa; xem

xét, đánh giá, xử lý theo quy định của pháp luật và của ngành khi có dấu hiệu

vi phạm pháp luật, quy định của ngành đối với tập thể; vi phạm pháp luật,

phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong

ngành Kiểm sát nhân dân.

Kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân là hoạt động xem xét, thẩm

định việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao đối với các đơn vị; cán

bộ, công chức, viên chức và ngƣời lao động trong ngành. Đối với những cán

bộ trong ngành kiểm sát vi phạm thì xử lý theo Quyết định số 183/QĐ-

VKSTC-T1 ngày 04/4/2016 ban hành Quy định về xử lý kỷ luật trong ngành

kiểm sát nhân dân.

Cán bộ thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân phải tuân thủ pháp luật, xử lý

mọi tình huống linh hoạt “có lý, có tình” trong từng trường hợp giao tiếp cụ

thể, phải lấy giáo dục, thuyết phục làm chính. Khi giao tiếp với các đối tượng,

cán bộ thanh tra phải chuẩn bị kỹ về tâm lý, nắm chắc pháp luật, đảm bảo

chứng cứ đầy đủ, sẵn sàng đối thoại, đấu tranh để làm sáng tỏ chân lý của sự

việc một cách khách quan và chính xác.

Nhằm đảm bảo cho việc thực hiện tốt các chức năng nhiệm vụ của ngành

Kiểm sát nhằm góp phần bảo vệ các quyền con người, quyền công dân theo

quy định của pháp luật cần chú trọng tới việc tăng cường công tác thanh tra,

kiểm tra trong ngành Kiểm sát. Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra

nghiệp vụ, công vụ và nội vụ; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, kịp thời xử lý

nghiêm minh những cá nhân vi phạm, tiêu cực, nhất là những trường hợp để

89

cố ý làm sai, những cán bộ tham nhũng, thoái hóa, biến chất. Thanh tra Viện

kiểm sát tối cao cần tăng cường thanh tra công vụ trong toàn Ngành, nhất là

đối với Viện kiểm sát cấp tỉnh. Bên cạnh đó, Phòng Thanh tra Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh tăng cường thanh tra đối với các phòng nghiệp vụ, các Viện

kiểm sát nhân dân huyện, thị xã, thành phố nhằm phát hiện những vi phạm,

nhất là trong công tác kiểm sát việc giải quyết án hành chính, nhằm xử lý

những vi phạm, đồng thời để tổng hợp thành những chuyên đề, những thông

báo rút kinh nghiệm để làm tài liệu nghiên cứu, phòng ngừa vi phạm.

90

Tiểu kết chƣơng 3

Quyền con người ngày càng được chú trọng bảo vệ, tuy nhiên, trong

thực tiễn vẫn còn tồn tại những khó khăn nhất định cho hoạt động này. Chính

vì vậy, đòi hỏi phải tích cực tìm kiếm và áp dụng đồng bộ các biện pháp để

đảm bảo tốt hơn quyền con người trong tố tụng hành chính sơ thẩm qua hoạt

động kiểm sát của Viện kiểm sát. Tăng cường bảo vệ quyền con người qua

kiểm sát giải quyết các án hành chính theo thủ tục sơ thẩm trước hết là nỗ lực

của cơ quan Viện kiểm sát, nhưng cũng cần sự tương thích, phù hợp trong

hoạt động của cơ quan hữu quan như Tòa án, Hội thẩm nhân dân và của chính

bản thân người tham gia tố tụng. Do vậy, các giải pháp vừa chú trọng tới kiện

toàn tổ chức và nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan Viện kiểm sát, đồng

thời phải chú trọng tới tổ chức và hoạt động của cơ quan hữu quan khác. Về

phía người tham gia tố tụng, để góp phần bảo vệ quyền của chính mình, bản

thân họ cũng phải nâng cao ý thức phải luật và khả năng sử dụng pháp luật

của mình để tận dụng tốt hơn nữa những tác dụng từ hoạt động kiểm sát đem

lại.

91

KẾT LUẬN

Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, căn cứ pháp lý của hoạt động kiểm sát

giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm của cơ quan Viện kiểm

sát, luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người trong tố tụng

hành chính nói chung và theo thủ tục sơ thẩm nói riêng, khái niệm và nội

dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hành

chính, bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát giải quyết vụ án hành

chính theo thủ tục sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, phân tích

thực trạng hoạt động này của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình giai

đoạn từ 01/7/2016-31/5/2020, giai đoạn thi hành Hiến pháp 2013, Luật tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và thi hành Luật Tố tụng hành chính 2015;

Luận văn cũng phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công tác

kiểm sát ., nguyên nhân của tình trạng từ đó, đề xuất một số phương

hướng và giải pháp thiết thực nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người qua

hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm

của ngành Kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình

nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

Dưới góc độ nghiên cứu khoa học của người làm thực tiễn công tác

kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hành chính từ giai đoạn Luật Tố tụng

hành chính 2015 có hiệu lực thi hành, tác giả chú trọng tới chức năng kiểm sát

hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hành chính theo thủ tục sơ thẩm của

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh – nơi mà thời gian qua tình hình tranh chấp

về khiếu kiện hành chính có chiều hướng gia tăng và phức tạp. Các giải pháp

của luận văn chủ yếu hướng tới kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực kiểm

sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hành chính của Viện kiểm sát

nhân dân tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, luận văn cũng

chú trọng tới các giải pháp khác nhằm đảm bảo tính đồng bộ và hiệu lực, hiệu

quả của hoạt động kiểm sát theo các mục tiêu cải cách tư pháp, bảo vệ quyền

92

con người hiện nay, như nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát và hoạt động

xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, nâng cao ý thức

và năng lực sử dụng pháp luật của chính người tham gia tố tụng.

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban cán sự Đảng VKS nhân dân tối cao (2011), Đề án nghiên cứu việc

chuyển VKS thành Viện Công tố, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Thông báo kết luận số 230-TB/TW

ngày 26/3/2009 về sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của

Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Bộ Chính trị, Kết luận 79-KL/TW ngày

28/7/2010 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án

nhân dân, VKS nhân dân và cơ quan điều tra, Hà Nội.

6. Khoa Luật ĐHQG Hà Nội (2016), Bình luận khoa học Hiến pháp nước

Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật,

Hà Nội: Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân.

7. Lê Phương Thanh (2015), Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong TTHC

ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã

hội, Hà Nội.

8. Lê Tuấn Phong (2017), Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm

sát nhân dân trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu của cải cách

tư pháp ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ luật học, Học Viện Chính trị quốc

gia Thành phố Hồ Chí Minh;

9. Minh Đạo, Kiểm sát các hoạt động tư pháp - chức năng quan trọng của

VKS nhân dân, Tạp chí kiểm sát, số 10, năm 2012.

94

10. Hoàng Thế Liên (chủ biên, 2015), Hiến pháp năm 2013 - Những điểm

mới mang tính đột phá (sách chuyên khảo); Nxb. Tư pháp, Hà Nội:

Chương III – Về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân.

11. Hội đồng thẩm phán TANDTC (2016), Nghị quyết số 04/2016/NQ-

HĐTP ngày 30 tháng 12 năm 2016 về Hướng dẫn thi hành một số quy

định của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật tố tụng hành

chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và

cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử.

12. Nguyễn Huy Hoàn (2005), Đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư

pháp, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội.

13. Nguyễn Văn Ban (2017), Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp

tỉnh trong xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn

thạc sỹ luật học, Học Viện Hành chính quốc gia;

14. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

15. Quốc hội (1992), Luật tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.

16. Quốc hội (2002), Luật tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.

17. Quốc hội (2010), Luật Tố tụng hành chính, Hà Nội.

18. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

19. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức VKS nhân dân, Hà Nội.

20. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính, Hà Nội.

21. Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp (2016), Đề cương giới thiệu chi

tiết Luật Tố tụng hành chính 2015, Hà Nội.

22. Tòa án nhân dân tối cao (2016), Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày

19/9/2016 giải đáp một số nghiệp vụ về tố tụng hành chính, tố tụng dân

sự, Hà Nội.

95

23. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC

ngày 07/4/2017 giải đáp một số nghiệp vụ, Hà Nội.

24. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày

19/9/2018 giải đáp một số nghiệp vụ về tố tụng hành chính, Hà Nội.

25. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn số 64/TANDTC-PC ngày

03/4/2019 về thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về

hình sự, dân sự và tố tụng hành chính, Hà Nội.

26. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Công văn số 212/TANDTC-PC ngày

13/9/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về thông báo kết quả giải đáp

trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, Hà Nội.

27. Trần Hoàng Nhung (2015), Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền

công dân của Viện kiểm sát nhân dân - Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát

nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ luật học,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015.

28. Trần Thị Thu Hà (2014), Vai trò của Viện kiểm sát trong tổ tụng hành

chính, qua thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sỹ luật học,

Trường Đại học Luật Hà Nội

29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng hành

chính, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

30. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách

khoa – Nxb tư pháp, Hà Nội.

31. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo tổng kết công

tác kiểm sát năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2018,

Quảng Bình.

32. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2018), Báo cáo tổng kết công

tác kiểm sát năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2019,

Quảng Bình.

96

33. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình (2019), Báo cáo tổng kết công

tác kiểm sát năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2020,

Quảng Bình.

34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), số: 04/CT-VKS Chỉ thị về tăng

cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát

việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,

kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của

pháp luật, Hà Nội.

35. Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ

kiểm sát, Giáo trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát - tập 6, lưu hành nội bộ,

Hà Nội 2016.

36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (2016), Thông

tư liên tịch 03/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC quy định việc phối hợp

giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành quy

định của Luật tố tụng hành chính

37. Vụ 10 – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), Báo cáo sơ kết 03 năm

thực hiện Luật tố tụng hành chính năm 2015, Hà Nội.

97