intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

BIỆN PHÁP BÌNH ỔN TỶ GIÁ

Chia sẻ: Huyen Thanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

541
lượt xem
270
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khái niệm: Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ( mà đại diện thường là NHTW) thông qua 1 chế độ tỷ giá nhất định hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: BIỆN PHÁP BÌNH ỔN TỶ GIÁ

  1. Bài Thuyết trình Tài chính quốc tế Câu11: bình luận các biện pháp bình ổn tỷ giá( liên hệ Việt Nam) I. Các định nghĩa cơ bản Khái niệm: Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ( mà đại diện thường là NHTW) thông qua 1 chế độ tỷ giá nhất định hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia. Mục tiêu: - ổn định tỷ giá trong phạm vi 1 biên độ dao động nhất định nhằm góp phần ổn định thương mại, ổn định đầu tư và cán cân thanh tóan quốc tế - góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mục tiêu của các chính sách vĩ mô khác - đảm bảo sự ổn định của dự trữ quốc gia để thực hiện các nghĩa vụ TCQT - ổn định sự phát triển của thị trường ngoại hối - giữ vững chủ quyền quốc gia, nâng cao vị thế đồng nội tệ. nội dung: II. nội dung các chính sách tỷ giá(công cụ của chính sách tỷ gía) a. công cụ trực tiếp a.1 hoạt động của ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại hối nhằm can thiệp trực tiếp vào cung- cầu ngoại tệ khái niệm: Chính sách hối đoái: đây là biện pháp trực tiếp mà NHTW tác động tới tỷ giá hối đoái. Thông qua các tổ chức kinh doanh ngoại hối, nhà nước đã chủ động tác động vào cung cầu ngoại tệ băng việc trực tiếp mua bán vàng và ngoại tệ điều chỉnh tỷ gía Khi tỷ gía ở mức cao( tức đồng nội tệ giảm giá ) tới mức làm ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế trong nước cũng như các hoạt động kinh tế đối ngoại, NHTW sẽ bán ngoại tệ ra để thu nội t ệ về. khi đó cung ngoại tệ tăng tác động làm giảm tỉ giá, kéo tỷ giá xuống. ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm xuống, NHTW sẽ mua ngoại tệ vào, kích thích cầu ngoại hối khi cung chưa k ịp biến động để nâng tỷ giá lên tới mức hợp lý. ảnh hưởng việc áp dụng chính sách hối đoái thường ảnh hưởng trái ngược nhau với các doanh nghiệp trong và ngoài nước bắt nguồn chủ yếu từ các lợi ích trái ngược nhau. Những mâu thuẫn này th ường x ảy ra giữa các nhà xuất khẩu và nhập khẩu. nhà nhập khẩu muốn hạ thấp tỷ giá xuống còn nhà xuất khâủ muốn nâng tỷ giá lên, giữa nhà xuất khẩu vốn muốn hạ thấp tỷ giá xuống và nhà nhập khẩu vốn muốn nâng cao tỷ giá hối đoái. Và mâu thuẫn diễn ra giữa các nước với nhau vì tỷ giá của 1 nước nâng cao sẽ hạn chế xk của nước khác làm cho cán cân thương m ại, cán cân thanh toán của nước ngoài và các nước thực hiện chính sách này bị thiệt hại • Ưu điểm: NHTW rất linh hoạt trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng để điều chỉnh tỷ giá • Nhược điểm: cần dự trữ ngoại tệ lớn - - Tính chủ động của NHTW không cao khi NHTM có thể không sãn sàng mua( ở VN là bắt buộc) - Thường phải đi kèm với chính sách thị trường mở để hấp thụ lượng dư hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông do có những hạn chế nhất định nên ngân hàng trung ương các dần chuyển sang công cụ gián tiếp mà chủ yếu là thông qua công cụ lãi suất tái chiết khấu 1
  2. Để có thể thực hiện được thì đòi hỏi phải có sự phát triển tương xứng của hệ thống tài - chính. Sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường ngoại hối rất hạn chế  Biên độ dao động của tỷ giá bình quân liên ngân hàng hạn hẹp tạo ra nhiều khó khăn trong nguồn cung ngoại tệ của các NHTM  Các chính sách chủ yếu nhằm điều tiết tỷ giá USD/VND - Chi phí cơ hội cho việc mua bán ngoại tệ - mặc dù là người định giá nhưng có lúc NHNN cũng vẫn phải mua giá cao và bán giá thấp - đó là m ột loại chi phí bu ộc ph ải tr ả.B ởi vì:, trong nhiều tình thế bắt buộc, NHNN phải sử dụng cơ chế giá để điều tiết b ằng cách đ ặt giá cao lên để mua cho được - nếu muốn phát hành tiền vào lưu thông và ng ược l ại, đ ịnh giá thấp xuống để bán cho được - nếu muốn hút tiền từ lưu thông về VD: Trong năm 2007, mục tiêu duy trì mức giảm giá đồng tiền m ột vài ph ần trăm, t ạo đi ều kiện thuận lợi cho xuất khẩu trở nên khó khăn hơn khi mà lượng ngoại t ệ ch ảy vào Vi ệt Nam gia tăng mạnh mẽ do sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và các dòng v ốn khác đ ược khai thông tốt hơn. Đồng Việt Nam không những không giảm mà còn có dấu hiệu tăng giá so với đồng Đôla , gây bất lợi cho xuất khẩu. Thêm vào đó, nhập khẩu trong quí 1 lại tăng đ ột bi ến (cho dù ch ủ y ếu là nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cho sản xuất) đã làm cho thâm hụt cán cân ngoại thương trở nên trầm trọng hơn. Đứng trước áp lực nêu trên, cộng với việc mong muốn gia tăng số lượng ngo ại t ệ dự trữ phòng khi bất trắc xảy ra, Ngân hàng Nhà n ước Việt Nam đã tung tiền đồng để mua vào một lượng lớn ngoại tệ mà theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, chỉ trong quí 1, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng khoảng 3 tỉ Đôla, tương đương với gần 50.000 tỉ đồng được đưa vào lưu thông. Có lẽ nhờ việc mua vào ngoại tệ mà trong những ngày đầu tháng 6/2007, tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng Đôla đã tăng trở lại lên mức trên 16.100, thay vì chỉ quanh con số 16.000 như thời gian trước. Việc gia tăng ngoại tệ cho dự trữ quốc gia là điều cần thiết, nhưng vi ệc b ơm thêm m ột lượng lớn tiền đồng vào nền kinh tế sẽ làm áp lực lạm phát gia tăng, khi mà mới năm tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng trong nước đã tăng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái (WB 2007). Điều này làm cho mục tiêu khống chế mức tăng giá trong năm 2007 ở con s ố 6,5% tr ở nên khó khăn hơn. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Ngân hàng Nhà n ước đang g ặp th ử thách. Để giảm bớt áp lực gia tăng của chỉ số giá trong thời gian còn lại của năm 2007, ch ỉ có cách rút bớt tiền ra khỏi nền kinh tế. Tăng dự trữ bắt buộc là giải pháp được lựa chọn . Với việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ 5% lên 10% thì theo ước tính sẽ có khoảng 40.000-50.000 tỉ đồng, tương đương với số tiền bỏ ra để mua 3 tỉ Đôla nêu trên, quay tr ở l ại kho của Ngân hàng Nhà nước. 2
  3. Như vậy, với hai biện pháp can thiệp được đưa ra, ít nhất ba mục tiêu đã đạt được gồm: đảm bảo mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng được lượng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng lại không gây áp lực lạm phát vì tiền chảy vào đã được đem cất trong “két” nên chẳng có điều gì x ảy ra cả! Bất kì chính sách tiền tệ nào của ngân hàng trung ương cũng dẫn đ ến h ậu qu ả nh ất định và đ ể giải quyết hậu quả đó NHTW thường chọn một gói chính sách gồm nhiều công cụ và dĩ nhiên các công cụ này có mối liên hệ với nhau. a.2 công cụ hành chính:  Bp kết hối: Là việc chính phủ quy định đối với các thể nhân và pháp nhân có nguồn thu ngoại têh ph ải bán một tỷ lệ nhất định cho các tổ chức đựơc phép kinh doanhơp ngoại hối. Biện pháp này được áp dụng trong những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ trên thị trường ngoại hối ở Việt Nam do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, nên hầu hết các doanh nghiệp đã đều găm giữ ngoại tệ trên tài khoản làm cho cung cầu m ất cân đ ối nghiêm trọng. đứng trước tình hình đó, ngày 12/09/1998, chính phủ ban hành quyết định số 173/QĐ- TTg về nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là các tổ chức với t ỷ lệ k ết h ối bắt buộc là 80%. Khi thị trường ngoại tệ trở nên ổn định hơn, ngày 30/8/1999, chính phủ đã có quyết định số 180/1999/QĐ-TTg điều chỉnh tỷ lệ kết hối từ 80%--> 50% sau đó xuống 40%,30% và hiện nay theo quyết định 46/2003/QĐ-TTg, ngày 02/4/2003 giảm xuống 0% a.3 quy định biên độ dao động tỷ giá( biên độ rộng thì cung ngoại tệ từ NHTM tăng, biên đ ộ hẹp thì giảm cung)  Thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết (Quyết định 64/1999/QĐ-NHNN)  NHNN không ấn định tỷ giá chính thức mà thông báo tỷ giá giao dịch BQLNH TG kinh doanh= TGBQLNH(± biên độ tỷ giá) Biên độ tỷ giá liên tục được nới rộng Năm 1999 2002 2006 2007 2008 2009 Biên độ ±0.1% ±0.25% ±0.5% ±0.75% ±1% ±5% ±2% ±3% ±3% Biên độ tỷ giá liên tục nới rộng  giao dịch ngoại tệ được tạo điều kiện phát triển  tạo tỷ giá gần với cung cầu ngoại tệ trên thị trường hơn. Vd Ngân hàng Nhà nước cũng công bố mức tỉ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho (26-11) là 17.961 VND/USD, tăng thêm 5,44% so với một ngày trước đó. Đồng thời, biên độ t ỉ giá m ới cho giao dịch mua bán giao ngay giữa USD và VND là ±3%, thay mức ±5%. Nghĩa là kh ống ch ế t ỉ giá kinh doanh tại các ngân hàng không được cao quá hoặc thấp hơn 3% so với t ỉ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày. Với các điều chỉnh này, mức t ỉ giá sàn giao dịch sẽ là 17.422 VND/USD và tỉ giá trần giao dịch sẽ là 18.500 VND/USD Theo ghi nhận, đầu phiên giao dịch hôm trước, tỉ giá USD trên thị trường tự do tại Hà Nội đạt mức cao, đến sát 19.900 VND/USD. Ngay sau khi có thông tin giảm biên độ tỉ giá mà Ngân hàng Nhà nước công bố, giá đồng USD đã giảm mạnh. Đến 12 giờ trưa, cũng tại thị trường tự do, m ột USD chỉ còn 19.600 đồng bán ra và 19.400 đồng mua vào.  Quy định hạn chế đối tượng mua ngoại tệ: nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho t ỷ giá ổn định Tất cả các biện pháp này đều nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ, quy định hạn ch ế thời điểm được mua ngoại tệ 2007 3
  4. Ngân hàng Nhà nước đã mua một lượng ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối để vừa đảm bảo khả năng can thiệp trong tương lai vừa để duy trì khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tránh s ự lên giá của đồng Việt nam. 2008: từ 26/03 – 16/07/2008:tỷ giá usd/vnd Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do. Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường. Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch s ử, NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm. Biện pháp;Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng. từ 17/07 – 15/10/2008: Giảm mạnhvà dần đi vào bình ổn. đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại t ệ trên th ị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên đ ộ, cấm nh ập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn. (từ 16/10 đến hết năm 2008): tỷ giá USD tăng trở lại Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy m ạnh việc bán ra ch ứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng m ạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày). Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng tiền thanh toán chính). Ngoài ra còn 1 số biện pháp khác đã được thực hiện: NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu. NHNN phải ngừng chiến dịch buộc các ngân hàng mua tín phiếu bắt buộc trong m ột th ời gian NHNN phải xác lập trần huy động lãi suất tiền đồng và ngoại t ệ cũng như trần qui mô tín dụng cho các NHTM 2009:nguyên nhân:+ Hiện tượng găm giữ ngoại tệ chờ giá lên của người dân +Có hiện tượng DN vay USD tuy chưa đến kỳ trả nợ nhưng đã mua sẵn USD để giữ vì sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua nhiều của DN khiến cầu ngoại tệ tăng. Ngoài ra, do tâm lý bất ổn của cả DN và người dân khi tỷ giá tăng nhanh dẫn tới hiện tượng găm giữ ngoại tệ. +Do tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất cho các DN bằng tiền đ ồng, do lãi su ất vay ti ền đ ồng thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ nên m ột số DN có ngoại tệ có xu hướng không muốn bán ngoại tệ và chỉ muốn vay tiền đồng. Đây là 1 tác đ ộng thiếu tích cực không mong muốn khi triển khai gói kích cầu. Tuy là khan hiếm ngoại tệ nhưng NHTW vẫn không thực hiện chính sách kết hối mà chỉ kêu g ọi khuyến khích các tổ chức nắm giữ nhiều ngoại tệ bán ngoại tệ ra. 4
  5. NHNN bán ngoại tệ cho các ngân hàng có trạng thái ngoại hối âm 2010 NHNN đã tạo sự đồng thuận giữa các NHTM, yêu cầu thống nhất hạ m ặt bằng lãi su ất cho vay ngoại tệ xuống còn từ 3-3,5%/năm, mặt bằng lãi suất huy động ngoại tệ ở m ức từ 1-1,5%/năm. Chủ trương này đã giúp cho việc nắm giữ VND có lợi hơn và giảm áp lực tăng dư nợ VND trên th ị trường.(2010 Thủ tướng sẽ yêu cầu một số tập đoàn thuộc Chính phủ đang nắm giữ ngoại tệ phải bán cho hệ thống ngân hàng Kết luận:  Xu thế mở cửa nên kinh tế, tự do hóa thương mại và tự do hóa tài chính, thì các biện pháp can thiệp hành chính ngày càng trở nên không phù hợp- thiên về sử dụng các công cụ th ị trường  hiện nay công cụ trực tiếp vẫn đang được sử dụng nhiều hơn Tuy nhiên:các hoạt động can thiệp của ngân hàng TƯ tạo ra hiệu ứng thay đổi thay đ ổi cung ứng tiền trong lưu thông , có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát trong nền kinh tế, chính vì vậy đi kèm theo hoạt động can thiệp trực tiếp, NHTW thường cần phải sử dụng thêm 1 nghiệp vụ thị trường mở để hấp thu lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông.do có những hạn chế nhất định, nên các NHTW của các nước phát triển đang d ần chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can thiệp gián tiếp mà chủ yếu là thông qua công c ụ lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu b. Công cụ gián tiếp 1. lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu: Lãi suất là Công cụ điều chỉnh tỷ giá khái niệm: Lãi suất là công cụ được các ngân hàng trung ương sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường, điều chỉnh giá trị đối ngoại của nôi tệ. Chính sách lãi suất cao: có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước,( nếu lãi suất trong nước cao hơn so với lãi suất n ước ngoài hay lãi suất ngoại tệ sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy vào hay sẽ làm chuyển lượng hóa ngo ại t ệ trong nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn). Điều này làm cho tăng cung ngo ại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng nội tệ), từ đó đồng ngoại t ệ s ẽ có xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội tệ sẽ tăng giá. \ Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp hơn so với lãi suất nươc ngoài hay lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá trên thị trường hay đồng nội tệ sẽ giảm giá. Phương pháp dùng lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể nó là phương pháp thường được sử dụng với mong muốn có những thay đổi cấp thời về tỷ giá. Cơ chế tác động của công cụ này đến tỷ giá hối đoái như sau: Trong thế cân bằng ban đầu của cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khi lãi suất tái chiết kh ấu thay đổi, sẽ kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó, tác đ ộng đến xu hướng dịch chuyển của các dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn (trong cán cân thanh toán quốc tế) hoặc ít nhất cũng làm những người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá h ối đoái. Cụ thể, nếu lãi suất tăng sẽ dẫn đến xu hướng là một đồng vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ đổ vào trong nước và những người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có khuynh hướng chuyển đổi đồng ngoại tệ của mình sang nội tệ để thu lãi cao hơn. Kết quả là tỷ giá giảm (đồng nội tệ tăng). Trong trường hợp ngược lại, nếu muốn tỷ giá tăng thì sẽ giảm lãi suất tái chiết khấu. Xét trường hợp đồng VND và USD. (các yếu tố khác không đổi) Khi Lãi suất của VND cao hơn lãi suất của USD (lãi su ất th ực), người ta s ẽ có xu h ướng chuyển từ nắm giữ USD sang nắm giữ VND. Điều này làm cho nhu cầu VND tăng lên, cầu v ề USD giảm đi, từ đó giá USD sẽ giảm đi so với VND, hay tỷ giá giảm tới một mức tỷ giá m ới mà 5
  6. cung cầu USD-VND trở nên cân bằng. Khi đó, lãi suất thực tế của VND và USD t ương đ ương nhau ( điều kiện ngang bằng lãi suất và không tính tới lạm phát). Khi có ảnh hưởng của lạm phát, mặc dù lãi suất danh nghĩa tăng, nhưng lãi su ất th ực t ế gi ảm, lúc này ngược lai- VND sẽ giảm giá so với USD, dẫn tới tỷ giá tăng. Ngược lại, khi đồng USD tăng giá, để tạo cân bằng trên thị trường ngoại hối, NHTW sẽ chủ động tăng lãi suất đồng nội tệ(VND) thông qua đẩy mạnh lượng cung ngoại tệ ra nền kinh tế đồng thời hút bớt đồng nội tệ về. Điều này làm cho cung cầu ngoại hối trở nên cân b ằng. Những hạn chế Tuy nhiên, cách làm này cũng có những hạn chế nhất định, bởi lẽ lãi suất và tỷ giá ch ỉ có m ối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách gián tiếp, chứ không phải là m ối quan hệ trực tiếp và nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau. Lãi suất biến đ ộng do tác đ ộng của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi suất có thể biến động trong phạm vi t ỷ su ất lợi nhu ận bình quân và trong một tình hình đặc biệt, có thể vượt quá tỷ suất lợi nhận bình quân. Còn tỷ giá hối đoái thì do quan hệ cung cầu về ngoại hối quyết định, mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định. Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó biến động của lãi su ất (lên cao chẳng hạn) không nhất thiết đưa đến tỷ giá hối đoái biến động theo ( hạ xu ống ch ẳng hạn). Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nh ưng khi tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước không ổn định, thì không nhất thiết thực hiện được, bởi vì với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó lại đặt ra trước tiên là sự đảm bảo an toàn cho s ố vốn ch ứ không phải là vấn đề thu hút được lãi nhiều. Để minh hoạ vấn đề này, có thể sử dụng hai ví dụ điển hình trong lịch sử. Một là, trước thế chiến 2, Anh là một trong những nước điển hình về việc sử dụng lãi suất chiết khấu để can thiệp vào thị trường hối đoái và đã thu được nhiều k ết quả đáng k ể, do n ền kinh t ế và tiền tệ nước Anh lúc đó khá ổn định. Hai là, có thể lấy cuộc khủng hoảng USD thời kỳ 1971-1973 làm ví dụ. Tổng th ống Mỹ Nixon, đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi su ất chi ết kh ấu lên rất cao để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ quốc tế. Vào lúc này, m ặc dù lãi su ất trên thị trường New York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp 3 lần thị trường Frankfurk, nhưng vốn ngắn hạn cũng không được chuyển vào Mỹ mà lại đưa đến Tây Đức và Nhật Bản, dù rằng các nước này thực hiện chính sách lãi suất thấp, vì lúc đó USD đang đứng bên bờ của nguy cơ m ất giá. Như vậy, chính sách lãi suất chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có giới hạn đối với tỷ giá hối đoái, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất chỉ có quan hệ lôgic chứ không phải quan hệ nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động vốn giữa các n ước. Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. N ếu tình hình tiền tệ của các nước đều đại thể như nhau, thì phương hướng đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao. Do vậy, hiện nay chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có ý nghĩa của nó. Đ ồng th ời, can thiệp vào tỷ giá là phải có một thị trường vốn (nhất là thị trường vốn ngắn hạn) đủ m ạnh, tự do và linh hoạt: tài khoản vốn đã được mở cửa. Liên hệ ở Việt Nam Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000 và tỷ giá th ị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi su ất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên t ới 19.500. NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại t ệ, tăng cường truyền thông, công b ố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt Nam) và tăng m ức lãi su ất của đồng nội tệ … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08. 6
  7. Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động m ạnh đến ngu ồn cung ngo ại t ệ c ủa Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh t ế đã d ẫn đ ến tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và +5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác, trong đó Ngân hàng Nhà nước đã quyết định giới hạn lãi suất tiền gửi bằng USD ở mức 1%, khi VND đang có lãi suất tiền gửi ở mức 10,49%/năm. Đây được xem là một “cú hích” mạnh khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh t ế có tiền gửi bằng USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Vì vậy, tỷ giá ngo ại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ. Chúng ta có thể thấy rõ hơn sự biến động của tỷ giá qua diễn biến lãi suất cơ bản từ đầu năm 2008 đến nay: Diễn tiến lãi suất cơ bản Trước 1/2/2008 8,25% Từ 1/2/2008 đến 19/5/2008 8,75% Từ 19/5/2008 đến 11/6/2008 12% Từ 11/6/2008 đến 14% 21/10/2008 Từ 21/10/2008 đến 13% 5/11/2008 Từ 5/11/2008 đến nay 12% 2. chính sách thương mại quốc tế ­ Thuế quan Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu hoặc thuế xuất-nhập khẩu là tên gọi chung để gọi hai loại thuế trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Đó là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu. Thuế quan cao làm hạn chế sự nhập khẩu ,nhập khẩu giảm làm cầu ngo ại t ệ gi ảm k ết quả làm cho nội tệ lên giá. khi thuế quan thấp sẽ có tác dụng ngược lại. ­ Hạn ngạch Hạn ngạch hay hạn chế số lượng là quy định của một nước về số lượng cao nh ất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất hoặc nhập từ m ột thị trường trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép Tác dụng làm hạn chế nhập khẩu , cầu ngoại tệ giảm kết quả làm cho nội tệ lên giá . Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng làm tăng nhập khẩu làm cho cầu ngo ại t ệ tăng , đ ồng n ội t ệ giảm giá. ­ Giá cả Thông qua hệ thống giá cả, Chinh phủ có thể trợ giá giúp cho các m ặt hàng xu ất kh ẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Kích thích xu ất kh ẩu tăng làm cung ngoại tệ tăng, đồng nội tệ lên giá Mặt khác, Chính phủ cũng có thể bù giá cho 1 s ố m ặt hàng NK thi ết y ếu. k ết qu ả là nh ập khẩu tăng đồng nội tệ giảm giá - tác động vào sự chuyển dịch của luồng vốn c. phá giá tiền tệ 7
  8. 1. Phá giá tiền tệ là gì ? Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Việc phá giá đồng Việt Nam (VND) nghĩa là giảm giá trị của nó so với các ngoại tệ khác như USD,EUR… 2. Tác động của việc phá giá tiền tệ: Trong ngắn hạn Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho t ỷ giá hối đoái thực tế thay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi một cách tương đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa. Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này không phát huy tức thì: các hợp đồng đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người mua cần có thời gian để điều chỉnh hành vi trước mức giá mới và quan trọng hơn là việc dồn các nguồn lực vào và tổ chức sản xuất không thể tiến hành nhanh chóng được. Như vậy trong ngắn hạn thì s ố lượng hàng xuất khẩu không tăng mạnh và số lượng hàng nhập khẩu không giảm mạnh. Nếu giá hàng xuất khẩu ở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng không nhiều đồng thời giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên do tỷ giá đã thay đổi dẫn đến cán cân thanh toán vãng lai có thể xấu đi. Trong trung hạn GDP hay chính là tổng cầu gồm các thành tố chi cho tiêu dùng của dân cư, chi cho đ ầu tư, chi cho mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng. Việc phá giá làm tăng cầu về xuất khẩu ròng và t ổng cung sẽ điều chỉnh như sau: - Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung. - Nếu nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không thể huy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của việc phá giá. Vì th ế trong trường h ợp này, muốn duy trì lợi thế cạnh tranh và đạt mục tiêu tăng xuất ròng thì chính phủ ph ải sử dụng chính sách tài chính thắt chặt (tăng thuế hoặc giảm mua hàng của chính phủ) đ ể t ổng cầu không tăng nhằm ngăn chặn sự tăng lên của giá cả trong nước. Trong dài hạn Nếu như trong trung hạn, phá giá tiền tệ kèm theo chính sách tài chính th ắt ch ặt có th ể tri ệt tiêu được áp lực tăng giá trong nước thì trong dài hạn các yếu tố từ phía cung sẽ t ạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đối và các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu s ẽ có chi phí sản xuất tăng lên dẫn đến phải tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao h ơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và ti ền lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lợi thế cạnh tranh do phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ 4 đến 5 năm. 3.Chính phủ phải phá giá tiền tệ vì: - Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh m ột cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến t ổng cầu giảm) đi kèm v ới m ức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh tranh). Chính phủ các n ước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại. - Trong trường hợp cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ để mua nội t ệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ. Sản lượng tiềm năng là sản lượng mà nền kinh tế tạo ra khi các đầu vào được sử dụng đầy đủ. Sản lượng tiềm năng có xu hướng tăng lên theo thời gian do cung về các đầu vào tăng. Sản lượng tiềm năng không phải là sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất được. Trong chương này, chúng ta xây dựng một mô hình đơn giản về tác động hổ trợ giữa các h ộ gia đình và giữa các hãng. 8
  9. Phá giá 2% tiền đồng bắt dầu từ ngày 18/8 Nguyên nhân chính để phá giá không phải từ nhập siêu Nếu chỉ nhìn vào thâm hụt cán cân thương mại các tháng gần đây thì cũng ch ưa có gì đáng lo ng ại lắm đến tỷ giá. Nhập siêu 7 tháng đầu năm là 7,26 t ỷ USD, trong khi các ngu ồn tài tr ợ (FDI, FII, kiều hối, vay nợ ODA) có vẻ như vẫn dồi dào để tài trợ đ ược nh ập siêu, theo đó, cán cân thanh toán ước thặng dư 3,4 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm. Vậy t ại sao v ấn để t ỷ giá l ại tr ở nên căng thẳng trong suốt thời gian qua? Bản chất của vấn đề là với một nền kinh tế có tỷ lệ đô la hóa cao như ở Việt Nam, t ỷ giá không chỉ phụ thuộc vào các dòng ngoại tệ ra vào nền kinh tế, mà còn phụ thu ộc rất lớn vào b ản thân s ự dịch chuyển và cung cầu ngoại tệ ngay bên trong nền kinh t ế. Và trong tr ường h ợp này, nó đã khiến NHNN phải thay đổi tỷ giá để giảm căng thẳng trên thị trường. Sau đợt phá giá tiền đồng vào tháng 2, thị trường ngoại hối có vẻ như khá yên ả, t ỷ giá liên ngân hàng được giữ nguyên, chênh lệch tỷ giá thị trường tự do và t ỷ giá NHTM thu hẹp, tr ạng thái ngoại tệ của các NH luôn ở mức thặng dư. Nhưng dưới sự bình lặng đó, là cơn sóng âm ỉ manh nha từ đầu quý 3, xuất phát từ tăng trưởng dư nợ ngoại tệ tăng đột biến k ể t ừ đầu năm, các doanh nghiệp chấp nhận rủi ro về tỷ giá, vì không thể chịu nổi lãi suất tiền đồng quá cao. Trong 7 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng ngoại tệ lên t ới 34,4%, so v ới 8.4% dư n ợ ti ền đ ồng. Nh ưng b ản thân doanh nghiệp cũng tự đề phòng bằng cách vay với kỳ h ạn ng ắn (3-6 tháng), theo đó, t ừ tháng 7, nhu cầu trả nợ vay USD khi đến thời điểm đáo hạn tăng cao, gây s ức ép l ớn đ ến c ầu ngo ại t ệ. NHNN bắt đầu lo lắng, và từ giữa tháng 6 đã phải kiểm soát chặt tín dụng ngo ại tệ. Nhưng NHNN lo lắng một, doanh nghiệp lo lắng m ười. Các doanh nghi ệp ch ưa ho ặc không có nguồn thu ngoại tệ đôn đáo thu gom USD đề phòng khan hiếm ngo ại t ệ, các doanh nghi ệp có nguồn thu ngoại tệ thì không muốn bán ngoại tệ cho NH do e ng ại không thể mua l ại n ếu có nhu cầu vào cuối năm. Mất cân đối cung cầu USD, nguyên nhân t ừ cách ứng x ử c ủa các thành ph ần kinh tế đối với ngoại tệ, được dung dưỡng bởi tình trạng đô la hóa cao c ủa n ền kinh t ế và cách quản lý còn chưa hiệu quả của cơ quan quản lý đã khiến thị trường ngo ại h ối tr ở nên r ất căng thẳng. Và đương nhiên, giải quyết bằng điều chỉnh tỷ giá là lựa chọn duy nhất ở th ời đi ểm hi ện 9
  10. tại để khơi thông hơn các luồng ngoại tệ trong nước, tránh ảnh h ưởng b ất l ợi đ ến ổn đ ịnh vĩ mô của nền kinh tế. Khó kiềm chế được nhập siêu như thông báo chính thức của NHNN Với mức độ và quy mô phá giá như lần này của NHNN, hầu như s ẽ ít tác đ ộng đến v ấn đ ề nh ập siêu của nền kinh tế. Nhập siêu ở Việt Nam vẫn là một yếu t ố mang tính cơ cấu c ủa n ền kinh t ế, khi phần lớn các hàng hóa nhập khẩu đều là máy móc thiết b ị và nguyên nhiên v ật li ệu ph ục v ụ cho quá trình sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Nghiên cứu về điều kiện Marshall-Lerner tại Việt Nam cho thấy không có mối liên hệ rõ ràng nào giữa sự giảm giá tiền đ ồng v ới việc gi ảm khối lượng nhập khẩu từ nước ngoài. Nguyên nhân là do hệ số co giãn nh ập kh ẩu của Vi ệt Nam rất thấp, và tác động của tỷ giá lên giá nhập khẩu hàng hóa có m ột độ trễ nh ất đ ịnh (từ 3-9 tháng). Vì thế, tiền đồng bị phá giá ở mức độ 2% hầu như không ảnh hưởng đến khối lượng nh ập kh ẩu, trong khi kim ngạch nhập khẩu còn có thể gia tăng do giá hàng hóa nhập khẩu đắt hơn. Trong khi đó, cần phải phá giá ở mức độ cao hơn nữa mới có th ể làm cho hàng hóa Vi ệt Nam có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, và theo đó tăng m ạnh đ ược kim ng ạch xu ất kh ẩu. Sau m ột số năm lạm phát tăng thường xuyên, cao hơn nhiều so với t ốc độ m ất giá của ti ền đ ồng, hi ện nay tỷ giá danh nghĩa đang rời xa tỷ giá thực, khiến đồng Viêt Nam thực tế đang được định giá khá cao ̣ khoảng 12%, ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh thương mại quốc tế của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tác động không quá lớn, ngoại trừ làm quá trình giảm lãi suất gặp thêm khó khăn Tác động của đợt phá giá tiền đồng lần này sẽ không quá lớn, ngoai tr ừ có th ể khi ến vi ệc gi ảm mặt bằng lãi suất trở nên khó khăn hơn. Tiền đồng chính thức m ất giá s ẽ gây ra những bi ến đ ộng tâm lý cho người dân. Nếu như trước đây, tỷ giá ổn định, chênh lệch lãi su ất ti ết kiệm tiền VND và USD lên đến 6-7%, người dân có xu hướng gửi tiết kiệm tiền đ ồng thay vì ti ền USD. Trong 7 tháng đầu năm, huy động tiền VND lên đến 19.4% trong khi huy động USD giảm 2.4%. Nhưng v ới đợt mất giá tiền đồng 2% này, chênh lệch lãi suất không còn quá h ấp d ẫn, ng ười dân có th ể thay đổi hành vi, nắm giữ USD nhiều hơn, và theo đó, tăng trưởng huy đ ộng tiền đ ồng s ẽ b ị ảnh hưởng, lãi suất vì thế cũng khó giảm hơn. Kỳ vọng lạm phát tăng cũng là nguyên nhân khi ến cho mặt bằng lãi suất vốn đã khó giảm xuống, nay lại càng khó hơn. Lạm phát cũng sẽ bị ảnh hưởng, thông qua kênh nhập khẩu các đầu vào của nền kinh t ế, t ừ đó gia tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, cũng như gia tăng giá các hàng hóa tiêu dùng nh ập kh ẩu. Tuy nhiên, động thái tăng tỷ giá lần này cũng ch ỉ là h ợp thức hóa vi ệc tăng chi phí đ ầu vào c ủa doanh nghiệp từ hơn một tháng nay. Các DN ít khi mua được USD với giá các NHTM niêm yết, mà thường phải trả thêm phí, hoặc phải mua giá cao ở TT tự do. Vì thế, yếu t ố tăng t ỷ giá có th ể đã được phản ánh qua giá cả và lạm phát tháng 8, và do đó, ở những tháng kế tiếp, tác động s ẽ không còn quá lớn. Các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ gia tăng. Tuy nhiên, tính đ ến cu ối năm 2009, n ợ n ước ngoài của Việt Nam chiếm 39% GDP, trong đó, vay n ợ bằng đồng USD ch ỉ chiếm 16.61%, còn l ại là đồng Yên (chiếm 41.96%) và các đồng tiền khác. Vì th ế tỷ giá tăng 2% không có tác đ ộng nhi ều đến khoản nợ vay nước ngoài. Chính cơ cấu đồng tiền vay khá đa dạng đã khiến n ợ qu ốc gia Việt Nam giảm thiểu được khá nhiều rủi ro về tỷ giá. 10
  11. Bên cạnh những tác động tiêu cực nhưng không quá lớn nêu trên, vi ệc gi ảm giá nh ẹ VND th ực ra lại là bước đi phản ánh đúng hơn giá trị thực của tiền đồng, làm cho thị tr ường ngo ại t ệ đ ược thông suốt hơn, chênh lệch tỷ giá tự do và tỷ giá NHTM có thể được rút ngắn trở lại, và ít gây tâm lý hoang mang cho người dân. Tăng tỷ giá còn khiến cho d ư địa chính sách tiền t ệ r ảnh rang h ơn, hỗ trợ thêm cho NHNN tăng cường tác động đến thị trường để hỗ trợ giảm lãi su ất. Đ ồng Vi ệt Nam giảm giá cũng kích thích các nhà đầu tư nước ngoài tiếp t ục và tăng cường đ ầu t ư gi ải ngân, đóng góp thêm vào cán cân thanh toán, tài trợ bổ sung cho thâm hụt thương m ại. Sức ép tỷ giá vẫn còn tiếp tục cho đến cuối năm Sức ép đối với tỷ giá có lẽ là bài toán chưa có lời giải trọn vẹn. Việc phá giá tiền đ ồng 2% ở th ời điểm này chỉ có thể làm nhẹ đi tạm thời căng thẳng trên thị trường ngoại hối, còn rủi ro t ỷ giá v ẫn tồn tại và có thể tăng cao hơn nữa vào cuối năm. Bản chất của vấn đề là tiền đồng vẫn bị định giá cao, và vì thế luôn luôn có s ức ép gi ảm giá. T ừ năm 2004, mặc dù tỷ giá danh nghĩa luôn có xu hướng tăng, nhưng mức độ mất giá quá thấp so v ới tỷ lệ lạm phát cao, tỷ giá thực tế (REER) VND lại có xu hướng giảm, tiền đ ồng th ực t ế lên giá quá cao. Tính đến cuối năm 2009, VND đã lên giá thực tế 12% so v ới đ ồng tiền c ủa các đ ối tác thương mại chính, nếu so sánh với năm gốc 2000. Từ đầu năm 2010 cho đ ến nay, ti ền đ ồng đã chính thức giảm giá 5.3%, trong khi lạm phát vẫn ở mức cao tương đối so với th ế giới, đ ồng VND tiếp tục bị định giá cao khiến cạnh tranh thương mại của Việt Nam bị suy gi ảm, nh ập siêu vì th ế đã tăng mạnh, đặc biệt là 3 năm trở lại đây, và theo đó, vẫn gây sức ép giảm giá tiền đ ồng. Bên cạnh vấn đề nhập siêu vẫn chưa thể giải quyết triệt để, áp lực đến giá trị VND vẫn còn t ồn tại, do đợt thay đổi tỷ giá lần này vẫn không làm thay đổi được bản chất cung cầu các dòng ngo ại tệ trong nội tại nền kinh tế đã hiện diện từ quý 3, như là hệ quả của việc tăng trưởng tín dụng ngoại tệ quá nóng ở thời điểm 2 quý đầu năm. Và chắc chắn, vấn đề tỷ giá từ nay cho đến cuối năm sẽ trở thành trung tâm chú ý của thị trường, thay cho lạm phát của những tháng đ ầu năm. d. quỹ bình ổn tỷ giá: 11
  12. 1. Dự trữ ngoại hối * Dự trữ ngoại hối nhà nước là tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước được thể hiện trong bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà n ước là cơ quan quản lý dự trữ ngo ại hối nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc t ế, bảo toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước. * Dự trữ ngoại hối nhà nước bao gồm : - Ngoại tệ tiền mặt, số dư ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi ở nước ngoài; - Hối phiếu và các giấy nhận nợ của nước ngoài bằng ngoại tệ; - Các chứng khoán nợ do Chính phủ, ngân hàng nước ngoài, t ổ ch ức ti ền t ệ ho ặc ngân hàng quốc tế phát hành, bảo lãnh; - Vàng tiêu chuẩn quốc tế; - Các loại ngoại hối khác. * Nguồn hình thành: - Ngoại hối hiện có thuộc sở hữu của Nhà nước do Ngân hàng Nhà n ước quản lý; - Ngoại hối mua từ ngân sách nhà nước và mua từ thị trường ngoại tệ và th ị trường vàng trong nước; - Ngoại hối từ các khoản vay ngân hàng và tổ chức tài chính quốc t ế; - Ngoại hối từ các nguồn khác. * Quản lý dự trữ ngoại hối: Dự trữ ngoại hối nhà nước được lập thành hai quỹ : - Quỹ dự trữ ngoại hối: nhiệm vụ chính là đảm bảo diều hoà nguồn ngoại hối và phát triển quy mô quỹ dự trữ. - Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng: được sử dụng là công cụ của NHNN để can thiệp vào th ị trường ngoại tệ và thị trường trong nước. 2. Hoạt động của Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng: NHNN sử dụng nguồn ngoại hối dự trữ để phục vụ cho việc điều hành tỷ giá thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá xuất phát từ thị trường, tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu, do vậy để giữ tỷ giá ổn định hoặc điều chỉnh tỷ giá theo m ục tiêu nào đó, NHNN s ẽ điều chỉnh cung hoặc cầu bằng cách bán ngoại tệ ra hoặc mua ngoại t ệ vào; sự can thi ệp này c ần phải có sự chính xác về t hời điểm can thiệp, loại ngoại tệ can thiệp, tỷ giá can thiệp, s ố lượng ngoại tệ can thiệp, hình thức can thiệp. * Ưu điểm: Rõ ràng nhất là NHNN có thể điều chỉnh tỷ giá một cách tích cực, linh hoạt, t ự nhiên. * Nhược điểm: - Một nhược điểm dễ thấy nhất là nghiệp vụ này đòi hỏi ngoại hối phải đ ược qu ản lý t ập trung từ các nguồn khác nhau vào một đầu mối duy nhất là NHNN, do v ậy hiệu quả của công cụ phụ thuộc vào khả năng của quỹ dự trữ ngoại hối. - Việc điều hành tỷ giá như thế nào trong từng thời kỳ thường là sự k ết hợp hi sinh của các mục tiêu kinh tế vĩ mô chẳng hạn như lạm phát, nền kinh tế hướng nội hay hướng ngoại do vậy việc xác định chính xác mức độ can thiệp để thực sự có hiệu quả là m ột vấn đề khó. 3. Liên hệ Việt Nam: Về khả năng của nguồn dự trữ ngoại hối và khả năng bình ổn tỷ giá: Giai đoạn trước 1990: Cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tỷ giá cố định bất hợp lý, chế độ đa tỷ giá. * Trước 1986: Chúng ta chủ yếu xác lập tỷ giá giữa VNĐ với Rúp Nga và với đồng Rúp chuyển nhượng (là đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước trong kh ối SEV). * 1986 – 1990: Bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì xuất hiện luồng ngoại tệ Đô la Mỹ (USD) vào ra Việt Nam. Cũng từ đó, thị trường ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trường USD đã bắt đầu bộc phát một cách mạnh mẽ từ các dòng kiều hối của kiều bào về nước, lượng lớn USD cất trữ từ khi giải phóng Miền Nam, và dòng chảy hàng buôn lậu qua biên giới. Mức tỷ giá hối đoái được hình thành và vận động theo những tín hiệu của quy luật thị trường và đã có một sự chênh lệch lớn so với tỷ giá chính thức, đặc biệt là vào năm 1988 ( tỷ giá chính thức thấp hơn thị trường là 400%). 12
  13. => Điều này dẫn đến việc các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại t ệ lại tìm cách không bán cho Ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở Ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng t ừ n ước ngoài vào s ử dụng hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường. Do đó, cơ chế tỷ giá thời kỳ này đã trở thành 1 yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán trên thị trường tự do. Giai đoạn 1990 – nay: Chúng ta đã thiết lập hệ thống tỷ giá điều chỉnh theo tín hiệu thị trường * 1990 -1992: Sự “thả nổi” tương đối mạnh trong vận động tỷ giá - Trong thời kỳ này, tỷ giá trên thị trường biến động mạnh, đặc biệt cú sốc năm1991 (1USD=13000VNĐ) nhưng cũng không thể cải thiện đáng kể tình hình cán cân thương mại ngay. - Hệ thống các tổ chức tín dụng bất ổn, hơn nữa, trong giai đoạn này ngu ồn thu ngo ại t ệ không được quản lý chặt chẽ làm cho dự trữ ngoại tệ của quốc gia tăng chậm hoặc không tăng. * 1992 – 1997: Xu hướng cố định tỷ giá (tỷ giá chính thức với biên độ giao động) - Mục tiêu thiên về “hướng nội”, nổi bật là khuyến khích tích lũy giá trị dưới dạng nội t ệ hơn là ngoại tệ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện NK máy móc thiết bị kỹ thuật => Cải thiện mạnh mẽ nguồn dự trữ ngoại tệ (1992). - Tuy nhiên, vào cuối giai đoạn này VNĐ bị đánh giá quá cao m ột cách gi ả t ạo so v ới USD. Tình trạng này đã gây thâm hụt lớn cán cân vãng lai ( khoảng 13 -16% GDP năm 1995, 1996), n ợ nước ngoài gia tăng, dự trữ ngoại tệ tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu … dẫn đến việc không thể thực hiện được mục tiêu cân bằng ngoại tệ. - Từ năm 1994, sự thay đổi cơ bản trong cơ chế điều hành tỷ giá với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và khuyến khích các NHTM tích cực tham gia vào thị trường ngo ại tệ (Quyết định số 245/QĐ-NH7 03/10/1994). Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cho thấy sự chú trọng tăng cường thực lực kinh tế cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách tăng mạnh quỹ dự trữ ngoại tệ, lập quỹ bình ổn giá. Những đổi mới này đã phần nào xóa đi tâm lý găm giữ ngoại tệ, góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý ngoại tệ từ đó ổn định tỷ giá. * Giai đoạn sau khủng hoảng (1999) - nay: tỷ giá linh hoạt có điều tiết Trong những năm gần đây, thâm hụt cán cân vãng lai đã được thu hẹp đáng kể bởi có sự gia tăng trong hạng mục chuyển giao đơn phương mà chủ yếu là lượng kiều hối chuyển về nước ngày càng tăng. Mặt khác dòng vốn đầu tư chảy vào VN ngày càng tăng từ nhiều kênh khác nhau đã phần nào tài trợ cho thâm hụt cán cân thương mại và do vậy dự trữ ngoại hối tăng lên (Có th ời điểm dự trữ đã lên đến hơn 12 tuần nhập khẩu). - Cùng với cơ chế điều hành tỷ giá mới, hoạt động của quỹ bình ổn giá cũng góp phần vào việc ổn định tỷ giá, kéo sát tỷ giá quy định với tỷ giá thị trường với biên độ giao động hiện nay là 2%, bên cạnh đó, với chính sách thắt chặt tiền tệ hiện nay, tỷ giá cũng đã được điều hành theo xu hướng giảm nhằm mục tiêu kiểm soát nhập siêu, kiềm chế lạm phát, tạo điều kiện ổn định phát triển kinh tế. - Bên cạnh đó, điều hành tỷ giá bằng việc can thiệp vào thị trường ngoại tệ ở VN vẫn chưa thực sự là một công cụ được sử dụng hữu hiệu, là vì: Quản lý ngoại hối còn nhiều vấn đề: + Sự tồn tại của thị trường chợ đen đã có những tác động tiêu cực tới cung cầu ngoại t ệ của nền kinh tế. + Diễn biến trên đây phần nào cho thấy có khả năng lượng cung lớn hơn cầu ngoại t ệ. Đáng lý ra khi cung lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá VND/USD sẽ có xu hướng giảm xuống, nghĩa là VND tăng giá. Tuy nhiên trên thực tế, liên tục trong nhiều thời điểm, VND ph ải ch ịu áp l ực gi ảm giá. Nghịch lý này phản ảnh một tình trạng “dư cầu” trong nền kinh tế. Nguyên nhân là ở quản lý và phân bổ ngoại tệ giữa các khu vực của nền kinh tế: Về phương diện pháp lý, tất cả nguồn thu chi ngoại tệ của các khu vực nền kinh tế đều phải bắt buộc luân chuyển thông qua hệ thống ngân hàng, khi cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại t ệ của các khu vực trong nền kinh tế thì lượng ngoại tệ của ngân hàng sẽ tăng lên. Nh ững diễn biến ở trên cho thấy, trong khi hệ thống ngân hàng của chúng ta hiện đang nắm giữ một số lượng khoảng 9 tỷ USD ngoại tệ, thì sự kiện Chính phủ lại phát hành 750 triệu USD trái phiếu quốc tế với lãi suất khá cao lại đặt nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời, m ặc dù chính ph ủ có gi ải thích r ằng 13
  14. việc phát hành trái phiếu quốc tế lần này chỉ là bước thăm dò sự hội nhập của VN vào thị trường vốn quốc tế. Điều này cho thấy cơ chế quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia hiện nay nói riêng và điều hành kinh tế vĩ mô vẫn còn khá nhiều bất cập. - Cung từ các NHTM: Trong một số thời điểm, hệ thống các NHTM đã gửi m ột lượng lớn ngoại tệ ra nước ngoài mà không bán ngoại tệ cho NHNN để tăng dự trữ ngoại hối qu ốc gia. Vi ệc các hệ thống NHTM nắm giữ một lượng lớn ngoại tệ ở nước ngoài mà không bán cho NHNN suy cho cùng là do chính sách tiền tệ vẫn chưa hoạt động hữu hiệu. - Cung từ DN XK: DN gửi ngoại tệ vào các NHTM là hạn chế, như diễn biến gần đây Chính phủ đã phải yêu cầu các DN bán ngoại tệ cho các NH là chúng ta th ấy rõ đi ều đó (26/2009- NHNN quy định việc mua-bán ngoại tệ của một số Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước). - Cung từ khu vực dân cư: người dân gửi tiền vào ngân hàng dưới dạng tiết kiệm bằng ngoại tệ đã hạn chế khả năng của các NHTM trong việc bán chúng ra trên th ị trường ngo ại h ối hoặc bán cho NHNN. Thêm vào nữa, mặc dù đã quy định là hạn chế sử dụng ngoại hối trong giao dịch nhưng rõ ràng là việc thanh toán bằng ngoại tệ đã đang diễn ra ngày càng phổ biến, t ất nhiên hi ện t ượng này chỉ mang tính cục bộ tức là nó chỉ xảy ra ở một số lĩnh vực mặt hàng cũng như ở một số khu vực dân cư nhưng nó cũng gây khó khăn trong việc quản lý ngoại hối. III. liên hệ với VN: chính sách qua các giai đoạn Giai đoạn 1955- 1989  Nhà nước độc quyền về ngoại thương, ngoại hối  Nhà nước độc quyền ban hành và ấn định TG  Chế độ tỷ giá cố định, đa tỷ giá với tính chất phi thị trường sâu sắc • Hậu quả: - VNĐ được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do chuyển đổi - TG chính thức chênh lệch xa TG thị trường  XK khó khăn, CCTM thâm hụt nặng Giai đoạn 1989-1991 NĐ 161/HĐBT “Điều lệ quản lý ngoại hối”  Chế độ TG cố định: đơn TG  Thế độc quyền kinh doanh ngoại hối bị dỡ bỏ  TG được điều chỉnh mạnh theo tín hiệu thị trường nhằm đưa VNĐ về với giá trị cân bằng và sát với TG trên thị trường tự do  TG trên thị trường biến động mạnh, USD lên giá  Nỗ lực quản lý ngoại tệ của Chính phủ kém hiệu quả Những thay đổi về chính sách và cơ chế của cơ quan nhà nước Thay thế biệ pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định, bằng biệ pháp kinh tế: mở trung tâm giao dịch ngoại t ệ để cho các DN và ngân hàng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo giá th ỏa thu ận. trung tâm giao dịch tp.hcm đc mở thừ tháng 8/1991  Với sự can thiệp của NHNN thông qua mua bán ngoại tệ tại các phiên giao dịch đã giải t ỏa được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn chặn được xu hướng tăng giá quá $mức trên tt. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt đầu giảm. tỷ giá VND/USD thời điểm cuối năm 1991 t ại tt t ư nhân HN có lúc lên đến 14500, cuối t3/1992 chỉ còn 11550 và tiếp t ục giảm cho đến cu ối năm 1992 Giai đoạn 1992-2/1999  Tỷ giá chính thức được ấn định trên cơ sở  10/1991-31/12/1994: đấu thầu tại Trung tâm giao dịch ngoại tệ  1/1995-2/1999: TG giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên NH  Nội dung TG đã hàm chứa yếu tố cung cầu ngoại tệ toàn diện và khách quan hơn so với trước tuy nhiên vẫn tồn tại những hạn chế vốn có của chế độ TG cố định 14
  15.  Đứng trước khó khăn về cung cầu ngoại tệ cho thanh toán quốc tế,các chính sách lớn và hành động của ngân hàng nhà nước: Chẳng hạn như thời kỳ khủng hoảng tiền tệ khu vực, Ngân hàng Nhà n ước đã trình và ph ải đ ược phép của Bộ Chính trị mới được điều chỉnh tỷ giá và phải đến 7 lần điều chỉnh để đưa tỷ giá từ khoảng 10.500 đồng/USD vào trước khủng hoảng lên xấp xỉ 15.000 đồng/USD khi kết thúc khủng hoảng. Suốt thời kỳ ấy, điều chỉnh tỷ giá là con đường duy nhất để giữ cân bằng thị trường trước những kỳ vọng phá giá khi mà anh không có dự trữ để can thiệp các văn bản liên quan:  Quyết định 64/1999/QĐ-NHNN về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam đối với các ngoại tệ.  Quyết định 679/2002/QĐ-NHNN về một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ.  Quyết định 1452 /2004/QĐ-NHNN về quy chế giao dịch hối đoái của các TCTD được phép hoạt động ngoại hối  Quyết định 1081/2004/QĐ-NHNN Về trạng thái ngoại tệ của các t ổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối  Pháp lệnh ngoại hối 28/2005/PL-UBTVQH11  Quyết định số 07/2007/QĐ-NHNN về lãi suất tiền gửi bằng đô la Mỹ của pháp nhân tại tổ chức tín dụng  QĐ 46/2003/QĐ-TTg về tỷ lệ kết hối  Giảm tỷ lệ kết hối bắt buộc đối với các nguồn thu ngoại tệ xuống còn 0% (QĐ 46)  Nâng mức trạng thái ngoại tệ cuối ngày của NHTM từ 15% lên 30% vốn t ự có (QĐ 1081)  Bỏ mức lãi suất trần đối với tiền gửi bằng USD (QĐ 07)  Thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết (Quyết định 64/1999/QĐ-NHNN)  NHNN không ấn định tỷ giá chính thức mà thông báo tỷ giá giao dịch BQLNH TG kinh doanh= TGBQLNH(± biên độ tỷ giá) Biên độ tỷ giá liên tục được nới rộng  TG biến động chỉ trong giới hạn  TG cố định trong suốt một ngày giao dịch  TGBQ là do NHNN tính toán nên chưa hoàn toàn thoát khỏi ý chí chủ quan trong điều hành chính sách tỷ giá của NHNN.  25/12/08: NHNN tăng mạnh TGBQLNH thêm 3% so với mức 16.494 VND/ 1 USD của ngày 24/12 lên 16.988 VND/ 1 USD  18/3/09: Chấn chỉnh hoạt động mua bán ngoại tệ (Công văn 1819/NHNN-QLNH)  23/3/09: Tăng biên độ tỷ giá lên ±5% (QĐ 622/2009/QĐ-NHNN) Một số quyết định gần đây 25/12/08: NHNN tăng mạnh TGBQLNH thêm 3% so với mức 16.494 VND/ 1 USD của ngày 24/12 lên 16.988 VND/ 1 USD 18/3/09: Chấn chỉnh hoạt động mua bán ngoại tệ (Công văn 1819/NHNN-QLNH) 23/3/09: Tăng biên độ tỷ giá lên ±5% (QĐ 622/2009/QĐ-NHNN) IV: Kết luận: 15
  16. Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chính sách TGHĐ ph ải liên t ục được hoàn thiện và điều chỉnh thích ứng với môi trường trong nước và quốc tế thường xuyên thay đổi. Để góp phần khai thác tối đa những lợi ích và giảm thiểu những tổn thất từ hội nhập kinh t ế qu ốc tế, chính sách TGHĐ ở Việt Nam trong thời gian tới cần hoàn thiện theo nh ững đ ịnh h ướng cơ b ản sau: Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà n ước. Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách t ỷ giá th ả n ổi có qu ản lý đ ể thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì ch ế đ ộ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng v ới điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà n ước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá. Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ m ột cách h ợp lý các doanh nghiệp trong nước. Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đ ẩy m ạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng v ề sản xuất và tiêu dùng nội địa. Giải pháp Trên cơ sở khoa học trên chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện chính sách TGHĐ ở Việt Nam Một là: Thường xuyên phân tích tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong n ước để đề ra được chính sách TGHĐ phù hợp cho từng giai đoạn. Hai là: Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam. - Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển xu ất kh ẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu s ản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu qủa. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong d ự trữ ngo ại t ệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị m ất giá. - Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định t ỷ giá, xóa b ỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đ ổi cho đ ồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính ch ủ đ ộng trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại … Ba là: Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ mình. Bốn là: Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết để qua đó nhà n ước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng , song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, t ạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng. Năm là: Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh TGHĐ Việt Nam. Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ này là +/- 0.25%). Ngân hàng Nhà nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi động và tránh hiện tượng găm giữ đô la. Sáu là: Thực hiện chính sách đa ngoại tệ. Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại t ệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào 16
  17. ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi. Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm m ột s ố đ ồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt ch ẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn v ới m ột rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa. Bảy là: Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam. Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh t ế nh ư: hi ện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng … Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền chuyển đổi được sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la hóa nền kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động hơn. Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào chính sách qu ản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ chu chuyển vốn được đẩy mạnh, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại t ệ dự trữ và n ền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam phải được nhanh chóng cải thiện. Tám là: Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là m ột loại giá cả được quyết đ ịnh b ởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ. Chín là: Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào t ỷ giá đ ạt hiệu qu ả cao. Chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở n ội tệ. Tuy nhiên, NVTTM nội tệ là công cụ quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định đến sự thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực vào việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá s ẽ tăng cung nội tệ, dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng hóa giao dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát do đó cũng giảm theo. Đối với chính sách tài chính tiền tệ, tăng cường sử dụng nguồn vốn trong nước để bù đắp thiếu hụt ngân sách, phương án tốt nhất để thực hiện bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là bằng vốn vay trong nước, hạn chế tối đa việc vay nợ nước ngoài. Mười là: Xem phá giá nhỏ như là một biện pháp kích thích xuất khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại. Trong điều kiện hiện nay, một chính sách giảm giá nhẹ đồng Việt Nam sẽ có thể tác đ ộng tích cực trong việc cải thiện đồng thời cả cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài: khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có, làm tăng việc làm, sản lượng và thu nhập của nền kinh tế, trong khi vẫn kềm chế được lạm phát ở mức thấp. Mười một: Vận dụng dự báo tỷ giá để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Hoạt động dự báo có m ột tầm quan trọng rất lớn trong việc phòng ngừa rủi ro hoặc đầu cơ. NHTW có thể sử dụng các nhân tố cơ bản như thuyết PPP, hiệu ứng Fisher quốc tế để dự báo. Ngoài ra, NHTW cần theo dõi, phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế một cách có hệ thống để có những cơ s ở vững chắc cho đánh giá, dự báo sự vận động của các đồng tiền chủ chốt. Mười hai: Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro. Trong điều kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần phải gấp rút triển khai các công cụ phòng ngừa r ủi ro. Chính phủ đã cho phép các NHTM thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro t ỷ giá như h ợp 17
  18. đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi bằng ngoại t ệ ph ải nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Chúng tôi cho rằng chính sách TGHĐ Việt Nam trong thời gian t ới phải được phối hợp đ ồng b ộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác mới đem lại hiệu quả cao cho n ền kinh t ế. Đ ể đ ạt được mục tiêu của chính sách đó Đảng, Chính phủ Việt Nam cần phải có những bước đi phù h ợp. Chúng tôi hy vọng rằng trong thời gian tới việc quản lý ngoại hối ở Việt Nam sẽ có những bước cải tiến đáng kể đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2