intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Biểu tượng trong lễ hội Rija Praong của người Chăm ở Nam Trung Bộ

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

49
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Rija Praong là lễ hội múa lớn nằm trong hệ thống lễ hội dân gian của người Chăm do tộc họ tổ chức, có ảnh hưởng của văn hóa Hồi giáo từ Malaysia. Bài viết trình bày một số biểu tượng và ý nghĩa của nó trong lễ hội Rija Praong của người Chăm vùng Nam Trung Bộ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Biểu tượng trong lễ hội Rija Praong của người Chăm ở Nam Trung Bộ

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 32 (57) - Thaùng 9/2017<br /> <br /> <br /> <br /> Biểu tượng trong lễ hội Rija Praong<br /> của người Chăm ở Nam Trung Bộ<br /> Symbols in the Rija Praong festival among Cham people in South Central Vietnam<br /> <br /> ThS. Từ Thị Phi Điệp,<br /> Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ<br /> <br /> Tu Thi Phi Diep, M.A.,<br /> Southern Institute of Social Sciences<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Rija Praong là lễ hội múa lớn nằm trong hệ thống lễ hội dân gian của người Chăm do tộc họ tổ chức, có<br /> ảnh hưởng của văn hóa Hồi giáo từ Malaysia. Đây là một trong những nghi lễ quan trọng trong hệ thống<br /> lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm mang tính ma thuật, nghiêng về phương thức trình diễn, múa hát,<br /> kịch nghệ nhằm để chữa bệnh, cầu cúng tổ tiên và vị thần linh phù hộ độ trì dân chúng. Nhiều biểu<br /> tượng nghi lễ, diễn xướng xuất hiện trong lễ hội này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nguồn gốc của lễ hội<br /> và sự gửi gắm những tâm tư, nguyện vọng của họ đến thần linh, gia đình, tộc họ, thông qua đó hiểu<br /> được những giá trị của văn hóa Chăm trong sự giao lưu tiếp biến với văn hóa bên ngoài. Bài viết trình<br /> bày một số biểu tượng và ý nghĩa của nó trong lễ hội Rija Praong của người Chăm vùng Nam Trung Bộ.<br /> Từ khóa: biểu tượng, âm nhạc, múa, người Chăm, Rija Praong.<br /> Abstract<br /> Rija Praong is a big dancing festival in the set of folk festivals held by Cham families, due to the<br /> influence of Islamic culture from Malaysia. It is one of the important religious rites of Cham people,<br /> imbued with the witchcraft practice and inclined to the folk dancing, singing and dramatic performance<br /> for the purpose of curing sick people, making worship to the ancestors and the deities, and asking for<br /> blessing. Many ritual symbols and performing activities carried out in the festival provide us with<br /> further understanding of the origin of the festival as well as the aspirations and desires that Cham people<br /> would like to pray for and whereby we can realize the folk cultural values of Cham people in the<br /> acculturation and exchange with the external cultures. The paper focuses on describing some symbols<br /> and their meanings in the Rija Praong festival of Cham people in South Central Vietnam.<br /> Keywords: symbol, music, dance, Cham people, Rija Praong.<br /> <br /> <br /> 1. Một vài quan niệm về biểu tượng nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho<br /> Về mặt thuật ngữ, biểu tượng (symbol chính bản thân nó”. Biểu tượng có tính đa<br /> trong tiếng Anh) là một từ bắt nguồn từ nghĩa nhưng chúng ta có thể chia làm hai<br /> ngôn ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong nghĩa chính là biểu hình (visible sign) và<br /> tiếng La Mã và symbolon trong tiếng Hy biểu ý (idea). Ở giai đoạn ban đầu có lẽ<br /> Lạp). Theo Từ điển biểu tượng (Dictionary ngôn ngữ biểu tượng thường mang tính<br /> of Symbols) của C. G. Liungman thì đơn giản và ước lệ. Về sau, do sự phát triển<br /> “những gì được gọi là biểu tượng khi nó của xã hội loài người, ngôn ngữ biểu tượng<br /> được một nhóm người đồng ý rằng nó có ngày càng được mở rộng đến mọi thành tố<br /> <br /> 130<br /> TỪ THỊ PHI ĐI P<br /> <br /> <br /> văn hóa và mọi mặt đời sống của con thông qua tính “động” đặc thù của văn hóa.<br /> người. Bên cạnh đó, ý nghĩa của các biểu Quan điểm của Victor Turner và<br /> tượng cũng ngày càng rộng lớn hơn, trừu Clifford Geertz về thuyết nhân học biểu<br /> tượng hơn và tính chất biểu đạt cũng không tượng như sau: “Biểu tượng là đơn vị nhỏ<br /> còn ranh giới giữa biểu hình và biểu ý như nhất của nghi lễ, cái giữ lại những thuộc<br /> giai đoạn đầu mà thường là sự kết hợp của tính cụ thể của hành vi nghi lễ, nó đơn vị<br /> cả hai [1]. cơ bản của một cấu trúc cụ thể trong bối<br /> Biểu tượng là cách dùng hình này để cảnh nghi lễ”. “Nghi lễ là hành vi được quy<br /> tỏ nghĩa nọ, là mượn một cái gì đó để định có tính chất nghi thức dành cho những<br /> tượng trưng cho một cái gì khác. Trên tinh dịp, không liên quan đến các công việc có<br /> thần đó, có người coi biểu tượng là một cái tính chất kỹ thuật hàng ngày, mà có quan<br /> gì, ngoài ý nghĩa vốn có của nó, còn hàm hệ với các niềm tin vào đấng tối cao hay<br /> chứa một ý nghĩa khác, tức ngoài nghĩa các sức mạnh thần bí” [3].<br /> đen còn có nghĩa bóng. Ông quan tâm tới sự vận hành của biểu<br /> Biểu tượng là một sản phẩm đặc biệt tượng trong việc duy trì xã hội. Biểu tượng<br /> trong đời sống của con người. Khi chưa có vận hành trong tiến trình xã hội, khi gộp lại<br /> biểu tượng, con người chỉ sống với thực tại với nhau theo một sắp xếp nào đó trong<br /> nhưng khi đã hình thành hệ thống biểu một bối cảnh (đặc biệt là trong nghi lễ), sẽ<br /> tượng (tức là hệ thống của những sự vật, tạo nên một sự chuyển đổi xã hội căn bản.<br /> hiện tượng được gán cho các ý nghĩa) thì Diễn giải về biểu tượng có thể được rút ra<br /> con người sống đồng thời với hai thế giới: từ ba cấp độ: 1) hình dạng bên ngoài và đặc<br /> thế giới thực tại và thế giới của các biểu tính có thể quan sát, 2) diễn giải của chuyên<br /> tượng. Thật đúng như các tác giả của Từ gia và thường dân trong xã hội, 3) suy luận<br /> điển biểu tượng văn hóa thế giới đã nói: từ bối cảnh cụ thể của nhà nghiên cứu.<br /> “Chúng ta không chỉ sống trong một thế Clifford Geertz xem văn hóa là một<br /> giới biểu tượng, mà còn một thế giới biểu tập hợp có tổ chức các hệ thống biểu<br /> tượng sống trong chúng ta” [2]. tượng. Văn hoá không phải là một mô hình<br /> Nhân học biểu tượng còn được biết đến trong đầu con người mà nằm trong biểu<br /> với một cái tên khác là nhân học diễn giải tượng và hành động tập thể. Biểu tượng là<br /> (interpretive anthropology) một bộ môn phương tiện chuyển tải ý nghĩa. Ông không<br /> khoa học nơi các nhà khoa học ủng hộ việc quan tâm tới việc biểu tượng thể hiện chức<br /> giải thích văn hoá thông qua ý nghĩa của năng văn hoá ra sao, mà xem xét biểu<br /> các biểu tượng. Quan niệm của các nhà tượng ảnh hưởng đến cách con người nghĩ<br /> nhân học theo trường phái này là tiếp cận về thế giới của họ như thế nào.<br /> các “quan điểm bản địa” (native point of Lý thuyết biểu tượng và diễn giải của<br /> view) để tìm hiểu tính chất trừu tượng và đa Victor Turner, Clifford Geertz giúp bài viết<br /> nghĩa của các biểu tượng. Tại đây các biểu phân tích và giải thích ý nghĩa những biểu<br /> tượng được sáng tạo và sử dụng trong cộng tượng xuất hiện trong diễn trình nghi lễ<br /> đồng và trong quá trình giao tiếp của xã hội trong lễ hội Rija Praong của người Chăm.<br /> loài người. Mỗi biểu tượng đặc trưng Trong lễ hội này, các biểu tượng luôn đi<br /> thường đại diện cho một ý nghĩa văn hóa thành cặp đôi như thầy Maduen gắn với bà<br /> riêng nhưng sự cộng hưởng của chúng lại Raja, thầy Maduen gắn với trống baranưng,<br /> chính là sự định dạng của đời sống văn hóa Ciét atau và hai chiếc thuyền… Đây cũng<br /> <br /> 131<br /> BIỂU TƯỢNG TRONG LỄ H I RIJA PRAONG CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NAM TRUNG B<br /> <br /> <br /> là những cặp biểu tượng mang yếu tố nhị tầng cao khoảng 40cm. Đây là vật lễ chính,<br /> nguyên trong cấu trúc lễ. Những cặp biểu đặt trang trọng ở chính giữa bàn tổ của nhà<br /> tượng này phản ánh cốt lõi nội dung và ý lễ. Khai trầu là nơi trú ngụ của các vị thần<br /> nghĩa của lễ. Đó là tục tôn thờ tổ tiên, tôn và cũng là biểu tượng cho linh hồn của các<br /> thờ các vị thần Chăm và Mã Lai, cầu mong vị thần được thờ cúng trong lễ Rija Praong.<br /> con người thoát khỏi bệnh tật, sức khỏe dồi Thon Hala có 3 tầng tượng trưng cho<br /> dào, sinh sôi nảy nở, bình an. cái tháp - tượng trưng cho Pô Bành Kìnà và<br /> 2. Các hình thức biểu tượng chi phối cũng là tượng trưng cho thân thể con người<br /> hoạt động trong Lễ hội Rija Praong (gồm đầu mình và tay chân) [5].<br /> Lễ Rija Praong là một tín ngưỡng dân Tranh trang trí paning<br /> gian của người Chăm mang tính ma thuật, Nhà lễ có một tranh trang trí duy nhất<br /> nghiêng về phương thức trình diễn, múa gọi là paning. Tranh này được các nghệ<br /> hát, kịch nghệ nhằm để chữa bệnh, cầu nhân Chăm vẽ trân vải, mô tả hình ảnh trần<br /> cúng tổ tiên và vị thần linh phù hộ độ trì gian và thiên đường theo từng mẫu chuyện<br /> dân chúng. Đây là lễ nghi lớn nhất và quan và sức tưởng tượng của người xưa. Một<br /> trọng nhất trong hệ thống lễ hội múa của paning thường được vẽ nhiều hình khác<br /> người Chăm. Theo Hải Liên, lễ Rija nhau như hình rồng bay, voi, ngựa, nhà<br /> Praong là lễ Trả nợ lời hứa. Khi gia tộc vua, kiệu, binh lính, dân thường. Bên cạnh<br /> làm ăn sa sút, dịch bệnh xảy ra cho người đó còn có những hình vẽ mô tả những lễ<br /> và gia súc, tai họa đến với cháu con, lúc ấy vật dâng cúng như mâm trầu, chuối, xôi,<br /> người tộc trưởng van vái bền trên phù hộ con dê… hoặc vẽ những nhạc cụ như trống<br /> cho gia tộc yên vui, làm ăn tấn tới, gia súc ghinăng. baranưng, kèn saranai… Đặc biệt<br /> đầy đàn… Họ hứa sẽ tổ chức một lễ Rija tranh còn vẽ những hình người đánh trống<br /> Praong để tạ ơn trên. Lời hứa đã nói thì nhảy múa và cuối cùng là hình ảnh quan lại<br /> phải thực hiện, cho dù gia tộc ấy có nghèo tham dự, thưởng thức lễ Rija Praong.<br /> khổ đến đâu hoặc người hứa có thể đã chết, Nội dung của tranh trang trí paning<br /> nhưng cả gia tộc phải thực hiện, có khi sau thường có 3 phần: 1) Phần trên nói về Cõi<br /> đó năm hoặc mười năm. Như vậy, việc trên (các thần linh); 2) Phần giữa nói về<br /> thực hiện lời hứa để trả nợ cho bề trên phù Quý tộc; 3) Phần dưới nói về Dân gian. Có<br /> hộ là mục đích và nguyên do sinh ra lễ Rija khi vẽ 12 con giáp, có khi vẽ các vị thần,<br /> Praong [4]. mượn hình ảnh các vị thần trong trường ca<br /> Trong suốt quá trình diễn ra lễ hội, Ramayana, cũng có ảnh hưởng của Trung<br /> người Chăm dùng những hình ảnh, vật Quốc, vẽ mái nhà có 3 cửa (tôn giáo<br /> dụng, đạo cụ, tranh vẽ… để tượng trưng Bàlamôn… vẽ xe trâu, cảnh đi lễ, thích gì<br /> cho từng sự việc mà thông qua đó họ muốn vẽ nấy nhưng không xa rời những nội dung<br /> gửi gắm những tâm tự, nguyện vọng đến trên. Sau này họ vẽ thêm các huyền thoại<br /> thần linh, gia đình, tộc họ. (từ trường ca Arya, Ramayana…) nhưng<br /> 2.1. Biểu tượng trong nghi lễ vẫn bảo đảm 3 nội dung trên. Mỗi tộc họ<br /> Khai trầu lễ có thể vẽ khác nhau, làng này vẽ khác làng<br /> Khai trầu lễ làm bằng gỗ có đế cao kia, vùng này vẽ khác vùng kia [6].<br /> khoảng 20cm, bên trên có cái mâm bằng Có thể nói, những hình vẽ trên paning<br /> phẳng đường kính khoảng 30cm. Trên khai thể hiện cấu trúc xã hội người Chăm - một<br /> trầu này người Chăm đan trầu thành ba xã hội có giai cấp và chuyên làm nghề<br /> <br /> 132<br /> TỪ THỊ PHI ĐI P<br /> <br /> <br /> nông, đi biển, làm rừng… làm lễ cúng mới tiến hành. Trống ghinăng<br /> Ciét Atau/Ciét Praok bao giờ cũng gọi là đôi trống bởi vì nó có<br /> Ciét Atau - là một loại giỏ đan bằng hai chiếc, một chiếc âm một chiếc dương;<br /> tre, hình hộp vuông có nắp đậy dùng để hoặc một chiếc cái một chiếc đực; hoặc một<br /> đựng trang phục và vật lễ của tổ tiên. chiếc trống một chiếc mái. Bản thân mỗi<br /> Trong Ciét Atau thường có ít nhất ba bộ chiếc trống có đầu âm là đầu dùng tay vỗ và<br /> trang phục, trong đó một bộ áo đỏ váy đầu dương là dùng dùi đánh, dùi trống cũng<br /> trắng, khăn chụp (thay mão) dùng để múa phải dùng loại gỗ tốt vừa có độ dai mềm và<br /> mừng vua chúa, một bộ áo váy nữ màu phải chắc. Tính năng của trống ghinăng,<br /> trắng có khăn của nữ, dùng để múa mừng một chiếc giữ nhịp chính theo quy định của<br /> Patri và một bộ áo váy nam, khăn nam mỗi bài bản đã có sẵn, một chiếc vừa điểm<br /> dùng để múa mừng Patra. Vật lễ này chỉ những nhịp phụ, gây ấn tượng rộng ràng<br /> duy nhất được bà Raja sử dụng, mặc trong độc đáo. Những người có trình độ đánh<br /> những dịp cúng lễ của tộc họ, đặc biệt trống giỏi thường là điều khiển dàn nhạc<br /> trong lễ Rija Praong để thờ cúng linh hồn hoặc là người đứng đầu dàn nhạc Theo tập<br /> của hai vị thần Patri và Patra có nguốn gốc quán tín ngưỡng, muốn học trống phải cúng<br /> người Mã Lai. Còn Ciét Praok được dùng một con gà, một chai rượu, một nải chuối.<br /> để đựng trang phục lễ của người trong họ Khi tập đánh trống, không được tập trong<br /> chết thiêng, linh hồn bất tử có khả năng nhà mà phải đưa nhau ra ngoài vườn hoặc<br /> phù hộ độ trì con cháu. Từ đó tộc họ tôn khi rừng xa nhà.<br /> lên thành vị thần của tộc họ. Cả hai Ciét Trống baranưng là loại trống tròn bịt<br /> Atau và Ciét Praok thường được người da một mặt, đường kính khoảng 0,45m.<br /> Chăm thờ đôi với nhau, được xem là biểu Mặt trống bịt da dê, thân trống bằng gỗ,<br /> tượng của linh hồn tổ tiên. xung quanh thân trống có đục 12 lỗ, mỗi lỗ<br /> 2.2. Biểu tượng trong âm nhạc được giữ chặt bằng mỗi con nem và có<br /> Trống kinăng với hình dáng thuôn dài, quấn dây mây xung quanh. Đây là bộ phận<br /> đường kính đầu nhỏ 15cm - 20cm, đường tăng giảm âm thanh và nốt nhạc của trống.<br /> kính đầu to khoảng 25cm - 30cm, chiều dài Trống này được người Chăm xem là biểu<br /> khoảng 70cm - 80cm, khi sử dụng thường tượng cho lống ngực (tim, phổi, ngũ tạng),<br /> để chéo nhau, rất giống đôi chân của một là biểu hiện cái tâm con người. Trống<br /> người ngồi vắt chéo. Tang trống là một baranưng là nhạc cụ, được xem là vật tổ<br /> thân gỗ khoét rỗng giữa, phía ngoài chằng của thầy Maduen, vỗ trống trong tư thế<br /> dây mây tạo nét thẩm mỹ và tránh khỏi vỡ. ngồi, đặt trống vào đùi, ôm sát vào ngực và<br /> Từ khi bắt đầu vào rừng đi tìm những vỗ hai tay vào trống.<br /> khúc gỗ thích hợp là phải có lễ cúng. Những Mặt trống Baranưng vẽ hình 8 lá<br /> khúc gỗ đã tìm thấy phải được giữ nguyên, (giống lá bồ đề) tượng trưng cho 8 hướng, ở<br /> khoét rỗng ruột và phơi cho đến khi thật khô giữa có biểu tượng âm dương tượng trưng<br /> tránh sự biến dạng do tác động của thời tiết, cho mặt trăng, mặt trời. Ngoài ra phần dưới<br /> da bịt vào mặt trống cũng phải tính và chọn của Baranưng có 12 cái chốt gọi là chốt<br /> rất kỹ, đến những dây mây để ràng kéo mặt tăng tượng trưng cho 12 con giáp [7].<br /> trống khi căng khi chùng như lên dây theo ý Kèn saranai là chiếc kèn làm bằng hai<br /> muốn cũng phải vào rừng chọn thận trọng, mảnh tre mỏng ghép lại, dài chừng 40cm -<br /> khi bắt đầu làm trống phải coi ngày giờ tốt 45cm, thân kèn dài chừng 20cm, khoét 7 lỗ<br /> <br /> 133<br /> BIỂU TƯỢNG TRONG LỄ H I RIJA PRAONG CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NAM TRUNG B<br /> <br /> <br /> bấm nhỏ. Loa kèn dài tới 10cm - 12cm, hoặc bằng vải, trang trí kim sa hoặc chất<br /> đường kính 4cm - 4,5cm, làm bằng sừng bắt sáng, có nơi thêm tua ở đầu quạt với<br /> hoặc ngà. Âm thanh của kèn Saranai khỏe, các sắc màu hồng, xanh, trắng rất đẹp.<br /> vang, đanh, đôi khi có tiếng rè. Kèn saranai Cũng là múa quạt, nhưng các điệu múa lại<br /> có 5 nốt âm thanh tương đương với 5 nốt rất nhiều như biyen - múa công; kamang -<br /> nhạc đồ fa sol la rê và cũng là tượng trưng múa gà lôi; Tiong - múa chim nhồng;<br /> cho 5 ngũ quan của con người. marai - múa chim trĩ… Các động tác múa<br /> Người Chăm thường dùng một hình đa dạng, mô phỏng các động tác của loài<br /> ảnh ví von để để giải thích về cấu trúc dàn chim, có khi là những cánh chim công<br /> nhạc truyền thống của mình như sau: (biyen) xòe ra làm đẹp cho đời; những con<br /> (1) Cặp trống kinăng được coi là đôi bướm giữa mùa hè bay lượn; con gà tây<br /> chân (vì hình dáng giống đôi chân, vị trí (tiong) trong vườn nhà reo lên khi đón<br /> thường để trên mặt đất, theo chiều đứng). khách. Quạt còn có thể tượng trưng cho sự<br /> (2) Chiếc trống baranưng được coi là cao sang quý phái (chalija), quạt có thể<br /> chiếc bụng (vì hình dáng tròn, dẹt), vị trí diễn tả hoàng tử giàu sang (patra). Không<br /> thường đeo trước bụng). chỉ vậy, quạt còn là vật linh thiêng đặt trên<br /> (3) Kèn saranai được coi là cái miệng. bàn thờ thần để cúng cầu mong những điều<br /> Người Chăm thường triết lý về âm tốt đẹp cho dân tộc. Quạt trên tay bà Raja<br /> nhạc của mình như sau: đôi chân phải chắc đầy bí ẩn, người con trai đạp lửa đầy sức<br /> (ý nói tiết tấu phải rành mạch, rõ ràng, chắc mạnh đánh đuổi tà ma quỷ quái. Quạt liên<br /> chắn), cái bụng phải tốt (ý nói những tiết kết xoay vòng nối tiếp nhau biểu hiện vũ<br /> tấu bổ sung của baranưng phải phong phú, trụ nơi con người đang sống, hay làn sóng<br /> phù hợp với tiết tấu của kinăng, âm sắc nhấp nhô thay nhau vỗ vào bờ…<br /> phải chuẩn xác), thì cái miệng mới nói Khăn là đạo cụ quan trọng trong điệu<br /> được những lời hay (ý nói kèn saranai mới múa khăn, được người Chăm chính tay dệt,<br /> phát huy được hết khả năng diễn tấu). Như chiều dài khoảng 1,8m - 2m, chiều ngang<br /> vậy, thông qua một cách ví von dân gian, khoảng 0,4m - 0,6m có viền hai đầu bằng<br /> người Chăm đã ý thức được vai trò quan sợi rua trắng. Khăn này chính là chiếc khăn<br /> trọng của tiết tấu trong âm nhạc truyền đội đầu thường ngày của phụ nữ Chăm.<br /> thống Chăm. Chiếc khăn cũng biểu hiện tiếng nói tâm<br /> Ceng (Chiêng) là loại nhạc cụ gõ bằng tình của các cô gái Chăm, nó như những<br /> đồng có đường kính 0,3m. Chiêng có 2 loại: cánh hoa tượng trưng cho tấm lòng trong<br /> chiêng mặt bằng và chiêng có núm. Chiêng trắng, tinh khiết, đáng yêu của các cô gái.<br /> thường dùng dùi gỗ ở đầu dùi quấn vải mềm Chính vì ý nghĩa đó nên chiếc khăn luôn<br /> để gõ, sử dụng trong các lễ hội Chăm như lễ luôn có màu trắng. Khi biểu diễn, người<br /> múa Rija, tế lễ thần linh Puis, payak, ngoài nghệ sĩ cầm khăn, dùng cổ tay hất khăn<br /> ra còn được sử dụng trong đám tang. Bên lên, lúc khoan thai, nhẹ nhàng, khi mạnh<br /> cạnh chiêng còn có Mã la nhưng nhạc cụ mẽ, dứt khoát theo nhịp của nhạc.<br /> này do người Raglai biểu diễn nhân ngày 3. Kết luận<br /> hội cúng lễ ở đền tháp…” [8]. Lễ hội Chăm là một bức tranh văn hóa<br /> 2.3. Biểu tượng trong múa dân gian sống động, đầy màu sắc, trong đó<br /> Quạt là đạo cụ múa có mặt trong nhiều diễn xướng dân gian là một nét văn hóa<br /> điệu múa dân gian, được làm bằng giấy nghệ thuật liên quan đến phong tục, đời<br /> <br /> 134<br /> TỪ THỊ PHI ĐI P<br /> <br /> <br /> sống tín ngưỡng, có nhiều phần nghiêng về 4. Hải Liên (1999), Vai trò âm nhạc trong lễ hội<br /> phương thức trình diễn. Trong đó, Rija dân gian của tộc người Chăm ở Ninh Thuận,<br /> Nxb. Âm nhạc, Hà Nội, tr.110.<br /> Praong được xem là một lễ hội diễn xướng<br /> 5. Trần Phương Nguyên - Từ Thị Phi Điệp<br /> dân gian tổng hợp với đầy đủ yếu tố trình (2014), Tài liệu điền dã tại Ninh Thuận,<br /> diễn như văn chương, sự tích, trò chuyện phỏng vấn sâu Maduen Thiên Sanh Thềm,<br /> (tuồng); nghệ thuật ca múa nhạc; và sân ngày 16/8/2014, tại làng Hữu Đức.<br /> khấu như là đền tháp, nhà lễ… Nghệ thuật 6. Trần Phương Nguyên - Từ Thị Phi Điệp<br /> biểu diễn ấy không chỉ dừng lại bằng (2014), Tài liệu điền dã tại Ninh Thuận,<br /> những động tác tượng trưng, trong một một phỏng vấn sâu Đàng Năng Thọ, 19/8/2014, tại<br /> làng Bàu Trúc.<br /> khung cảnh ước lệ, mà nó là một nghệ<br /> 7. Trần Phương Nguyên - Từ Thị Phi Điệp<br /> thuật biểu diễn dân gian vừa mang tính ước (2014), Tài liệu điền dã tại Ninh Thuận,<br /> lệ, vừa mang tính cụ thể, sinh động. Lễ hội phỏng vấn sâu Maduen Thiên Sanh Thềm,<br /> Rija Praong có nhiều yếu tố hợp thành, 16/8/2014, tại làng Hữu Đức.<br /> trong đó biểu tượng đóng vai trò quan 8. Sakaya (2003), Lễ hội của người Chăm, Nxb<br /> trọng thể hiện các cam kết tôn giáo, sự phô Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr.189.<br /> diễn của nghi lễ, sự tham gia vào các cuộc TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> tranh tài, hoặc sự thể hiện những kỹ năng 1. Lê Ngọc Canh, Tô Đông Hải (1995), Nghệ<br /> đặc biệt như đánh trống, thổi kèn, múa hát thuật biểu diễn truyền thống Chăm, Nxb Văn<br /> và kể truyện… Các biểu tượng trong lễ hội hóa Dân tộc, Hà Nội.<br /> Rija Praong chính là công cụ biểu hiện văn 2. Đinh Hồng Hải (2010), Nghiên cứu văn hóa<br /> hóa của họ thông qua nhân sinh quan và bằng phương pháp luận Nhân học biểu tượng,<br /> thế giới quan. Việc tìm hiểu các biểu tượng Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Khoa học xã<br /> trong lễ hội này giúp chúng ta hiểu rõ hơn hội Việt Nam, http://qlkh.hcmussh.edu.vn<br /> về những gì đã diễn ra trong đời sống của (truy cập 11/12/2013).<br /> người Chăm và đó chính là những nét văn 3. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2011), Xã hội học<br /> hóa đặc sắc mà người Chăm còn lưu truyền văn hóa - Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.<br /> đến ngày nay. 4. Hải Liên (1999), Vai trò âm nhạc trong lễ hội<br /> dân gian của tộc người Chăm ở Ninh Thuận,<br /> Chú thích: Nxb Âm nhạc, Hà Nội.<br /> 1. Đinh Hồng Hải (2010), Nghiên cứu văn hóa 5. Trương Văn Món (2012), Mối quan hệ giữa<br /> bằng phương pháp luận Nhân học biểu tượng, văn hóa Chăm và văn hóa Mã Lai thông qua<br /> Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Khoa học xã lễ Rija Praong và Mak Yong, Luận án Tiến sĩ<br /> hội Việt Nam, http://qlkh.hcmussh.edu.vn<br /> Lịch sử - TP.HCM: Trường Đại học Khoa học<br /> (truy cập 11/12/2013)<br /> Xã hội và Nhân văn.<br /> 2. Mai Văn Hai - Mai Kiệm (2011), Xã hội học<br /> văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 6. Trần Phương Nguyên, Từ Thị Phi Điệp<br /> tr.149. (2014), Tài liệu điền dã tại Ninh Thuận.<br /> 3. Victor Turner (2006), "Biểu tượng trong nghi 7. Victor W. Tuner (2006), "Biểu tượng trong<br /> lễ của người Ndembu", trong Những vấn đề nghi lễ của người Ndembu", trong Những vấn<br /> nhân học tôn giáo - Nxb Đà Nẵng, Tạp chí đề nhân học tôn giáo - Nxb Đà Nẵng, Tạp chí<br /> Xưa & Nay, tr.242. Xưa & Nay.<br /> <br /> Ngày nhận bài: 26/8/2017 Biên tập xong: 15/9/2017 Duyệt đăng: 20/9/2017<br /> <br /> <br /> <br /> 135<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2