intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bình đẳng giới trong cộng đồng người Cao Lan - nhìn từ góc độ văn hóa

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

58
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đã kiểm tra ảnh hưởng văn hóa đến bình đẳng giới cả mặt tích cực và tiêu cực cho phụ nữ Cao Lan. Vì vậy, để đảm bảo sự bình đẳng giới của phụ nữ Cao Lan, chúng tôi đã làm không chỉ thực hiện chính sách của Đảng Cộng sản và của chính phủ mà còn thấu hiểu chính sách của họ văn hóa để đưa ra các giải pháp phù hợp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bình đẳng giới trong cộng đồng người Cao Lan - nhìn từ góc độ văn hóa

No.06_September 2017|Số 06 - Tháng 9 năm 2017|p.30-34<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO<br /> ISSN: 2354 - 1431<br /> http://tckh.daihoctantrao.edu.vn/<br /> <br /> Bình đẳng giới trong cộng đồng người Cao Lan - nhìn từ góc độ văn hóa<br /> Trần Thị Mỹ Bình a,*, Nguyễn Mai Chinh a, Hà Thị Thu Trang a<br /> a<br /> <br /> Trường Đại học Tân Trào<br /> Email: tranthimybinh@gmail.com<br /> <br /> *<br /> <br /> Article info<br /> Recieved:<br /> 12/7/2017<br /> Accepted:<br /> 03/8/2017<br /> <br /> Keywords:<br /> <br /> Abstract<br /> Vietnamese women have been guaranteed gender equality by goverment. In real life, gender<br /> equality for ethnic minority women are also under the influence of traditional culture. The study<br /> has examined culture influences on the gender equality both of positive side and negative side<br /> for Cao Lan women. So that, for being guaranteed gender equality of Cao Lan women, we did<br /> not only effectuate policy of Communist Party and goverment’s but also comprehend their<br /> culture to give conformable solutions.<br /> <br /> Gender;Gender equality;<br /> Habit; Culture.<br /> <br /> Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề bình<br /> đẳng giới từ buổi đầu cách mạng. Trong Cương lĩnh chính<br /> <br /> ngày thường. Người Cao Lan có nguồn gốc là người<br /> Choang di cư từ Trung Quốc sang Việt Nam nhưng họ bỏ<br /> <br /> trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam<br /> đã xác định mục tiêu xây dựng một xã hội nam nữ bình<br /> <br /> tiếng mẹ đẻ, nói ngôn ngữ Tày – Thái, dùng chữ Hán để<br /> ghi chép lại gia phả, sách cúng, sách phong thủy… Tổ hợp<br /> <br /> quyền. Điều 26 (Hiến pháp 2013) cũng khẳng định “công<br /> <br /> văn hóa dân gian của người Cao Lan có tranh thờ, hát sình<br /> <br /> dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính<br /> sách đảm bảo quyền và cơ hội bình đẳng giới…”1. Hiện<br /> <br /> ca, câu đố, tục ngữ, truyện cổ… Người Cao Lan không<br /> theo tôn giáo lớn nào mà theo tín ngưỡng. Đặc sắc nhất<br /> <br /> nay, các thiết chế chính trị đã tạo cơ hội tốt cho phụ nữ<br /> phát triển. Tỷ lệ phụ nữ Việt Nam tham gia chính quyền<br /> <br /> trong sinh hoạt tín ngưỡng của người Cao Lan là tục thờ<br /> Ma ham. Trong các gia đình người Cao Lan có những tục<br /> <br /> ngày càng tăng. Tuy nhiên, đấu tranh cho mục tiêu bình<br /> đẳng giới chỉ trên phương diện chính trị là chưa đủ. Do sự<br /> <br /> kiêng kỵ gắn với quan niệm tâm linh và những biến cố với<br /> dòng họ. Khảo sát văn hóa Cao Lan cho thấy, người Cao<br /> <br /> biến đổi không ngừng của đời sống xã hội, quan niệm về<br /> <br /> Lan cũng có những quan niệm riêng về giới, vai trò của đàn<br /> <br /> giới không bất biến mà có sự thay đổi. Mỗi dân tộc có<br /> hoàn cảnh sống, phương thức sản xuất và sinh hoạt văn<br /> <br /> ông, đàn bà trong đời sống thường ngày và sinh hoạt tâm<br /> linh.<br /> <br /> hóa khác nhau nên quan niệm về giới của các cộng đồng<br /> rất đa dạng. Những quan niệm tích cực và hạn chế về giới<br /> <br /> Quan niệm bình đẳng giới trong văn hóa Cao Lan<br /> <br /> của các cộng đồng dân tộc có ảnh hưởng không nhỏ đến<br /> sự phát triển của kinh tế - xã hội và các mục tiêu chính trị<br /> <br /> Quan niệm tích cực về vị trí, vai trò của nam và nữ<br /> trong gia đình và xã hội<br /> <br /> đặt ra.<br /> Cao Lan là một ngành thuộc dân tộc Sán Chay cư trú<br /> chủ yếu ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc như Thái<br /> Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Tuyên Quang… Người Cao<br /> Lan sản xuất nông nghiệp lúa nước kết hợp với làm nương.<br /> Nhà ở truyền thống của người Cao Lan là nhà sàn với lối<br /> kiến trúc dựa trên tích trâu thần vừa mang giá trị hiện thực<br /> vừa có ý nghĩa tâm linh. Trang phục của người Cao Lan<br /> khá đa dạng, độc đáo dùng cho các dịp đám cưới, lễ hội và<br /> 1<br /> <br /> Hiến pháp 2013, tr.18<br /> <br /> 30<br /> <br /> Từ quan niệm nam - nữ là hai đối tượng kết hợp với<br /> nhau tạo thành một gia đình vì vậy việc xây dựng gia<br /> đình trong văn hóa Cao Lan thể hiện rất rõ những quan<br /> niệm của họ về giới. Người Cao Lan tôn trọng tự do hôn<br /> nhân, duy trì chế độ 1 vợ 1 chồng và không quá khắt khe<br /> về trinh tiết của phụ nữ. Qua tục hát sình ca cho thấy<br /> trong truyền thống, tổ tiên người Cao Lan đã rất tôn<br /> trọng việc trai gái tự do tìm hiểu nhau để đi đến hôn<br /> nhân. Nếu như chàng trai Cao Lan mượn ý trong hát sử<br /> 1<br /> <br /> Hiến pháp 2013, tr.18<br /> <br /> T.T.M.Binh et al. / No.06_September 2017|p.30-34<br /> <br /> ca về cuộc di thiên gian khó để ví von cho ý chí vượt thử<br /> <br /> có nơi đặt bàn thờ gia tiên, bàn thờ ma hương hoả rất<br /> <br /> thách đến với người yêu thì các cô gái lại khiêm nhường<br /> <br /> trang trọng, sạch sẽ và xa chỗ nằm của đàn bà. Khu vực<br /> <br /> tự ví mình như con chim họa mi nhỏ mời chàng trai vào<br /> nhà chơi. Cách bày tỏ những cung bậc tình yêu rất tình<br /> <br /> nghỉ ngơi dành riêng cho con gái, con dâu, đàn ông,<br /> khách được phân biệt rõ. Dưới mái nhà sàn truyền thống,<br /> <br /> tứ, ý nhị song cũng rất táo bạo. Tục hát sình ca giao<br /> duyên thể hiện khát vọng tìm bạn tâm giao, sự bình đẳng<br /> <br /> nhiều tục kiêng kỵ được duy trì như: bố chồng con dâu<br /> muốn trao vật gì cho nhau phải đặt xuống, không trao trực<br /> <br /> và tự do yêu đương. Người Cao Lan không có quan<br /> <br /> tiếp; con dâu ngồi cạnh bố chồng hay anh em trai của<br /> <br /> niệm tảo hôn như người Mông. Con cái trên 18 tuổi mới<br /> được cha mẹ dựng vợ gả chồng. Từ khi còn nhỏ, các em<br /> <br /> chồng phải đặt 1 vật gì đó có tính chất tượng trưng ngăn<br /> cách, đàn bà không được ngồi trên phản gỗ dành cho bố<br /> <br /> gái Cao Lan đã được dạy bảo làm việc nhà, nấu ăn,<br /> chăm sóc người ốm, hái thuốc… Không kết hôn sớm<br /> <br /> chồng nằm, chỗ tiếp khách… Những tập tục đó thể hiện<br /> nét văn hoá cư xử rất đẹp, tế nhị, mang tính giáo dục gia<br /> <br /> nên hầu hết phụ nữ Cao lan sinh đẻ ở tuổi trưởng thành,<br /> sức khỏe sinh sản cho phụ nữ cũng được đảm bảo.<br /> <br /> đình cao.<br /> <br /> Theo tục lệ, khi kết hôn, các đôi trai gái thường tìm<br /> <br /> Cao Lan<br /> <br /> cho mình 1 người làm ông mối (ông mòi). Ông mối được<br /> chọn phải là người đức độ, gia đình êm ấm, biết làm ăn.<br /> Ông mối làm chứng hôn nhân và có trách nhiệm dạy bảo<br /> đôi vợ chồng trẻ như con cái mình, hoà giải khi có mâu<br /> thuẫn. Ngược lại, đôi vợ chồng trẻ cũng phải có trách<br /> nhiệm chăm sóc, quan tâm đến ông bà mối như cha mẹ đẻ<br /> của mình. Quan hệ ông mối - con mối là quan hệ lâu dài,<br /> cả đời gắn kết được coi là một mối quan hệ cơ bản trong<br /> gia đình. Nghi lễ đám cưới của người Cao Lan khá phức<br /> tạp và mang màu sắc duy tâm nhưng nó phản ánh ước mơ<br /> cuộc sống đôi lứa bền chặt, về tương lai tốt đẹp mọi người<br /> đều hướng đến, gắn kết các mối quan hệ gia đình.<br /> Không giống như một số dân tộc khác có quan niệm<br /> hôn nhân cận huyết để giữ của và thờ cúng gia tiên, người<br /> Cao Lan không thừa nhận quan hệ cận huyết thống. Theo<br /> hương ước các làng Cao Lan xưa, gia đình nào có con cái<br /> hôn nhân cận huyết bị phạt vạ phải mổ lợn cho làng ăn.<br /> Mỗi dòng họ Cao Lan thờ ma hương hỏa khác nhau.<br /> Những người thờ cùng ma không lấy nhau. Dù họ chưa có<br /> những hiểu biết khoa học về tác hại của hôn nhân cận<br /> huyết thống và những cấm kỵ mang yếu tố duy tâm<br /> nhưng quan niệm này cũng có mặt tích cực nhất định<br /> trong xây dựng gia đình, đảm bảo sức khỏe nòi giống và<br /> hạn chế những thiệt thòi cho phụ nữ phải chịu đựng từ<br /> hậu quả của hôn nhân cận huyết.<br /> Những quan niệm về xây dựng gia đình của người<br /> Cao Lan cho thấy có nhiều điểm tiến bộ. Vả lại, người<br /> phụ nữ Cao Lan có truyền thống chịu thương chịu khó,<br /> nhẫn nhịn, chiều chuộng chồng con. Tình trạng ly hôn<br /> trong các gia đình Cao Lan rất ít xảy ra. Nhờ vậy, hôn<br /> nhân của phụ nữ được đảm bảo.<br /> Sự phân biệt về giới của người Cao Lan còn có thể<br /> <br /> Bất bình đẳng giới trong các tập tục của người<br /> <br /> Bất bình đẳng trong lao động, sản xuất<br /> Trong các xã hội, bất bình đẳng giới diễn ra khá phổ<br /> biến mà người chịu thiệt thòi nhất đó là phụ nữ. Nguyên<br /> nhân sâu xa của tình trạng bất bình đẳng giới chủ yếu từ<br /> phương thức sản xuất và sở hữu tài sản. Tập quán sản<br /> xuất truyền thống của người Cao Lan là sản xuất nông<br /> nghiệp. Bộ tranh thờ Thần Nông mô tả cảnh sản xuất thể<br /> hiện có sự phân vai lao động truyền thống tương đối rõ<br /> rệt. Đàn ông chọc lỗ tra hạt, cày bừa còn phụ nữ gieo<br /> hạt, gánh mạ, cấy lúa… Ngoài những công việc phụ nữ<br /> phải làm như sản xuất trực tiếp đồng ruộng, trên nương<br /> họ còn phải làm những công việc được coi là thiên chức<br /> của phụ nữ như lấy củi, nấu cơm, xay lúa giã gạo, gánh<br /> nước, chăm sóc con cái… Phân công lao động trong các<br /> gia đình khá tự nhiên theo đặc điểm sinh học và quan<br /> niệm của người Cao Lan về vai trò của từng giới. Tuy<br /> nhiên, do nhiều tập tục khá rườm rà trong sinh hoạt cộng<br /> đồng, đàn ông chủ yếu lo “đối ngoại”, ít quan tâm giúp<br /> đỡ công việc nhà. Những việc nặng nhọc như cày bừa,<br /> phát cây… phụ nữ vẫn phải làm để đảm bảo cuộc sống<br /> gia đình. Phụ nữ chỉ quanh quẩn trong nhà ngoài đồng, ít<br /> được giao tiếp xã hội nên dần mất đi tiếng nói trong xã<br /> hội. Sự bất bình đẳng trong giao tiếp còn dẫn đến hệ quả<br /> khác là nhận thức xã hội của phụ nữ cũng hạn chế. Do<br /> đó, họ không có nhiều hiểu biết để tham gia ý kiến và<br /> quyết định những việc lớn trong gia đình.<br /> Người Cao Lan có những nghề thủ công truyền thống<br /> như: dệt vải, thêu thùa, đan lát. Việc dệt vải, thêu thùa do<br /> phụ nữ làm. Việc đan lát dụng cụ đựng nông sản, dụng cụ<br /> bắt cá không có sự phân vai rõ rệt. Đàn ông cũng tham gia<br /> và làm tốt công việc đan lát. Những việc đòi hỏi sự khéo<br /> léo của phụ nữ không nhiều. Đây cũng là một trong<br /> <br /> thấy trong cấu trúc ngôi nhà sàn truyền thống. Trong nhà<br /> 31<br /> <br /> T.T.M.Binh et al. / No.06_September 2017|p.30-34<br /> <br /> những nguyên nhân vai trò của phụ nữ Cao Lan không<br /> <br /> niệm vạn vật hữu linh. Sự no ấm, bình yên phụ thuộc vào<br /> <br /> thực sự thể hiện được rõ trong gia đình.<br /> <br /> thủy tổ của dòng họ. Nếu như người Kinh rất tôn thờ các<br /> <br /> Bất bình đẳng trong sở hữu tài sản<br /> Về quyền sở hữu của phụ nữ với tài sản của gia đình<br /> và dòng họ khá hạn chế. Gia đình Cao Lan được tổ chức<br /> theo chế độ phụ hệ. Người đàn ông trong gia đình làm<br /> trụ cột, có quyền quyết định mọi việc. Hoạt động kinh tế<br /> tự cung tự cấp là chủ yếu, trao đổi hàng hóa diễn ra rất<br /> ít. Một mặt, phụ nữ Cao Lan không giỏi chi tiêu trong<br /> gia đình và cũng không đề cao việc dạy dỗ con cái biết<br /> thu vén chi tiêu. Mặt khác, họ chỉ được tham gia chi tiêu<br /> những khoản nhỏ cho sinh hoạt. Các hoạt động kinh tế<br /> lớn của gia đình như quyết định sản xuất, dựng nhà…<br /> không được tham gia. Đây cũng là một trong những<br /> nguyên nhân dẫn đến tình trạng họ lao động vất vả<br /> nhưng gia đình, xã hội chưa thực sự đánh giá cao sự<br /> đóng góp của phụ nữ trong làm kinh tế. Đặc trưng cơ<br /> bản trong sở hữu truyền thống của người Cao Lan là sở<br /> hữu tập thể. Mỗi dòng họ có tài sản chung. Đất đai được<br /> chia cho các gia đình sử dụng làm ăn nhưng quyết định<br /> bán, cho lại thuộc quyền của cả dòng họ. Phụ nữ khi về<br /> nhà chồng được canh tác sản xuất và thu hoa lợi trên đất<br /> đai dòng họ nhưng không có quyền hành gì với tài sản<br /> đó. Đây là nguyên nhân họ không có tiếng nói với tài<br /> sản của gia đình chồng. Nhiều người phụ nữ chấp nhận<br /> cảnh sống lầm lũi suốt đời trong gia đình nhiều thế hệ.<br /> Bất bình đẳng trong sinh hoạt tín ngưỡng<br /> Phụ nữ Cao Lan xưa không được thực hiện các nghi<br /> lễ thờ cúng của làng. Các điệu múa phục vụ cho nghi lễ<br /> thờ cúng có hình tượng nữ đều do nam đóng giả. Những<br /> ban bệ, hội đồng làng có vai trò quyết định đến việc lớn<br /> của làng không có phụ nữ tham gia. Phụ nữ Cao Lan<br /> không được làm lễ cấp sắc, không chủ chốt tham gia các<br /> hoạt động thờ cúng của gia đình. Ma Ham được coi là<br /> sạch sẽ, linh thiêng nhất của người Cao Lan nên phụ nữ<br /> <br /> lực lượng tự nhiên sinh sôi nảy nở như thờ mẫu, đất mẹ<br /> thể hiện coi trọng giới nữ thì người Cao Lan không thực<br /> sự coi trọng thờ các lực lượng tự nhiên có khả năng sinh<br /> đẻ. Họ cũng không thực sự coi trọng và lo lắng cho việc<br /> sinh đẻ của người phụ nữ. Phong tục sinh đẻ của người<br /> phụ nữ Cao Lan khá lạc hậu. Phụ nữ khi mang thai phải<br /> kiêng nhiều thứ. Trước kia, phụ nữ Cao Lan sinh con tại<br /> nhà. Các món ăn truyền thống cho sản phụ để có sữa cho<br /> con bú như rau sữa, cứt dê, quả đu đủ, lá thuốc… nhưng<br /> không chú ý đến các nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng cho<br /> nhiều sữa. Thậm chí khi người mẹ thiếu sữa, trẻ ốm đau<br /> họ còn đổ lỗi do người mẹ hoặc do tà ma. Họ có nhiều tri<br /> thức dân gian chăm sóc thai phụ bằng các bài thuốc, kinh<br /> nghiệm xử lý bệnh tật. Bên cạnh đó, hoạt động cúng tế,<br /> chữa mẹo, chữa bằng tâm linh khá phổ biến.<br /> Mặc dù là một dân tộc tôn trọng quyền tự do yêu<br /> đương và không quá coi trọng trinh tiết phụ nữ nhưng họ<br /> cũng không cởi mở với phụ nữ chửa hoang. Nếu người<br /> phụ nữ nào chửa hoang hoặc người phụ nữ đã về nhà<br /> chồng nhưng bị đuổi về nhà bố mẹ, theo phong tục sẽ<br /> không được đẻ trong nhà mà phải đẻ ở chuồng trâu hoặc<br /> ngoài sàn. Một số làng còn có hương ước quy định phạt<br /> những người phụ nữ chửa hoang.<br /> Kết luận<br /> Qua những sinh hoạt văn hóa của người Cao Lan cho<br /> thấy cũng có nhiều quan niệm tích cực để đảm bảo hôn<br /> nhân và bình đẳng cho phụ nữ. Người phụ nữ Cao Lan<br /> được tự do hôn nhân, được bảo vệ khi có mâu thuẫn vợ<br /> chồng… Tuy vậy, tình trạng bất bình đẳng giới diễn ra<br /> khá phổ biến trên các mặt như hạn chế giao tiếp xã hội,<br /> học vấn thấp, ít có tiếng nói trong sản xuất, sở hữu tài<br /> sản, sinh hoạt tín ngưỡng, chưa được chăm sóc tốt sức<br /> khỏe sinh sản…<br /> <br /> không được đến gần bàn thờ Ham. Để cho đồ thờ cúng<br /> được sạch sẽ, hầu hết việc nấu nướng, chuẩn bị lễ vật cho<br /> <br /> Hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần của người dân<br /> Cao Lan đã được nâng lên. Quan hệ về giới trong các gia<br /> <br /> thờ cúng đều do đàn ông làm. Trong lễ cầu chay, nếu phụ<br /> nữ có kinh nguyệt không được đến nhà gia chủ vì họ cho<br /> <br /> đình Cao Lan đã có sự thay đổi. Một mặt, phương thức<br /> lao động đang được hiện đại hóa dần dần. Phụ nữ Cao<br /> <br /> rằng sẽ làm ô uế, đem lại điềm không may cho gia chủ.<br /> Trong tâm thức, người Cao Lan vẫn thích phụ nữ sinh con<br /> <br /> Lan không còn phải dậy sớm xay thóc giã gạo; với những<br /> tập quán lao động sản xuất và quan hệ gia đình truyền<br /> <br /> trai để phục vụ cho việc cúng tế.<br /> <br /> thống, người phụ nữ Cao Lan không chịu áp lực lớn bởi<br /> <br /> Đời sống tâm linh của người Cao Lan khá phong<br /> phú. Hầu hết các vị thần trong hệ thống thờ thần của<br /> người Cao Lan đều là thần nam. Thần nữ có Phật bà quan<br /> âm, thần bà mụ, bà chúa ca hát Lưu Tam. Họ có quan<br /> <br /> 32<br /> <br /> những trách nhiệm với những việc lớn của gia đình như<br /> xây dựng nhà cửa, cưới hỏi cho con cái, chủ chốt các hoạt<br /> động tâm linh…; dinh dưỡng bữa ăn đã được quan tâm<br /> hơn; sức khỏe phụ nữ, đặc biệt là sức khỏe sinh sản đã<br /> được Nhà nước quan tâm chăm sóc tốt hơn…. Bên cạnh<br /> <br /> T.T.M.Binh et al. / No.06_September 2017|p.30-34<br /> <br /> đó, những tập quán sống lạc hậu vẫn còn ăn sâu vào suy<br /> nghĩ của đồng bào như: tục tang tế rườm rà, chăm sóc sức<br /> khỏe dựa vào cúng bái và các bài thuốc dân gian, hạn chế<br /> trong giao tiếp xã hội… người phụ nữ Cao Lan vẫn chưa<br /> thực sự được bình đẳng và hưởng thụ các thành quả lao<br /> động của mình; đầu tư cho học hành của các em gái từ<br /> bậc trung học phổ thông trở lên chưa thực sự được quan<br /> tâm; phụ nữ vẫn phải vất vả với những hoạt động tín<br /> ngưỡng lạc hậu…. Để thực hiện bình đẳng giới cho phụ<br /> nữ dân tộc thiểu số nói chung và cho phụ nữ Cao Lan nói<br /> riêng không chỉ thực hiện các chính sách của Đảng và<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Lâm Quý (2004), Văn hoá Cao lan, Nxb Khoa học xã hội,<br /> Hà Nội;<br /> 2. Nguyễn Thị Lan Hương (2004), Quan niệm của Ph.Ăng<br /> ghen về gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc nghiên cứu gia<br /> đình trong xã hội thông tin, Tạp chí Triết học, số 11;<br /> 3. Trịnh Thị Nghĩa (2015), Những vấn đề cần quan tâm qua<br /> các báo cáo phát triển con người của UNDP, Tạp chí nghiên<br /> cứu Con người, Số 4;<br /> <br /> Nhà nước ở tầm vĩ mô mà cần nắm rõ được những biểu<br /> hiện, nguyên nhân bất bình đẳng giới trong các sinh hoạt<br /> <br /> 4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam<br /> (2014), Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,<br /> <br /> văn hóa cộng đồng, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực<br /> <br /> Nxb Tư pháp.<br /> <br /> của các tập quán lạc hậu.<br /> <br /> 33<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2