Đề bài: Bình giảng bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Mấy ai dã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:<br />
<br />
"Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu<br />
<br />
Đợi gió đông về để lả lơi…"<br />
<br />
(Bẽn lẽn)<br />
<br />
"Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ<br />
<br />
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu".<br />
<br />
(Hãy nhập hồn em)<br />
<br />
"Bông nguyệt leo song sờ sẫm gối<br />
<br />
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn".<br />
<br />
(Đêm không ngủ)<br />
<br />
Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng... Cả một thế giới trăng mộng ảo, <br />
huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn "say trăng" với <br />
tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất <br />
của phong trào Thơ mới (1932 1941). Với 28 tuổi đời (1912 1940), ông để lại cho nền <br />
thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ <br />
máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết hay về mùa xuân và <br />
thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ ("Đây thôn Vĩ Dạ") như Hàn Mặc Tử.<br />
<br />
"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua <br />
đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, <br />
nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mặc Tử đã viết về một tình yêu <br />
tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi <br />
bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều <br />
duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.<br />
<br />
Câu đầu của khổ thơ thứ nhất "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, <br />
vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm <br />
thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa <br />
thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. <br />
Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:<br />
<br />
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên<br />
<br />
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc<br />
<br />
Lá trúc che ngang mặt chữ điền".<br />
<br />
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê <br />
ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. <br />
Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như <br />
chào mời, như vẫy gọi.<br />
<br />
Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trổ thốt lên khi đứng trước một <br />
màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm <br />
cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông <br />
"mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hoà, con người cần <br />
cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc" ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và <br />
đầy sức sống. Nói về màu xanh ngọc bích, Xuân Diệu (1938) cũng viết: "Đổ trời xanh <br />
ngọc qua muôn lá..." ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" gọi ra nhiều ngạc nhiên và man <br />
mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang <br />
mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai <br />
nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là <br />
nét vẽ độc đáo đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình <br />
tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng <br />
xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:<br />
<br />
"Thầm thì với ai ngồi dưới trúc<br />
<br />
Nghe ra ý vị và thơ ngây".<br />
<br />
(Mùa xuân chín)<br />
Hai câu thơ ba, bốn trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với <br />
một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ <br />
(xanh như ngọc..., mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc <br />
đáng yêu.<br />
<br />
Vĩ Dạ một làng quê nằm bên bờ Hương giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với <br />
những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những <br />
ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt <br />
câu hát nam ai, nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn <br />
Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng <br />
tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và <br />
con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ <br />
niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh <br />
đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.<br />
<br />
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng <br />
đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu thơ năm, sáu là bức tranh tả gió, mây dòng sông và hoa (hoa <br />
bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, <br />
cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, <br />
cách trở. Dòng Hương giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn <br />
thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp laỵ, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp <br />
điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các <br />
điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa... <br />
như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy:<br />
<br />
"Gió theo lối gió, mây đường mây<br />
<br />
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".<br />
<br />
Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con <br />
đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành "sông trăng". Hàn Mặc Tử <br />
với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con <br />
thuyền nằm ngủ dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một <br />
thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng <br />
độc đáo:<br />
<br />
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó<br />
<br />
Có chở trăng về kịp tối nay?".<br />
<br />
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền <br />
ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong "Đây thôn Vĩ Dạ" là ở những thi <br />
liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế <br />
miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, mộng mơ và thoáng buồn. Ở đây bức <br />
tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thìa một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa <br />
tình.<br />
<br />
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính <br />
đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông Hương Da thơm là phấn, <br />
má hường là son..". Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. <br />
"Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã <br />
làm nhoà đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân <br />
ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. <br />
Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối <br />
tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà <br />
thơ nói về mối tình này?<br />
<br />
"Mơ khách đường xa, khách đường xa,<br />
<br />
Áo em trắng quá nhìn không ra<br />
<br />
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh<br />
<br />
Ai biết tình ai có đậm đà?".<br />
<br />
"Mơ khách đường xa, khách đường xa... ai biết... ai có..." các điệp ngữ và luyến láy ấy <br />
tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia <br />
li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà <br />
thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời <br />
phải sống trong cô đơn và bệnh tật.<br />
<br />
Cũng cần nói một đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả bốn lần chữ "ơi" xuất hiện <br />
đều mơ hồ, ám ảnh: ''Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" "Thuyền ai đậu bến sông <br />
trăng đó?" "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là con ngưòi xa <br />
vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi <br />
trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như <br />
đang nhạt nhoà và mờ ảo cùng sương khói?<br />
<br />
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, <br />
mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ,... bao hình ảnh và cảm <br />
xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích.<br />
<br />
"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con <br />
thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hổn ta đi về miền <br />
sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài <br />
hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vương vấn mãi <br />
lòng ta. <br />
<br />
Bài làm 2:<br />
<br />
Hàn Mặc Tử là một gương mặt thơ kì lạ và kì diệu, có cuộc sống ngắn ngủi đầy đau <br />
thương, bất hạnh. Là người rất yêu đời, yêu cuộc sống nhưng tiếc thay, tạo hóa lại quá <br />
bất công với số phận của thi nhân. Vì thế mà những mối tình trong thơ ông dù đẹp đẽ, <br />
nồng thắm đến đâu thì cuối cùng cũng chia lìa, tan vỡ.<br />
<br />
Sau khi lâm trọng bệnh, biết rằng chẳng bao giờ còn được đoàn tụ với người mình yêu <br />
nên thi sĩ thường miêu tả cảnh gặp gỡ, nhớ nhung trong những giấc chiêm bao. Vì thường <br />
xuyên bị cái chết ám ảnh nên ông hay nói đến sự vĩnh biệt, cõi hư vô. Ông thích đêm tối, <br />
sương mù, trăng sao... là những cảnh hợp với tâm trạng ảm đạm, thê lương. Nỗi đau thể <br />
xác khiến Hàn Mặc Tử nhiều khi như điên như dại nhưng cũng có lúc nó nâng thần trí <br />
ông lên đến đỉnh cao của tưởng tượng huyễn hoặc, đưa ông vào thế giới tràn đầy âm <br />
thanh, ánh sáng, sắc màu. Trong cõi riêng ấy, ông thỏa sức biểu hiện niềm đam mê khao <br />
khát tình yêu và cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng.<br />
Thơ Hàn Mặc Tử thường có những bước nhảy đột ngột về ý. Ý nọ cách ý kia một <br />
khoảng lớn, có lúc tưởng chừng như không liên kết gì với nhau nhưng thực ra lại gắn bó <br />
rất chặt chẽ ở các trạng thái của cảm xúc. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một ví dụ.<br />
<br />
Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nổi tiếng, được coi là viên ngọc quý trong thơ ca Việt Nam. Bài <br />
thơ thể hiện lòng yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt của thi sĩ, thể hiện qua tình cảm thiết <br />
tha đối với cảnh vật và con người. Dẫu có thoáng nét ngậm ngủi và sự chia lìa, tan vỡ của <br />
tình yêu song cảm xúc ấy đã thăng hoa, làm giàu thêm đời sông tình cảm của con người. <br />
Có thể coi bài thơ là lời tỏ tình với cuộc đời của một trái tim yêu thương và luôn luôn hy <br />
vọng.<br />
<br />
Bài thơ có ba khổ. Khổ thứ nhất tả vẻ đẹp của vườn cây thôn Vĩ và thi sĩ gửi gắm ước <br />
mong một ngày nào đó dược trở về thăm cảnh cũ người xưa.<br />
<br />
Khổ thứ hai tả cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo: gió, mây, dòng nước, hoa bắp tay... <br />
trong không gian quạnh vắng, đìu hiu. Nét thực nét ảo cứ chập chờn chuyển hóa. Khung <br />
cảnh thấm đẫm nỗi buồn thương, giống như tâm trạng đang chới với, lo âu, nghẹn ngào <br />
của thi sĩ trước linh cảm tan vỡ, chia lìa của tình yêu. Khổ thứ ba nói về hình ảnh khách <br />
đường xa và chốn sương khói mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Dẫu có hình ảnh của <br />
khách đường xa, áo trắng... nhưng tất cả đều nhạt nhòa, vô định như một mối tình vừa <br />
mới định hình đã vội hóa thành hư vô, đọng lại trong lòng người một nỗi hoài nghi, hi <br />
vọng.<br />
<br />
Âm điệu chủ đạo của bài thơ dựa trên ba câu tự vấn đầy băn khoăn, khắc khoải. Câu hỏi <br />
thứ nhất: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? mang nhiều sắc thái như: vừa hỏi han, vừa hờn <br />
trách, vừa nhắc nhở, vừa mời mọc. Tác giả đang phân vân tự hỏi về một việc đáng ra <br />
phải làm từ lâu mà giờ đây không biết có còn cơ hội để thực hiện nữa không. Đó là về lại <br />
thôn Vĩ, nơi mình từng lui tới hồi còn là học sinh trường Pellerin ở Huế. Sự phân vân và <br />
những sắc thái tâm trạng khác nhau đan xen trong cùng một câu hỏi cho ta thấy nỗi ước ao <br />
trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt vừa u uẩn, không dễ gì bày tỏ. Nghĩa là ao ước đấy, song <br />
cũng đầy mặc cảm về khả năng thực hiện ao ước của mình.<br />
<br />
Câu hỏi thứ hai: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay ? thể hiện <br />
sự băn khoăn, khắc khoải và hi vọng mong manh trong tâm trạng thi sĩ.<br />
<br />
Câu hỏi thứ ba: Ai biết tình ai có đậm đà? chất chứa một mối hoài nghi.<br />
<br />
Tâm trạng của thi sĩ diễn biến theo chiều hướng: ao ước đắm say hoài vọng phấp <br />
phỏng mơ tưởng hoài nghi. Càng về sau càng có phần u uẩn và sầu muộn. Đó là những <br />
cung bậc khác nhau của một mối tình vô vọng. Tuy nhiên, đằng sau mối tình ấy vẫn là <br />
một niềm thiết tha gắn bó với đời. Những câu hỏi này là hình thức để nhà thơ tỏ bày tâm <br />
trạng. Âm điệu bài thơ càng về sau càng da diết, sâu lắng và nhờ đó mà ba khổ thơ tưởng <br />
như tách biệt lại liên kết với nhau một cách tự nhiên, tạo thành một bài thơ hoàn chỉnh có <br />
vẻ đẹp khác thường.<br />
<br />
Câu thơ mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? chứa đựng nhiều sắc thái biểu cảm <br />
khác nhau. Nó có thể là lời mời mọc dưới dạng hờn trách nhẹ nhàng, rất đáng yêu của <br />
một cô gái Huế. Nếu vậy thì phải nghe câu thơ ấy cất lên bằng chính cái giọng Huế ấm <br />
áp, ngân nga, ta mới cảm nhận được hết vị dịu ngọt đến nao lòng của nó. Hiểu cách khác, <br />
nó là một câu hỏi tu từ. Nhà thơ lòng tự hỏi lòng: Liệu có còn dịp nào mình được về thăm <br />
thôn Vĩ mảnh đất gắn bó với bao kỉ niệm dấu yêu của mối tình đầu? Tự hỏi cũng là để <br />
nhắc nhỏ mình và kín đáo lồng vào trong đó nỗi khát khao, nhung nhớ.<br />
<br />
Ba câu sau tả vẻ đẹp vườn cây thôn Vĩ:<br />
<br />
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên<br />
<br />
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc<br />
<br />
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.<br />
<br />
Bức tranh chỉ đơn sơ vài nét chấm phá nhưng sinh động và đặc sắc vô cùng! Đây là cảnh <br />
hiện ra trong cõi nhớ nên vẻ đẹp của nó trở nên lung linh gấp bội. Mỗi câu thơ tả một <br />
cảnh vườn. Ánh nắng ban mai trong trẻo, tinh khiết phơn phớt hồng trên những tán cau <br />
xanh cao vút, in dáng trên nền trời buổi bình minh. Thi sĩ miêu tả hàng cau trước nhất bởi <br />
đó là hình ảnh nổi bật, là điểm nhấn của bức tranh phong cảnh rất ấn tượng. Tưởng như <br />
hàng cau kia đang thay ai ngóng đợi người về. Hình ảnh hàng cau gợi trong ta một nỗi <br />
niềm làng mạc, quê hương sâu sắc.<br />
Câu thơ tiếp theo thề hiện cảm xúc ngỡ ngàng và thán phục của nhà thơ trước vẻ đẹp <br />
tràn đầy sức sống của khu vườn: vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Đây cũng là lời nhận <br />
xét chân tình thốt lên tự đáy lòng thi sĩ. Thi sĩ không tả cụ thể cảnh vườn mà chỉ nhắc tới <br />
sắc xanh của lá. Mướt là màu xanh mỡ màng, non tươi, phơi phới xuân thì, nhìn mát mắt <br />
và mát tận tâm hồn. Từ quá chỉ mức độ làm tăng thêm khả năng gợi tả của câu thơ. Cái <br />
sắc nắng mới lên rọi xuống những vòm lá còn ướt sương đêm khiến cho màu xanh của lá <br />
ánh lên như ngọc. Vườn cây thôn Vĩ như một viên ngọc bích khổng lồ rời rợi sắc xanh, <br />
tỏa vào không gian và lòng người cái sắc màu quyến rũ lạ lùng! Tất cả đều rạo rực, tràn <br />
đầy sức sống. Tưởng chừng như nghe thấy được cả tiếng của nhựa sống đang chuyển <br />
lên cành tơ, lá nõn. Trước cảnh thiên nhiên tuyệt vời ấy, tâm hồn con người cũng rạo rực, <br />
vui tươi.<br />
<br />
Câu thơ thứ tư là nét vẽ thân tình tô đậm vẻ e ấp, dịu dàng rất đáng yêu của người con gái <br />
Huế: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Thấp thoáng sau lá trúc là khuôn mặt chữ điền phúc <br />
hậu. ở đây, ta thấy sự tinh tế của ngòi bút Hàn Mặc Tử khi tả cảnh, tả người: Lá trúc che <br />
ngang làm tăng thêm vẻ duyên dáng của gương mặt chữ điền. Với câu thơ này, Hàn Mặc <br />
Tử đã thể hiện được thần thái của thôn Vĩ: cảnh tươi đẹp và con người duyên dáng. <br />
Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau tạo thành vẻ đẹp đặc trưng của Huế.<br />
<br />
Bức tranh thôn Vĩ tuyệt đẹp đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng thi sĩ. Trên cái nền <br />
phong cảnh đầy hương sắc ấy có một cuộc hội ngộ tuy không nói ra mà niềm vui như <br />
thấm vào vạn vật. Thoảng đâu đây tiếng thì thầm mơ hồ xao xuyến của tình yêu.<br />
<br />
Khổ thơ thứ hai vẫn tiếp tục tả cảnh nhưng hầu như không ăn nhập gì với khung cảnh <br />
tươi vui ở khổ thơ đầu. Cảm xúc thơ chợt lắng xuống, đượm buồn. Linh cảm chia lìa <br />
hiện ra trong từng câu, từng chữ và từng hình ảnh:<br />
<br />
Gió theo lối gió, mây đường mây<br />
<br />
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay<br />
<br />
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó<br />
<br />
Có chở trăng về kịp tối nay?<br />
Thông thường thì gió thổi, mây bay theo cùng một hướng. Còn ở đây, gió, mây đôi ngả. <br />
Gió ở cây lá, còn mây lãng đãng tận trên cao. Ngẫu nhiên chăng hay dụng ý? Câu thơ ngắt <br />
làm đôi. Gió đóng khung trong gió (Gió theo lối gió), mây cuộn trong mây (mây đường <br />
mây). Mạch thơ chợt như đứt đoạn. Có cái gì đó xót xa, nghẹn ngào, hụt hẫng trong cảm <br />
xúc của nhà thơ.<br />
<br />
Ở Vĩ Dạ, bước ra sau vườn đã là bến nước với dăm ba bậc dẫn xuống sông. Dòng nước <br />
sông Hương lặng lẽ, im lìm, buồn thiu như không muốn trôi. Hoa bắp (ngô) vật vờ, lắt <br />
lay trong gió nhẹ. Đâu đâu cũng đượm một nỗi buồn.<br />
<br />
Khung cảnh thật vậy chăng? Đúng vậy! Trên kia thật mà ở đây cũng thật, bởi tươi tắn <br />
hay ủ ê cũng đều là Huế cả. vườn tươi sớm mai, sông ủ buổi chiều. Nỗi buồn phơn phớt, <br />
nhè nhẹ mà thấm tận đáy lòng. Nét trầm tư không nơi nào có được ấy là đặc trưng của <br />
Huế. Bức tranh phong cảnh thứ hai này có đủ gió thổi, mây bay, dòng nước trôi, hoa bắp <br />
lay... mà sao vắng lặng đến lạnh lùng. Đường như tất cả đang phai nhạt dần sự sống, <br />
đang bị vây bọc trong một mối sầu thương. Sự ngang trái, trớ trêu ẩn chứa trong cảnh vật <br />
hay vui buồn là do con mắt nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ? Nỗi buồn của thiên nhiên có <br />
liên quan gì đến nỗi buồn của con người hay không?<br />
<br />
Trở lại mối tình của thi sĩ với cô gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình ấy tuy đẹp đẽ nhưng vô vọng. <br />
Duyên kiếp của đôi trai gái này là duyên kiếp lỡ làng, không thể chung đôi, chung đời <br />
được. Vì vậy nỗi buồn trong lòng người như lan cả vào cỏ cây, mây nước; khiến cho <br />
dòng nước buồn thiu và hoa bắp cũng vật vờ, lay lắt, lảo đảo bên dòng nước im lìm. <br />
Dòng nước buồn thiu tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi sầu li tán, chia phôi <br />
của gió với mây đã lây buồn tới dòng sông?!<br />
<br />
Lạ nhất là động từ lay vốn là một từ tả thực không mang ý nghĩa vui hay buồn, vậy mà <br />
sao đặt vào trong câu thơ này, nó lại gợi cảm xúc buồn đến vậy? Nó phụ họa với nỗi <br />
buồn chia cắt của gió, mây, của dòng nước buồn thiu như chẳng còn sức sống.<br />
<br />
Trong cái xu thế đang chảy trôi, chia lìa mỗi lúc mỗi xa ấy, thi sĩ chợt ước ao có được <br />
một thứ ngược dòng về với mình, đó là trăng:<br />
<br />
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó<br />
Có chở trăng về kịp tối nay ?<br />
<br />
Nhà thơ nhìn thấy hay hình dung trong kí ức cảnh những con thuyền khoan thai, bồng <br />
bềnh trên mặt nước sông Hương lấp lánh ánh trăng ?! Sự phân vân đoán định trong từ nghi <br />
vấn thuyền ai càng làm tăng thêm vẻ mơ hồ, huyển ảo cho cảnh vật và đặc tả một hồn <br />
thơ đang rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp hữu tình của Huế.<br />
<br />
Nhà thơ ao ước thuyền chở trăng về như mong một tri âm tri ki đến với mình. Dòng nước <br />
hóa thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan ra thành nước?! Thuyền chở trăng về cập bến <br />
thời gian huyền ảo. Song, đó chi là bề nổi của ý thơ. Có một chữ tâu nay bị bỏ quên bởi <br />
lẽ nó khiêm nhường, không cầu kì hoa mĩ nhưng lại mang nhiều sắc thái tu từ, ấy là chữ <br />
lập. Chữ kịp chứa đựng bi kịch của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh tâm trạng khắc khoải đợi <br />
trông cùng chút hi vọng mong manh của nhà thơ đang chơi vơi trên bờ vực của đau <br />
thương, tuyệt vọng. Chữ kịp cho ta thấy cảm nhận của thi sĩ về hiện tại ngắn ngủi và hé <br />
mở một khao khát sống cháy bỏng, muốn giao hòa, chia sẻ tâm sự với mọi người. Thi sĩ <br />
muốn níu kéo sự sống và chạy đua với thời gian.<br />
<br />
Thuyền em đang đậu ở bến sông trăng như đời em sáng láng đầy xuân tươi, có chở trăng <br />
về kịp tối nay cho lòng anh vui lên một chút! Nỗi ước mong thầm lặng mà tha thiết. Tha <br />
thiết mà mong manh. Càng mong manh lại càng tha thiết.<br />
<br />
Thuyền đậu, thuyền đi trên sông Hương trong đêm trăng là chuyện bình thường, nhưng <br />
bến sông trăng thì chi có trong thơ Hàn Mặc Tử. Thuyền chở trăng về kịp tối nay thì cuộc <br />
hẹn hò sẽ trọn vẹn. Có rượu, có trăng, có những người yêu nhau thì đời đẹp biết bao! Bù <br />
lại cảnh tượng ngăn cách, buồn bã ở hai câu trên, đây là hi vọng của cuộc gặp gỡ hòa hợp <br />
mát lành, cho dù hi vọng ấy cũng chẳng khác chi sương khói.<br />
<br />
Có chở trăng về kịp tối nay là câu thơ của cõi mộng. Đến đây, nhà thơ không nhìn ra cảnh <br />
vật nữa mà nhìn vào chính lòng mình. Quỹ thời gian đang vơi đi từng ngày, từng khắc, <br />
cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Thi sĩ rơi vào cõi đau thương, tuyệt vọng.<br />
<br />
Bốn câu thơ khổ này là bức tranh tâm cảnh. Gió, mây chia đường, bạn tình rẽ đôi. Buồn <br />
đến cả dòng sông, ngọn bắp. Thuyền ai đó hay thuyền em mà sáng đầy trăng? Hãy chở <br />
trăng vê kịp tối nay để ta gặp nhau lần cuối. Nhưng đó chỉ là ước mong, dẫu chân thành <br />
tha thiết mà mờ ảo, mông lung.<br />
<br />
Nếu ở khổ thứ hai, tâm trạng của nhà thơ là khắc khoải, đợi mong và bồn chồn hi vọng <br />
thì đến đoạn này, khi thả hồn mơ khách đường xa, nhà thơ mới thấy nỗi niềm chia lìa da <br />
diết hơn, thấm thìa hơn. Nhà thơ lặng đi trong cõi mộng. Hình ảnh cô gái Huế hết sức <br />
gần gũi nhưng cũng hết sức xa vời. Xa vời về thời gian, không gian và nhà thơ linh cảm <br />
thấy mối tình giữa mình và cô gái ấy cũng đã thành hư ảo. Gâu thơ trên đương còn là mơ, <br />
câu dưới đã bay vào ảo giác, một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử, khó tìm thấy ở những <br />
bài thơ tình khác...<br />
<br />
Lời thơ ở hai câu này nghe như có gì thổn thức, nghẹn ngào, hụt hẫng, chới với, bẽ bàng <br />
và tội nghiệp biết bao cho lòng chàng trai!<br />
<br />
Mơ khách đường xa, khách đường xa<br />
<br />
Áo em trắng quá nhìn không ra.<br />
<br />
Trên là vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Hình ảnh <br />
này gợi cho ta nhớ tới gương mặt chữ điền có lá trúc che ngang không thể nào quên.<br />
<br />
Đây là hình ảnh người con gái Huế có vẻ đẹp trinh khiết đầy xuân tình mà thi sĩ hằng yêu <br />
mến. Gắn với hình dáng ấy là sắc áo trắng tinh khôi. Màu áo ở đây cũng là màu áo trong <br />
tâm tưởng. Tác giả hình dung trong tâm tưởng để thấy lại cái màu trắng của kí ức, cho <br />
nên nó hư hư thực thực. Câu thơ đầy ảo giác nhưng rất hay, rất có lí và bất ngờ: Áo em <br />
trắng quá nhìn không ra. Màu trắng giờ đang choán hết tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bài <br />
thơ tả cảnh đã thành bài thơ thổ lộ tình yêu. Một thứ tình yêu đơn phương, thiết tha và có <br />
phần tội nghiệp:<br />
<br />
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh<br />
<br />
Ai biết tình ai có đậm đà?<br />
<br />
Hai câu thờ cuối dẫn ta vào cõi hoài niệm của nhà thơ. Sương khói làm mờ nhân ảnh <br />
không phải là sương khói ngoài đời mà là sương khói trong mối tình đương nhen nơi lòng <br />
thi sĩ, là cái khoảnh khắc nhà thơ đắm đuối trong cơn mộng tưởng.<br />
<br />
Đâu còn nắng hàng cau, vườn mướt quả Đâu còn xanh như ngọc, mặt chữ điền Cũng <br />
chẳng còn gió mây, dòng nước buồn, hoa bắp lay, sông trăng và con thuyền chở trăng về... <br />
Chỉ còn sương khói che khuất bóng người.<br />
<br />
Không chỉ hình bóng em mờ mà thân xác anh cũng mờ tan trong sương khói lạnh lẽo. Còn <br />
lại may có chữ tình, nhưng nhà thơ vẫn băn khoăn, khắc khoải: Ai biết tình ai có đậm đà ?<br />
<br />
Hai khổ thơ đầu nói đến cái đẹp của xứ Huế, khổ cuối nói vẻ đẹp của cô gái Huế. Tả <br />
cảnh đẹp xứ Huế, Hàn Mặc Tử đắm say đến mức hòa nhập vào cảnh. Nói đến vẻ đẹp <br />
của cô gái Huế, nhà thơ lại lùi ra xa, giữa nhà thơ với cô gái là một khoảng cách mịt mờ <br />
sương khói. Vì thế mới có câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết <br />
tha với cuộc đời : Ai biết tình ai có đậm đà ? Nhà thơ đã sử dụng rất tài tình đại từ phiếm <br />
chi Ai để mở ra hai ý nghĩa của câu thơ: Làm sao biết được tình người con gái thôn Vĩ có <br />
đậm đà không? Hay cũng mờ ảo, chóng tan như làn sương khói kia? Người xứ Huế có <br />
biết chăng tình cảm của nhà thơ đối với cảnh vật Huế, con người Huế hết sức thắm <br />
thiết, đậm đà ? Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chi làm tăng thêm nỗi cô đơn, <br />
trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.<br />
<br />
Khổ thơ thứ ba tiếp nối và đi sâu vào bên trong mối tình, từ nỗi cách ngăn gió mảy chia <br />
đường đến sự đứt gãy. Từ cảnh thiên nhiên như reo vui, tràn đầy sức sống ở khổ thơ thứ <br />
nhất đi dần tới sự xóa nhòa tất cả vào mơ, vào sương khói ở khổ thứ ba. Một mối tình <br />
hết sức thiết tha, nồng ấm nhưng đành để nó mất hút vào cõi mông lung, mờ mịt; chỉ còn <br />
lại dư vị đậm đà trong lòng người và cả lòng mình.<br />
<br />
Bài thơ bắt đầu bằng điệu vui tươi nhưng kết thúc lại buồn như vừa lỡ một cuộc hẹn hò. <br />
Có phải nội dung bài thơ chỉ giới hạn ở một nỗi đau cụ thể là mối tình lỡ làng của tác giả <br />
với một người con gái Huế ? Nếu vậy, nó không tồn tại đến tận ngày nay. Cũng không <br />
phải nó nói giùm niềm đau của ngàn vạn chàng trai không may trong trường tình. Gốc rễ <br />
sâu xa của nỗi bẽ bàng trong bài thơ vượt ra khỏi khuôn khổ tình yêu của một đôi trai gái, <br />
mà nói lên tâm trạng chưa kịp vui đã thấy buồn, mới vừa ban mai mà đã vội chiều tà, bao <br />
ước mơ tốt đẹp tất thảy đều tuột khỏi tầm tay. Đó là tâm trạng của tầng lớp trí thức trẻ <br />
1930 1945 rất hào hứng tự khẳng định mình nhưng luôn bị những áp lực của xã hội phủ <br />
định, trong khi ánh sáng của cách mạng chưa soi rọi tới.<br />
Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu. Thấp thoáng trong màn sương khói <br />
hư ảo của tình yêu đôi lứa là tình yêu thiết tha, đằm thắm đối với quê hương đất nước. <br />
Vì khơi gợi và làm rung động tình cảm chung của nhiều người như thế nên bài thơ vốn <br />
diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong <br />
tâm hồn của nhiều thế hệ yêu thơ Hàn Mặc Tử.<br />