intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bình giảng bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.

Chia sẻ: Lan Si Zhui | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

82
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mặc Tử đã viết về một tình yêu - tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bình giảng bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.

Đề bài: Bình giảng bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử.<br /> <br /> Bài làm<br /> <br /> Mấy ai dã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:<br /> <br /> "Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu<br /> <br /> Đợi gió đông về để lả lơi…"<br /> <br /> (Bẽn lẽn)<br /> <br /> "Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ<br /> <br /> Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu".<br /> <br /> (Hãy nhập hồn em)<br /> <br /> "Bông nguyệt leo song sờ sẫm gối<br /> <br /> Gió thu lọt cửa cọ mài chăn".<br /> <br /> (Đêm không ngủ)<br /> <br /> Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng... Cả một thế giới trăng mộng ảo,  <br /> huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn "say trăng" với  <br /> tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất <br /> của phong trào Thơ mới (1932 ­ 1941). Với 28 tuổi đời (1912 ­ 1940), ông để lại cho nền <br /> thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ  của ông như  trào ra từ <br /> máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết hay về mùa xuân và  <br /> thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ ("Đây thôn Vĩ Dạ") như Hàn Mặc Tử.<br /> <br /> "Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ  Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ  đã qua <br /> đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế,  <br /> nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mặc Tử  đã viết về  một tình yêu ­  <br /> tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ  giãi <br /> bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều  <br /> duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.<br /> <br /> Câu đầu của khổ thơ thứ nhất "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ,  <br /> vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm  <br /> thắm và tình tứ: "Sao anh không về  chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa  <br /> thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ.  <br /> Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:<br /> <br /> "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên<br /> <br /> Vườn ai mướt quá xanh như ngọc<br /> <br /> Lá trúc che ngang mặt chữ điền".<br /> <br /> Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ  xa, thi nhân say mê  <br /> ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. <br /> Hàng cau cao vút là hình  ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ  từ  bao đời nay. Hàng cau như <br /> chào mời, như vẫy gọi.<br /> <br /> Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ  trầm trổ  thốt lên khi đứng trước một  <br /> màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như  ngọc". Sương đêm  ướt đẫm <br /> cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ  màng, non tơ  ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông  <br /> "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hoà, con người cần  <br /> cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc"  ấy. Thiên nhiên như  rạo rực, trẻ  trung và <br /> đầy sức sống. Nói về  màu xanh ngọc bích, Xuân Diệu (1938) cũng viết: "Đổ  trời xanh  <br /> ngọc qua muôn lá..." ("Thơ  duyên"). Hai chữ  "vườn ai" gọi ra nhiều ngạc nhiên và man  <br /> mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang <br /> mặt chữ  điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ  đẹp của giai <br /> nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là <br /> nét vẽ độc đáo đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình  <br /> tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như  toả  bóng <br /> xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:<br /> <br /> "Thầm thì với ai ngồi dưới trúc<br /> <br /> Nghe ra ý vị và thơ ngây".<br /> <br /> (Mùa xuân chín)<br /> Hai câu thơ  ba, bốn trong khổ thơ đầu tả  cau, tả  nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ  với  <br /> một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ <br /> (xanh như  ngọc..., mặt chữ  điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ  thật hồn hậu, thân thuộc  <br /> đáng yêu.<br /> <br /> Vĩ Dạ ­ một làng quê nằm bên bờ Hương giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với  <br /> những con đò thơ  mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những <br /> ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt  <br /> câu hát nam ai, nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn  <br /> Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng <br /> tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế  mà cảnh sắc và <br /> con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ <br /> niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh <br /> đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.<br /> <br /> Khổ  thơ  thứ  hai nói về  cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ  thuật thoáng  <br /> đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu thơ năm, sáu là bức tranh tả gió, mây dòng sông và hoa (hoa  <br /> bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, <br /> cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời,  <br /> cách trở. Dòng Hương giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn <br /> thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp laỵ, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp  <br /> điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự  được diễn tả  rất tinh tế! Các <br /> điệp ngữ  luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa... <br /> như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy:<br /> <br /> "Gió theo lối gió, mây đường mây<br /> <br /> Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".<br /> <br /> Hai câu tiếp theo, nhà thơ  hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ  tới hình ảnh con <br /> đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở  thành "sông trăng". Hàn Mặc Tử <br /> với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con <br /> thuyền nằm ngủ  dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ  đã từng viết: "Gió trăng chứa một  <br /> thuyền đầy". Hàn Mặc Tử  cũng góp cho nền thơ  Việt Nam hiện đại một vần thơ  trăng <br /> độc đáo:<br /> <br /> "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó<br /> <br /> Có chở trăng về kịp tối nay?".<br /> <br /> Tâm hồn nhà thơ  xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền  <br /> ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ  mộng  ảo trong "Đây thôn Vĩ Dạ" là  ở  những thi  <br /> liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế <br /> miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, mộng mơ và thoáng buồn. Ở đây bức  <br /> tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thìa một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa  <br /> tình.<br /> <br />  Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính <br /> đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông Hương ­ Da thơm là phấn,  <br /> má hường là son..". Vĩ Dạ  mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. <br /> "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố  hương,  ở  đây sương khói đã  <br /> làm nhoà đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân <br /> ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. <br /> Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối  <br /> tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà <br /> thơ nói về mối tình này?<br /> <br /> "Mơ khách đường xa, khách đường xa,<br /> <br /> Áo em trắng quá nhìn không ra<br /> <br /> Ở đây sương khói mờ nhân ảnh<br /> <br /> Ai biết tình ai có đậm đà?".<br /> <br /> "Mơ  khách đường xa, khách đường xa... ai biết... ai có..." các điệp ngữ  và luyến láy  ấy <br /> tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia <br /> li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà  <br /> thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời  <br /> phải sống trong cô đơn và bệnh tật.<br /> <br /> Cũng cần nói một đôi lời về  chữ  "ai" trong bài thơ  này. Cả  bốn lần chữ  "ơi" xuất hiện  <br /> đều mơ  hồ, ám  ảnh: ''Vườn ai mướt quá xanh như  ngọc?" ­ "Thuyền ai đậu bến sông  <br /> trăng đó?" ­ "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ  nói đến là con ngưòi xa <br /> vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi  <br /> trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như <br /> đang nhạt nhoà và mờ ảo cùng sương khói?<br /> <br /> Hàn Mặc Tử  đã để  lại cho ta một bài thơ  tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, <br /> mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ,... bao hình  ảnh và cảm <br /> xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích.<br /> <br /> "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con <br /> thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như  dẫn hổn ta đi về  miền <br /> sương khói Vĩ Dạ  thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ  tài <br /> hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vương vấn mãi <br /> lòng ta. <br /> <br /> Bài làm 2:<br /> <br /> Hàn Mặc Tử  là một gương mặt thơ  kì lạ  và kì diệu, có cuộc sống ngắn ngủi đầy đau  <br /> thương, bất hạnh. Là người rất yêu đời, yêu cuộc sống nhưng tiếc thay, tạo hóa lại quá  <br /> bất công với số  phận của thi nhân. Vì thế  mà những mối tình trong thơ  ông dù đẹp đẽ,  <br /> nồng thắm đến đâu thì cuối cùng cũng chia lìa, tan vỡ.<br /> <br /> Sau khi lâm trọng bệnh, biết rằng chẳng bao giờ còn được đoàn tụ  với người mình yêu  <br /> nên thi sĩ thường miêu tả cảnh gặp gỡ, nhớ nhung trong những giấc chiêm bao. Vì thường  <br /> xuyên bị cái chết ám ảnh nên ông hay nói đến sự vĩnh biệt, cõi hư vô. Ông thích đêm tối, <br /> sương mù, trăng sao... là những cảnh hợp với tâm trạng ảm đạm, thê lương. Nỗi đau thể <br /> xác khiến Hàn Mặc Tử  nhiều khi như  điên như  dại nhưng cũng có lúc nó nâng thần trí  <br /> ông lên đến đỉnh cao của tưởng tượng huyễn hoặc, đưa ông vào thế  giới tràn đầy âm <br /> thanh, ánh sáng, sắc màu. Trong cõi riêng ấy, ông thỏa sức biểu hiện niềm đam mê khao <br /> khát tình yêu và cuộc sống tươi đẹp vĩnh hằng.<br /> Thơ  Hàn Mặc Tử  thường có những bước nhảy đột ngột về  ý. Ý nọ  cách ý kia một <br /> khoảng lớn, có lúc tưởng chừng như không liên kết gì với nhau nhưng thực ra lại gắn bó  <br /> rất chặt chẽ ở các trạng thái của cảm xúc. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một ví dụ.<br /> <br /> Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ nổi tiếng, được coi là viên ngọc quý trong thơ ca Việt Nam. Bài <br /> thơ thể hiện lòng yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt của thi sĩ, thể hiện qua tình cảm thiết  <br /> tha đối với cảnh vật và con người. Dẫu có thoáng nét ngậm ngủi và sự chia lìa, tan vỡ của <br /> tình yêu song cảm xúc  ấy đã thăng hoa, làm giàu thêm đời sông tình cảm của con người. <br /> Có thể coi bài thơ là lời tỏ tình với cuộc đời của một trái tim yêu thương và luôn luôn hy  <br /> vọng.<br /> <br /> Bài thơ có ba khổ. Khổ thứ nhất tả vẻ đẹp của vườn cây thôn Vĩ và thi sĩ gửi gắm ước  <br /> mong một ngày nào đó dược trở về thăm cảnh cũ người xưa.<br /> <br /> Khổ thứ hai tả cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo: gió, mây, dòng nước, hoa bắp tay...  <br /> trong không gian quạnh vắng, đìu hiu. Nét thực nét ảo cứ chập chờn chuyển hóa. Khung  <br /> cảnh thấm đẫm nỗi buồn thương, giống như tâm trạng đang chới với, lo âu, nghẹn ngào  <br /> của thi sĩ trước linh cảm tan vỡ, chia lìa của tình yêu. Khổ thứ ba nói về hình ảnh khách  <br /> đường xa và chốn sương khói mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Dẫu có hình ảnh của  <br /> khách đường xa, áo trắng... nhưng tất cả  đều nhạt nhòa, vô định như  một mối tình vừa <br /> mới định hình đã vội hóa thành hư  vô, đọng lại trong lòng người một nỗi hoài nghi, hi  <br /> vọng.<br /> <br /> Âm điệu chủ đạo của bài thơ dựa trên ba câu tự vấn đầy băn khoăn, khắc khoải. Câu hỏi  <br /> thứ nhất: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? mang nhiều sắc thái như: vừa hỏi han, vừa hờn <br /> trách, vừa nhắc nhở, vừa mời mọc. Tác giả  đang phân vân tự  hỏi về  một việc đáng ra <br /> phải làm từ lâu mà giờ đây không biết có còn cơ hội để thực hiện nữa không. Đó là về lại  <br /> thôn Vĩ, nơi mình từng lui tới hồi còn là học sinh trường Pellerin  ở Huế. Sự phân vân và  <br /> những sắc thái tâm trạng khác nhau đan xen trong cùng một câu hỏi cho ta thấy nỗi ước ao  <br /> trở  về  thôn Vĩ vừa mãnh liệt vừa u uẩn, không dễ  gì bày tỏ. Nghĩa là ao  ước đấy, song <br /> cũng đầy mặc cảm về khả năng thực hiện ao ước của mình.<br /> <br /> Câu hỏi thứ hai: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay ? thể hiện  <br /> sự băn khoăn, khắc khoải và hi vọng mong manh trong tâm trạng thi sĩ.<br /> <br /> Câu hỏi thứ ba: Ai biết tình ai có đậm đà? chất chứa một mối hoài nghi.<br /> <br /> Tâm trạng của thi sĩ diễn biến theo chiều hướng: ao  ước  đắm say ­ hoài vọng phấp <br /> phỏng ­ mơ tưởng hoài nghi. Càng về sau càng có phần u uẩn và sầu muộn. Đó là những <br /> cung bậc khác nhau của một mối tình vô vọng. Tuy nhiên, đằng sau mối tình  ấy vẫn là  <br /> một niềm thiết tha gắn bó với đời. Những câu hỏi này là hình thức để nhà thơ tỏ bày tâm  <br /> trạng. Âm điệu bài thơ càng về sau càng da diết, sâu lắng và nhờ đó mà ba khổ thơ tưởng  <br /> như tách biệt lại liên kết với nhau một cách tự nhiên, tạo thành một bài thơ hoàn chỉnh có <br /> vẻ đẹp khác thường.<br /> <br /> Câu thơ  mở  đầu: Sao anh không về  chơi thôn Vĩ? chứa đựng nhiều sắc thái biểu cảm  <br /> khác nhau. Nó có thể  là lời mời mọc dưới dạng hờn trách nhẹ  nhàng, rất đáng yêu của <br /> một cô gái Huế. Nếu vậy thì phải nghe câu thơ ấy cất lên bằng chính cái giọng Huế ấm <br /> áp, ngân nga, ta mới cảm nhận được hết vị dịu ngọt đến nao lòng của nó. Hiểu cách khác, <br /> nó là một câu hỏi tu từ. Nhà thơ lòng tự hỏi lòng: Liệu có còn dịp nào mình được về thăm <br /> thôn Vĩ mảnh đất gắn bó với bao kỉ niệm dấu yêu của mối tình đầu? Tự  hỏi cũng là để <br /> nhắc nhỏ mình và kín đáo lồng vào trong đó nỗi khát khao, nhung nhớ.<br /> <br /> Ba câu sau tả vẻ đẹp vườn cây thôn Vĩ:<br /> <br /> Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên<br /> <br /> Vườn ai mướt quá xanh như ngọc<br /> <br /> Lá trúc che ngang mặt chữ điền.<br /> <br /> Bức tranh chỉ đơn sơ vài nét chấm phá nhưng sinh động và đặc sắc vô cùng! Đây là cảnh  <br /> hiện ra trong cõi nhớ  nên vẻ  đẹp của nó trở  nên lung linh gấp bội. Mỗi câu thơ  tả  một <br /> cảnh vườn. Ánh nắng ban mai trong trẻo, tinh khiết phơn phớt hồng trên những tán cau  <br /> xanh cao vút, in dáng trên nền trời buổi bình minh. Thi sĩ miêu tả hàng cau trước nhất bởi  <br /> đó là hình ảnh nổi bật, là điểm nhấn của bức tranh phong cảnh rất ấn tượng. Tưởng như <br /> hàng cau kia đang thay ai ngóng đợi người về. Hình  ảnh hàng cau gợi trong ta một nỗi <br /> niềm làng mạc, quê hương sâu sắc.<br /> Câu thơ  tiếp theo thề  hiện cảm xúc ngỡ  ngàng và thán phục của nhà thơ  trước vẻ  đẹp <br /> tràn đầy sức sống của khu vườn: vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Đây cũng là lời nhận <br /> xét chân tình thốt lên tự đáy lòng thi sĩ. Thi sĩ không tả cụ thể cảnh vườn mà chỉ nhắc tới <br /> sắc xanh của lá. Mướt là màu xanh mỡ màng, non tươi, phơi phới xuân thì, nhìn mát mắt  <br /> và mát tận tâm hồn. Từ  quá chỉ  mức độ  làm tăng thêm khả  năng gợi tả  của câu thơ. Cái <br /> sắc nắng mới lên rọi xuống những vòm lá còn ướt sương đêm khiến cho màu xanh của lá  <br /> ánh lên như  ngọc. Vườn cây thôn Vĩ như một viên ngọc bích khổng lồ  rời rợi sắc xanh, <br /> tỏa vào không gian và lòng người cái sắc màu quyến rũ lạ lùng! Tất cả đều rạo rực, tràn  <br /> đầy sức sống. Tưởng chừng như  nghe thấy được cả  tiếng của nhựa sống đang chuyển  <br /> lên cành tơ, lá nõn. Trước cảnh thiên nhiên tuyệt vời ấy, tâm hồn con người cũng rạo rực,  <br /> vui tươi.<br /> <br /> Câu thơ thứ tư là nét vẽ thân tình tô đậm vẻ e ấp, dịu dàng rất đáng yêu của người con gái <br /> Huế: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Thấp thoáng sau lá trúc là khuôn mặt chữ điền phúc <br /> hậu. ở đây, ta thấy sự tinh tế của ngòi bút Hàn Mặc Tử khi tả cảnh, tả người: Lá trúc che  <br /> ngang làm tăng thêm vẻ duyên dáng của gương mặt chữ điền. Với câu thơ này, Hàn Mặc <br /> Tử  đã thể  hiện được thần thái của thôn Vĩ: cảnh tươi đẹp và con người duyên dáng.  <br /> Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau tạo thành vẻ đẹp đặc trưng của Huế.<br /> <br /> Bức tranh thôn Vĩ tuyệt đẹp đã để  lại  ấn tượng khó quên trong lòng thi sĩ. Trên cái nền  <br /> phong cảnh đầy hương sắc  ấy có một cuộc hội ngộ  tuy không nói ra mà niềm vui như <br /> thấm vào vạn vật. Thoảng đâu đây tiếng thì thầm mơ hồ xao xuyến của tình yêu.<br /> <br /> Khổ  thơ  thứ  hai vẫn tiếp tục tả cảnh nhưng hầu như không ăn nhập gì với khung cảnh <br /> tươi vui  ở  khổ  thơ  đầu. Cảm xúc thơ  chợt lắng xuống, đượm buồn. Linh cảm chia lìa  <br /> hiện ra trong từng câu, từng chữ và từng hình ảnh:<br /> <br /> Gió theo lối gió, mây đường mây<br /> <br /> Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay<br /> <br /> Thuyền ai đậu bến sông trăng đó<br /> <br /> Có chở trăng về kịp tối nay?<br /> Thông thường thì gió thổi, mây bay theo cùng một hướng. Còn  ở  đây, gió, mây đôi ngả. <br /> Gió ở cây lá, còn mây lãng đãng tận trên cao. Ngẫu nhiên chăng hay dụng ý? Câu thơ ngắt <br /> làm đôi. Gió đóng khung trong gió (Gió theo lối gió), mây cuộn trong mây (mây đường <br /> mây). Mạch thơ chợt như đứt đoạn. Có cái gì đó xót xa, nghẹn ngào, hụt hẫng trong cảm <br /> xúc của nhà thơ.<br /> <br /> Ở Vĩ Dạ, bước ra sau vườn đã là bến nước với dăm ba bậc dẫn xuống sông. Dòng nước <br /> sông Hương lặng lẽ, im lìm, buồn thiu như  không muốn trôi. Hoa bắp (ngô) vật vờ, lắt  <br /> lay trong gió nhẹ. Đâu đâu cũng đượm một nỗi buồn.<br /> <br /> Khung cảnh thật vậy chăng? Đúng vậy! Trên kia thật mà  ở  đây cũng thật, bởi tươi tắn <br /> hay ủ ê cũng đều là Huế cả. vườn tươi sớm mai, sông ủ buổi chiều. Nỗi buồn phơn phớt,  <br /> nhè nhẹ mà thấm tận đáy lòng. Nét trầm tư  không nơi nào có được ấy là đặc trưng của <br /> Huế. Bức tranh phong cảnh thứ hai này có đủ gió thổi, mây bay, dòng nước trôi, hoa bắp <br /> lay... mà sao vắng lặng đến lạnh lùng. Đường như  tất cả  đang phai nhạt dần sự  sống,  <br /> đang bị vây bọc trong một mối sầu thương. Sự ngang trái, trớ trêu ẩn chứa trong cảnh vật  <br /> hay vui buồn là do con mắt nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ? Nỗi buồn của thiên nhiên có  <br /> liên quan gì đến nỗi buồn của con người hay không?<br /> <br /> Trở lại mối tình của thi sĩ với cô gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình ấy tuy đẹp đẽ nhưng vô vọng. <br /> Duyên kiếp của đôi trai gái này là duyên kiếp lỡ  làng, không thể  chung đôi, chung đời  <br /> được. Vì vậy nỗi buồn trong lòng người như  lan cả  vào cỏ  cây, mây nước; khiến cho <br /> dòng nước buồn thiu và hoa bắp cũng vật vờ, lay lắt, lảo đảo bên dòng nước im lìm.  <br /> Dòng nước buồn thiu tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi sầu li tán, chia phôi  <br /> của gió với mây đã lây buồn tới dòng sông?!<br /> <br /> Lạ  nhất là động từ lay vốn là một từ tả  thực không mang ý nghĩa vui hay buồn, vậy mà  <br /> sao đặt vào trong câu thơ  này, nó lại gợi cảm xúc buồn đến vậy? Nó phụ  họa với nỗi  <br /> buồn chia cắt của gió, mây, của dòng nước buồn thiu như chẳng còn sức sống.<br /> <br /> Trong cái xu thế  đang chảy trôi, chia lìa mỗi lúc mỗi xa  ấy, thi sĩ chợt  ước ao có được  <br /> một thứ ngược dòng về với mình, đó là trăng:<br /> <br /> Thuyền ai đậu bến sông trăng đó<br /> Có chở trăng về kịp tối nay ?<br /> <br /> Nhà thơ  nhìn thấy hay hình dung trong kí  ức cảnh những con thuyền khoan thai, bồng  <br /> bềnh trên mặt nước sông Hương lấp lánh ánh trăng ?! Sự phân vân đoán định trong từ nghi <br /> vấn thuyền ai càng làm tăng thêm vẻ mơ  hồ, huyển  ảo cho cảnh vật và đặc tả  một hồn  <br /> thơ đang rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp hữu tình của Huế.<br /> <br /> Nhà thơ ao ước thuyền chở trăng về như mong một tri âm tri ki đến với mình. Dòng nước <br /> hóa thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan ra thành nước?! Thuyền chở trăng về cập bến <br /> thời gian huyền  ảo. Song, đó chi là bề nổi của ý thơ. Có một chữ tâu nay bị bỏ  quên bởi <br /> lẽ nó khiêm nhường, không cầu kì hoa mĩ nhưng lại mang nhiều sắc thái tu từ, ấy là chữ <br /> lập. Chữ kịp chứa đựng bi kịch của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh tâm trạng khắc khoải đợi <br /> trông cùng chút hi vọng mong manh của nhà thơ  đang chơi vơi trên bờ  vực của  đau <br /> thương, tuyệt vọng. Chữ kịp cho ta thấy cảm nhận của thi sĩ về hiện tại ngắn ngủi và hé  <br /> mở một khao khát sống cháy bỏng, muốn giao hòa, chia sẻ tâm sự với mọi người. Thi sĩ  <br /> muốn níu kéo sự sống và chạy đua với thời gian.<br /> <br /> Thuyền em đang đậu ở bến sông trăng như đời em sáng láng đầy xuân tươi, có chở  trăng  <br /> về kịp tối nay cho lòng anh vui lên một chút! Nỗi ước mong thầm lặng mà tha thiết. Tha  <br /> thiết mà mong manh. Càng mong manh lại càng tha thiết.<br /> <br /> Thuyền đậu, thuyền đi trên sông Hương trong đêm trăng là chuyện bình thường, nhưng <br /> bến sông trăng thì chi có trong thơ Hàn Mặc Tử. Thuyền chở trăng về kịp tối nay thì cuộc  <br /> hẹn hò sẽ trọn vẹn. Có rượu, có trăng, có những người yêu nhau thì đời đẹp biết bao! Bù <br /> lại cảnh tượng ngăn cách, buồn bã ở hai câu trên, đây là hi vọng của cuộc gặp gỡ hòa hợp <br /> mát lành, cho dù hi vọng ấy cũng chẳng khác chi sương khói.<br /> <br /> Có chở trăng về kịp tối nay là câu thơ của cõi mộng. Đến đây, nhà thơ không nhìn ra cảnh <br /> vật nữa mà nhìn vào chính lòng mình. Quỹ  thời gian đang vơi đi từng ngày, từng khắc, <br /> cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Thi sĩ rơi vào cõi đau thương, tuyệt vọng.<br /> <br /> Bốn câu thơ khổ  này là bức tranh tâm cảnh. Gió, mây chia đường, bạn tình rẽ đôi. Buồn <br /> đến cả  dòng sông, ngọn bắp. Thuyền ai đó hay thuyền em mà sáng đầy trăng? Hãy chở <br /> trăng vê kịp tối nay để ta gặp nhau lần cuối. Nhưng đó chỉ  là ước mong, dẫu chân thành  <br /> tha thiết mà mờ ảo, mông lung.<br /> <br /> Nếu ở khổ  thứ hai, tâm trạng của nhà thơ  là khắc khoải, đợi mong và bồn chồn hi vọng <br /> thì đến đoạn này, khi thả hồn mơ khách đường xa, nhà thơ mới thấy nỗi niềm chia lìa da <br /> diết hơn, thấm thìa hơn. Nhà thơ  lặng đi trong cõi mộng. Hình  ảnh cô gái Huế  hết sức  <br /> gần gũi nhưng cũng hết sức xa vời. Xa vời về thời gian, không gian và nhà thơ  linh cảm  <br /> thấy mối tình giữa mình và cô gái ấy cũng đã thành hư ảo. Gâu thơ trên đương còn là mơ,  <br /> câu dưới đã bay vào ảo giác, một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử, khó tìm thấy ở những  <br /> bài thơ tình khác...<br /> <br /> Lời thơ ở hai câu này nghe như có gì thổn thức, nghẹn ngào, hụt hẫng, chới với, bẽ bàng <br /> và tội nghiệp biết bao cho lòng chàng trai!<br /> <br /> Mơ khách đường xa, khách đường xa<br /> <br /> Áo em trắng quá nhìn không ra.<br /> <br /> Trên là vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Hình ảnh  <br /> này gợi cho ta nhớ tới gương mặt chữ điền có lá trúc che ngang không thể nào quên.<br /> <br /> Đây là hình ảnh người con gái Huế có vẻ đẹp trinh khiết đầy xuân tình mà thi sĩ hằng yêu  <br /> mến. Gắn với hình dáng ấy là sắc áo trắng tinh khôi. Màu áo ở đây cũng là màu áo trong  <br /> tâm tưởng. Tác giả  hình dung trong tâm tưởng để  thấy lại cái màu trắng của kí  ức, cho  <br /> nên nó hư hư thực thực. Câu thơ đầy ảo giác nhưng rất hay, rất có lí và bất ngờ: Áo em  <br /> trắng quá nhìn không ra. Màu trắng giờ đang choán hết tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bài  <br /> thơ tả cảnh đã thành bài thơ thổ lộ tình yêu. Một thứ tình yêu đơn phương, thiết tha và có  <br /> phần tội nghiệp:<br /> <br /> Ở đây sương khói mờ nhân ảnh<br /> <br /> Ai biết tình ai có đậm đà?<br /> <br /> Hai câu thờ  cuối dẫn ta vào cõi hoài niệm của nhà thơ. Sương khói làm mờ  nhân  ảnh <br /> không phải là sương khói ngoài đời mà là sương khói trong mối tình đương nhen nơi lòng  <br /> thi sĩ, là cái khoảnh khắc nhà thơ đắm đuối trong cơn mộng tưởng.<br /> <br /> Đâu còn nắng hàng cau, vườn mướt quả  Đâu còn xanh như  ngọc, mặt chữ  điền Cũng <br /> chẳng còn gió mây, dòng nước buồn, hoa bắp lay, sông trăng và con thuyền chở trăng về...  <br /> Chỉ còn sương khói che khuất bóng người.<br /> <br /> Không chỉ hình bóng em mờ mà thân xác anh cũng mờ tan trong sương khói lạnh lẽo. Còn <br /> lại may có chữ tình, nhưng nhà thơ vẫn băn khoăn, khắc khoải: Ai biết tình ai có đậm đà ?<br /> <br /> Hai khổ  thơ  đầu nói đến cái đẹp của xứ  Huế, khổ  cuối nói vẻ  đẹp của cô gái Huế. Tả <br /> cảnh đẹp xứ  Huế, Hàn Mặc Tử  đắm say đến mức hòa nhập vào cảnh. Nói đến vẻ  đẹp  <br /> của cô gái Huế, nhà thơ lại lùi ra xa, giữa nhà thơ với cô gái là một khoảng cách mịt mờ <br /> sương khói. Vì thế mới có câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết  <br /> tha với cuộc đời : Ai biết tình ai có đậm đà ? Nhà thơ đã sử dụng rất tài tình đại từ phiếm <br /> chi Ai để mở ra hai ý nghĩa của câu thơ: Làm sao biết được tình người con gái thôn Vĩ có  <br /> đậm đà không? Hay cũng mờ   ảo, chóng tan như  làn sương khói kia? Người xứ  Huế  có <br /> biết chăng tình cảm của nhà thơ  đối với cảnh vật Huế, con người Huế  hết sức thắm  <br /> thiết, đậm đà ? Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ  cũng chi làm tăng thêm nỗi cô đơn,  <br /> trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.<br /> <br /> Khổ  thơ  thứ  ba tiếp nối và đi sâu vào bên trong mối tình, từ  nỗi cách ngăn gió mảy chia  <br /> đường đến sự đứt gãy. Từ cảnh thiên nhiên như reo vui, tràn đầy sức sống ở khổ thơ thứ <br /> nhất đi dần tới sự xóa nhòa tất cả  vào mơ, vào sương khói ở  khổ  thứ  ba. Một mối tình  <br /> hết sức thiết tha, nồng ấm nhưng đành để nó mất hút vào cõi mông lung, mờ mịt; chỉ còn  <br /> lại dư vị đậm đà trong lòng người và cả lòng mình.<br /> <br /> Bài thơ bắt đầu bằng điệu vui tươi nhưng kết thúc lại buồn như vừa lỡ một cuộc hẹn hò. <br /> Có phải nội dung bài thơ chỉ giới hạn ở một nỗi đau cụ thể là mối tình lỡ làng của tác giả <br /> với một người con gái Huế  ? Nếu vậy, nó không tồn tại đến tận ngày nay. Cũng không  <br /> phải nó nói giùm niềm đau của ngàn vạn chàng trai không may trong trường tình. Gốc rễ <br /> sâu xa của nỗi bẽ bàng trong bài thơ vượt ra khỏi khuôn khổ tình yêu của một đôi trai gái,  <br /> mà nói lên tâm trạng chưa kịp vui đã thấy buồn, mới vừa ban mai mà đã vội chiều tà, bao  <br /> ước mơ tốt đẹp tất thảy đều tuột khỏi tầm tay. Đó là tâm trạng của tầng lớp trí thức trẻ <br /> 1930 ­ 1945 rất hào hứng tự khẳng định mình nhưng luôn bị những áp lực của xã hội phủ <br /> định, trong khi ánh sáng của cách mạng chưa soi rọi tới.<br /> Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu. Thấp thoáng trong màn sương khói <br /> hư  ảo của tình yêu đôi lứa là tình yêu thiết tha, đằm thắm đối với quê hương đất nước.  <br /> Vì khơi gợi và làm rung động tình cảm chung của nhiều người như thế nên bài thơ  vốn <br /> diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong <br /> tâm hồn của nhiều thế hệ yêu thơ Hàn Mặc Tử.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2