Bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh - Lịch sử quân đoàn 559: Phần 2
lượt xem 37
download
Nối tiếp nội dung chi tiết Tài liệu Lịch sử quân đoàn 559 bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh, phần 2 trình bày các nội dung: Quân y Trường Sơn vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu góp phần đảm bảo giao thông chi viện các hướng chiến trường đanh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ 1969 - 1972;... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh - Lịch sử quân đoàn 559: Phần 2
- ðến ñầu 1970, theo yêu cầu của ðảng ủy Bộ Tư lệnh quân khu Trị Thiên – Huế Bộ Tư lệnh 559, quyết ñịnh chuyển giao viện 68 cho chiến trường B4. Từ ñó viện 68 thu dung ñiều trị cho TBB các ñơn vị quân ñoàn chủ lực của ta ñã từng chiến ñấu trên mặt trận Trị Thiên – Huế và chữa bệnh cho nhân dân vùng mới giải phóng ở thành phố Huế và vùng phụ cận. Chương ba Quân y Trường Sơn vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến ñấu góp phần ñảm bảo giao thông chi viện các hướng chiến trường ñánh bại chiến lược “ Việt Nam hoá chiến tranh ” của ñế quốc Mỹ - thời kỳ 1969 - 1972. 105
- I. Hoạt ñộng quân y trong chiến dịch vận chuyển mùa khô 1969 - 1970. Thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương về tình hình và nhiệm vụ mới trong giai ñoạn trược mắt của quân và dân hai miền Nam – Bắc nhằm ñánh bại chủ trương “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, ñảng uỷ Bộ Tư lệnh 559 xác ñịnh nhiệm vụ mùa khô 1969 – 1970 của ðoàn là hết sức nặng nề và khó khăn, ñòi hỏi phải có trình ñộ tổ chức chiến ñấu cao và sự nỗ lực thật lớn của mọi cán bộ, chiến sĩ trong toàn ðoàn thì mới có thể hoàn thành ñược. Ngay sau hội nghị quân chính tháng 7 năm 1969, ðảng uỷ – Bộ Tư lệnh ñã tập trung chỉ ñạo, ñôn ñốc các lực lượng tích cực chuẩn bị, coi việc “hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chuẩn bị là một nửa thắng lợi trong chiến ñấu”. Sau gần 2 tháng tập kết ra Bắc nghỉ ngơi, an dưỡng, sức khỏe bộ ñội ñã ñược khôi phục, tỷ lệ quân số chiến ñấu ñạt 90%. Cơ quan tham mưu ðoàn và các binh trạm ñã tranh thủ thời gian giải quyết một số công việc hết sức cần thiết trong khâu chuẩn bị như phân loại và ñiều xe vào các xưởng sửa chữa, nhận xe bổ sung, xin phụ tùng, nhiên liệu, hàng hóa, tiếp nhận quân bổ sung… Các Cục thuộc Bộ Tổng tham mưu, Tổng Cục Hậu cần lo ñôn ñốc việc ñáp ứng nhu cầu của ðoàn 559. Chỉ sau hai tháng, ðoàn ñã nhận ñược bổ sung 1.720 xe ô tô cho lực lượng vận tải và 1.181 xe ô tô các loại cho các binh chủng khác, 154 máy các loại trong ñó có 60 máy húc, 54 xe và thuyền phóng từ, 40 máy ñẩy, toàn bộ thiết bị cho 15 xưởng tiểu tu và những thiết bị bổ sung cho xưởng ñại tu Q300. Trên một triệu mét dây trần thông tin tải ba và dây bọc, 100 máy thông tin vô tuyến sóng ngắn và bộ ñàm, 1000 máy ñiện thoại… ðồng thời nhận trên 2.000 lái xe và thợ sữa chữa, 1.500 y tá và dược tá, hàng trăm kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ ñại học, dược sĩ trung học, ñưa quân số toàn ðoàn lên ñến 55.588 người. ðược sự nhất trí của quân ủy Trung ương, ðoàn 559 thành lập thêm 3 cơ quan tham mưu chuyên ngành: tham mưu tác chiến, tham mưu vận chuyển, tham mưu công binh và một văn phòng tương ñương cấp Cục. ở cấp binh trạm cũng tổ chức 3 ban tham mưu tương ñương. Về ñịa bàn hoạt ñộng, do việc giải thể ðoàn 500 nên các Binh trạm cửa khẩu 12, 14, 9, 27 ñều ñược sáp nhập vào ðoàn 559, kéo dài hành lang hoạt ñộng của ðoàn ra ñến Quảng Bình từ ñèo Mụ Giạ (ñường 12) qua Phong Nha (ñường 20) ñến ngã ba áng Sơn (ñường 15) nơi xuất phát ñường 10, xuống ñến Thạch Bàn nơi xuất phát ñường 16 – tất cả chính diện khoảng 150 km. Với quyết ñịnh này, việc chỉ ñạo, chỉ huy vận chuyển của ðoàn 559 càng có thêm thuận lợi cho cả phía trước lẫn phía sau thống nhất chỉ huy. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, trong khi hàng vạn cán bộ, chiến sĩ ðoàn 559 ñang tập trung vào việc chuẩn bị nhập tuyến thì ñau ñớn ñột ngột hay tin Chủ Tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ ñại của dân tộc Việt Nam, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang qua ñời. 106
- Tất cả cán bộ, chiến sĩ ðoàn 559 dù ñang ở hậu phương hay ñang trực tiếp công tác, chiến ñấu trên tuyến ñều ñể tang Bác trong nỗi tiếc thương khôn tả. Cán bộ, chiến sĩ Pa Thét Lào và nhân dân các bộ tộc Lào anh em dọc hai bên hành lang tuyến Trường Sơn hay tin Bác mất ñã không quản mưa lũ dâng tràn ñều tìm ñến các cơ sở ñóng quân của ta ñể chia sẻ ñau thương. Giữa Trường Sơn không thể kiếm ñâu ra nén hương thơm, bộ ñội ta ñành phải ñi tìm những bó hoa rừng ñẫm nước mưa dâng lên bàn thờ Bác ñặt ở vị trí trang trọng nhất trong các hầm trú quân. Khi theo dõi lễ tang qua máy thu thanh vào ngày 9 tháng 9 tại Hà Nội, tất cả ñều nước mắt vòng quanh. Các ñồng chí thương binh, bệnh binh nặng cũng cố gượng dậy ñể cúi ñầu mặc niệm Bác và lắng nghe di chúc của Người… Sau lễ tang Bác, ðại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp và một số người cùng ñi ñã trực tiếp làm việc với Tư lệnh và Chính ủy 559. Cuối buổi làm việc, ðại tướng nhắc nhở: việc tổ chức nhập tuyến phải ñược coi như một chiến dịch vận ñộng tác chiến lớn, cần hết sức thận trọng, bí mật, bất ngờ, an toàn và thắng lợi. Ngày 17 tháng 9 năm 1969, ðảng ủy – Bộ Tư lệnh thông qua phương án sắp xếp lực lượng, bố trí ñội hình trên toàn tuyến. Tư tưởng chỉ ñạo của phương án này là giữ nguyên giới tuyến các binh trạm, không xáo trộn khu vực chiến ñấu của các lực lượng nhằm phát huy sở trường thông thạo ñịa hình. ðối với các khu vực trọng yếu, có nhiều khó khăn thì bố trí những lực lượng mạnh ñủ khả năng ñảm ñương. Trên tinh thần ñó, ñội hình toàn tuyến ñược sắp xếp, bố trí như sau: 1. Bốn binh trạm bố trí trên 4 tuyến ngang vượt khẩu gồm: Binh trạm 9: phụ trách từ km O ñường 18 ñến nam Tà Khống bắc ñường 9 với cự ly dài 100 km, chỉ huy sở ở Trà Vinh. Lực lượng gồm: Hai tiểu ñoàn công binh (94, 337). Một tiểu ñoàn xe (878). Một tiểu ñoàn ñường ống (668). Một ñại ñội súng máy 12,7 ly. Sáu phân ñội khác phục vụ chiến ñấu gồm kho, thông tin, giao liên cơ giới, ñội ñiều trị, hai trạm phẫu thuật. Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ Lưu Xuân Huệ, ñội trưởng ñội ñiều trị là bác sĩ Nguyễn Văn Quật (năm 1970 về làm Chủ nhiệm quân y Binh trạm 9 và ñã hy sinh). ðội phẫu thuật 1 chốt ở trọng ñiểm Phà Long ðại do bác sĩ Nguyễn Xuân Kỷ phụ trách và ñội trưởng ñội phẫu thuật 2 (chốt ở Pha Băng Nưa) là bác sĩ ðàm Tiến Hành. Binh trạm 12: phụ trách trên ñường 12 từ Khe Ve ñến Na Tông dài 120 km, chỉ huy sở ñặt ở nam Mụ Dạ. Lực lượng gồm: Ba tiểu ñoàn công binh (2, 53, 93). Hai tiểu ñoàn xe (101, 770). Một tiểu ñoàn ñường ống (868). Một tiểu ñoàn cao xạ (44). 107
- Một ñại ñội bộ binh. Bốn phân ñội phục vụ chiến ñấu gồm kho, thông tin, giao liên cơ giới, 1 ñội ñiều trị, 3 ñội phẫu thuật chốt tại các ñiểm Pa Na Phào, Xóm Péng, Văng Viêng. Chủ nhiệm quân y là bác sĩ Trịnh Huy Oai (từ tháng 4 năm 1970 là bác sĩ Nhàn); ñội trưởng ñiều trị là bác sĩ Lê Văn ðính. Binh trạm 14: phụ trách ñoạn ñường 20 từ km 39 ñến Lùm Bùm, Nậm Khừng, cự ly 110km. Chỉ huy sở ở phân trạm C, bắc cua chữ A. Lực lượng gồm: Ba tiểu ñoàn công binh (24, 33, 335). Hai tiểu ñoàn xe (52, 781). Một tiểu ñoàn cao xạ (42). Một tiểu ñoàn giao liên (7). Một ñại ñội bộ binh và 4 phân ñội khác phục vụ chiến ñấu gồm thông tin, kho, 1 ñội ñiều trị và các ñội phẫu thuật chốt ở các trọng ñiểm: phà Xuân Sơn, cua chữ A, Nậm Tà Lê, ñèo Phu La Nhích (ATP), Lùm Bùm, Chà Là (ñội trưởng là bác sĩ Nguyễn Tiến Dậu). Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ nguyễn Năng Dựng. Binh trạm 27: phụ trách trên ñường 16 từ Vít Thù Lù ñến Chà Li – kho Vinh, cự ly 100 km. Chỉ huy sở ở Chà Li. Lực lượng gồm: Một tiểu ñoàn vận tải ñường sông (161). Một ñại ñội công binh cải tạo ñường sông. Một trung ñội ô tô vận tải. Một tiểu ñoàn súng máy 14,5 ly (35). Một ñại ñội bộ binh. Ba phân ñội phục vụ chiến ñấu gồm thông tin, kho, 3 ñội ñiều trị kiêm phẫu thuật: ñội 1 ñóng ở suối Chà Li do bác sĩ Nguyễn Hồng Thị làm ñội trưởng; ñội 2 ñóng ở hang Tà Nụp (nam Xê Băng Hiên) do y sĩ Nguyễn Tiến Huống phụ trách và ñội 3 ñóng ở hang Ca ðo (bắc Xê Băng Hiên), ñội trưởng là y sĩ Nguyễn Văn Tự. Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ Vũ Hưởng (năm 1970 bác sĩ Phạm Văn Phiếm thay thế). 2. Bảy binh trạm trên tuyến dọc từ Na Tông ñến nam Xê Ca Mán, cự ly hơn 800 km gồm: Binh trạm 31: phụ trách trên 2 trục ñường 128 và 129 từ Na Tông ñến Lùm Bùm, cự ly 100 km. Chỉ huy sở ở bắc Na Tông. Lực lượng gồm: Hai tiểu ñoàn công binh (25, 27). Một tiểu ñoàn xe (53). Hai tiểu ñoàn cao xạ (14, 26). Một tiểu ñoàn giao liên (6). Một tiểu ñoàn kho. 108
- Một ñại ñội bộ binh và 4 phân ñội khác bao gồm thông tin, cơ giới, 1 ñội ñiều trị và các ñội phẫu thuật chốt tại các trọng ñiểm: Xiêng Phan, Pac Pha Năng, Tha Pa Chon. Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ ðỗ Văn Ngoạn. Binh trạm 32: phụ trách trên hai trục ñường: - Trục ñường 128 từ Lùm Bùm ñến Tha Mé, dài 120 km. - Trục ñường 129 từ Nậm Khừng ñến Mường Phìn, cự ly khoảng 80 km. Chỉ huy sở ở Lùm Bùm. Lực lượng gồm: Ba tiểu ñoàn công binh (31, 43, 69). Ba tiểu ñoàn xe (60, 101, 990). Ba tiểu ñoàn cao xạ (12, 16, 22). Một tiểu ñoàn giao liên (9). Một tiểu ñoàn kho. Một trạm trung tu. Một ñại ñội bộ binh và một số phân ñội khác gồm: thông tin, dân vận, 1 ñội ñiều trị và 2 ñội phẫu thuật ñóng ở bắc và nam Văng Mu. Viện 59 ñóng gần bản Na Bo thuộc ñịa bàn này. Chủ nhiệm quân y là bác sĩ Phạm Văn Bạn. Công tác ở các ñội phẫu thuật có các quân y sĩ: Nguyễn Tiến Huống, y sĩ Khoa, y sĩ Ngoạn, y sĩ Mầu… Binh trạm 33: phụ trách trên trục ñường 128, ñoạn từ ñường 9 ñến La Hạp, cự ly 100 km. Chỉ huy sở ñặt ở nam Tha Mé. Lực lượng gồm: Hai tiểu ñoàn công binh (71, 35). Hai tiểu ñoàn xe (61, 965). Hai tiểu ñoàn cao xạ (20, 34). Một tiểu ñoàn giao liên (10). Một ñại ñội bộ binh và 6 phân ñội khác bao gồm kho, thông tin, dân vận, 1 ñội ñiều trị ñóng ở nam Tha Mé do bác sĩ Phạm Văn Lạn (quê Thái Bình) làm ñội trưởng và 4 ñội phẫu thuật chốt tại các ñiểm: bản ðông – Thà Khống, Xê Pôn, Tôn Ru. Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ ðỗ ðức Niên. Binh trạm 34: phụ trách trên ñường 128 và 21 từ La Hạp ñến Bạc, cự ly 110 km. Chỉ huy sở La Hạp. Lực lượng gồm: Hai tiểu ñoàn công binh (29, 39). Một tiểu ñoàn xe (51). Một tiểu ñoàn cao xạ (10). Một tiểu ñoàn giao liên (12). Một ñại ñội bộ binh và 5 phân ñội khác bao gồm kho, thông tin, dân vận, 1 ñội ñiều trị (bác sĩ Liễu làm ñội trưởng), 1ñội phẫu thuật do bác sĩ Xướng phụ trách (về sau bác sĩ Mai Na thay thế). Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ Vũ Hữu Cầu. 109
- Binh trạm 35: phụ trách ñoạn ñường từ Bạc ñến Tăng Cát (ñường 128), cự ly 90 km. Chỉ huy sở ở nam Tăng Cát. Lực lượng gồm: Một tiểu ñoàn công binh (41). Một tiểu ñoàn xe (59). Một tiểu ñoàn thuyền (6). Một tiểu ñoàn giao liên (12). Một ñại ñội bộ binh và 5 phân ñội khác gồm kho, thông tin,dân vận, 1ñội ñiều trị ñóng gần bản Cha Cơi và các ñội phẫu thuật chốt tại các ñiểm Chà Vằn, Bến Bạc, ðèo Long. Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ Nguyễn Văn Khai. Binh trạm 38: phụ trách trên ñường 128 từ Tăng Cát ñến Chà Vằn, cự ly 90 km. Chỉ huy sở ở bắc Chà Vằn. Lực lượng gồm: Một tiểu ñoàn công binh (43). Hai ñại ñội xe (1, 2). Một tiểu ñoàn cao xạ (40). Một tiểu ñoàn giao liên (15). Một ñại ñội bộ binh và 4 phân ñội khác gồm kho, thông tin, 1 ñội ñiều trị và các ñội phẫu thuật . Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ Võ Hồng Phước. Binh trạm 36: phụ trách từ Chà Vằn ñến nam Xê Ca Mán trên ñường 128, cự ly 100 km. Chỉ huy sở ñặt ở Chà Vằn. Lực lượng gồm: Một tiểu ñoàn công binh (341). Một tiểu ñoàn xe (972). Một tiểu ñoàn cao xạ (32). Một tiểu ñoàn giao liên (13). Một ñại ñội bộ binh và 6 phân ñội khác gồm kho, thông tin, trung tu, dân vận, 1 ñội ñiều trị do bác sĩ Vũ ðình Khôi Nam làm ñội trưởng ñóng ở nam Bạc, 2 ñội phẫu thuật (ñội 1 ñóng ở Bô Phiêng do bác sĩ Hà Ngọc Kiểu phụ trách và ñội 2 ñóng ở Xê Ca Mán do bác sĩ ðoàn Chuyên làm ñội trưởng). Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ ðàm Quang Hải. 3. Bốn binh trạm bố trí trên các tuyến ñường ngang tiếp giáp với chiến trường Trị – Thiên, Quân Khu 5, Tây Nguyên: Binh trạm 37: phụ trách trên ñường 128, ñoạn từ Xê Ca Mán ñến S9 (nam Phi Hà) và ñường 49 từ Phi Hà ñến Tà Ngâu. Chỉ huy sở ở nam Xê Xụ. Lực lượng gồm: Hai tiểu ñoàn công binh (1, 2). Một tiểu ñoàn xe (58). Một tiểu ñoàn cao xạ (30). Một tiểu ñoàn bộ binh (2). 110
- Một tiểu ñoàn giao liên (16) và 6 phân ñội khác gồm: kho, thông tin, dân vận, thu mua, ñội ñiều trị (ñóng ở ngã ba Phi Hà do bác sĩ Phan ðức Thiện làm ñội trưởng), ñội phẫu thuật . Chủ nhiệm quân y Binh trạm là bác sĩ Ngô Quang Thân (sau một thời gian bác sĩ Thiện thay thế). Binh trạm 41: phụ trách trên ñoạn ñường 9 từ nam Tà Khống – Bản ðông ñi Tà Cơn, ñi A Túc (ñường B45), ñi Li Tôn (ñường B70), cự ly 100 km. Chỉ huy sở ở nam Tà Khống. Lực lượng gồm: Ba tiểu ñoàn công binh (1, 75, 39). Một tiểu ñoàn xe (54). Hai tiểu ñoàn cao xạ (4, 24). Một ñại ñội bộ binh và 6 phân ñội khác gồm kho, thông tin, giao liên cơ giới, dân vận, 1 ñội ñiều trị (bác sĩ Cường làm ñội trưởng), 2 ñội phẫu thuật (ñội 1 do bác sĩ Hồng Lan phụ trách; ñội 2 do bác sĩ Nguyễn Văn ThưởngΥ phụ trách). Chủ nhiệm quân y: bác sĩ Nguyễn Lương Tự – sau ñó là bác sĩ Nguyễn Khắc Tuyên. Binh trạm 42: Phụ trách trên ñường B 45 từ km 10 ñến Xưởng giấy (tây nam Thừa Thiên), cự ly 131 km – Chỉ huy sở ở A Túc. Lực lượng gồm: Hai tiểu ñoàn công binh (37, 45). Một tiểu ñoàn xe (55). Một tiểu ñoàn cao xạ (12). Một tiểu ñoàn bộ binh (5). Một tiểu ñoàn giao liên (14). 6 phân ñội phục vụ chiến ñấu gồm kho, thông tin, dân vận và quân y. Riêng quân y có 1 ñội ñiều trị do bác sĩ Cường phụ trách; 2 ñội phẫu thuật (ñội 1 do bác sĩ Hồng Lan phụ trách và ñội 2 do bác sĩ Lê Văn Cán làm ñội trưởng). Chủ nhiệm quân y binh trạm là bác sĩ Lê Trung Kiên – sau ñó là bác sĩ ðỗ ðức Niên. Binh trạm 44: Phụ trách trên ñường B 46 từ Chà Vằn ñi Lan Tôn – giáp ñường 14 Quân Khu 5, cự ly 117 km. Chỉ huy sở ở ðắc Chưng. Lực lượng gồm: Một tiểu ñoàn công binh (21). Một trung ñoàn công binh (10) phối thuộc. Một tiểu ñoàn xe (56). Một tiểu ñoàn cao xạ (28). Một tiểu ñoàn giao liên (17). Hai ñại ñội bộ binh (2, 3). Lực lượng phục vụ chiến ñấu có 4 phân ñội gồm: kho, thông tin, dân vận, ñội ñiều trị, ñội phẫu thuật, và Viện 46 ñóng trên ñịa bàn. Υ Thiếu tướng bác sĩ Nguyễn Văn Thưởng – nguyên Cục trưởng Cục quân y từ 199.. – 2002, hiện nay là Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Chữ thập ñỏ Việt Nam. 111
- Chủ nhiệm quân y binh trạm: bác sĩ Cường. Trên tuyến ñường ngang này (xuôi về Căm Pu Chia), sau khi thành lập Sư ñoàn 470 (25/4/1970) còn có thêm 2 binh trạm là 50 và 51. Như vậy riêng về mạng lưới quân y bước vào thời ñiểm mùa khô 1969 – 1970 ñã có 2 bệnh viện (59 và 46 – Viện 68 chuyển sang cho Quân Khu Trị Thiên trước ñó), 12 bệnh xá, 17 ñội ñiều trị (15 ñội/ 15 binh trạm và 2 ñội ở 2 chỉ huy sở hậu cứ và tiền phương của ðoàn), 51 ñội phẫu thuật, 2 ñại ñội quân y trung ñoàn, gồm tất cả 4.912 cán bộ, chiến sĩ bằng 8,22% quân số toàn ðoàn. Sau khi hoàn tất khâu chuẩn bị, ngày 10 tháng 11 năm 1969, lệnh nhập tuyến bắt ñầu và sau ñó 10 ngày (20/11/1969), chiến dịch vượt khẩu ñã kết thúc thắng lợi. Cuối tháng 12 năm 1969, mọi hoạt ñộng vận chuyển và chỉ huy chiến ñấu hiệp ñồng binh chủng ñã cơ bản ổn ñịnh, ðảng ủy – Bộ Tư lệnh quyết ñịnh toàn tuyến ra quân “Tổng công kích” quy mô lớn vào ngày 15 tháng 1 năm 1970. Vào thời ñiểm này, trên toàn tuyến ñịch ñánh phá rất mạnh. Chúng tập trung ñánh phá chủ yếu xuống các trọng ñiểm cửa khẩu, ñồng thời quấy phá mạnh ở tung thâm nhất là từ ñường 9 trở ra. Bình quân mỗi ngày ñịch sử dụng 650 lần/ chiếc cường kích, 60 lần chiếc B52, trong ñó hai phần ba ñược sử dụng ñánh phá vào các binh trạm phía bắc ñường 9. Thủ ñoạn mới của ñịch là mở rộng chiến tranh ñiện tử, sử dụng máy bay cường kích bay thấp thả hàng vạn máy thu phát ñiện tử mang tên “gián ñiệp gác ñường” làm thành hàng rào ñể phát hiện các hoạt ñộng của ta. Mặt khác, chúng dùng máy bay AC 130 rải pháo sáng tìm xe, bắn ñạn 40 ly gây sát thương rộng. Nhằm ngăn cản và kéo dài thời gian khắc phục của bộ ñội ta, ñịch còn tăng cường các phi vụ rải bom mìn hỗn hợp gồm mìn vướng nổ, bom từ trường, bom nổ chậm… Mặc dầu vậy, bom ñạn và những thủ ñoạn ñánh phá ngăn chặn quyết liệt của kẻ ñịch vẫn không thể làm nhụt ý chí chiến ñấu, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của các cán bộ, chiến sĩ binh ñoàn Trường Sơn trong suốt mùa khô 1969 – 1970. Tiếp sau thắng lợi toàn diện của ñợt 1 tổng công kích, ðảng uỷ – Bộ Tư lệnh 559 lại phát ñộng “Tổng công kích” ñợt 2 vào ngày 18 tháng 2 năm 1970 ñúng vào thời ñiểm xẩy ra cuộc ñảo chính của tập ñoàn phản ñộng Lon – Non – Xi – Ních Ma – Tắc lật ñổ chính phủ Xi – Ha – Núc. Và vì thế tiếp tế ñường biển của ta qua cảng Xi – Ha – Núc Vin bị cắt ñứt. Cùng với việc các cơ sở hậu cần của chiến trường miền ñông Nam Bộ ñặt trên ñất Căm Pu Chia phải rút vào bí mật thì tuyến ñường 559 hoạt ñộng ở hướng này cũng gặp khó khăn lớn. Cũng vào thời ñiểm ñó, ñịch cho quân ñổ bộ bằng trực thăng xuống cao ñiểm Phi Hà thuộc Binh trạm 37 nhằm cắt ñứt tuyến ñường vận chuyển sang Tây Nguyên. Tiếp ñến, cuối tháng 3, hai trung ñoàn Mỹ – Ngụy ñổ quân xuống bắc ñường B70 và Dốc Con Mèo ñường B45 nhằm chặn ñường xuống Trị – Thiên. Sang ñầu tháng 4, ba tiểu ñoàn thuộc lực lượng Phỉ Ma Ki của ngụy Lào nống ra tây Mường Phìn và sau ñó là 3 tiểu ñoàn lính hỗn hợp biệt kích Mỹ (S Gu) và Thái Lan lấn chiếm A Tô Pơ, uy hiếp hành lang vận tải của ta… 112
- Lực lượng quân y 559 bước vào thế trận mới của mùa khô 1969 – 1970 này không chỉ ñã lớn mạnh về quân số mà quan trọng hơn là ñã trưởng thành nhiều mặt nhất là lĩnh vực tổ chức chỉ huy bảo ñảm quân y trong mọi tình huống. Về cơ cấu tổ chức, trong ñội hình chiến ñấu của ngành quân y lúc này ñã có ñủ các chuyên ngành ñiều trị dự phòng, vệ sinh phòng dịch, tiếp tế và sản xuất thuốc, huấn luyện và nghiên cứu khoa học… ñược sắp xếp bố trí và thường xuyên ñiều chỉnh phù hợp với nhiệm vụ phục vụ chiến ñấu trong từng thời ñiểm, từng ñịa bàn. Phòng quân y ñược bổ sung thêm một số trợ lý chuyên môn giúp lãnh ñạo ngành theo dõi và ñôn ñốc thực hiện kế hoạch. Các bộ phận khác như dược chính, vệ sinh phòng dịch trực thuộc Phòng quân y cũng ñược bổ sung người và kiện toàn thêm một bước (hai dược sĩ ñại học là Hồ Kim Thông và Hoàng Cao Anh ñược tăng cường cho dược chính; bác sĩ Phạm Sùng Phó trưởng phòng quân y trực tiếp làm ñội trưởng ñội vệ sinh phòng dịch). Hệ thống quân y từ binh trạm trở xuống cũng ñược củng cố và kiện toàn thêm một bước. Dưới ban quân y binh trạm ñã thành lập thêm tiểu ban quân y, có trợ lý ñiều trị – thống kê, trợ lý vệ sinh phòng dịch và tổ chống sốt rét, trợ lý dược chính. Các cơ sở ñiều trị như bệnh viện, bệnh xá, ñội ñiều trị, ñội phẫu thuật, ñại ñội quân y trực tiếp ñược xây dựng và phát triển. ðặc biệt lãnh ñạo ngành hết sức coi trọng phát triển mạng lưới quân y nghiệp dư ở các tiểu ñội mà hạt nhân là các chiến sĩ vệ sinh ưu tú, số chiến sĩ vệ sinh này ñược coi là “nguồn” ñể ñào tạo y tá, y sĩ tại chỗ. Từ thực tiễn phục vụ chiến ñấu trải qua nhiều năm trên tuyến, quân y 559 ñã rút ra 3 nguyên tắc tổ chức là: - Phải ñáp ứng ñược việc cứu chữa thương, bệnh binh ñược “kịp thời, tại chỗ, có hiệu lực” - ñặc biệt cứu chữa thương binh ở trọng ñiểm và cấp cứu sốt rét, sốt rét ác tính, nhất là các ñiểm ñiều trị. - ðáp ứng ñược yêu cầu cơ ñộng của bộ ñội. - Bảo ñảm biên chế gọn nhẹ. Trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức ñó, mạng lưới quân y vào thời ñiểm này ñã áp dụng cách bố trí lực lượng trên 2 hướng: - Theo ñường trục vận chuyển cơ giới và ñường giao liên. - Theo khu vực. a. Theo ñường trục: ðường trục vận chuyển cơ giới là mạch máu chính của chiến trường 559, vì vậy hệ thống quân y phải bám sát ñường trục và ñường giao liên – nơi mà thương binh, bệnh binh ñều ñược cứu chữa, ñiều trị, nuôi dưỡng và chuyển tuyến ñều diễn ra trên ñó. b. Theo khu vực: 113
- Xác ñịnh binh trạm là ñơn vị cơ bản của tuyến 559, là nơi hợp thành của nhiều binh chủng chiến ñấu có quy mô phân ñội ñến trung ñoàn nên ñược coi là ñịa bàn quan trọng nhất ñể triển khai công tác bảo ñảm quân y. Vì vậy mỗi binh trạm thường ñược bố trí từ 1 – 2 ñội ñiều trị, 3 – 4 ñội phẫu thuật, 1 – 2 bệnh xá giao liên và hướng tiến tới trong quy hoạch là tại các binh trạm ñầu nút chiến trường ñều phải có một bệnh viện ñể thu dung ñiều trị thương, bệnh binh ñược nhanh chóng, kịp thời (thời ñiểm này mới chỉ có Viện 46 và Viện 59). Tuy phân ñịnh ra hai hướng bố trí như vậy nhưng trong chỉ ñạo thực tế luôn có sự kết hợp chặt chẽ giữa khu vực và ñường trục, giữa tại chỗ và cơ ñộng, giữa trọng ñiểm và ñịa bàn xung quanh và kết hợp giữa hệ thống quân y cơ bản với mạng lưới ñiều trị nghiệp dư. Nhờ sự kết hợp hợp lý và hài hòa này mà trên thực tế vào thời ñiểm này ñã hình thành một thế trận quân y liên hoàn, vững chắc ñáp ứng ñược cơ bản mọi tình huống cấp cứu cứu chữa thương, bệnh binh. Việc ñội ñiều trị kiêm phẫu thuật cơ ñộng của Binh trạm 32 ứng cứu kịp thời 1 tiểu ñoàn bộ binh hành quân cơ giới bị máy bay ñịch ñánh trúng vào ñội hình tại trọng ñiểm Văng Mu năm 1968; ñội ñiều trị kiêm phẫu thuật của Binh trạm 41 cơ ñộng ñến giải quyết thương vong của bộ ñội ñại ñội 3, tiểu ñoàn 24 pháo cao xạ bảo vệ cầu Chữa trên ñường 9 vào ngày 21 tháng 12 năm 1969 là những ví dụ ñiển hình về hiệu qủa của sự phối hợp, kết hợp mang tính hợp ñồng chiến ñấu này của quân y. Việc bảo ñảm quân y phục vụ chiến ñấu lúc này có 2 yêu cầu ñược ñặt ra là nâng cao khả năng phẫu thuật ñiều trị ngoại khoa ở các cơ sở thu dung ñiều trị nhất là ở phía ngoài và nam – bắc ñường 9; ñồng thời nâng cao chất lượng ñiều trị nội khoa mà then chốt là ñiều trị sốt rét và sốt rét ác tính ñối với các ñơn vị ở tuyến trong. Việc phòng, chống bệnh sốt rét và ñặc biệt là sốt rét ác tính luôn ñược coi là công tác trọng tâm và xuyên suốt của quân y Trường Sơn từ trên xuống dưới. ðược sự giúp ñỡ của Cục Quân y cũng như lực lượng dân y ở hậu phương ñưa vào, việc nghiên cứu và ñiều trị phòng, chống sốt rét ñã thu ñược nhiều kết qủa khả quan, tuy nhiên bộ ñội càng tiến sâu vào các vùng rừng núi hoang sơ thì số người nhiễm bệnh sốt rét càng cao. Kết qủa theo dõi và kiểm tra sức khỏe trên 18 tiểu ñoàn hành quân qua tuyến vào chiến trường trong ñó có 7.527 người vào Tây Nguyên và Nam Bộ theo trục ñường Lào – Căm Pu Chia trong mùa khô này thì tỷ lệ mắc bệnh sốt rét dọc ñường lên ñến 18% quân số. Các cơ sở ñiều trị của Binh trạm 41 trong thời gian từ tháng 5 ñến tháng 10 năm 1969 ñã thu dung ñiều trị 235 ca sốt rét ác tính và ñã có 18 ca tử vong. Nhằm ngăn ngừa bệnh sốt rét và hạn chế ñến mức tối ña tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính gây ra, ngành quân y ñã áp dụng một số biện pháp bắt buộc ñối với tất cả các ñơn vị nội bộ cũng như “Khách” qua tuyến: - Uống thuốc dự phòng bằng viên F2. - Phun thuốc DDT rộng rãi ñúng theo quy ñịnh thời gian (mùa khô: 3 tháng/ lần; mùa mưa: 2 tháng/ lần). 114
- - Quân y giao liên phải thực hiện nghiêm ngặt việc giữ lại trạm những ca sốt rét nặng có nguy cơ sốt rét ác tính (trong số 7.527 quân vào Tây Nguyên và Nam Bộ ñã giữ lại ở các trạm giao liên dọc tuyến 457 người bị sốt rét chiếm 6,1% quân số). ðối với thương, bệnh binh từ chiến trường ra ñều ñược theo dõi tỷ lệ mang ký sinh trùng khi nhập tuyến, khi ra tới cửa khẩu và thực nghiệm ñiều trị sốt rét liên hoàn trên suốt tuyến giao liên nhằm mục ñích giảm tái phát trên ñường ra hậu phương, giảm nguy cơ sốt rét ác tính và ñặc biệt là giảm số người mang ký sinh trùng sốt rét ra miền Bắc. ðội vệ sinh phòng dịch của ðoàn lúc này cũng ñã ñược trang bị kỹ thuật tốt hơn (kể cả xe ô tô ñặc chủng) và tăng thêm số lượng cán bộ nghiên cứu sốt rét từ 20 lên 35 người. Những cố gắng liên tục không mệt mỏi của quân y 559 trong công tác phòng chống sốt rét ñã ñem lại kết qủa tích cực, làm giảm tỷ lệ mắc sốt rét nghỉ việc hàng tháng so với quân số nội bộ năm 1969 là 14, 49% thì qua năm 1970 còn 11, 65%, các năm tiếp theo tỷ lệ ñó càng thấp hơn. ðối với bộ ñội lái xe, do hình thức vận chuyển cơ giới theo cung chuyến và ñội xe ñều trực thuộc các binh trạm nên ñược tổ chức thành 2 lực lượng: lực lượng vận chuyển theo cung khép kín trong ñêm với cung ñộ từ 30 – 40 km và lực lượng vận chuyển theo chuyến có cự ly 80 – 100 km với thời gian cả ñi lẫn về là 2 ñêm. ðể phù hợp với ñặc ñiểm hoạt ñộng ñó, việc tổ chức cấp cứu ñiều trị cho các chiến sĩ lái xe ñược gắn chặt với quân y các binh trạm là chủ yếu. Ngoài ra còn có các ñội ñiều trị cơ ñộng luôn luôn bám sát hoạt ñộng của lái xe trên từng cung, chặng ñường sẵn sàng ứng cứu kịp thời chiến thương trong mọi nơi, mọi lúc. Có thể nói lái xe nhỡ cung bất cứ ở ñâu, tìm vào bất cứ ñơn vị nào cũng ñều ñược ñón tiếp và bố trí ăn, nghỉ, cũng như chăm sóc sức khỏe hết sức chu ñáo. Khi lái xe bị thương, bị ốm vào nằm ở một cơ sở quân y nào ñều ñược tiếp nhận ngay không ñòi hỏi giấy giới thiệu hay tiền ăn. Họ ñược nuôi dưỡng ưu tiên với tiêu chuẩn cung cấp cao gấp 3 – 4 lần tiêu chuẩn thường. Mặc dầu thuộc diện ưu tiên số 1 trên tuyến ñường nhưng do hoạt ñộng căng thẳng, liên tục dài ngày và ñặc biệt là thường xuyên ñối mặt với sự ñánh phá của ñịch nên sức khỏe của bộ ñội lái xe luôn bị giảm sút nghiêm trọng, tai nạn xe cũng vì thế mà tăng cao (ñiều tra 32 vụ ñổ xe ñơn thuần nghề nghiệp thì 20/32 xe – chiếm tỷ lệ 62% xẩy ra vào quãng 1 –2 giờ sáng có liên quan ñến thiếu ngủ). Mặt khác, từ năm 1968 khi xe qua khỏi trọng ñiểm là coi như ñã khá an toàn, nhưng từ 1969 về sau do ñịch thay ñổi chiến thuật ñánh chặn mạnh cả ngoài lẫn trong trọng ñiểm nên thương vong của bộ ñội lái xe càng cao. Chỉ tính riêng mùa khô 1969 – 1970, tiểu ñoàn xe 56 của Binh trạm 42 bị ñịch ñánh vào ñội hình xe 71 vụ, gây thương vong 159 người, chiếm tỷ lệ 51,78% quân số của tiểu ñoàn. Thương vong của bộ ñội lái xe chiếm khoảng 18,54% thương vong của toàn ðoàn và thường cao nhất là các tháng vận chuyển mùa khô (74,6% số thương vong trong năm) trong ñó hy sinh tại trọng ñiểm là 9,33%. 115
- Cũng do áp lực căng thẳng hằng ngày ñã dẫn ñến tình trạng stress âm tính biểu hiện trên rối loạn thần kinh chức năng của lái xe. Thường sau một chuyến ñi, lái xe ñều có biểu hiện này kèm với biểu hiện một sự giảm sút hưng phấn, các triệu chứng suy nhược thần kinh và các dấu hiệu biến ñổi hoạt ñộng không bình thường của hệ tim mạch ở người trẻ. Tỷ lệ loét dạ dày khá cao ở số lái xe lâu năm cũng ñã gợi ý tới nguyên nhân suy nhược thần kinh hướng tim mạch xuất phát từ các stress cảm xúc. Tất cả những hiện tượng trên ñều ñược các chuyên gia y tế trong và ngoài quân ñội vào nghiên cứu thực tế trên ñường Trường Sơn kết hợp với quân y 559 tìm các biện pháp khắc phục và ñã thu ñược nhiều kết qủa. Cũng từ ñó mà rút ra một số kinh nghiệm giúp lái xe xử trí tình huống khi bị máy bay ñịch phát hiện, khi bị ñịch ñánh vào ñội hình (ở ñầu, ở giữa và ở cuối); cách tránh ùn tắc, cách ñi vòng, ñi tránh… nhằm hạn chế thương vong. Quân y cũng ñã thực hiện 4 biện pháp cho chiến sĩ lái xe: trước khi vào mùa vận chuyển, 100% lái xe ñều ñược huấn luyện về các phương pháp cấp cứu, cấp cứu lẫn nhau; ñược phát ñủ mỗi người 2 cuốn băng cá nhân, ñược huấn luyện xử trí ứng dụng cấp cứu nhiễm ñộc vũ khí hoá học; trên xe có nẹp tre ñể cố ñịnh gãy xương, có võng dùng cho các nhân khi cần dùng ñể chuyển thương. Lái xe ñược phổ biến tường tận những ñiểm có ñội phẫu thuật, tổ cấp cứu và ñội ñiều trị triển khai trên ñường vận chuyển. Bố trí các cán bộ, chiến sĩ quân y dũng cảm và giỏi về nghiệp vụ cấp cứu ñiều trị ñi theo hộ tống ñội hình xe mũi nhọn vừa ñể kiểm tra, vận ñộng công tác vệ sinh phòng dịch, vừa giải quyết kịp thời thương vong trên ñường. Phân ñội xe hơi mũi nhọn khi tiến công thường gặp nhiều nguy hiểm, khó khăn: ñịch chặn ñánh ác liệt, việc bố trí ăn, ngủ, nghỉ thất thường, việc bảo vệ sức khỏe gặp nhiều hạn chế, vì vậy phải có một cán bộ hoặc chiến sĩ quân y xuất sắc, qủa cảm và giàu kinh nghiệm chiến trường làm nhiệm vụ hộ tống vừa ñể tạo tin tưởng cho lái xe vừa bảo ñảm phục vụ chiến ñấu khi cần thiết. Trong ñội hình binh trạm, khi bánh xe lăn trên các cung ñường quen thuộc thì hầu như tất cả mọi lực lượng cũng bước vào trận chiến ñấu bảo vệ cho ñoàn xe vận hành ñược an toàn. Từ người chỉ huy ñến chiến sĩ thuộc các binh chủng: cao xạ, công binh, chỉ huy giao thông, quân y… cùng thức với xe và sẵn sàng ứng cứu khi có tín hiệu. Theo quy ñịnh thì khi có thương vong tín hiệu là bốn phát súng; nhưng ngay cả khi không nghe tín hiệu mà thấy qúa thời gian xe qua là các trạm chỉ huy giao thông, trạm cấp cứu người có trách nhiệm tìm kiếm và báo cáo về trực chỉ huy và trực quân y của cung ñường cũng như binh trạm ñể huy ñộng lực lượng tìm kiếm, ứng cứu. Trường hợp có nhiều thương vong mà vượt qúa khả năng cứu chữa của quân y ñơn vị cơ sở thì báo cáo ngay lên “Tổng trực ban” và trực quân y của ðoàn ñể xin chi viện. Trên cung ñường của từng binh trạm quản lý có cự ly trên dưới 100 km ñều bố trí 1 – 2 ñội ñiều trị, 2 – 4 ñội phẫu thuật và một số tổ cấp cứu tăng cường (tách từ ñội ñiều trị hay ñội phẫu) bố trí chốt cùng các trạm chỉ huy giao thông, các trung ñội công binh bảo ñảm giao thông. Ngoài ra, trên ñịa bàn còn 116
- có lực lượng quân y thuộc các phân ñội cao xạ, giao liên, xe … Tất cả hình thành một mạng lưới quân y khá dày, chi viện, hỗ trợ ñược cho nhau trong mọi tình huống. Tại các trọng ñiểm, lực lượng quân y trong mùa khô 1969 – 1970 cũng ñược tăng cường thêm nhiều ñiểm cấp cứu. Ví dụ tại trọng ñiểm Chà Là bố trí 12 ñiểm cấp cứu có y tá, 2 ñiểm bổ sung cấp cứu có y sĩ, có dịch truyền, một ñội phẫu thuật ñặt cách tâm trọng ñiểm khoảng 4 km và 2 ñội phẫu thuật khác có thể hỗ trợ ñược khi ñường ñến ñội phẫu thuật chính của trọng ñiểm bị tắc cách xa 16 – 19 km. Tại các trọng ñiểm khác, lực lượng quân y phục vụ chiến ñấu cũng ñược bố trí tương tự. Số lượng ñội phẫu thuật chốt trên các trọng ñiểm ngày càng ñược tăng cường ñáng kể: năm 1968 có 46 ñội, năm 1969 có 51 ñội, năm 1970 có 70 ñộiΥ ... Trên các cung, ñoạn ñường mới mở chưa bố trí kịp mạng lưới quân y binh trạm thì việc cấp cứu cứu chữa thương binh phải dựa vào các cơ sở quân y của các trung ñoàn công binh. ở những ñịa bàn chưa có quân y công binh thì các trung ñoàn xe (về sau có cả sư ñoàn) phải tự tổ chức những ñội phẫu thuật, ñội thu dung tách từ ñại ñội quân y (về sau lên ñến tiểu ñoàn quân y) của mình tiến lên phía trước triển khai các cơ sở ñiều trị dã chiến. Cùng với việc vận chuyển bằng ñường bộ, ngay từ những năm 1961 – 1962, ðoàn 559 ñã chú ý ñến việc khai thác dòng chảy của sông, suối (nhất là vào mùa mưa) ñể chuyển hàng. Từ hình thức thả trôi bao bì ñược bọc kín 2 lớp ni lông và puy xăng trên sông Xê Băng Hiên, ñến các năm 1968, 1969 ñã áp dụng nhiều lần trên sông Xê Công - ñoạn chảy qua A Tô Pơ, và ñến mùa khô 1969 – 1970 thì ñã hình thành một ñại ñội thuyền máy chở hàng từ Nậm Công ñến Tà Ngâu (cũng trên sông Xê Công). Hình thức vận chuyển thả trôi ban ñầu này tuy có giảm ñược phần nào sức vận chuyển nhưng ngoài sự hao hụt khá lớn do bị nước cuốn ra giữa dòng trôi thẳng thì công sức bỏ ra ñể ñón lõng của bộ ñội cũng thật vất vả. Do phải ngâm mình dưới nước ñể vớt hàng ñêm này qua ñêm khác nên có ñến 80% bị nấm kẽ chân lở loét và số mắc sốt rét cũng khá cao, thậm chí ñã xẩy ra trường hợp chết ñuối khi bơi ra kéo hàng. Thấy không mấy hiệu qủa, lại bị ñịch phát hiện nhằm bắn mạnh nên hình thức thả hàng trôi dòng này ñã chấm dứt năm 1970. Về hoạt ñộng của thuyền máy cũng nhanh chóng bị ñịch phát hiện và ñánh chặn nhưng do bộ ñội ta ngụy trang khéo lại thường xuyên thay ñổi giờ giấc hoạt ñộng nên thiệt hại không ñáng kể. ðể phục vụ chiến ñấu của lực lượng vận chuyển ñường sông (nhất là về sau này) thì ngoài các trạm cấp cứu bố trí dọc hai bên bờ sông theo cung trạm, từng thuyền ñều có 1 y tá ñi kèm làm nhiệm vụ hộ tống. Việc phòng chống cảm lạnh, tai nạn sông nước, cá sấu… cũng rất ñược quân y chú trọng nhằm bảo vệ sức khỏe cho bộ ñội vận tải ñường sông. Hệ thống ñường ống vận chuyển xăng dầu vươn tới Trường Sơn thì ñồng thời cũng ñặt ra cho ngành quân y 559 một nhiệm vụ mới mẻ: phát hiện những Υ Do những chiến công ñặc biệt xuất sắc trong cứu chữa thương binh tại các trọng ñiểm, bác sĩ Trần Hành ñã ñược tuyên dương Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân năm 1969. 117
- ñặc ñiểm các bệnh nghề nghiệp của bộ ñội ñường ống xăng dầu trong chiến tranh, trên cơ sở ñó có biện pháp dự phòng và bảo ñảm cần thiết. Từ phát hiện hiện tượng nhiễm ñộc xăng pha chì chiếm tỷ lệ 15% ở bộ ñội giữ kho, cấp phát xăng, quân y ñã có kiến nghị với lãnh ñạo ngành xăng dầu là hầm xăng phải có khe hở giữa nắp và van hãm 40 cm ñể thông thoáng. Mặt khác, ñể ñề phòng bỏng xăng do rò rỉ, do áp lực trong ống xăng cao, tia xăng do rỉ phun thành bụi xăng dễ dàng bén lửa nên kiến nghị cũng nêu thêm là cấm hút thuốc khi tác nghiệp và ban ñêm chỉ ñược dùng ñèn pin khi kiểm tra ñường ống (trước ñó thường dùng ñèn bão). Cũng vào thời ñiểm hoạt ñộng mùa khô 1969 – 1970, việc bảo vệ sức khỏe cho nữ quân nhân thuộc nội bộ ðoàn cũng như lực lượng thanh niên xung phong ñang hoạt ñộng trên tuyến và các lực lượng công tác khác tiếp tục ñặt ra nhiều vấn ñề phải giải quyết trên lĩnh vực y học. ảnh hưởng nặng nề nhất ñến sức khỏe chị em là bệnh sốt rét thiếu máu, từ ñó phát sinh ra nhiều bệnh khác về phụ khoa như vô kinh, rong kinh, chậm kinh. Bệnh ít – tơ - ri (một bệnh sinh lý phụ nữ) cũng rất phổ biến, nhất là ở các ñơn vị thanh niên xung phong. Ngoài ra qua thăm khám, quân y cũng ñã phát hiện chứng loét ñầu vú, núm vú khô nẻ, nứt loét dẫn ñến nhiễm trùng nhất là nữ chiến sĩ xăng dầu. Mặc dầu vậy nhưng do nhiều lý do nên mãi tới năm 1971, trong tổ chức của ñội vệ sinh phòng dịch ðoàn 559 mới thành lập ñược tổ vận ñộng vệ sinh phụ nữ do bác sĩ Huỳnh Thị Trang và nữ quân y sĩ Nguyễn Thị Hồng phụ trách. Nhiệm vụ của tổ này là tiến hành ñiều tra cơ bản cơ cấu bệnh tật trong nữ quân nhân, ñiều kiện lao ñộng và kiểm tra việc thực hiện vệ sinh phụ nữ, thăm khám và ñiều trị một số bệnh phụ khoa thông thường… Công tác quân y giúp Bạn kể từ năm 1969 về sau không những vẫn ñược duy trì mà ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. 17 trạm xá huyện thuộc 7 tỉnh Nam Lào dọc tuyến hành lang ñều có chuyên gia quân y 559 trực tiếp làm cố vấn về chuyên môn. Binh trạm 33 ñã cử 1 tổ quân y xuống giúp y tế huyện Mường Nòng gồm y sĩ Dương Quang Sinh làm cố vấn bệnh xá trưởng huyện, y tá Nguyễn Quốc Cường trực tiếp giúp y tế cơ quan huyện, y tá Phạm Văn Dĩnh, Lương ðình Canh giúp xây dựng trạm xá xã ñiểm. Binh trạm 36 có 1 tổ quân y giúp y tế huyện Xằng Xây; Binh trạm 37 có 2 tổ quân y công tác tại 2 huyện Phu Vòng Nửa, Phu Vông Tạy ñều thuộc tỉnh A Tô Pơ ..v..v.. Các cơ sở, ñơn vị công tác y tế của Bạn như trường ñào tạo y sĩ, xưởng dược, tổ phòng chống sốt rét … cũng ñều có mặt quân y 559 giúp ñỡ. Ngoài nhiệm vụ chính là giúp ñỡ nâng cao trình ñộ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên y tế của Bạn từ huyện xuống ñến xã, bản, các tổ chuyên gia quân y còn tổ chức thăm khám và ñiều trị bệnh cho nhân dân trên ñịa bàn công tác (mùa khô 1970, 1971 tổ quân y giúp Bạn của Binh trạm 33 ñã trực tiếp giúp các cơ sở y tế Bạn khám bệnh và ñiều trị tại chỗ 1.387 lượt người). Sau khi kết thúc chiến dịch mùa khô 1969 – 1970 vào cuối tháng 4 năm 1970, cán bộ, chiến sĩ Binh ñoàn 559 lại khẩn trương củng cố lực lượng chuẩn bị triển khai nhiệm vụ trong thời gian tới. Riêng quân y, sau hơn 1 năm, trường 118
- quân y phải dừng lại do nhiều lý do của chiến trường ñã mở trở lại với khóa Y3 với 95 học viên (73 nam, 22 nữ). Từ ñó trường tồn tại cho ñến ngày kết thúc nhiệm vụ của ðoàn 559, ñưa tổng số quân y sĩ và dược sĩ trung cấp ñào tạo tại chỗ lên 484 người, trong ñó có 88 nữ. Rút kinh nghiệm 2 khóa ñào tạo trước do thời gian học ngắn nên nghiệp vụ chuyên môn hạn chế; do ñó từ khóa Y3 trở ñi chất lượng ñào tạo ñã tốt hơn, nhiều ñồng chí tốt nghiệp ra trường một thời gian ñã trở thành ñôi trưởng ñội phẫu thuật, trưởng quân y tiểu ñoàn. Thế mạnh của trường quân y 559 là ở chỗ nhà trường nắm vững tình hình nhiệm vụ của chiến trường, nắm vững cơ cấu bệnh tật, thực hành, thực tập ngay trong thực tế phục vụ chiến ñấu … Tất cả những yếu tố ñó ñều ñưa vào nội dung giảng dạy, làm cho học viên có trình ñộ ñáp ứng sát sườn với yêu cầu phục vụ. Trong nội dung giảng dạy, có 2 vấn ñề lớn rất ñược nhà trường quan tâm, ñó là: - Phòng và chống bệnh sốt rét, sốt rét ác tính. - Cấp cứu ñiều trị thương binh tại chiến trường. Song song với việc ñào tạo hệ quân y trung cấp thì việc ñào tạo quân y sơ cấp do quân y các binh trạm ñảm nhiệm vẫn tiếp tục ñược ñẩy mạnh. Nơi ñào tạo là bệnh xá, ñội ñiều trị binh trạm và giáo trình ñào tạo cơ bản là dựa vào tài liệu của Cục quân y biên soạn có hiệu chỉnh 1số ít vấn ñề cho phù hợp tình hình thực tế của chiến trường 559. Kể từ khi mở ñầu vào năm 1967 cho ñến năm 1975, quân y 559 ñã ñào tạo tại chỗ 3.948 y tá và 214 dược tá - một con số bổ sung cho lực lượng thật ñáng kể. Tuy nhiên, vào lúc này, lãnh ñạo ngành cũng thấy rằng ñội ngũ quân y trên tuyến qua thực tế công tác ñã bộc lộ một bất cập là số cán bộ quân y do trên bổ sung hoặc ñào tạo tại chiến trường ở các khóa trước ñều là ña khoa, trong lúc ñó nhiệm vụ phục vụ chiến ñấu của quân y 559 lại có nhu cầu rất cấp thiết về kỹ thuật chuyên khoa, trước hết là chuyên khoa ngoại cần có nhiều phẫu thuật viên cho việc cấp cứu, ñiều trị thương binh. Ngoài ra còn có nhu cầu lớn về kỹ thuật ñiều trị về các bệnh về răng – hàm – mặt, tai – mũi – họng cũng như các kỹ thuật gây mê, xét nghiệm, X quang, ký sinh trùng, ñông y – nam dược… ðể giải quyết thực trạng bất cập này, Phòng quân y 559 ñã có chủ trương ñào tạo cán bộ quân y chuyên khoa – Chủ yếu là chuyên khoa trung cấp, theo 2 hướng: - Tự lực ñào tạo tại chiến trường. - Gửi ra hậu phương nhờ ñào tạo. Chính nhờ chủ trương ñúng ñắn này mà chỉ một thời gian sau ñó quân y 559 ñã có ñược một số lượng cán bộ chuyên khoa ñáp ứng ñược phần lớn nhu cầu cần thiết trong công tác cứu chữa thương, bệnh binh cũng như bảo vệ sức khỏe cho bộ ñội hoạt ñộng trên tuyến. Mặt khác, việc kèm cặp bồi dưỡng tay nghề tại chức cũng ñã trở thành một chủ trương khá quan trọng của Phòng quân y và ñã ñược triển khai thực hiện có kết qủa tại các ñơn vị. Tiêu chuẩn ñặt ra là mỗi bác sĩ có chuyên khoa gì thì kèm cặp bồi dưỡng cho y sĩ trong vòng 1 năm phải biết làm chuyên khoa ñó. ðây là chỉ tiêu và cũng là trách nhiệm ñược giao cho từng bác sĩ. Chính nhờ 119
- biện pháp này mà phần lớn y sĩ ngoại và cả một số y tá phụ trách các ñội phẫu thuật, các kíp mổ tại các ñội ñiều trị, các tổ cấp cứu trọng ñiểm ñều ñược trưởng thành về chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài ra, công tác nghiên cứu khoa học phát triển y học quân sự cũng thường xuyên ñược coi trọng ñúng mức. Thực tiễn cho thấy chiến trường 559 với những ñặc ñiểm khó khăn ñặc biệt của nó về ñịa hình, thời tiết, thủ ñoạn và âm mưu ñánh phá của ñịch… nên trong công tác ñảm bảo quân y thì ngoài những kiến thức cơ bản ñã có còn cần phải dày công nghiên cứu sâu về tình hình thực tế ñể có những biện pháp thích ñáng trong tổ chức thực hiện nhằm mang lại hiệu qủa. Vì vậy công tác nghiên cứu khoa học phát triển kỹ thuật là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành quân y 559. Trong công tác này chú trọng ñến 2 khâu then chốt: 1. Khâu tổ chức: trong biên chế của Phòng quân y có bộ phận chỉ ñạo theo dõi công tác huấn luyện và nghiên cứu khoa học, tại các bệnh viện và cơ sở ñiều trị ở một số binh trạm có hội ñồng khoa học quân y. 2. Khâu nội dung nghiên cứu: trong ñiều kiện chiến trường và nhất là do trình ñộ cán bộ chuyên môn và trang bị có hạn lại phải tập trung vào nhiệm vụ thường kì lúc nào cũng sôi ñộng khẩn trương, nên nội dung nghiên cứu chỉ có thể nhằm vào những vấn ñề thực sự thiết thực mang tính cấp bách. ðó là: - Tổ chức chiến thuật quân y trên tuyến vận tải quân sự chiến lược. - Công tác chỉ huy quân y. - Phòng chống bệnh sốt rét, ñặc biệt là sốt rét ác tính. - Công tác cấp cứu ñiều trị thương binh. - Bảo vệ sức khỏe cho chiến sĩ lái xe, lực lượng chủ công nhất. - Bảo ñảm quân y giao liên chuyển thương. - Sử dụng dược liệu Trường Sơn. Mặc dầu còn nhiều hạn chế, nhưng nhìn chung một số công trình nghiên cứu có giá trị ñã ñem lại lợi ích thiết thực nâng cao chất lượng phục vụ chiến ñấu của ngành quân y 559. ðiển hình là các công trình nghiên cứu về dịch tễ sốt rét, về côn trùng học, tác dụng phun DDT, tình hình kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét ở từng lúc, từng nơi… Một số công trình về tổ chức chiến thuật của các tác giả là bác sĩ Chủ nhiệm quân y trong ñó có công trình “Tổ chức chiến thuật bảo ñảm quân y trên tuyến vận tải quân sự chiến lược” của bác sĩ Nguyễn Ngọc Thảo mang tính khái quát góp phần làm rõ hơn mô hình tổ chức và biện pháp thực hiện công tác nhiều mặt của quân y 559. ðối với sự chi viện kỹ thuật của hậu phương, quân y 559 cũng hết sức trân trọng và tranh thủ bằng mọi cách. Năm 1969, Thứ trưởng Bộ Y tế kiêm Cục trưởng Cục Quân y Vũ Văn Cẩn sau khi nghe báo cáo trực tiếp của Phòng quân y 559 ñã hướng dẫn nhiều nội dung về công tác phục vụ và xây dựng của quân y Trường Sơn. ðội vệ sinh phòng dịch Cục quân y ñã ñi theo các ñoàn bộ binh hành quân suốt dọc tuyến Trường Sơn ñể nghiên cứu về công tác bảo ñảm vệ sinh hành 120
- quân và thử nghiệm các biện pháp phòng chống sốt rét tổng hợp. ðoàn chuyên viên Cục Quân y do Phó tiến sĩ Nguyễn Văn Nhân dẫn ñầu gồm các bác sĩ Tạ Long, Trần Lưu Huyên, Bùi Nguyên Hiếu… ñã vào chi viện kỹ thuật cho 2 bệnh viện 59 và 46 từ tháng 11 năm 1968 ñến tháng 10 năm 1969. Ngoài ra, các ñoàn nghiên cứu của trường ñại học quân y, các quân y viện 108, 103… và nhiều bác sĩ, y sĩ quân, dân y ñi trên tuyến ñường ñã ñóng góp nhiều ý kiến xây dựng quí báu cho hệ quân y giao liên, cho việc tổ chức bình thường hoá sinh hoạt của bộ ñội, ñặc biệt là bảo vệ sức khỏe cho bộ ñội lái xe và những ñóng góp rất có giá trị ñối với quân y 559. Cũng như mọi binh chủng khác hoạt ñộng trên tuyến, công tác chính trị tư tưởng gắn liến với giáo dục ñộng viên cán bộ, chiến sĩ ñược coi là trách nhiệm thường xuyên ñối với lãnh ñạo ngành quân y 559, thể hiện bằng một số việc làm và biện pháp cụ thể: a. Chủ nhiệm quân y các cấp kết hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan ñể giải quyết các vấn ñề thuộc lĩnh vực chính trị tư tưởng ñối với cán bộ, chiến sĩ, quân y, cụ thể là: Kết hợp với cơ quan chính trị phát ñộng các ñợt thi ñua trong ngành lồng vào phong trào thi ñua chung của ñơn vị. Ví dụ: Phong trào thi ñua y tá 5 biết; Phong trào 5.000 mũi tiêm an toàn và 50.000 lần phát thuốc không nhầm lẫn. Kết hợp với cơ quan cán bộ trong các vấn ñề qui hoạch, quản lý cán bộ cũng như sử dụng, ñiều ñộng, ñề bạt, bồi dưỡng, cử ñi học ñối với cán bộ quân y cao cấp và sĩ quan quân y. Cùng với cơ quan quân lực tiến hành qui hoạch tổ chức ngành quân y về các khâu quản lý, sử dụng, ñề bạt, nâng lương, bồi dưỡng, cử ñi học, giải quyết phục viên chuyển ngành… ñối với nhân viên quân y thuộc hàng ngũ sĩ quan chuyên nghiệp và hạ sĩ quan, chiến sĩ. Kết hợp với cơ quan chính sách trong việc ñộng viên, khen thưởng cũng như nắm tình hình gia ñình của cán bộ, chiến sĩ ở hậu phương ñể tham gia giải quyết khó khăn cho những hoàn cảnh trong khả năng và ñiều kiện có thể. Mặc dầu những việc về tổ chức, chính sách nêu trên trước hết là thuộc quyền quyết ñịnh của ñảng uỷ và chỉ huy các cấp chủ quan, nhưng khi giải quyết cụ thể các trường hợp có liên quan ñến quân y thì bao giờ chủ nhiệm quân y cũng ñược hỏi ý kiến và cùng tham gia bàn bạc, trao ñổi. Ngược lại về phần mình, chủ nhiệm quân y coi ñây là trách nhiệm lớn và phải làm thật chu ñáo, không ñược ñể sơ suất ảnh hưởng ñến quyền lợi của cán bộ, chiến sĩ trong ngành. b. ðối với công tác giáo dục ñộng viên là một trong những nội dung quan trọng ñối với hoạt ñộng của ngành nên thường xuyên ñược ñề cập trong các buổi giao ban cũng như tại các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác ngành qua từng thời gian. Nội dung giáo dục ñộng viên gắn liền với giáo dục chính trị tư tưởng còn thể hiện trên một số mặt: 121
- - Biểu dương khích lệ kịp thời những gương người tốt, việc tốt qua hệ thống trực ban chỉ huy quân y hàng ngày. - Hình thức biểu dương vừa bằng “thư khen” vừa có quà tặng gửi kèm. - ðịnh kỳ hàng tháng làm báo cáo văn bản về gương người tốt, việc tốt, theo hệ thống ngành dọc từ dưới lên trên ñến Phòng quân y. c. Quản lý chặt chẽ cán bộ trong ngành. Vấn ñề này ñã ñược lãnh ñạo ngành quân y 559 xác ñịnh từ rất sớm rằng: muốn xây dựng ngành lớn mạnh ñáp ứng ñược yêu cầu nhiệm vụ ñược giao thì trước hết người chủ nhiệm quân y phải thật sự làm tốt công tác cán bộ trong phạm vị ngành do mình phụ trách mà ñiều kiện tiên quyết là nắm và quản lý thật chặt cán bộ. Nội dung quản lý ñược ñề ra gồm: - ðối với từng cán bộ phải nắm và biết chắc các mặt: trình ñộ khả năng chuyên môn, nhất là sở trường; chính trị tư tưởng; sức khỏe. - Phát hiện và bồi dưỡng người tốt, việc tốt ñể biểu dương khen thưởng kịp thời và làm hạt nhân cho phong trào thi ñua noi gương. Về phân cấp quản lý ñược cụ thể hoá như sau: - Phòng quân y ðoàn quản lý tất cả các cán bộ quân y cao cấp, cán bộ quân y trung cấp chuyên khoa, cán bộ nhân viên quân y ñạt danh hiệu “chiến sĩ quyết thắng, chiến sĩ thi ñua” hoặc ñược tặng danh hiệu “người tốt việc tốt” của ðoàn. Giao cho bộ phận kế hoạch giúp chỉ huy phòng thực hiện công tác quản lý này. - Ban quân y binh trạm, trung ñoàn quản lý toàn bộ cán bộ cao, trung, sơ cấp, chiến sĩ, chiến sĩ quyết thắng, chiến sĩ thi ñua, người tốt việc tốt và cả chiến sĩ cứu thương, vệ sinh viên giỏi trong binh trạm, trung ñoàn ñó. (Từ tháng 4 năm 1970 về sau, trên tuyến thành lập các sư ñoàn thì chủ nhiệm quân y sư ñoàn cũng có chức năng quản lý cán bộ ngành tương tự – trừ chiến sĩ cứu thương và vệ sinh viên). Nhờ có kế hoạch quản lý nội bộ ngành này của quân y 559 mà những người lãnh ñạo ngành (nhất là ñối với cấp binh trạm, trung ñoàn – về sau là cấp sư ñoàn) mới có ñược những chủ trương ñứng ñắn trong khâu qui hoạch cán bộ (sử dụng, cân nhắc, ñiều ñộng…) ñược cụ thể và sát hợp với từng ñối tượng. ðồng thời uy tín của lãnh ñạo ngành các cấp vì thế mà ñược nâng cao. Nhìn lại chặng ñường trải hơn mười năm vừa phục vụ chiến ñấu – và trực tiếp chiến ñấu, vừa xây dựng, ngành quân y chiến trường 559 ñã trưởng thành vượt bậc, xứng ñáng với niềm tin gửi gắm sinh mạng của hàng vạn cán bộ, chiến sĩ ñang ngày ñêm cống hiến hết sức mình vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nước trên tuyến ñường Trường Sơn oai hùng và khốc liệt. Không có lấy một ngày nghỉ ngơi, tất cả cán bộ, chiến sĩ quân y 559 lại chuẩn bị tư thế ñể bước vào cuộc chiến ñấu sinh tử mùa khô 1970 – 1971… II. Quân y Trường Sơn với nhiệm vụ phục vụ chiến ñấu trong chiến dịch phản công ñường 9 - Nam Lào và phát triển tuyến chi viện chiến lược mùa khô năm 1970 - 1971. 122
- Khác các mùa mưa trước, mùa mưa năm 1970 do yêu cầu nhiệm vụ chuẩn bị thế trận, củng cố xây dựng lực lượng, huấn luyện bộ ñội sẵn sàng ñối phó với mọi diễn biến phức tạp của tình hình nên ðảng uỷ Bộ Tư lệnh 559 chủ trương chỉ rút một bộ phận nhỏ thuộc binh chủng cơ giới ra Bắc củng cố và bổ sung phương tiện, còn lại ñại bộ phận lực lượng vẫn ở lại trên tuyến. Về mặt tổ chức, sau khi có quyết ñịnh thành lập Bộ Tư lệnh khu vực 470 (có quyền hạn như Bộ Tư lệnh sư ñoàn) trực thuộc Bộ Tư lệnh 559, thì Quân uỷ Trung ương cũng ra quyết ñịnh số 176 Qð. QP ngày 29 tháng 7 năm 1970 về việc sáp nhập ðoàn 968 quân tình nguyện và ðoàn chuyên gia quân sự 565 ở Trung - Hạ Lào vào ðoàn 559. Cũng tại quyết ñịnh này, Bộ Tư lệnh 559 ñược ñổi tên thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn trực thuộc Bộ Quốc phòng, về ðảng trực thuộc Quân uỷ Trung ương. ðoàn 968 quân tình nguyện ñược bố trí trên hai hướng: X (khu vực ñường 9, Mường Phìn, Pha Lan) và Z (khu vực A Tô Pơ, Bô Lô Ven, Xa Ra Van). ðoàn có nhiệm vụ án ngữ, bảo vệ sườn phía tây tuyến vận tải chiến lược, phối hợp với các lực lượng của Bạn mở rộng vùng giải phóng Trung – Hạ Lào (từ Khăm Muội trở vào). ðoàn chuyên gia quân sự 559 – tương ñương cấp sư ñoàn, có nhiệm vụ giúp Bạn về chính trị, quân sự, kinh tế từ cơ sở xã, huyện ñến tỉnh trong phạm vi 8 tỉnh Trung – Hạ Lào (Bô Li Khăm Xay, Khăm Muội, Xa Van Na Khệt, Xa Ra Van, Tà Vên Oọc, A Tô Pơ, Chăm Pa Xắc, ụ ðôm Xỉn). Theo ñề nghị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn, tháng 10 năm 1970, Bộ Tổng tham mưu quyết ñịnh thành lập Trung ñoàn cao xạ 593, Trung ñoàn ñường ống 592, Binh trạm 39, Trường ñào tạo lái xe 963, Trường quân chính 969, khôi phục lại Trung ñoàn cao xạ 591, Trung ñoàn 4 công binh và thành lập thêm 3 tiểu ñoàn công binh (79, 87, 163), 4 tiểu ñoàn xe (57, 33, 65, 66), tiểu ñoàn 78 làm ñường goòng, 2 tiểu ñoàn cao xạ (84, 86); tăng cường lực lượng chiến ñấu, vận tải, mở ñường (ñường bộ, ñường sông, ñường ống dẫn xăng dầu, ñường goòng bằng gỗ). ðoàn hậu cứ 571 cũng ñã ñược thành lập tại nam Quảng Bình có nhiệm vụ thu dung ñiều trị và an dưỡng thương, bệnh binh của nội bộ ðoàn và làm một số nhiệm vụ khác. Do tầm quan trọng của chiến dịch mùa khô 1970 – 1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn ñược trên bổ sung 24.114 quân, trong ñó có 3.335 lái xe, 382 thợ sửa chữa, 124 kỹ thuật viên ñường ống và nhiều phương tiện kỹ thuật khác. Lực lượng làm ñường ñược tăng cường và phối thuộc 3 trung ñoàn công binh (219, 83, 7); lực lượng tác chiến ñã phối thuộc 6 trung ñoàn phòng không, trong ñó có 4 trung ñoàn cao xạ (282, 224, 284, 230), 2 tiểu ñoàn cao xạ (105, 11) và 2 trung ñoàn tên lửa phòng không (283, 275). Như vậy là bước vào mùa khô 1970 – 1971, quân số thuộc Bộ Tư lệnh Trường Sơn lên tới 62.992 người, ngoài ra trên tuyến còn có các lực lượng tăng cường của Bộ và các ñoàn thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến. 123
- Về ñơn vị có: - 4 sư ñoàn và cấp tương ñương (Bộ Tư lệnh khu vực 470, Sư ñoàn quân tình nguyện 968, ðoàn chuyên gia 565, ðoàn hậu cứ 571). - 30 binh trạm, trung ñoàn và cấp tương ñương: . 15 binh trạm gồm: 9, 12, 14, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 36, 41, 42, 44, 50, 51. . 6 trung ñoàn công binh: 4, 10, 98, 219, 83, 7 (3 trung ñoàn sau là của Bộ tăng cường). . 6 trung ñoàn phòng không: 591, 593, 224, 284, 282, 230 (4 trung ñoàn sau là lực lượng tăng cường của Bộ). . Trung ñoàn ñường ống 592; hai viện quân y là 59 và 46; xưởng ñại tu Q300. - 144 tiểu ñoàn và cấp tương ñương trực thuộc binh trạm gồm: 20 tiểu ñoàn ô tô vận tải, 38 tiểu ñoàn công binh, 28 tiểu ñoàn cao xạ, 1 tiểu ñoàn thuyền goòng, 4 tiểu ñoàn thuyền máy, 8 tiểu ñoàn bộ binh, 3 tiểu ñoàn ñường ống, 11 tiểu ñoàn giao liên, 5 tiểu ñoàn thông tin, 1 tiểu ñoàn sản xuất, 1 trường quân y, 19 ñội ñiều trị, 5 xưởng trung tu và 68 ñại ñội ñộc lập khác trực thuộc binh trạm và trung ñoàn. Theo ñề nghị của ðảng ủy – Bộ Tư lệnh Trường Sơn, Bộ Tổng tham mưu quyết ñịnh thành lập Cục phòng không, Cục chuyên gia, Cục sản xuất và một văn phòng tương ñương cấp cục thuộc Bộ Tư lệnh. Trung tuần tháng 10 năm 1970, việc chuẩn bị thế trận ñã cơ bản hoàn thành, nhưng khi ta sắp sửa ra quân thì bất thình lình máy bay ñịch tập trung ñánh phá dữ dội các cửa khẩu và một số trọng ñiểm quan trọng khác. Trên ñường 20, ñịch tập trung ñánh phá với cường ñộ rất cao trọng ñiểm Chà Là (km 23 – 25), nơi giao ñiểm các ñường 20 A, 20 C, 20 ð và nằm kẹp giữa hai dãy núi Phu Luông và Phu La Nhích. Là vùng ñồi thấp, tương ñối bằng phẳng thuộc huyện Bu La Pha, tỉnh Khăm Muộn, có diện tích khoảng 25 km2 . Chặn ñược Chà Là coi như cửa khẩu ñường 20 A bị ñứt hoàn toàn mà cửa khẩu này lại là cửa khẩu vận tải chính của tuyến ñường. Tại ñây, trong vòng 90 ngày (từ ngày 10 tháng 10 năm 1970 ñến ngày 10 tháng 1 năm 1971) ñịch ñã tiến hành 2.555 trận ñánh phá với 4.000 lần chiếc máy bay các loại, trong ñó 314 bằng máy bay B 52 với 879 lần chiếc. Chúng ñã trút xuống trọng ñiểm này 49.250 qủa bom các loại (chưa kể bom bi, bom mìn nhỏ), mật ñộ bom trung bình tại trọng ñiểm lên tới 4 qủa/ m2 . Trung bình mỗi ngày ñịch ñánh 28,4 trận, cao nhất là 40 trận – trong ñó 9 trận B 52. Ngay từ những ngày ñầu ñánh phá, bom ñạn ñịch ñã phá hủy gần như toàn bộ mặt ñường trên chiều dài 5 km, làm tắc nghẽn hàng nghìn xe pháo ñang chờ vượt cửa khẩu. Chốt trụ tại Chà Là vào thời ñiểm ñó là tiểu ñoàn công binh 24, 2 ñại ñội pháo cao xạ thuộc trung ñoàn tăng cường 224 và 1 tiểu ñoàn tên lửa của trung ñoàn 275. Về quân y có 14 ñiểm cấp cứu, 1 ñội phẫu thuật mạnh. 124
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tư tưởng của Lênin về mọi quan hệ biện chứng giữa chuyên chính và dân chủ của Nhà nước XHCN còn sống mãi
6 p | 472 | 98
-
Tư tưởng của chủ tịch HCM mãi là ngọc đuốc
4 p | 251 | 72
-
Bộ đội Trường Sơn đường Hồ Chí Minh - Lịch sử quân đoàn 559: Phần 1
104 p | 189 | 38
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Minh Sơn (1963-2018): Phần 1
54 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn