VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 425 (Kì 1 - 3/2018), tr 36-43<br />
<br />
BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TƯ DUY THUẬN NGHỊCH CHO HỌC SINH<br />
TRONG DẠY HỌC GIẢI PHƯƠNG TRÌNH, BẤT PHƯƠNG TRÌNH<br />
Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG<br />
Thái Thị Hồng Lam - Nguyễn Thị Mỹ Hằng<br />
Trường Đại học Vinh<br />
Ngày nhận bài: 12/12/2017; ngày sửa chữa: 22/01/2018; ngày duyệt đăng: 29/01/2018.<br />
Abstract: The reversible thinking is the way of thinking in two opposite directions, which then<br />
support each other to help people perceive and solve problems in a flexible and effective way. In<br />
this paper, authors mention some manifestations of students' reversible thinking ability in solving<br />
exercises on equations and inequations and also propose some measures to foster this ability in<br />
particular and to improve the quality of teaching mathematics at high school in general.<br />
Keywords: Reversible thinking, equations, inequations.<br />
cũng cho rằng dòng ý nghĩ thuận và nghịch là đặc điểm<br />
vốn có của bản thân hoạt động tư duy.<br />
Tác giả G. Polya đã đề cập đến phép rút gọn thuận<br />
nghịch trong giải toán. Ông quan niệm: “Việc chuyển bài<br />
toán ban đầu sang bài toán phụ sẽ gọi là phép rút gọn<br />
thuận nghịch hoặc hai chiều, hoặc là tương đương nếu<br />
như bài toán phụ và bài toán ban đầu là tương đương<br />
nhau” [3; tr 66].<br />
Tác giả Nguyễn Bá Kim đã quan tâm đến khả năng<br />
đảo ngược quá trình tư duy, lấy đích của một quá trình<br />
đã biết làm điểm xuất phát cho quá trình mới, còn điểm<br />
xuất phát của quá trình đã biết lại trở thành đích của quá<br />
trình mới. Ông xem đó là một thể hiện của tính linh hoạt<br />
của tư duy [4]. Các tác giả Nguyễn Bá Kim, Vũ Dương<br />
Thụy, Hoàng Chúng đều cho rằng, trong dạy học, cần<br />
chú ý rèn luyện cho HS kĩ năng biến đổi xuôi chiều và<br />
ngược chiều một cách song song với nhau nhằm giúp cho<br />
việc hình thành các liên tưởng ngược diễn ra đồng thời<br />
với việc hình thành liên tưởng thuận.<br />
Như vậy, nhìn chung đã có nhiều tác giả trong và<br />
ngoài nước quan tâm nghiên cứu mối quan hệ có tính<br />
thuận nghịch trong tư duy theo những quan niệm, đối<br />
tượng cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, chưa có tác giả hay<br />
nhóm tác giả nào nghiên cứu có hệ thống, đầy đủ về một<br />
loại hình tư duy mang tên là TDTN. Trong bài viết này,<br />
chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu về những biểu hiện<br />
của loại hình TDTN của HS trong giải toán về phương<br />
trình và hệ phương trình ở cấp trung học phổ thông.<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Năng lực tư duy thuận nghịch<br />
Từ những nghiên cứu về các quan niệm đã trình bày<br />
ở trên, trong nghiên cứu này, tác giả quan niệm, TDTN<br />
là cách suy nghĩ theo hai chiều ngược nhau nhưng hỗ trợ<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Trong các công trình nghiên cứu về tư duy, cụm từ<br />
“tư duy thuận nghịch” (TDTN) còn ít người biết đến vì<br />
chưa có một định nghĩa nào bàn về TDTN một cách<br />
tường minh với đầy đủ nội hàm và ngoại diên của nó.<br />
Tuy nhiên, trong một số công trình nghiên cứu đã đề cập<br />
đến một số khía cạnh liên quan tới TDTN.<br />
Theo J. Piaget, tính thuận nghịch thể hiện khi “các<br />
thao tác và hành động có thể được triển khai về hai hướng<br />
và hiểu được một trong hai hướng đó gợi ra sự hiểu biết<br />
hướng kia” [1; tr 275].<br />
Tác giả V. A. Cruchetxki đã quan tâm đến tính thuận<br />
nghịch của quá trình tư duy trong lập luận toán học [2; tr<br />
107], được hiểu là việc làm thay đổi phương hướng của<br />
quá trình tư duy theo nghĩa chuyển từ tư duy thuận<br />
(hướng tư duy từ A đến B) sang tư duy đảo (hướng từ B<br />
đến A). Ông xem khả năng này là một thành phần của<br />
năng lực toán học của học sinh (HS) và đã tiến hành thực<br />
nghiệm trên đối tượng HS lớp 6, 7, 8 và chủ yếu tập trung<br />
vào việc xem xét, đánh giá sự suy nghĩ của HS trong vấn<br />
đề nhận thức và giải quyết vấn đề liên quan đến hai chiều<br />
của một công thức và các bài toán thuận nghịch. Ông đã<br />
rút ra kết luận rằng nét nổi bật của HS có năng khiếu là<br />
khả năng chuyển một cách nhanh chóng và dễ dàng từ<br />
quá trình tư duy thuận sang quá trình tư duy đảo, là tính<br />
thuận nghịch dễ dàng của quá trình lập luận.<br />
Trong công trình nghiên cứu về tư duy của HS của<br />
M. N. Sacđacôp có đề cập đến tính thuận nghịch trong<br />
các mối liên hệ và quan hệ. Ông cho rằng, tính thuận<br />
nghịch là một trong những đặc điểm về chất của các mối<br />
liên hệ và quan hệ giữa các hiện tượng của hiện thực. Nó<br />
biểu hiện trong ảnh hưởng lẫn nhau có tính chất động<br />
giữa các thành phần của một hiện tượng hoàn chỉnh. Ông<br />
<br />
36<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 425 (Kì 1 - 3/2018), tr 36-43<br />
<br />
lẫn nhau giúp con người nhận thức và giải quyết vấn đề<br />
sâu sắc hơn, toàn diện hơn, đầy đủ hơn [5]. TDTN là một<br />
loại hình cụ thể của hoạt động tư duy và luôn gắn với<br />
những tình huống có chứa đựng những xu thế, phương<br />
diện cần xem xét theo hai chiều ngược nhau với một<br />
nghĩa nào đó.<br />
Từ đó, có thể quan niệm năng lực tư duy thuận<br />
nghịch (NLTDTN) là đặc điểm tâm lí phản ánh mức độ<br />
hoàn thành khác nhau của các cá nhân khi cùng thực hiện<br />
những hoạt động TDTN. Từ đó, trong dạy học môn Toán<br />
ở trường phổ thông, NLTDTN của HS được đặc trưng<br />
bởi các thành tố sau [5]: - Thành tố 1: Khả năng xác lập<br />
và sử dụng mối liên hệ hai chiều giữa các đối tượng trong<br />
một quan hệ có tính chất đối xứng (A có quan hệ R với<br />
B và B có quan hệ R với A); - Thành tố 2: Khả năng đặt<br />
và khảo sát vấn đề ngược khi xem xét một vấn đề cho<br />
trước; - Thành tố 3: Khả năng thực hiện các thao tác hay<br />
các hoạt động tạo thành cặp có xu hướng ngược nhau;<br />
- Thành tố 4: Khả năng nhìn nhận lại quá trình nhận thức<br />
và giải quyết vấn đề; - Thành tố 5: Khả năng xem xét mỗi<br />
tri thức theo các vai trò khác nhau: tri thức vừa là kết quả<br />
của hoạt động, vừa là phương tiện để tiến hành những<br />
hoạt động khác; - Thành tố 6: Khả năng khảo sát phương<br />
hướng tiếp cận vấn đề, định hướng và thực hiện cách giải<br />
quyết vấn đề, đặc biệt là những cách tiếp cận và giải<br />
quyết vấn đề có tính khác biệt, độc đáo, mang lại hiệu<br />
quả cao hay kết quả bất ngờ (khác với cách tiếp cận<br />
thường được số đông sử dụng).<br />
NLTDTN chỉ biểu hiện khi con người thực hiện hoạt<br />
động TDTN, nó có thể bồi dưỡng thông qua việc tập<br />
luyện các hoạt động TDTN. Sự phát triển của năng lực<br />
này phụ thuộc vào những định hướng, lựa chọn các hoạt<br />
động phù hợp và cách thức tổ chức của giáo viên (GV)<br />
để HS thực hiện những hoạt động đó.<br />
2.2. Một số biểu hiện của năng lực tư duy thuận nghịch<br />
của học sinh trong giải phương trình, bất phương trình<br />
2.2.1. Khả năng hiểu và vận dụng đúng bài toán cần và đủ<br />
Trong môn Toán, HS thường xuyên sử dụng các phép<br />
toán logic, điều kiện cần, điều kiện đủ, điều kiện cần và<br />
đủ của một mệnh đề. Việc HS hiểu rõ đâu là điều kiện<br />
cần, điều kiện đủ cũng như việc nhận diện được bài toán<br />
có dạng cần và đủ, khai thác mối quan hệ tương hỗ giữa<br />
chúng sẽ dẫn tới sự chính xác, thuận lợi trong giải toán.<br />
HS có khả năng hiểu và vận dụng đúng bài toán cần<br />
và đủ có các biểu hiện sau: - Hiểu, vận dụng đúng điều<br />
kiện cần và đủ trong việc biến đổi tương đương phương<br />
trình, bất phương trình; - Hiểu, vận dụng đúng điều kiện<br />
cần và đủ trong việc giải phương trình, bất phương trình<br />
bằng phương pháp đặt ẩn phụ; - Phân biệt và vận dụng<br />
đúng bài toán có dạng điều kiện cần và đủ.<br />
<br />
Ví dụ 1. Giải bất phương trình:<br />
x2 5x 14 2 x 1<br />
Phân tích: Giải bài này là ta chia hai trường hợp.<br />
2 x 1 0<br />
Trường hợp 1: <br />
<br />
2<br />
<br />
x 5 x 14 0<br />
<br />
2 x 1 0<br />
Trường hợp 2: <br />
<br />
2<br />
2<br />
<br />
x 5 x 14 (2 x 1)<br />
<br />
Kết quả: Tập nghiệm của bất phương trình là hợp của<br />
hai tập nghiệm của hai hệ phương trình trên.<br />
Đây là một cách giải đúng và được hầu hết các GV<br />
áp dụng giảng dạy cho HS như là một quy tắc giải bất<br />
phương trình dạng này. Tuy nhiên, không phải HS nào<br />
cũng nhớ và nhớ được lâu vì các em không hiểu nguyên<br />
do từ đâu lại có được quy tắc giải như vậy?<br />
Một thói quen của HS khi đứng trước bài toán giải<br />
phương trình, bất phương trình có chứa căn thức bậc hai<br />
là đặt điều kiện để bình phương hai vế nhằm khử dấu căn,<br />
đưa về phương trình, bất phương trình quen thuộc.<br />
Nhưng khi các em có được thói quen “TDTN” thì sẽ đặt<br />
được câu hỏi ngược lại là Tại sao 2x - 1 phải dương? Nếu<br />
2x - 1 âm thì sao? Khi đó việc phân chia hai trường hợp<br />
để giải như trên mới thấy được sự có lí của nó. Với cách<br />
suy luận đảo ngược vấn đề như vậy HS sẽ hiểu thấu đáo<br />
và linh hoạt trong giải toán chứ không phải học theo kiểu<br />
thuộc lòng tất cả các dạng toán giải phương trình, bất<br />
phương trình.<br />
2.2.2. Giải được bài toán bằng việc đặt ra và xem xét bài<br />
toán ngược hoặc bài toán có yêu cầu tổng quát hơn hay<br />
đặc biệt hơn<br />
Có thể hiểu nếu bài toán có kết luận B được gọi là bài<br />
toán thuận, thì bài toán có kết luận B (phủ định của B)<br />
được gọi là bài toán ngược.<br />
Ví dụ 2. Tìm điều kiện của tham số a để bất phương<br />
trình sau có nghiệm:<br />
<br />
a 1 x2 2a 1 x 3 0 1<br />
Phân tích: Khi giải trực tiếp bài toán này, HS thường<br />
gặp những khó khăn, sai lầm do phải xét nhiều trường<br />
hợp rắc rối. Ở đây, thay vì giải trực tiếp bài toán (1), HS<br />
tìm cách giải bài toán ngược của nó, chẳng hạn: Tìm a để<br />
bất phương trình a 1 x2 2a 1 x 3 0 vô<br />
nghiệm, hay tìm a để bất phương trình<br />
<br />
a 1 x 2a 1 x 3 0<br />
2<br />
<br />
nghiệm đúng với mọi x<br />
thuộc tập số thực R. Từ kết quả của bài toán này sẽ tìm<br />
được kết quả của bài toán (1).<br />
<br />
37<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 425 (Kì 1 - 3/2018), tr 36-43<br />
<br />
2.2.3. Biết linh hoạt thay đổi vai trò giữa ẩn số với tham<br />
số và ngược lại<br />
Đôi khi, với ẩn đã cho việc giải phương trình, bất<br />
phương trình gặp khó khăn thì có thể hoán vị vai trò ẩn<br />
và tham số cho nhau rồi giải phương trình, bất phương<br />
trình với “ẩn mới” là tham số.<br />
Ví dụ 3. Chứng minh rằng với m 1 thì<br />
<br />
toán một phương trình một ẩn thành hệ các phương trình<br />
nhiều ẩn nhưng dễ giải hơn.<br />
Chọn u 3 2 x ,<br />
<br />
v x 1. Khi đó ta chuyển<br />
<br />
3<br />
2<br />
u v 1<br />
được về hệ: <br />
.<br />
u v 1<br />
<br />
HS có thể giải hệ trên bằng phương pháp thế quen<br />
thuộc.<br />
2.2.5. Chuyển đổi được ngôn ngữ của bài toán để tạo ra<br />
một bài toán khác tương đương nhưng giải quyết đơn<br />
giản hơn<br />
Dưới đây chúng tôi chỉ ra một số biểu hiện: - Biết<br />
khai thác mối quan hệ hai chiều giữa số nghiệm của<br />
phương trình f ( x) g ( x) với số giao điểm của hai đồ<br />
thị hàm số y f ( x) và y g ( x); - Biết chuyển bài toán<br />
đại số sang bài toán hình học hoặc bài toán lượng giác<br />
tương đương và ngược lại.<br />
Ví dụ 5. Biện luận theo m số nghiệm của phương<br />
trình: x2 2 x m 0 (1)<br />
<br />
x 2(3m 1) x m 3 0 với x 1 .<br />
2<br />
<br />
Phân tích: Theo cách thường làm HS sẽ tính biệt thức<br />
∆ và xét dấu của ∆ theo m, từ đó tìm nghiệm và tiếp tục<br />
xét điều kiện các nghiệm thoả mãn x 1 để có kết luận<br />
của bài toán. Cách làm này phức tạp vì phải xét nhiều<br />
trường hợp, dễ xét thiếu trường hợp và tính toán sai.<br />
Nếu HS có suy nghĩ linh hoạt, quan sát thấy bậc của<br />
bất phương trình theo ẩn x là bậc hai, nhưng theo ẩn m là<br />
bậc một (vì bất phương trình đã cho có thể biến đổi về<br />
dạng f (m) ( 6 x 1) m x 2 2 x 3 0 .<br />
Đặc biệt, f (m) là hàm bậc nhất có hệ số của m là<br />
6 x 1 với x 1 . Từ đó, f (m) là hàm nghịch biến,<br />
suy ra<br />
f (m) f (1) với m 1 . Tức là<br />
<br />
Phân tích: Việc biện luận số nghiệm của phương<br />
trình (1) đưa về việc biện luận số giao điểm của hai<br />
đường y m và y x2 2 x .<br />
<br />
x2 2(3m 1) x m 3 ( x 2)2 0 đúng với mọi<br />
x 1.<br />
2.2.4. Biết cách chuyển đổi phương trình một ẩn nhưng<br />
phức tạp thành phương trình, hệ phương trình hai hoặc<br />
nhiều ẩn đơn giản hơn và ngược lại<br />
Trong dạy học chủ đề phương trình, bất phương trình,<br />
trước hết HS được làm quen với các dạng phương trình,<br />
bất phương trình một ẩn và các dạng khác có thể đưa về<br />
một ẩn. Tiếp đến là các dạng hệ phương trình cơ bản khi<br />
giải cũng đưa về một ẩn bằng phương pháp thế, hoặc đã<br />
có thuật toán. Chính vì vậy, khi đứng trước yêu cầu giải<br />
một phương trình, bất phương trình, hệ phương trình, đa<br />
số HS sẽ tìm cách đưa bài toán nhiều ẩn về bài toán chứa<br />
ít ẩn hơn, bài toán có bậc cao về bài toán có bậc thấp hơn,<br />
bài toán phụ thuộc vào nhiều đại lượng thay đổi chuyển<br />
về bài toán phụ thuộc vào ít đại lượng biến thiên hơn, ...<br />
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, với cách nghĩ như<br />
vậy có thể trở thành rào cản, thậm chí không thể giải<br />
được. Lúc này việc suy nghĩ theo chiều ngược lại có thể<br />
đem lại hiệu quả bất ngờ, giúp chúng ta tìm được phương<br />
pháp giải bài toán.<br />
<br />
y<br />
<br />
1<br />
<br />
S<br />
<br />
y=m<br />
B<br />
-1<br />
<br />
O<br />
<br />
x<br />
<br />
A<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
(C)<br />
<br />
Hình 1<br />
y<br />
<br />
A<br />
<br />
H<br />
<br />
M<br />
2x<br />
<br />
Ví dụ 4. Giải phương trình: 3 2 x 1 x 1.<br />
Phân tích: Phương trình đã cho tuy chỉ có một ẩn,<br />
nhưng khó giải bằng cách lũy thừa để mất dấu căn thức.<br />
Do vậy, ta cần phát hiện các ẩn phụ nhằm chuyển bài<br />
<br />
0<br />
<br />
3<br />
<br />
A'<br />
<br />
Hình 2<br />
<br />
38<br />
<br />
B<br />
<br />
5<br />
<br />
7<br />
<br />
x<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 425 (Kì 1 - 3/2018), tr 36-43<br />
<br />
Ví dụ 6. Giải phương trình:<br />
<br />
mặt trong phương trình. Trong phương trình có các hệ số<br />
“cụ thể” là 2 5, 5, 5 và chính các hệ số này đã tạo nên<br />
khó khăn cho cách giải bài toán. Việc phát hiện được mối<br />
<br />
4 x2 12 x 13 4 x2 28x 53 4 2<br />
Phân tích: Với bài này, nếu GV để cho HS tự giải<br />
theo những cách biến đổi đại số thông thường như là đặt<br />
ẩn phụ hay biến đổi tương đương thì các em sẽ rơi vào<br />
“thế bí”, không tìm ra manh mối để giải quyết vấn đề.<br />
Nếu để ý các tam thức bậc hai dưới căn đều dương với<br />
mọi x, hơn nữa ta có thể biến đổi:<br />
<br />
quan hệ 5 <br />
<br />
2<br />
<br />
4 x 2 28 x 53 2x 7 0 2 .<br />
2<br />
<br />
2<br />
<br />
Khi đó, vế trái của phương trình được biến đổi về<br />
dạng: (2 x 3)2 (0 2)2 (2 x 7)2 (0 2)2<br />
Các biến đổi đó có được là nhờ sự liên tưởng đến<br />
công thức độ dài của một đoạn thẳng.<br />
Gọi M 2 x; 0 chạy trên Ox; A 3; 2 B 7; 2 là<br />
các điểm cố định, ta được:<br />
(2 x 3) (0 2) <br />
2<br />
<br />
2<br />
<br />
(2 x 7) (0 2) MA MB.<br />
2<br />
<br />
2<br />
<br />
trường hợp riêng của bài toán tổng quát: “Giải phương<br />
trình: x4 2mx2 x m2 m 0 (m là tham số)”, đã<br />
dẫn HS đến suy nghĩ tìm phương pháp giải bài toán tổng<br />
quát, khi đó giải bài toán đã cho chỉ là đặc biệt hóa cách<br />
làm của bài toán tổng quát mà thôi. Như vậy, HS đã giải<br />
được bài toán trên bằng việc thực hiện hoạt động khái<br />
quát hoá và đặc biệt hoá.<br />
2.2.7. Biết nhìn nhận lại quá trình nhận thức và giải<br />
quyết vấn đề<br />
Thực ra khi giải quyết bất cứ một vấn đề gì, giải một<br />
bài toán nói chung hay một bài toán về phương trình, bất<br />
phương trình nói riêng, việc nhìn nhận lại quá trình nhận<br />
thức và giải quyết vấn đề là một điều hết sức cần thiết.<br />
Đó là xem xét các bước đã làm, lí do ta thực hiện các<br />
bước đó đã chuẩn xác chưa, còn thiếu sót điều gì nữa<br />
không?, ... mặc dù trước đó ta đã có niềm tin về các kết<br />
quả thu nhận được cũng như các phương pháp đã sử<br />
dụng. Việc nhìn nhận lại quá trình nhận thức và giải<br />
quyết vấn đề giúp HS hiểu đúng bản chất vấn đề, tránh<br />
nhiều sai sót, ngộ nhận trong giải toán.<br />
Ví dụ 8. Giải phương trình:<br />
<br />
4 x 2 12 x 13 2x 3 0 2 ;<br />
2<br />
<br />
5 và từ đó xem bài toán đã cho là một<br />
<br />
2<br />
<br />
Mặt khác MA MB MA' MB A' B 4 2 ,<br />
với A' 3; 2 là điểm đối xứng của A qua trục Ox. Đẳng<br />
<br />
5<br />
thức xảy ra khi M H 5;0 , suy ra 2x 5 x .<br />
2<br />
5<br />
Do đó, phương trình đã cho có nghiệm duy nhất x .<br />
2<br />
Như vậy, với cách suy nghĩ hai chiều như trên, không<br />
chỉ giúp HS giải được bài toán, mà còn tạo cho các em<br />
một cách nhìn linh hoạt về các phạm vi khác nhau của<br />
bài toán khi xem xét bài toán - Là bài toán đại số nhưng<br />
lại liên tưởng đến, chẳng hạn phạm vi hình học, và ngược<br />
lại. Vì vậy, ngày nay trong việc giảng dạy, không được<br />
tách rời số học và hình học, cần làm cho HS nhận rõ sự<br />
tương quan hỗ trợ lẫn nhau giữa số học, đại số và hình<br />
học, vận dụng linh hoạt phương pháp toán học vào việc<br />
nghiên cứu các vấn đề (dùng số nghiên cứu hình, dùng<br />
hình biểu thị số...<br />
2.2.6. Biết vận dụng những hoạt động trí tuệ, những thao<br />
tác tư duy ngược nhau như nhận dạng và thể hiện, phân<br />
tích và tổng hợp, đặc biệt hóa và khái quát hóa<br />
Ví dụ 7. Giải phương trình:<br />
<br />
( x2 10 x 26)3 x ( x2 10 x 26)<br />
<br />
x 3<br />
<br />
(1)<br />
<br />
Phân tích: Có HS giải như sau:<br />
Điều kiện: x 3 0 x 3.<br />
2<br />
Vì x 10 x 26 0 x nên phương trình (1)<br />
<br />
tương đương với phương trình: 3 x x 3 (2)<br />
Bình phương hai vế của phương trình (2) ta được<br />
2<br />
phương trình: (3 x) x 3 (3)<br />
2<br />
Biến đổi (3) 9 6 x x x 3 (4)<br />
<br />
x 3<br />
<br />
x2 7 x 12 0 (5) <br />
x 4<br />
<br />
Vậy phương trình ban đầu có nghiệm x 3, x 4.<br />
Kết quả đúng của bài toán này là x 3, x 5. Vậy<br />
nguyên nhân sai lầm của HS là ở đâu? Tại sao thiếu<br />
nghiệm, thừa nghiệm?<br />
Nếu HS có khả năng nhìn nhận lại, đánh giá quá trình<br />
giải bài toán, thì các em phải vận dụng các kiến thức về<br />
hàm mũ, phương pháp khử căn thức đã biết để kiểm tra<br />
<br />
x4 2 5 x2 x 5 5 0.<br />
Phân tích: Để tìm được cách giải bài toán, HS cần<br />
phải nghiên cứu kỹ đặc điểm của các yếu tố và mối liên<br />
hệ của chúng trong bài toán, cụ thể ở đây là các hệ số có<br />
<br />
39<br />
<br />
VJE<br />
<br />
Tạp chí Giáo dục, Số 425 (Kì 1 - 3/2018), tr 36-43<br />
<br />
các phép biến đổi, từ đó lập được mối liên hệ giữa các<br />
phương trình trong quá trình biến đổi như sau:<br />
(1) (2) (3) (4) (5).<br />
<br />
Ví dụ 10. Hãy khoanh vào đáp án đúng trong các đáp<br />
án dưới đây. Bất đẳng thức:<br />
<br />
Vì vậy, quá trình biến đổi từ phương trình (1) sang<br />
phương trình (5) có khả năng vừa thừa nghiệm lại vừa<br />
thiếu nghiệm. Từ đó, HS biết cần thử các nghiệm của (5)<br />
vào (1) để loại bỏ những giá trị không nghiệm đúng (1)<br />
nếu có. Thử lại các giá trị x 3, x 4 của phương trình<br />
(5) vào phương trình (1) ta thấy x 3 là nghiệm của<br />
(1), còn x 4 không nghiệm đúng phương trình (1).<br />
Mặt khác, HS phải xét trường hợp riêng<br />
x2 10 x 26 1 trước khi biến đổi từ (1) sang (2). Do<br />
đó, phải thử các giá trị của x làm cho x2 10 x 26 1<br />
hay x 5. Thử lại giá trị này thỏa mãn phương trình (1).<br />
Vậy phương trình (1) có hai nghiệm là x 3 và x 5.<br />
<br />
mọi x thuộc R khi và chỉ khi:<br />
A. m 2 B. m 2 C. m 2 D. m 2<br />
Phân tích: Nếu làm theo phương pháp tự luận thì cần<br />
xét các trường hợp m 2 và m 2 sau đó tiến hành<br />
giải với ẩn số m. Do đó, thời gian đi đến đáp số là khá<br />
lâu, chưa nói đến những em HS có kĩ năng biến đổi, tổng<br />
hợp nghiệm không tốt.<br />
HS có thể làm ngược như sau: Đầu tiên thay m 2<br />
vào kiểm tra, nếu thỏa mãn yêu cầu bài toán thì loại bỏ<br />
được phương án C, D; nếu không đúng thì loại bỏ<br />
phương án A, B. Thay m 0 kiểm tra thì sẽ kết luận<br />
được một trong hai phương án còn lại.<br />
2.3. Một số biện pháp góp phần bồi dưỡng năng lực tư<br />
duy thuận nghịch cho học sinh trong dạy học giải<br />
phương trình, bất phương trình<br />
2.3.1. Rèn luyện cho học sinh có ý thức và khả năng đặt<br />
bài toán trong mối liên hệ với các bài toán khác “gần”<br />
với nó (“gần” theo nghĩa bài toán tổng quát, bài toán<br />
đặc biệt, bài toán ngược)<br />
G. Polya cho rằng “Thành công trong việc giải bài<br />
toán phụ thuộc vào việc chọn con đường đi đúng, phụ<br />
thuộc vào việc ta tấn công pháo đài có đúng mặt yếu của<br />
nó hay không. Để thấy được con đường nào đúng hơn,<br />
phía nào dễ qua hơn, ta phải xét bài toán theo nhiều quan<br />
điểm khác nhau” [6; tr 70].<br />
- GV cần tạo cho HS thói quen xem xét bài toán trong<br />
mối liên hệ với bài toán ngược: + Khai thác triệt để các<br />
bài toán cụ thể, các dạng toán khi giải có thể hoặc cần<br />
dựa vào mối liên hệ với bài toán ngược; + Đứng trước<br />
mỗi bài toán trên, GV yêu cầu HS giải bằng cách liên hệ<br />
với bài toán ngược; + Sau khi HS giải xong một bài toán<br />
có khai thác mối liên hệ với bài toán ngược, GV nhấn<br />
mạnh hiệu quả của bài toán ngược đối với việc giải bài<br />
toán đã cho.<br />
Ví dụ 11. Tìm m để phương trình:<br />
<br />
(m 2) x2 2(m 2) x (m 8) 0 có nghiệm<br />
<br />
2.2.8. Biết thực hiện cách giải quyết vấn đề theo cách có<br />
tính khác biệt, độc đáo khác với cách số đông thường làm<br />
Người có TDTN thì không chịu suy nghĩ theo một<br />
chiều, theo thói quen thường làm, theo suy nghĩ của số<br />
đông, mà họ còn linh hoạt suy nghĩ theo cả chiều ngược<br />
lại, xem xét vấn đề từ góc độ ngược lại, hoặc đảo lộn<br />
hoặc đối lập. Chính sự suy nghĩ theo hai chiều ngược<br />
nhau nhiều khi đưa lại cách giải quyết vấn đề một cách<br />
nhanh chóng, dễ dàng, độc đáo.<br />
Ví dụ 9. Tìm tất cả các giá trị của tham số m để<br />
phương trình m 1 x2 2mx m 1 0 có nghiệm.<br />
Phân tích: Theo lối nghĩ thông thường, HS phân chia<br />
hai trường hợp m 1 và m 1 và giải trong mỗi trường<br />
hợp đó. Tuy nhiên, nếu HS có năng lực TDTN thì sẽ nhận<br />
thấy phương trình luôn nhận x 1 làm nghiệm với bất<br />
kỳ giá trị nào của tham số m. Do đó, phương trình đã cho<br />
có nghiệm với mọi m.<br />
2.2.9. Biết đưa ra hướng giải quyết linh hoạt trong làm<br />
bài thi trắc nghiệm<br />
Đứng trước một câu hỏi trắc nghiệm ta có thể thực<br />
hiện lời giải cho bài toán bằng tự luận để dẫn đến đáp số<br />
trùng với một trong các phương án cho trước. Tuy nhiên,<br />
điều đó có thể làm mất nhiều thời gian. Do đó, đòi hỏi<br />
HS phải có cách làm linh hoạt hơn, hoặc là chọn lựa<br />
phương án phù hợp bằng phương pháp loại trừ dần các<br />
phương án sai, hoặc là kiểm tra trực tiếp sự đúng đắn của<br />
mỗi phương án. Như thế, HS đã khắc phục được vấn đề<br />
thời gian cũng như độ khó của bài toán theo một hướng<br />
linh hoạt mà không rập khuôn máy móc, đúng với đặc<br />
trưng của bài thi trắc nghiệm. Đây có thể được xem như<br />
là một biểu hiện của TDTN.<br />
<br />
x2 (m 1) x 2m 1 0 có nghiệm không âm.<br />
Phân tích: Nếu làm trực tiếp thì HS phải xét ba<br />
trường hợp: - Trường hợp 1: phương trình có hai nghiệm<br />
không âm; - Trường hợp 2: phương trình có một nghiệm<br />
dương, một nghiệm âm; - Trường hợp 3: phương trình có<br />
một nghiệm bằng 0, một nghiệm âm.<br />
Thực tiễn dạy học cho thấy có nhiều HS chỉ xét<br />
trường hợp 1 và trường hợp 2, bỏ sót trường hợp 3. Nếu<br />
HS có thói quen xem xét cách giải quyết theo chiều<br />
<br />
40<br />
<br />