intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Buôn làng người Gia Rai ngày nay - nghiên cứu trường hợp làng Greo Pết

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

46
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu làng Greo Pết của người Gia Rai (xã Dun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai) cho thấy một số yếu tố văn hóa truyền thống vẫn song song tồn tại với các yếu tố hiện đại, thể hiện trong việc quản trị làng, trong lĩnh vực kinh tế, đời sống tín ngưỡng, các nghi lễ vòng đời, phương thức điều trị và chăm sóc y tế, việc giáo dục thế hệ trẻ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Buôn làng người Gia Rai ngày nay - nghiên cứu trường hợp làng Greo Pết

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 (49) - Thaùng 01/2017<br /> <br /> <br /> <br /> Buôn làng người Gia Rai ngày nay-<br /> Nghiên cứu trường hợp làng Greo Pết 1<br /> Village of the Gia Rai ethnic group today: A case study of the Greo Pet Village<br /> <br /> TS. Trần Hạnh Minh Phương<br /> Trường Đại học Thủ Dầu Một<br /> <br /> Tran Hanh Minh Phuong, Ph.D.<br /> Thu Dau Mot University<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Trong bối cảnh hiện đại hóa và toàn cầu hóa diện mạo Tây Nguyên không ngừng biến đổi nhưng điều<br /> đó không có nghĩa là tất cả những yếu tố truyền thống hoàn toàn biến mất. Nghiên cứu làng Greo Pết<br /> của người Gia Rai (xã Dun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai) cho thấy một số yếu tố văn hóa truyền thống<br /> vẫn song song tồn tại với các yếu tố hiện đại, thể hiện trong việc quản trị làng, trong lĩnh vực kính tế,<br /> đời sống tín ngưỡng, các nghi lễ vòng đời, phương thức điều trị và chăm sóc y tế, việc giáo dục thế hệ<br /> trẻ. Điều này rất có ý nghĩa cho sự phát triển theo hướng bền vững của làng bởi những yếu tố này góp<br /> phần củng cố căn cước tính tộc người, làng phát triển về kinh tế nhưng không đánh mất truyền thống<br /> văn hóa.<br /> Từ khóa: người Gia Rai, văn hóa người Gia Rai, Tây Nguyên ngày nay.<br /> Abstract<br /> In the current context of modernization and globalization, cultures of the ethnic groups living in the<br /> Central Highlands have been constantly changing, but that does not mean the complete erasion of<br /> traditional elements. By studying the Greo Pet Village (in Dun Commune, Chu Se District, Gia Lai<br /> Province) of the Gia Rai ethnic people, this article shows that traditional elements co-exist with modern<br /> elements, which is expressed in village administration, economy, religion, belief, life-cycle rituals,<br /> medical treatment, education for younger generations, etc. This coexistence of traditional and modern<br /> elements ensures the sustainable development of the village, protecting the ethnic identity while<br /> developing economy.<br /> Keywords: Gia Rai people, Gia Rai people”s culture, Central Highlands.<br /> <br /> <br /> <br /> Buôn làng Tây Nguyên nói chung và hóa Tây Nguyên. Trong bối cảnh đó, buôn<br /> buôn làng của người Gia Rai nói riêng là làng của người Gia Rai ra sao? Những yếu<br /> hình thái tổ chức xã hội cổ truyền tồn tại và tố truyền thống nào còn được bảo tồn và đã<br /> tiến triển tương đối bền vững trên vùng đất bị biến đổi, những yếu tố văn hóa nào mới<br /> này cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Nhưng xuất hiện là mục tiêu của bài viết này.<br /> những chính sách của nhà nước trong các Tư liệu chính của bài viết là nguồn<br /> thời kỳ lịch sử, quá trình di dân và bối cảnh thông tin thu thập từ hai đợt khảo sát thực<br /> toàn cầu hóa đã làm biến đổi sâu sắc văn địa vào tháng 8 năm 2014 và tháng 1 năm<br /> <br /> 30<br /> 2015 bao gồm nghiên cứu định tính (phỏng chỉ có khoảng hơn 1.000 người Gia Rai,<br /> vấn sâu, quan sát tham dự) và nghiên cứu hoàn toàn chưa có người Kinh. Những năm<br /> định lượng trong khuôn khổ đề tài Vai trò 1975-1980, có năm hộ người Kinh - Gia<br /> các định chế phi chính thức đối với sự phát Rai (chồng người Kinh vốn là bộ đội của<br /> triển bền vững ở Tây Nguyên do vùng này cưới vợ người Gia Rai). Sau năm<br /> TS. Nguyễn Mạnh Hùng, trường Đại học 1995, người Kinh và một số tộc người<br /> Nguyễn Tất Thành làm chủ nhiệm. Bài viết thiểu số phía Bắc di cư ồ ạt vào vùng này<br /> cũng trích dẫn từ bản thảo quyển Buôn làm dân số của xã tăng cơ học một cách đột<br /> làng Tây Nguyên ngày nay (kết quả nghiên biến.Theo thống kê năm 2013, tại xã Dun<br /> cứu của đề tài) của tập thể tác giả Võ Công có 2076 người Gia Rai (so với người Kinh<br /> Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh là 2010 người, trên tổng số 4324 người<br /> Hùng (chủ biên), Phan Văn Dốp, Nguyễn toàn xã. Toàn xã có bảy thôn làng, trong đó<br /> Đức Lộc, Phan Thanh Lời, Trần Hạnh có sáu làng người Gia Rai, và một thôn<br /> Minh Phương, Vũ Ngọc Xuân Ánh (2015). người Kinh: làng Kueng Mép, Greo Sék,<br /> Bài viết khái quát về diện mạo buôn Ring Răng, làng Pan, Ia Long, Greo Pết và<br /> làng người Gia Rai ngày nay trên các lĩnh Bình Minh (thôn người Kinh). Người dân ở<br /> vực: không gian và mô hình cư trú, việc xã Dun (kể cả UBND) có cách gọi “làng”<br /> quản trị làng, đời sống kinh tế, hôn nhân để chỉ nơi có đông người Gia Rai và gọi<br /> gia đình, tín ngưỡng - tôn giáo, giáo dục, y “thôn” để chỉ nơi có đông người Kinh. Và<br /> tế, đời sống văn hóa tinh thần qua kết quả qua tên gọi chúng ta cũng có thể phân biệt<br /> nghiên cứu trường hợp làng Greo Pết (xã làng người Gia Rai và thôn người Kinh.<br /> Dun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai). 2. Nội dung<br /> Làng Greo Pết là nơi có đông người 2.1.Về không gian và mô hình cư trú<br /> Gia Rai sống tập trung và còn giữ lại được Trong quá khứ buôn làng của người Gia<br /> nhiều yếu tố truyền thống nên được chúng Rai gắn liền với rừng, thác nước, con suối và<br /> tôi chọn nghiên cứu điển hình. Hiện vẫn đặc biệt là phải gần giọt nước để có nước<br /> chưa có tài liệu thành văn nào viết về lịch sử uống và nước sinh hoạt. Tên gọi tộc người,<br /> của làng Greo Pết, chúng tôi chỉ có thể dựa tên làng mang dấu ấn của thiên nhiên.<br /> vào nguồn thông tin từ các cuộc phỏng vấn Jacques Dournes giải thích tộc danh<br /> hồi cố để phác họa đôi nét về ngôi làng. Gia Rai đồng nghĩa với từ Giơ rai (thác<br /> Làng Greo Pết là ngôi làng lâu đời của nước), cho biết tổ tiên của tộc người Gia<br /> người Gia Rai nhưng không xác định được Rai từng tụ cư ở vùng núi, có nhiều thác<br /> chính xác làng ra đời năm nào. Do chiến ghềnh. Không gian sinh tồn của người Gia<br /> tranh, bệnh tật, thiếu đất canh tác làng có ít Rai là rừng, ngay cả “rẫy và làng là một<br /> nhất năm lần dời đổi vị trí nhưng đều nằm phần cắt ra từ rừng, lấy đi của rừng bằng<br /> dọc theo suối Pết và nước giọt Pết. Theo già rìu và lửa” (Jacques Dournes, 2006, tr.4).<br /> làng Rơ Mal P ban đầu làng chỉ 18 gia đình “Rừng, phủ kín phần lớn khu vực sinh sống<br /> sinh sống, dần dần không gian làng được của cư dân tại chỗ, chiếm vị trí trung tâm<br /> mở rộng do dân số đông (Trần Hạnh Minh của miền đất này (..). Rừng có mặt ở khắp<br /> Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014). nơi, trong làng, ngoài rẫy.” (Jacques<br /> Theo Trần Văn Th (chủ tịch hội Nông Dourenes, 2006, tr.13).<br /> dân xã Dun) trước năm 1975, trong xã Dun Từ tháng 7 năm 1977, chính quyền địa<br /> <br /> 31<br /> phương ở các nơi đồng loạt thực hiện chủ đình bằng việc tách đại gia đình thành các<br /> trương của nhà nước là trực tiếp đi vào gia đình hạt nhân và những cặp vợ chồng<br /> rừng vận động, giải thích cho các tộc người trẻ muốn ra sống riêng để được tư hữu về<br /> thiểu số ích lợi của việc sống định cư, với tài sản, phát triển kinh tế hộ gia đình riêng,<br /> phương châm “năm gần, ba có” (gần Đảng, được tự do, không bị trói buộc bởi các mối<br /> gần nhau, gần đường, gần chợ, gần trường quan hệ thân tộc. Điều này đã khiến buôn<br /> học, có nước, có đất, có bưng để sản xuất). làng người Gia Rai ngày nay hoàn toàn<br /> Theo cuộc vận động này, dân làng Greo không còn những ngôi nhà dài của đại gia<br /> Pết dần dần làm nhà sống tập trung gần đình sống chung mà thay vào đó là những<br /> đường, gần trường học, trạm y tế, gần chợ ngôi nhà đất của gia đình hạt nhân.<br /> để thuận lợi cho việc đi lại, buôn bán, học Dưới đây là một số câu chuyện liên<br /> tập và chữa bệnh. Vì thế làng Greo Pết của quan đến lý do các cặp vợ chồng sau khi<br /> người Gia Rai không gắn với rừng nữa mà cưới không muốn ở chung trong gia đình<br /> ở gần đường giao thông, và hiện tại gần Ủy mở rộng.<br /> ban nhân dân xã. Phần lớn các nhà trong Trường hợp gia đình ông Rơ Mal Gl<br /> làng được cất dọc theo đường làng, hoặc (người Gia Rai, sinh năm 1959, làng Greo<br /> theo những con đường nhỏ chạy quanh Pết, xã Dun). Ông kể, khi ông còn là thanh<br /> làng. Xung quanh làng không còn rừng mà niên vẫn còn tập quán sống chung trong<br /> thay vào đó là những mảnh vườn trồng ngôi nhà dài, Sau khi kết hôn ông sống<br /> bắp, vườn tiêu, cà phê hay vườn cây ăn chung với bố mẹ vợ, vợ chồng chị gái của<br /> trái, những luống rau để cải thiện bữa ăn vợ, vợ chồng em gái, dù mỗi cặp vợ chồng<br /> hàng ngày. Tại làng Greo Pết nhà ở không làm kinh tế riêng nhưng vẫn hỗ trợ nhau<br /> san sát nhau, khoảng cách giữa các nhà có khi cần, không có chuyện xích mích do<br /> vườn xung quanh, thường là một mảng ganh tị về tài sản sở hữu giữa các gia đình<br /> bắp, 20-30 gốc cây cà phê hoặc đám mì nhỏ. Theo ông từ khi có nhiều người Kinh<br /> (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền đến, người Gia Rai học được cách hạch<br /> dã, tháng 8 - 2014). toán, so sánh của người Kinh nên các gia<br /> Dân làng không sống trong rừng nữa và đình nhỏ không còn muốn sống chung<br /> rừng thiêng cũng bị thu hẹp dần. Như lời trong một ngôi nhà dài nữa. Chẳng hạn, gia<br /> của ông Nguyễn Văn Th (chủ tịch Hội đình ông, người con gái lớn có chồng<br /> Nông dân xã Dun) “Rừng cấm là do các cụ người Kinh (quê ở Thanh Hóa) sau lễ cưới<br /> già xưa muốn giữ rừng đầu nguồn, bảo vệ vài ngày đã có nguyện vọng ra ở riêng và<br /> nguồn nước, tránh sạt lở. Tuy nhiên, người ông đã phải đồng ý để giữ hạnh phúc cho<br /> Gia Rai sau này đã giảm bớt niềm tin vào con gái, trong khi hai người con gái kế có<br /> điều này, họ chặt cây trong cả khu rừng chồng người Gia Rai và người Ê Đê vẫn<br /> cấm. Rừng cấm ở làng Pan trước đây rộng hiện đang sống chung với ông và những<br /> khoảng 5 héc-ta, nhưng hiện nay chỉ còn người con chưa kết hôn (Vũ Ngọc Xuân<br /> khoảng 2 héc-ta” (Trần Hạnh Minh Phương, Ánh, Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014).<br /> Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Theo Vũ Ngọc Xuân Ánh qua câu<br /> Không gian sống thay đổi, mô hình cư chuyện này cho thấy chính “trình độ hạch<br /> trú cũng thay đổi. Chủ trương khuyến toán” khiến cho những cặp vợ chồng không<br /> khích sản xuất và sở hữu cá thể hoặc hộ gia thể sống chung trong một mái nhà với nhau<br /> <br /> 32<br /> được, hay nói cách khác đây có lẽ là một xử kiện, ông mai, người chủ mương nước,<br /> trong những nguyên nhân (nếu có những thầy cúng. Trong đó đứng đầu là già làng<br /> nguyên nhân khác) khiến người Gia Rai vì “già làng là người cao tuổi, có uy tín<br /> chuyển từ mô hình sống chung trong một trong cộng đồng, được mọi người tín<br /> ngôi nhà sàn dài sang hình thức sống trong nhiệm và được coi là tinh hoa của buôn<br /> nhà nhỏ, với gia đình hạt nhân (Vũ Ngọc làng. Uy tín và vị trí ấy nảy sinh và tồn tại<br /> Xuân Ánh, Ghi chép điền dã, tháng 8 -2014). trên cơ sở một số ưu thế cá nhân như tuổi<br /> Việc chuyển đổi mô hình cư trú từ nhà tác, tri thức và tài sản của họ theo quan<br /> sàn dài sang nhà sàn ngắn hay nhà đất niệm chung của cộng đồng” (Lưu Hùng,<br /> không đơn giản là chuyện tách hộ mà đã 1994, tr. 174-175).<br /> làm suy yếu tính cố kết của dòng họ mẫu Ngày nay buôn làng người Gia Rai<br /> hệ, từ đó làm biến mất hoặc suy giảm không còn là thiết chế xã hội tự quản độc<br /> những điều khoản của luật tục vốn bảo vệ lập làng trở thành một cấp hành chính trực<br /> cho dòng họ nữ. thuộc xã, tại làng song song tồn tại hai định<br /> Làn sóng di dân tự do ồ ạt vào Tây chế chính thức và phi chính thức cùng điều<br /> nguyên sau năm 1975 đã làm dân số Tây hành và quản trị làng.<br /> Nguyên tăng cơ học đột biến, làm biến đổi Định chế chính thức là chính quyền<br /> tâm thế, đời sống và cấu trúc của buôn làng cấp thôn có trách nhiệm triển khai và thực<br /> truyền thống ở đây. Đến năm 1999, trong hiện những chủ trương của Đảng, chính<br /> số 586 xã ở Tây nguyên, không còn xã nào sách của nhà nước trong làng, điều hành và<br /> chỉ có các tộc người bản địa, nhưng đã có quản lý các hoạt động của làng theo pháp<br /> đến 52 xã, chiếm 8,9% tổng số xã, chỉ gồm luật, là “cánh tay nối dài” của nhà nước<br /> các tộc người từ nơi khác di dân vào đây, trung ương. Hệ thống quản lý chính thức<br /> chủ yếu sau năm 1975 (Lê Văn Khoa, của làng bao gồm chi bộ Đảng có trách<br /> Phạm Quang Tú, 2014, tr. 227-228). Nếu nhiệm lãnh đạo, trưởng thôn có trách<br /> vào năm 1906, chưa có người Kinh cư trú nhiệm quản lý chung; giúp việc cho trưởng<br /> ở Tây nguyên, thì đến năm 2002 đã có 3,5 thôn có phó trưởng thôn, thôn đội trưởng,<br /> triệu người Kinh, làm giảm tỷ lệ dân số các công an viên, các thành viên của tổ hòa<br /> tộc người thiểu số tại chỗ ở vùng này từ giải, các nhân viên khuyến lâm, khuyến<br /> 95% xuống còn 30% vào thời điểm này nông, dân số và kế hoạch hóa gia đình, y tế<br /> (Nguyên Ngọc, 2011, tr. 7-26). Làng Greo cộng đồng, mặt trận tổ quốc và các tổ chức<br /> Pết cũng không nằm ngoài xu hướng này, đoàn thể quần chúng (Đoàn thanh niên,<br /> năm 2010, thành phần tộc người ở làng Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến<br /> như sau: người Kinh có 31 hộ (115 nhân binh...) có trách nhiệm vận động, tập hợp<br /> khẩu), người Mường 1 hộ (4 nhân khẩu) và nhân dân tham gia vào việc xây dựng và<br /> 96 hộ người Gia Rai (514 nhân khẩu) (Ủy bảo vệ buôn làng.<br /> ban Nhân dân xã Dun, 2010). Điều này, sẽ Các công việc chung của làng do<br /> có ảnh hưởng đến sự biến đổi của làng. trưởng thôn điều hành với sự trợ giúp của<br /> 2.2. Về việc quản trị làng người hòa giải. Khi cần họp dân làng,<br /> Buôn làng cổ truyền của người Gia Rai trưởng thôn đánh ba tiếng kẻng đến họp ở<br /> được vận hành theo thiết chế tự quản bằng tại nhà rông của làng hoặc ở nhà trưởng<br /> các vai trò của già làng, trưởng tộc, người thôn để quyên góp tiền cho gia đình có<br /> <br /> 33<br /> người thân qua đời ở trong làng, đóng góp nhưng trong chừng mực nào đó vẫn giữ vai<br /> các quỹ do xã vận động hoặc đóng góp để trò mang lại sự an lành về mặt tinh thần<br /> mua tài sản chung cho làng (bộ chiêng cho dân làng. Những gia đình có người đau<br /> chẳng hạn), hay phổ biến những công việc ốm, người vừa hết bệnh từ bệnh viện về,<br /> chung của làng, các chính sách của xã (như hay có nhiều chuyện không may xảy ra đều<br /> xây dựng đường, hệ thống thủy lợi...). Tiêu mời ông đến cúng yang sang để cầu hết<br /> chuẩn dân làng bầu chọn trưởng thôn gần bệnh và cầu bình an.<br /> giống như tiêu chuẩn chọn già làng: tuổi Trong buôn làng người Gia Rai để trai<br /> trung niên trở lên, ăn nói lưu loát, giỏi làm gái cưới nhau không thể thiếu vai trò của<br /> ăn kinh tế, gia đình khá giả, có kinh ông mai. Ông mai là cầu nối giữa hai gia<br /> nghiệm sống, người có uy tín, nói dân làng đình cô dâu và chú rể, làm nhiệm vụ mai<br /> nghe (giống như già làng ngày xưa) và là mối để hai bên gia đình biết nhau, là người<br /> người Gia Rai. Theo chúng tôi trưởng thôn đưa ra sự thương lượng giữa đôi bên để đi<br /> làng Greo Pết, Rahlan L đạt được những đến những điều hai bên đều đồng ý. Ông<br /> tiêu chuẩn vừa nêu. Trưởng thôn là cầu nối mai còn là người làm chứng cho cuộc hôn<br /> giữa dân làng với chính quyền địa phương, nhân, theo dõi suốt cuộc sống của đôi vợ<br /> thay mặt dân làng tham gia các cuộc họp chồng để kịp thời điều chỉnh những hành vi<br /> có liên quan đến dân làng. có nguy cơ phá vỡ hôn ước. Ông mai là<br /> Cùng với trưởng thôn, tại làng Greo người điều khiển buổi lễ trao vòng, là<br /> Pết thầy cúng, ông mai, người hòa giải, người đưa ra mức phạt, cũng như là người<br /> trưởng tộc, chủ mương nước vẫn tham gia hòa giải cho đôi vợ chồng và dòng họ hai<br /> điều hành và quản trị làng. Mỗi người đảm bên nếu có xảy ra chuyện xung đột. Chính<br /> nhiệm một công việc cụ thể, giải quyết vì vai trò đó, ông mai Ksor T ngoài công<br /> những việc nội bộ của làng. việc làm nông cho gia đình, ông thường<br /> Làng Greo Pết hiện đang khuyết già xuyên bận rộn cho việc mai mối, giải quyết<br /> làng vì già làng Rơ Mal P (trong lúc đang những xung đột vợ chồng.<br /> là già làng) có con gái chết vì bệnh lúc 13 Ông Rơ Mal B đóng vai trò là người<br /> tuổi – một điều không may, ông không còn hòa giải của làng Greo Pết từ năm 1995<br /> được cúng yang cho làng nên ông mất đi đến nay (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Ghi chép<br /> vai trò già làng. Và phải đợi sau khi gia điền dã, tháng 8-2014). Ông được dân làng<br /> đình ông tổ chức lễ bỏ mả cho con gái xấu tín nhiệm trong việc hòa giải, phân xử các<br /> số này, làng mới được bầu già làng mới. mâu thuẫn, xích mích giữa các thành viên<br /> Hiện tại, ông Rơ Mal B là người hòa giải trong làng. Theo ông, việc xử kiện căn cứ<br /> phần nào kiêm luôn việc của già làng, cùng vào các điều khoản luật tục để định tội đối<br /> với trưởng thôn điều hành làng. với những ai vi phạm. Vì thế, người xử<br /> Thầy cúng-chủ lễ là người đàn ông có kiện thường là người có khả năng bẩm<br /> năng lực đặc biệt, đảm nhận việc cúng bái, sinh, thuộc lòng và thấu hiểu các điều<br /> giao tế, làm mối dây liên hệ giữa con người khoản của luật tục. Ông Rơ Mal B kể về<br /> với các thế lực siêu nhiên nhằm đáp ứng cách ông giải quyết những vụ xích mích<br /> yêu cầu, nguyện vọng trong đời sống tâm trong làng “(..) đánh nhau [nè], vợ chồng<br /> linh của buôn làng. Uy thế của thầy cúng ghét nhau (…). thế này thế kia, cãi nhau.<br /> Rơ Mal H không còn nguyên vẹn như xưa Nếu mà mình giải quyết theo luật dân tộc<br /> <br /> 34<br /> mình, hồi xưa (mà) hai vợ chồng cứ đánh mương. Ông quản lý và bảo vệ con mương<br /> nhau miết, cãi nhau miết vậy, giải quyết bằng cả tình cảm, trách nhiệm và niềm tự<br /> cho tụi nó bỏ nhau, bỏ thử thôi, cho chồng hào. Mỗi năm hai lần, trước và sau khi làm<br /> đi một tháng, hai tháng rồi quay lại. Không vụ đông xuân, dân ba làng Greo Sek – nơi<br /> phải giống luật nhà nước. Luật nhà nước là bắt đầu con mương, dân làng Greo Pết và<br /> khác, luật dân tộc mình là như vậy đấy. làng Ring Rang - nơi con mương mang<br /> (…) Hay con gái có chồng rồi, hai đứa nó nước đến, dưới sự chỉ huy của ông Rahlan<br /> lấy nhau rồi, cuối cùng nó lại hiếp dâm đứa Bl (bên cạnh là chính quyền xã) nạo vét<br /> con gái khác, nó muốn bỏ vợ cũ. Theo làm sạch mương nước.<br /> phong tục mình chỉ phạt một con heo và Như vậy, tại làng Greo Pết ngày nay<br /> một con gà cúng cho vợ nó để trở về. Tự được điều hành và quản lý bởi định chế<br /> mình làm thì mình xử như thế thôi”. Ngày chính thức – tổ chức chính quyền cấp thôn<br /> nay, trong các vụ hòa giải khi đưa ra mức và định chế phi chính thức với vai trò của<br /> phạt ông rất cân nhắc, vì “nếu mình phạt người hòa giải, ông mai, thầy cúng và chủ<br /> giống hồi xưa, đúng nhà nó nghèo thì nó mương nước. Cơ cấu của tổ hòa giải thể<br /> lấy ở đâu ra (..) cuối cùng nó tức quá nó hiện rõ điều này. Tổ hòa giải của buôn làng<br /> giết người, tự nó giết người mình chịu. thường có thành phần gồm người hòa giải<br /> (Hay) nếu mình phạt nó lấy heo 50 kg, 60 đóng vai trò điều hành việc xử kiện, trưởng<br /> kg, nó không biết lấy ở đâu ra, nó đi ăn thôn đại diện cho chính quyền địa phương<br /> trộm ăn cặp người ta. Mình nghĩ là nó làm và già làng đại diện cho dân làng (làng<br /> như thế không đúng cho nên mình phải Greo Pết đang khuyết già làng nên ông Rơ<br /> thỏa thuận cho nó nhẹ nhàng. Hồi xưa là Mal B vừa là người hòa giải vừa đóng vai<br /> đâu có biết xử như thế đâu. Nó chết cũng trò già làng vì ông là người hiểu biết luật<br /> được, nó thắt cổ cũng được, kệ nó. Nó làm tục và là một trong những người lớn tuổi<br /> tầm bậy. Còn bây giờ là mình đã biết rồi, trong làng). Tổ hòa giải của làng giải quyết<br /> mình là con người này mình phải sống tình các một vụ tranh chấp đất đai, hay vi phạm<br /> cảm với nhau” (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Nội về hôn nhân, xử các vụ trộm cắp trong<br /> dung phỏng vấn sâu ông Rơ Mal B, làng làng. Chính quyền khuyến khích làng thực<br /> Greo Pết, tháng 8-2014). hiện công việc hòa giải dựa vào cả luật tục<br /> Ngày nay, không còn tồn tại những ngôi và luật pháp, vừa thấu tình vừa đạt lý để<br /> nhà dài của các đại gia đình nhưng vai trò đôi bên nguyên đơn và bị đơn đều thấy hài<br /> của tộc trưởng vẫn còn đó. Bà Siu C, ông lòng, xem như vụ việc đã được giải quyết.<br /> Rahlan Bl là tộc trưởng của chi họ Siu, họ Trừ phi hòa giải ở nội bộ làng không thành<br /> Rahlan chịu trách nhiệm phân giải các tranh công, sự việc mới được đưa lên chính<br /> chấp thuộc về nội bộ dòng họ. Tộc trưởng là quyền xã, huyện hay tỉnh. Điều đó có nghĩa<br /> người tổ chức lễ cúng cho dòng họ. là chính quyền địa phương một mặt dựa<br /> Làng Greo Pết nằm dọc con suối Pết vào trưởng thôn để quản lý làng theo xã<br /> có mương nước do ông Rah Lan Bl đào hội hiện đại, một mặt vẫn muốn duy trì<br /> năm 1965 để dẫn nước lên ruộng bậc thang những điểm tích cực của cơ chế truyền<br /> của làng.Về mặt hành chính, chính quyền thống để làng được vận hành một cách<br /> xã quản lý con mương nhưng trên thực tế “trơn tru” nhất.<br /> dân làng vẫn xem ông Rahlan Bl là chủ con Điều này còn được thể hiện qua kết<br /> <br /> 35<br /> quả khảo sát định lượng, 45,8% người Gia đất đai của các hộ gia đình nữa. Theo kết<br /> Rai (xã Dun và xã Ia Glai) trả lời già làng quả khảo sát, mỗi hộ người Gia Rai ở làng<br /> vẫn có vai trò, vị trí quan trọng trong việc Greo Pết có 0,64 héc-ta đất canh tác (Võ<br /> hòa giải, phân xử những xích mích hay Công Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn<br /> tranh chấp trong buôn làng theo phong tục Mạnh Hùng, 2015, tr.94).<br /> và luật tục (Võ Công Nguyện, Trần Hữu Cũng là làm nông nhưng cơ cấu cây<br /> Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.85) trồng của làng Greo Pết hiện nay đã khác<br /> 2.3. Về đời sống kinh tế trước đây, họ không còn trồng lúa rẫy mỗi<br /> Từ sau năm 1975, theo chủ trương năm một vụ, chuyển sang trồng lúa nước<br /> chung, hầu hết các tộc người thiểu số trên mỗi năm hai vụ, áp dụng khoa học kỹ thuật<br /> đất nước Việt Nam đều chuyển từ phương cho năng suất cao: Đông xuân và Hè thu,<br /> thức du canh, du cư sang định canh, định trồng cây lâu năm (cây cà phê vào làng<br /> cư và người Gia Rai ở làng Greo Pết không năm 1995 và cây tiêu năm 1998) mang lại<br /> nằm ngoài xu hướng này. Tuy nhiên về nguồn lợi lớn và ổn định.<br /> sinh kế cũng không khác xưa, dân làng vẫn Theo chị Siu H’Kip, từ năm 1997, làm<br /> sống bằng nông nghiệp. Theo kết quả khảo ruộng khỏe hơn trước đây nhờ có máy<br /> sát bản câu hỏi định lượng tháng 1-2015, móc: máy phay xới đất, máy phụt lúa (máy<br /> trên tổng số 692 người trong độ tuổi lao suốt lúa) do người Kinh ở địa phương khác<br /> động (nam là 15-60 tuổi, và nữ là 15-55 đưa đến làm thuê (trong làng không có máy<br /> tuổi), 611 người làm nghề nông, 5 người là này). Hiện nay, người làm ruộng chỉ làm<br /> bộ đội, công an, 3 người làm việc cho bằng tay những việc nhẹ: sạ lúa, bón phân,<br /> chính quyền, trong lĩnh vực dịch vụ 3 nhổ cỏ, xịt cỏ (Trần Hạnh Minh Phương,<br /> người, thương mại 2 người, giáo dục, văn Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014). Và theo<br /> hóa 3 người và đoàn thể là 1 người (Võ quan sát của chúng tôi những gia đình khá<br /> Công Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn giả trong làng đã có xe công nông, chiếc xe<br /> Mạnh Hùng, 2015, tr.90). Như vậy, sinh kế này rất đa năng: chở nông sản, chở người,<br /> của Gia Rai ở làng Greo Pết là thuần nông, chở củi… tại làng“sáng sáng chúng ta dễ<br /> mức độ chuyên môn hóa và đa dạng hóa dàng bắt gặp những chiếc xe công nông<br /> ngành nghề còn rất thấp. Vì kinh tế thuần chở đầy người đi ra đồng, ra rẫy, đến chiều<br /> nông nên mức thu nhập bình quân đầu họ cũng ngồi trên những chiếc xe này trở<br /> người trong năm 2014 tương đối thấp: về nhà. Ngày mùa thì những chiếc xe này<br /> 10,86 triều đồng/ người (Võ Công Nguyện, chở đầy các loại nông sản, lúa, ngô, khoai,<br /> Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, sắn, cà phê…” (Trần Hạnh Minh Phương,<br /> 2015, tr.85). Ghi chép điền dã, tháng 8 - 2014).<br /> Trước năm 1975, “buôn làng là chủ sở Đời sống kinh tế của dân làng Greo<br /> hữu tập thể đối với toàn bộ lãnh thổ của Pết đã hòa nhập vào nền kinh tế thị trường:<br /> mình” và “buôn làng luôn là chủ nhân ông xuất hiện việc thuê mướn nhân công, dùng<br /> trên hết, bao trùm tất cả” (Lưu Hùng, 1994, tiền trong các giao dịch buôn bán. Trong<br /> tr. 91). Nhưng ngày nay, với phương thức làng diễn ra việc mua bán khá nhộn nhịp<br /> định canh định cư, đất đai gần như hoàn với ba điểm bán tạp hóa, và hàng ngày có<br /> toàn thuộc về các hộ gia đình cá thể, buôn nhiều người bán hàng dạo đi quanh làng<br /> làng hầu như không còn quyền hành gì trên (bán thức ăn hàng ngày, bán võng, bán<br /> <br /> 36<br /> mùng mền), tại làng có cả hai nhà máy xay khá phổ biến đối với những nhà ít ruộng.<br /> xát gạo (loại nhỏ), có dịch vụ nấu đám Mọi chi phí họ đều dựa vào gạo, khi cần<br /> cưới. Tuy nhiên, dấu vết của nền kinh tế tự mua chai nước mắm, bịch bột ngọt, hay<br /> túc tự cấp vẫn còn tồn tại: bên cạnh việc bánh cho con đều mang gạo đi đổi, [do đó]<br /> thuê mướn nhân công, hình thức vần đổi gạo không còn đủ ăn cho đến vụ sau.”<br /> công giữa những người trong làng vẫn còn (Dẫn theo Võ Công Nguyện, Trần Hữu<br /> rất phổ biến, góp phần giải quyết nhân Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.108).<br /> công cho vụ mùa. Tại điểm bán tạp hóa của Đời sống kinh tế của dân làng khá hơn<br /> chị Siu P trong làng vẫn chấp nhận vật đổi trước nhưng cũng có thêm những lo toan<br /> vật. Một đứa bé không có tiền có thể dùng do mỗi hộ gia đình là một đơn vị kinh tế<br /> một lon gạo để đổi một ít bánh kẹo hay độc lập, sự tương trợ của gia đình dòng họ<br /> người phụ nữ người bán thức ăn dạo chỉ có tính chất hỗ trợ trong những lúc ngặt<br /> quanh làng có thể đổi vài thứ rau, đậu, hay nghèo. Mặt khác, bản chất con người<br /> thịt cho nhà chị L để lấy gạo. Vì theo chị không ai muốn mình thua kém người khác,<br /> gạo của người Gia Rai khá ngon, sau khi nên càng phải phấn đầu vươn lên, vì thế họ<br /> đổi gạo như vậy chị sẽ đem gạo bán ở chợ, cảm thấy cuộc sống đầy sự khó khăn và<br /> lại hưởng thêm một lần lợi nhuận nữa nên cạnh tranh, nhất là khi họ so sánh với<br /> chị rất vui vẻ thực hiện việc mua bán những gia đình người Kinh ở bên cạnh.<br /> không dùng tiền như thế này. 2.4. Hôn nhân – gia đình<br /> Sự phát triển kinh tế làm cuộc sống Tây Nguyên nói chung, làng Greo Pết<br /> của dân làng có phần khá hơn về vật chất nói riêng không còn thuần nhất về mặt tộc<br /> (nhà cửa, quần áo, các tiện nghi sinh hoạt người, đã xuất hiện hình thức hôn nhân<br /> trong gia đình, bữa ăn hàng ngày) nhưng ngoại tộc, trong tổng số 600 trường hợp<br /> nền kinh tế thị trường khiến con người bị người Gia Rai kết hôn có 29 trường hợp<br /> áp lực hơn, một phụ nữ Gia Rai (33 tuổi) kết hôn với người khác tộc người (4,83%)<br /> nói “hồi xưa thì rằng nó khó khăn nhưng còn lại 571 người kết hôn cùng tộc người<br /> mà cuộc sống nó thoải mái hơn, không như (95,17%) (Trích từ bảng 4.7 theo Võ Công<br /> bây giờ, bây giờ mình chạy theo đồng tiền, Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh<br /> làm kinh tế vất vả hơn hồi xưa (Trần Hạnh Hùng, 2015, tr.139)<br /> Minh Phương, Nội dung phỏng vấn sâu, Theo nhận xét của một phụ nữ ở làng<br /> tháng 1-2015). Trong một cuộc thảo luận Greo Pết hôn nhân Việt – Gia Rai không<br /> nhóm Trần Hạnh Minh Phương nhận xét ổn lắm, vì không biết khi nào người chồng<br /> “Từ khi làng làm lúa hai vụ (có thêm vụ Việt bỏ vợ đi, anh ta không có sự ràng<br /> đông xuân), tình hình kinh tế của dân làng buộc nào, khi có con, gia đình khó khăn, có<br /> khá hơn trước nhưng cuộc sống nhiều lo thể bỏ làng đi không trở lại nhưng hôn<br /> toan hơn do hiện nay tất cả đều dùng bằng nhân giữa người Gia Rai với người Ba Na<br /> tiền. Ngày trước, trong gia đình tự túc hết hay tộc người thiểu số từ phía Bắc đến có<br /> mọi thứ lương thực, thức ăn: rau rừng, cá phần ổn hơn do cùng là tộc người thiểu số<br /> bắt dưới suối. Ngày nay, dân làng không dễ đồng cảm với nhau. Riêng hôn nhân<br /> thể tự túc hết thức ăn [nên] phải dùng tiền giữa người Gia Rai với nhau ít khi xảy ra<br /> mua. Những gia đình chỉ làm nông thường xung đột vì trong nhà có gì ăn nấy, chồng<br /> phải bán lúa non. Tình trạng bán lúa non không chửi vợ (Trần Hạnh Minh Phương,<br /> <br /> 37<br /> Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Kết quả khảo sát 1.250 hộ của đề tài<br /> Chị Siu P có chồng là người Kinh kể vào tháng 1-2015 cho thấy có đến 38<br /> ngày chị mới gặp chồng chị, gia đình trường hợp ly hôn và 12 trường hợp ly<br /> chồng phản đối việc kết hôn của họ nhưng thân. Đáng ngạc nhiên là số trường hợp ly<br /> anh chị vẫn quyết tâm cưới, ngày cưới gia hôn ở người Gia Rai vượt cao hơn hẳn so<br /> đình chồng chị vẫn đến dự. Lễ cưới của chị với các tộc người khác: ly hôn 22 trường<br /> được tổ chức tại làng năm 1998 theo nghi hợp, ly thân: 4 trường hợp (Võ Công<br /> thức truyền thống của người Gia Rai. Theo Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh<br /> chị, cuộc sống hôn nhân giữa người Gia Hùng, 2015, tr.131).<br /> Rai và người Kinh đôi lúc có nhiều điểm Dù luật hôn nhân quy định độ tuổi kết<br /> bất đồng về văn hóa. Phụ nữ Gia Rai uống hôn là 18 nhưng người Gia Rai có tỷ lệ kết<br /> rượu, đi ăn nhà mả như đàn ông, lúc đầu hôn dưới 18 tuổi khá cao, trong đó có 17<br /> chồng chị rất khó chịu nhưng về sau đã người kết hôn ở độ tuổi 11 – 14 tuổi<br /> quen dần. Hay chuyện tính toán làm ăn (chiếm 10,43%), 146 người kết hôn từ 15 -<br /> người Kinh chi tiêu có kế hoạch hơn nên 17 tuổi (chiếm 89,57%) (Võ Công Nguyện,<br /> đôi khi vợ chồng chị mâu thuẫn nhau về Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng,<br /> cách chi tiêu. 2015, tr.138).<br /> <br /> Bảng 1. Tuổi kết hôn của người Gia Rai ngày nay<br /> Giới Số Tuổi kết hôn phổ biến Tuổi kết hôn Tuổi kết hôn Độ lệch<br /> người nhất (mode) nhỏ nhất trung bình chuẩn<br /> Nam 267 20 13 21 4.2<br /> Nữ 332 18 11 19 3.7<br /> Tổng 599 18 11 20 4.0<br /> cộng<br /> Nguồn: Đề tài “Vai trò của một số định chế xã hội phi chính thức đối với sự phát triển bền vững Tây<br /> nguyên” (mã số: TN3/X21), điều tra vào tháng 1-2015. (Trích từ bảng 4.7 theo Võ Công Nguyện, Trần Hữu<br /> Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.139)<br /> <br /> Người Gia Rai theo chế độ mẫu hệ nên Vì theo chế độ mẫu hệ nên chỉ có con<br /> việc cư trú bên nhà vợ chiếm ưu thế gái được thừa kế tài sản của bố mẹ và trong<br /> (82,98% cặp vợ chồng mới cưới cư trú bên gia đình người vợ có vai trò quản lý tài sản,<br /> nhà vợ, theo khảo sát tháng 1-2015) như các người đàn ông lao động làm ra của cải mà<br /> công trình nghiên cứu dân tộc học đều đã không có quyền quyết định về tài sản.<br /> khẳng định về việc cư trú bên nhà vợ từ lâu, Trong trường hợp ly dị vợ hoặc vợ chết,<br /> và cho đến nay vẫn chưa thay đổi, bất chấp người đàn ông đi lấy vợ khác, họ không<br /> những thay đổi mạnh mẽ về kinh tế và cả về được mang theo thứ gì khi ra khỏi nhà vợ,<br /> tổ chức xã hội (gia đình, buôn làng) (Dẫn tất cả tài sản của người vợ quá cố sẽ do<br /> theo Võ Công Nguyện, Trần Hữu Quang, dòng họ của vợ quản lý, người chồng<br /> Nguyễn Mạnh Hùng, 2015, tr.148) không có quyền trừ phi anh ta không kết<br /> <br /> 38<br /> hôn nữa và ở vậy nuôi con. nhiều cặp vợ chồng ở chung ngày càng ít đi<br /> Và tình hình này ở làng Greo Pết cũng và gia đình hạt nhân trở nên chiếm ưu thế.<br /> không khác với mô tả của Jacque Dournes Trong số 250 hộ khảo sát có 153 gia đình<br /> cách nay hơn nửa thế kỷ “người đàn ông hạt nhân (61,2%), 64 gia đình ghép chung<br /> chẳng có gì là của riêng mình, nhà và toàn (25,6%), 30 gia đình mở rộng (12%), hộ<br /> bộ của cải, ruộng nương và gia súc, tất cả không cấu thành gia đình hạt nhân 1<br /> đều thuộc về gia đình người vợ, là người (0,4%) và hộ một thành viên 2 (0,8%)<br /> duy nhất có quyền thừa kế. Khi góa vợ hay (Trích bảng từ 4.10, dẫn theo Võ Công<br /> ly dị, người đàn ông trở về làng gốc của Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh<br /> mình mình trần thân trụi, chỉ còn giữ được Hùng, tr.150)<br /> cái khố” (Jacque Dournes, 2006, tr.18). Đời sống hôn nhân, gia đình của dân<br /> Điều này được ông Rơ Mal A. khẳng làng Greo Pết ngày nay vừa có những<br /> định thêm: tất cả tài sàn trong gia đình đều chuyển biến mới: hôn nhân khác tộc người,<br /> do người vợ quản lý và dòng họ nhà vợ là gia đình hạt nhân chiếm ưu thế, bỏ tục nối<br /> người có quyền quyết định về số tài sản. dây2, có thể chấp nhận việc ly hôn. Song<br /> Nếu chẳng may người vợ ấy chết sớm, song đó một số yếu tố cổ truyền vẫn được<br /> người đàn ông không có quyền thừa kế hay bảo lưu: quyền tự do hôn nhân giữa nam và<br /> quản lý tài sản của gia đình riêng. Ông Rơ nữ, chế độ mẫu hệ và quyền quản lý tài sản<br /> Mal A. nói “tôi lấy vợ ở bên nhà vợ, nếu thuộc về người vợ vẫn được tôn trọng.<br /> vợ tôi chết hay tôi ly dị vợ, tôi buộc phải 2.5. Đời sống tín ngưỡng<br /> rời nhà vợ tôi mà không được mang theo Điều đặc biệt là dân làng Greo Pết<br /> thứ gì. Những người con của tôi sẽ được hoàn toàn “dửng dưng” trước làn sóng<br /> dòng họ vợ nuôi và họ cũng có quyền truyền đạo Công giáo và Tin Lành (trong<br /> quyết định về tài sản của gia đình tôi và khi khi làng Ngol của người Gia Rai có thời<br /> ấy tôi trở về xin đất của họ hàng để làm, gian cả làng theo đạo Tin Lành) nên hiện<br /> khi tôi chết dòng họ lấy lại” (Rơ Mal A., nay trong làng không ai theo bất cứ tôn<br /> Nội dung phỏng vấn, ngày 07-08-2014). giáo nào. Theo Rơ Mal P trước đây có một<br /> Ông Rơ Mal A. ví dụ thêm về những gia đình theo đạo Tin Lành đến sống ở<br /> trường hợp mà ông biết “mấy ông chú ở làng, do dân làng cô lập mà hiện nay họ<br /> đây nè, cả đời làm việc chăm chỉ xây được cũng đã bỏ đạo. Vì thế dù trước nhiều đổi<br /> hai ngôi nhà to tướng, có nhiều đất đai thay của bối cảnh xã hội, tâm thức của dân<br /> trồng tiêu và cà phê, khi ổng lấy vợ khác, làng về vật thiêng vẫn chưa phai nhạt, họ<br /> ổng đi ra tay trắng luôn đấy. Bây giờ ổng vẫn e sợ những khu vực thiêng.<br /> xin lại ruộng bên họ hàng ổng, ổng làm Tại làng Greo Pết, người Gia Rai vẫn<br /> được hai sào, và ổng chỉ làm như thế thôi, còn duy trì niềm tin vào những khu vực<br /> sau này ổng chết là họ hàng bên ổng đến thiêng như: khu đất bùn thiêng (giữa cánh<br /> lấy lại” (Dẫn theo Trần Hạnh Minh đồng lúa, có một khu đất bùn, mọc đầy có<br /> Phương, 2015, tr.40). dại, tương truyền đây là nơi của Yang bùn<br /> Mặc dù tính chất của xã hội mẫu hệ ở ở nên không ai dám phát hoang làm lúa.<br /> làng Greo Pết vẫn được bảo lưu nhưng về Nếu ai cố ý xâm phạm khu đất này sẽ bị<br /> mặt loại hình gia đình đã khác biệt. Tại lún, không kéo người lên được nữa); khu<br /> làng, gia đình mở rộng, với nhiều thế hệ và đất thiêng ở làng Greo Pết được người dân<br /> <br /> 39<br /> truyền rằng đây vốn là nơi dừng chân của P (có con gái chết lúc 13 tuổi) nên từ năm<br /> các vị pơtao. 2010 đến nay làng không tổ chức lễ cúng<br /> Hay nhà rông là trung tâm sinh hoạt yang tại nhà rông, tiến hành nghi thức hiến<br /> tín ngưỡng của cả làng. Nó còn mang tính sinh trâu để cầu được mùa, cầu bình an cho<br /> thiêng vì nơi đây con người gặp gỡ với toàn dân làng. Tuy nhiên, nghi thức cúng<br /> thần linh thông qua những nghi lễ cúng yang sang vẫn được thực hiện tại gia đình<br /> thần. Đối với người Gia Rai, người nữ hàng năm, hay khi có người từ bệnh viện<br /> đang trong độ tuổi có kinh nguyệt thì về, lúc gia đình có nhiều điều không may<br /> không được bước vào nhà rông này, bởi xảy ra. Bên cạnh đó hiện tượng cúng cho<br /> người đó được cho là “dơ” (Vũ Ngọc Xuân linh hồn người đào giếng mới xuất hiện khi<br /> Ánh, Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). người dân chuyển từ việc dùng nước giọt<br /> Đặc biệt, dân làng vẫn “rất sợ những sang nước giếng. Người Gia Rai quan niệm<br /> khu đất nhà mồ, những vật lạ, họ tránh xa rằng, nếu chủ nhà không thực hiện nghi<br /> để hy vọng mình không gây ra một điều sai thức cúng gọi linh hồn cho người đào<br /> trái gì nếu thần ngụ trong những vật lạ đó, giếng thì hồn của người này sẽ ở luôn nơi<br /> hoặc nếu lỡ mắc phải những điều sai trái, giếng sâu, người đào giếng mất hồn – chết.<br /> phạm đến thần thì họ thờ cúng như một Quan niệm con người có linh hồn và<br /> hành động để tạ lỗi” (Trần Hạnh Minh khi thể xác chết đi, linh hồn đó vẫn còn tồn<br /> Phương, Ghi chép điền dã, tháng 8-2014), tại nên người Gia Rai cũng như một số tộc<br /> nên những trường hợp bệnh không biết lý người khác ở Tây Nguyên vẫn thực hiện<br /> do người dân nghĩ ngay đến việc do thần việc chia của cho người chết nếu không<br /> phạt, và tìm đến thầy chữa bệnh người dân người chết sẽ hiện về trong giấc mơ và đòi<br /> tộc (bà Rahlan Kr) đề cúng tạ lỗi thần. của. Theo lời tường thuật của chị Siu H, lễ<br /> Hiện nay, người Gia Rai ở làng Greo tang và lễ bỏ đôi khi rất tốn kém, đặc biệt<br /> Pết vẫn kiêng giết hại, kiêng ăn rất nhiều là việc mua đồ chôn theo người chết.<br /> loại động vật như cóc, rắn, trăn, tê tê, kì đà, Những đồ chôn theo người chết gồm đồ<br /> kì nhông, khỉ, cù lần... Bà thầy chữa bệnh dùng sinh hoạt hằng ngày như quần áo,<br /> kiêm thầy cúng ở làng này còn cho biết chén, bát, xoong nồi, thức ăn, xà bông, heo,<br /> thêm: thời gian mẹ mang bầu, không được gà..., và dụng cụ lao động (cuốc, liềm).<br /> đi lấy củi, không nên giết hại những con vật Thậm chí gia đình chị đã từng chôn cho<br /> rắn, khỉ, tê tê, bởi lẽ nếu giết hại chúng thì anh trai chiếc xe gắn máy mới mua 13 triệu<br /> đứa con sinh ra sẽ bị chúng hại. Cũng nói về đồng bằng cách đập nát chiếc xe và chôn<br /> việc kiêng kỵ này, anh N giải thích: “Theo cùng người chết (Trần Hạnh Minh Phương,<br /> phong tục người Gia Rai hồi xưa, những Ghi chép điền dã, tháng 8-2014). Và cũng<br /> con đó là nó thiêng, từ xưa rồi. Họ cũng là vì quan niệm này, người Gia Rai ở Greo<br /> những con vật, nhưng mà giống như mình Pết vẫn mang cơm ra mộ cúng cho người<br /> nói là thần linh họ biến thành những con vật chết mỗi ngày hai hoặc ba bữa. Gia đình có<br /> đó á.” (ý nói những con vật đó là tô tem của thức gì cúng thức ấy không cầu kỳ.<br /> người Gia Tai) (Vũ Ngọc Xuân Ánh, Nội 2.6. Về giáo dục và y tế<br /> dung phỏng vấn sâu, tháng 8 -2014). Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng bao<br /> Như đã nói ở trên làng Greo Pết chưa gồm giáo dục trí và đức. Việc đào tạo một<br /> có già làng khác lên thay già làng Rơ Mal con người có trí thức do hệ thống giáo dục<br /> <br /> 40<br /> nhà trường đảm nhận, và giáo dục đạo đức, hương buôn làng – nơi chôn nhau cắt rốn<br /> nhân cách, lối sống là trách nhiệm của gia mà không bỏ đi làm ăn xa. Và bản thân<br /> đình, cộng đồng và xã hội. những trưởng tộc này chính là tấm gương<br /> Ngày nay, hệ thống giáo dục phổ để các thành viên trong dòng tộc noi theo,<br /> thông đã phủ khắp xuống tận buôn làng, tại không phương pháp giáo dục nào tối ưu<br /> mỗi làng đều có trường tiểu học để tạo điều bằng phương pháp giáo dục nêu gương.<br /> kiện thuận lợi cho trẻ em trong làng đến Ngoài trưởng tộc, cha mẹ là người<br /> trường, trình độ học vấn chung của người chịu trách nhiệm chính trong việc giáo dục<br /> Gia Rai hiện nay cao hơn trước năm 1975, con cái. Luật tục quy định làng phạt luôn<br /> nhưng so với cả nước còn rất thấp. Theo cha mẹ nếu con cái vi phạm điều sai trái và<br /> mẫu điều tra năm 2015, trong 1263 nhân rộng hơn khi một cá nhân trong dòng họ bị<br /> khẩu (100%) người Gia Rai ở xã Dun và xã phạt, gia đình đó không có điều kiện nộp<br /> Ia Glai có 123 trẻ còn nhỏ chưa đi học phạt, cả dòng họ phải cùng nhau đóng góp.<br /> (9,7%), 77 trẻ đi mẫu giáo, nhà trẻ (6,1%), Điều này cho thấy mối quan hệ ràng buộc<br /> 283 người mù chữ (22,4%), 430 người có giữa cá nhân và gia đình, dòng họ còn rất<br /> trình độ cấp 1 (34%), 274 người đạt trình chặt chẽ trong cộng đồng người Gia Rai ở<br /> độ cấp 2 (21,7%), 45 người trình độ cấp 3 làng Greo Pết ngày nay.<br /> (3,6%), 10 người tốt nghiệp trung cấp Việc chăm sóc y tế của người Gia Rai<br /> (0,8%), 4 người tốt nghiệp cao đẳng tại làng Greo Pết cũng đã khác trước năm<br /> (0,3%), 6 người đại học (0,5%), không có 1975. Tại xã đã có trạm y tế, nhà thuốc tây,<br /> người nào đạt trình độ trên đại học, và 11 cán bộ dân số, y tá chữa bệnh tại nhà nên<br /> người không có thông tin (0,9%) (Trích từ người Gia Rai đã quen với việc sử dụng<br /> bảng 6.1, dẫn theo Võ Công Nguyện, Trẩn thuốc tây để chữa bệnh nhưng vẫn có một<br /> Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, tr.223). số trường hợp họ tìm đến thầy cúng (Rơ<br /> Trong khi nền giáo dục phổ thông đảm Mal H), thầy chữa bệnh người dân tộc<br /> nhiệm việc nâng cao dân trí (tất nhiên cũng (pơjâo, bà Rahlan Kr)<br /> có giáo dục đạo đức) cha mẹ, trưởng tộc, Bảng 2. Cách chữa trị của người Gia Rai<br /> những vị cao niên trong làng có trách khi bệnh nặng<br /> nhiệm giáo dục nhân cách. Không chữa trị Số người 2<br /> Trưởng tộc Siu C hay Rahlan Bl đóng Tỷ lệ % 0,80<br /> vai quan trọng trong việc điều hành và giáo Tự tìm thảo dược nấu uống Số người 4<br /> Tỷ lệ % 1,60<br /> dục các thành viên trong dòng họ sống tốt<br /> Hốt thuốc Đông y uống Số người 1<br /> cho bản thân mình và sống tốt với người Tỷ lệ % 0,40<br /> khác. Họ giáo dục con cháu trong dòng tộc Tự mua thuốc tây uống Số người 74<br /> các đức tính: (1) chăm chỉ lao động, lao Tỷ lệ % 29,60<br /> động để làm ra của cải vật chất trang trải Xông Số người 3<br /> cuộc sống của mình mà không sinh lòng Tỷ lệ % 1,20<br /> Làm lễ cúng Số người 78<br /> tham với tài sản của người khác, tránh<br /> Tỷ lệ % 31,20<br /> được tội ăn trộm (một tội xấu nhất đối với Tìm thầy chữa bệnh người Số người 50<br /> người Gia Rai); (2) sống chan hòa, yêu dân tộc Tỷ lệ % 20,00<br /> thương những người trong dòng tộc, tạo Đến y tá/ y sĩ, phòng mạch Số người 65<br /> nên sức mạnh của dòng họ, (3) yêu quê tư Tỷ lệ % 26,00<br /> <br /> 41<br /> Đến trạm xá xã, bệnh viện Số người 234 thậm chí còn đập phá. Anh được vợ anh và<br /> Tỷ lệ % 93,60 người ở làng khuyên nên tìm đến bà<br /> Cách khác Số người 6 Rahlan K để chữa trị, nhưng anh vẫn<br /> Tỷ lệ % 2,40<br /> không tin. Đến lúc không còn chịu đựng<br /> Tổng cộng Số người 250<br /> Tỷ lệ % 100,00 được nữa, anh mới mang gà đến cúng và<br /> Ghi chú: Câu hỏi này có thể được trả lời bằng xin bà chữa bệnh. Bà đã cúng và dùng lá<br /> nhiều câu, do đó tổng cộng tỷ lệ có thể vượt quá 100%. mì chính, xoa vào vùng tim, lấy ra những<br /> Nguồn: Đề tài “Vai trò của một số định chế xã mũi tên màu đen và anh đã hết bệnh. Từ đó<br /> hội phi chính thức đối với sự phát triển bền vững<br /> về sau, khi có những cơn đau đột ngột và<br /> Tây nguyên” (mã số: TN3/X21), điều tra vào tháng<br /> 1-2015. Trích từ bảng 6.5, dẫn thao Võ Công không rõ nguyên nhân, anh đều đến tìm bà<br /> Nguyện, Trần Hữu Quang, Nguyễn Mạnh Hùng, Rahlan K. Cho đến lúc anh kể với chúng<br /> 2015, tr.237. tôi chuyện này thì anh đã từng được bà K<br /> Khi bệnh nặng 93,6% người Gia Rai trả chữa khỏi bốn lần. Anh nói với chúng tôi<br /> lời sẽ đến điều trị tại các cơ sở y tế (trạm xá, rằng, khi bị đau trong người, đầu tiên sẽ<br /> bệnh viện), 26% người tìm đến y tá, y sĩ hay đến bệnh viện để khám tìm ra bệnh gì, nếu<br /> phòng mạch tư nhưng tỷ lệ người trả lời sau khi đã uống hết thuốc ở bệnh viện<br /> thực hiện lễ cúng cũng khá cao 31,2%, và nhưng vẫn không hết đau, anh tìm đến bà<br /> 20% người tìm đến bà Rahlan Kr. K. Bà Rahlan K đã chữa lành bệnh cho rất<br /> Chúng tôi có thể lý giải điều này với nhiều người. Và chị Siu P cũng nói sau khi<br /> hai nguyên nhân: tại làng Greo Pết có bà sinh đứa con gái thứ hai, tự dưng chị bị mù<br /> Rahlan Kr đã chữa bệnh bằng tâm linh cho mắt, có người nói chị đã bị thư, và bà K đã<br /> dân làng từ năm 2000 và dân làng niềm tin chữa lành, mắt chị sáng trở lại cho đến nay<br /> rằng còn có một thế lực linh thiêng nào đó (Trần Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền<br /> (yang), nếu con người vô tình hay cố ý xúc dã, tháng 8-2014).<br /> phạm đến thần sẽ bị thần phạt. Và khi thần Như vậy, những thầy cúng đóng vai<br /> phạt thân thế bị đau dữ dội nhưng các xét trò chữa bệnh cho các thành viên trong<br /> nghiệm y khoa không tìm ra nguyên nhân. cộng đồng theo mô tả của Jacques Dournes<br /> Hay họ đã được các bác sĩ điều trị nhưng về thời đầu thế kỷ XX và vào thời hiện nay<br /> không thuyên giảm. Khi họ phó thác căn về cơ bản không khác nhau bao nhiêu.<br /> bệnh không giải thích được cho thầy chữa Những thầy cúng, những pơjâo, không chỉ<br /> bệnh bằng tâm linh. chữa cho bệnh nhân bằng các loại thảo<br /> Chị Siu P kể chồng P là người Kinh mộc, xoa bóp, mà còn góp phần chữa bệnh<br /> cũng từng nhờ bà Rahlan K chữa lành tâm lý, giúp họ có sức mạnh tinh thần để<br /> bệnh. Là người Kinh, từng là bộ đội, nên đối diện với căn bệnh của mình.<br /> anh D không tin vào chuyện chữa bệnh 2.7. Đời sống văn hóa tinh thần<br /> bằng tâm linh. Một lần, từ nhà một người Trước năm 1975, dân làng Greo Pết<br /> bạn về trong đêm, đi ngang qua đài tưởng sống bằng kinh tế nương rẫy, mỗi năm chỉ<br /> niệm (theo dân làng nói, khu vực này rất trồng một vụ, quỹ thời gian của mỗi cá<br /> linh thiêng, ai đi qua đây vào ban đêm về nhân, mỗi hộ gia đình và cả cộng đồng<br /> sẽ đổ bệnh, nhưng anh không tin), sau đó tương đồng nhau với nhiều tháng nông<br /> vài ngày anh bị đau tim dữ dội, nằm ngồi nhàn sau khi kết thúc mùa vụ (khoảng<br /> gì cũng không yên, tối không ngủ được, tháng 11, tháng 12). Làng có: lễ cúng nhà<br /> <br /> 42<br /> rông, lễ cầu mưa, lễ mừng lúa mới, lễ hội quan đến vòng đời người: nghi lễ dành cho<br /> cồng chiêng, lễ hội đua voi... Hiện nay, đứa trẻ mới chào đời, lễ cưới và những<br /> việc chuyển đổi sang trồng cây công nghi lễ liên quan đến người quá cố.<br /> nghiệp, trồng lúa nước và hoa màu khiến Theo truyền thống người Gia Rai sẽ tổ<br /> dân làng bận rộn hơn, và cùng với sự thay chức lễ thổi tai như nghi thức khai tâm cho<br /> đổi của tư duy kinh tế (tiết kiệm, làm giàu), những đứa trẻ nhưng người Gia Rai ở làng<br /> người dân không còn mặn mà với những lễ Greo Pết không còn duy trì nghi lễ này.<br /> hội cộng đồng kéo dài nhiều ngày, ảnh Ngày nay, cha mẹ sẽ tổ chức lễ cúng (Ming<br /> hưởng công việc làm ăn và tốn kém, nên Yang) để cầu xin trời đất phù hộ cho đứa<br /> họ không duy trì. Hiện nay, dân làng chỉ bé mới chào đời (thường cúng trong hai<br /> còn tổ chức lễ cầu an được tổ chức trong năm đầu đời), cầu cho đứa bé được khỏe<br /> khoảng thời gian tháng 11, tháng 12 dương mạnh. Năm đầu cúng gà, năm thứ hai cúng<br /> lịch hàng năm, tức vào thời điểm thu hoạch heo. Nhưng cũng có thể thay đổi vật cúng<br /> mùa màng xong, với mong muốn cầu cho và tăng thêm lần cúng (tùy theo điều kiện<br /> dân làng ấm no, khỏe mạnh, xua đuổi các kinh tế gia đình). Đặc biệt, hiện nay, khi<br /> thế lực siêu nhiên xấu, các loại ma xấu, xua đứa bé lên lớp chín tuồi, gia đình tổ chức<br /> đuổi những xui xẻo, tai họa đến với dân cúng cầu xin sức khỏe và xin cho cháu học<br /> làng... để buôn làng yên bình, khỏe mạnh, đến nơi đến chốn (Vũ Ngọc Xuân Ánh,<br /> no đủ, cầu cho mùa màng bội thu (Trần Ghi chép điền dã, 2014).<br /> Hạnh Minh Phương, Ghi chép điền dã, Lễ cưới của người Gia Rai ở làng Greo<br /> tháng 8 - 2014). Pết ngày nay vừa bảo lưu n
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1