CÁC XU THẾ PHÁT TRIỂN MỚI TRONG LĨNH VỰC<br />
NHÀ Ở VÀ BĐS TẠI ĐÔ THỊ VIỆT NAM VÀ TÁC ĐỘNG<br />
CỦA CUỘC CÁCH MẠNG 4.0<br />
<br />
TS. Hoàng Hữu Phê<br />
Công ty Cổ phần VINACONEX R&D<br />
<br />
<br />
Tóm tắt:<br />
Đô thị Việt Nam đã vượt một chặng đường dài, từ chỗ bị coi là những thành<br />
phần ăn bám, nay bỗng trở thành các động lực phát triển kinh tế xã hội. Tỷ lệ dân<br />
số đô thị tăng từ 18% năm 1990, lên 38% năm 2015. Trong ¼ thế kỷ qua, các xu thế<br />
phát triển đô thị Việt Nam thể hiện trong sự thay đổi các yếu tố “mềm” (phi vật<br />
thể), về chính sách, quan niệm và sở thích, và sự chuyển đổi của các yếu tố “cứng”<br />
(vật thể), của quỹ nhà và hạ tầng kỹ thuật đô thị, theo đúng các quy luật đề xuất bởi<br />
lý thuyết Vị thế - Chất lượng (SQTO).Các chuyển đổi này tạo nên những biến động<br />
lớn trên thị trường nhà ở, bất động sản tại đô thị. Sự xuất hiện của cuộc cách mạng<br />
4.0 và IoT dẫn đến sự phát triển vượt bậc của các yếu tố mềm, đặt ra các cơ hội và<br />
thách thức hoàn toàn mới đối với công tác quản lý đô thị và phát triển đô thị trong<br />
điều kiện tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.<br />
Từ khóa: Xu thế phát triển, lý thuyết Vị thế - Chất lượng, Cách mạng 4.0<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
Công cuộc phát triển đô thị đã có những bước tiến mạnh trong thập kỷ 2000-<br />
2010, từ vị trí thứ 7 về diện tích đất đô thị năm 2000 (2.200 km2) lên vị trí thứ 5<br />
năm 2010 (2.900 km2) trong khu vực Đông Á, vượt qua cả Thái Lan và Hàn Quốc.<br />
Điểm nổi bật trong việc tăng trưởng khu vực đô thị ở Việt Nam là sự phát triển<br />
mạnh mẽ của hai thành phố chính Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Tỷ lệ mở rộng tới<br />
3,8% và 4,0% hàng năm của hai đô thị này đã vượt quá bất kỳ đô thị nào ở các nước<br />
Đông Á, ngoại trừ Trung Quốc (WB, 2015).<br />
Tầm quan trọng của sự mở rộng khu vực đô thị của Việt Nam trong việc thúc<br />
đẩy tăng trưởng không phải là ngoại lệ. Ở cấp độ toàn cầu, đô thị hoá được coi là<br />
định hướng cho việc tăng năng suất và tăng trưởng kinh tế, nếu quản lý tốt, thông<br />
qua hiệu ứng tích tụ như: thị trường lao động lớn và hiệu quả hơn, chi phí giao dịch<br />
thấp và tận dụng được nguồn tri thức (Trosenburg, 2015).<br />
<br />
<br />
12<br />
1. XU THẾ MỚI TRONG CUNG CẤP NHÀ Ở: TỪ DỊCH VỤ XÃ HỘI<br />
ĐẾN HÀNG HÓA TRÊN THỊ TRƯỜNG<br />
1.1. Sự tiến hoá của quá trình cung cấp nhà ở tại Hà Nội<br />
Vì nhà ở thường chiếm đến quá nửa diện tích xây dựng của các đô thị trên<br />
thế giới, không thể phân tích quá trình phát triển đô thị nếu bỏ qua động học<br />
(dynamics) của thành tố nhà ở. Vì các điều kiện lịch sử đặc thù, quá trình cung cấp<br />
nhà ở tại các đô thị Việt Nam có thể chia thành 5 giai đoạn chính.<br />
1.1.1. Nhà ở như dịch vụ xã hội (trước 1989 và kéo dài tới 1993)<br />
Các biện pháp chống lạm phát của năm 1989, bao gồm việc giảm thiểu chi<br />
phí nhà nước, giảm bao cấp hàng hóa sinh hoạt và nới lỏng kiểm soát giá cả, đã<br />
thành công trong mục đích của mình, nghĩa là làm cho giá cả trở thành một yếu tố<br />
quyết định cho sự lưu thông của nhiều lọai hàng hóa, kể cả nhà ở. Trước đó, nhà ở<br />
được coi như một dịch vụ xã hội, mà về lý thuyết là mọi thành viên xã hội đều được<br />
hưởng. Trong thực tế, nhà ở, trong dạng diện tích sinh hoạt cơ bản, được cấp cho<br />
công dân, phần lớn trong số đó là cán bộ CNV nhà nước, dựa trên cả nhu cầu diện<br />
tích lẫn thành tích lao động sản xuất. Số người nhận nhà của nhà nước, tuy nhiên,<br />
chưa bao giờ vượt quá 30% số cán bộ CNV tại bất cứ trung tâm đô thị nào.<br />
1.1.2. Nhà ở dựa trên vốn tự có của cơ quan xí nghiệp (giữa 1980 và từ 1990 - 1996)<br />
Đến giữa những năm 1980, các giải pháp cục bộ đối với sự thiếu thốn diện<br />
tích nhà ở được tìm kiếm trong hình thức xây dựng nhà ở dựa trên vốn tự có của<br />
các cơ quan xí nghiệp. Việc các Bộ và các công ty nhà nước lớn lập các quỹ tự có<br />
và xây dựng nhà ở, sau đó phân phối cho cán bộ CNV theo các nguyên tắc dựa<br />
trên nhu cầu và thành tích lao động sản xuất, là một hiện tượng phổ biến vào thời<br />
gian này.<br />
1.1.3. Nhà nước và nhân dân cùng làm (1989 - 1993)<br />
Một giải pháp mới mẻ trong chính sách nhà ở được đưa ra thử nghiệm, là<br />
hình thức “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trong phương thức cung cấp nhà ở<br />
này, nhà nước hỗ trợ các hộ dân bằng cách đưa ra các biện pháp kích thích kinh<br />
tế và đầu tư vào cơ sở kỹ thuật hạ tầng tại các khu ở hiện trạng, trong khi các hộ<br />
dân tự lo xây dựng và và nâng cấp nhà ở của mình.<br />
1.1.4. Các dự án chia lô nền và cung cấp hạ tầng (1989 - 2000)<br />
Hình thức cung cấp nhà này có các điểm chung với các dự án tương tự<br />
“site-and-services” ở một số nước đang phát triển đã được sử dụng rộng rãi. Trong<br />
hình thức này, các lô nền có hạ tầng kỹ thuật cơ bản được chuyển nhượng quyền sử<br />
dụng đất cho các hộ dân có khả năng tài chính để họ tự xây nhà của mình.<br />
<br />
13<br />
1.1.5. Phát triển nhà ở trên cơ sở các dự án lớn (1996 đến nay)<br />
Trong hình thức này, việc cung cấp nhà ở được nhằm đến mục tiêu phát<br />
triển đồng bộ các khu đô thị mới bao gồm các cơ sở hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ<br />
thuật đầy đủ. Nhiệm vụ này được giao cho các Tổng công ty nhà nước lớn với<br />
các nguồn lực tài chính được cho rằng sẽ bảo đảm cho việc thực hiện thông suốt<br />
các dự án (Phe H. H., 2002).<br />
1.2. Sự chuyển đổi từ thị trường người bán sang thị trường người mua<br />
Vào một thời điểm nào đó sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu được<br />
cho là bùng phát vào năm 2008, một sự biến đổi về chất đã diễn ra trên thị<br />
trường nhà ở/BĐS tại Việt Nam. Từ chỗ gần như hoàn toàn bị khống chế bởi<br />
người bán, thị trường nhà ở/BĐS Việt Nam đã hoàn toàn chuyển qua tình trạng<br />
phụ thuộc vào lựa chọn của người mua.<br />
2. XU THẾ MỚI TRONG QUAN NIỆM VỀ NHÀ Ở: TỪ NƠI Ở<br />
THUẦN TÚY SANG VỊ THẾ XÃ HỘI - BIỂU TƯỢNG<br />
2.1. Sự phân khúc của thị trường nhà ở, sự phân cực trong người mua<br />
Quan niệm hiện đại về thị trường nhà ở đô thị coi toàn bộ quỹ nhà trong một<br />
đô thị là một chuỗi các phân khúc thị trường liên hệ với nhau một cách chặt chẽ với<br />
các khoảng giá trị biến đổi liên tục phụ thuộc vào các yếu tố phát triển của nền kinh<br />
tế. Sự phân khúc thị trường sản phẩm nhà ở xuất hiện từ sự phân cực của các nhóm<br />
thu nhập, với các mức độ tiện nghi chấp nhận được bởi các nhóm này biến thiên<br />
trong một dải rộng, với một cực là các biệt thự hàng chục tỷ đồng và cực khác là<br />
các đơn vị nhà xã hội vài chục mét vuông.<br />
2.2. Đa dạng hoá lựa chọn/sở thích và cuộc đua tìm các thị trường ngách<br />
Nếu lựa chọn nhiều khi khá ngặt nghèo của của các nhóm thu nhập thấp chủ<br />
yếu liên quan đến diện tích ở và sự lân cận của nơi làm việc và các dịch vụ cơ bản<br />
thì các nhà thu nhập cao lại chọn nhà theo sở thích chủ yếu để thể hiện vị thế xã hội<br />
của mình. Các thị trường ngách như nhà kiểu Pháp, nhà ở sinh thái, nhà vườn, v.v..<br />
được phát triển mạnh mẽ thu hút tầng lớp thành đạt, trong lúc nhà cho thuê đối với<br />
công nhân các khu công nghiệp hay công nhân thời vụ chỉ có tiện nghi tối thiểu và<br />
thiếu thốn nghiêm trọng hạ tầng kỹ thuật.<br />
3. XU THẾ MỚI TRONG PHONG CÁCH SỐNG ĐÔ THỊ: TỪ PHÂN<br />
TÁN THẤP TẦNG SANG CAO TẦNG ĐA NĂNG<br />
3.1. Hình ảnh điền viên của các làng đô thị<br />
Sau đổi mới 1986 và đặc biệt sau Luật Đất đai 2003, bản chất của nhà ở như<br />
một thứ hàng hóa trên thị trường đã làm xuất hiện các ý tưởng lãng mạn về việc tạo<br />
<br />
14<br />
lập các khu ở tại đô thị nhưng mang tất cả các hình ảnh điền viên từ quá khứ và các<br />
hơi hướng của loại nhà ở trong các “gated communities”. Giá đất tăng lên tại khu<br />
lõi mở rộng của thành phố đã biến các đầu tư kiểu này không còn hợp lý và bị đẩy<br />
xa ra phía các vùng ngoại ô.<br />
3.2. Khu ở xanh - mốt nhất thời hay xu thế lâu dài?<br />
Để bù cho sự thiếu hụt của các thuộc tính “điền viên”, và phù hợp với trào<br />
lưu toàn cầu, phong trào tạo ra các khu ở xanh thực sự có một sự hưởng ứng rất lớn<br />
từ giới chuyên môn và khách hàng. Tuy nhiên, các chỉ dấu về một số biểu hiện cực<br />
đoan, và yếu tố “elitism” có thể gây ra những căng thẳng xã hội không nên có.<br />
3.3. Tiếp xúc trực diện (face-to-face) tại các khu chung cư<br />
Như chúng tôi đã nhắc đến ở mục 1.1.5, xu hướng các dự án nhà ở lớn, đồng<br />
bộ có lẽ là tương lai có thể đoán trước được của các đô thị Việt Nam, với các hình<br />
thái công trình hỗn hợp (mixed-use) trong đó phần đế được sử dụng cho các chức<br />
năng công cộng và phần phía trên dành cho các căn hộ. Các khu chung cư loại này<br />
có thể khuyến khích sự tăng cường tiếp xúc mặt-đối-mặt giữa các cư dân, đặc biệt là<br />
lớp trẻ năng động, vốn là một môi trường thúc đẩy hợp tác và sáng tạo nhằm tăng<br />
tính cạnh tranh kinh tế của đô thị.<br />
4. XU THẾ MỚI TRONG PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ: TỪ CẤU TRÚC<br />
ĐƠN CỰC SANG CẤU TRÚC ĐA CỰC<br />
4.1. Sự triệt tiêu, hay phân bố lại vai trò của các trung tâm đô thị đơn cực<br />
và sự xuất hiện các cực vị thế (Phe, 2000, 2015 (1), 2015 (2))<br />
Phần lớn các đô thị trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển thường có<br />
dạng đơn cực với trung tâm thành phố nằm giữa bao quanh bởi các vòng đồng tâm<br />
của các khu vực có mật độ giảm dần. Xu hướng chung của các đô thị là đi từ đơn<br />
cực đến đa cực, trong đó các cực đóng vai là nơi tập trung cao nhất của các loại vị<br />
thế xã hội (sẽ giải thích rõ hơn tại mục 6.3).<br />
4.2. Dịch vụ tiện ích và khoảng cách tới trung tâm<br />
Dịch vụ tiện ích trong các thành phố truyền thống có chiều hướng tập trung<br />
tại khu trung tâm đã làm nổi rõ vai trò của khoảng cách đến trung tâm thành phố.<br />
Tuy nhiên sự phân tán các loại dịch vụ này, đặc biệt với trào lưu mua bán trên mạng<br />
đã định nghĩa lại vai trò của khoảng cách đến trung tâm.<br />
4.3, Vai trò của hạ tầng kỹ thuật<br />
Quá trình đa cực hóa được đây mạnh dựa trên các dự án đầu tư công về hạ<br />
tầng kỹ thuật đô thị, đặc biệt hạ tầng thông tin liên lạc với các mạng cáp quang<br />
hiệu quả.<br />
<br />
15<br />
4.4. Tăng trưởng mạnh vận tải hàng không, các dự án TOD và sự xuất<br />
hiện các in-town check-in stations<br />
Vận tải hành khách bằng đường hàng không của Việt Nam có một trong<br />
những tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, đặc biệt khi xuất hiện các hãng hàng<br />
không tư nhân. Các dự án nhà ở lớn có xu hướng chú ý cải thiện hình thức di<br />
chuyển này, trong khuôn khổ các TOD (transit-oriented-development). Ý tưởng về<br />
các in-town check-in, hay là các nhà ga nội đô cho hành khách đi máy bay, mà tác<br />
giả bài này tích cực vận động thực hiện, bắt đầu được nói đến trong các kế hoạch<br />
dài hạn.<br />
5. HỆ QUẢ CỦA CÁC XU THẾ LÊN SỰ HÌNH THÀNH VÀ TIẾN<br />
HÓA CỦA THỊ TRƯỜNG NHÀ Ở VÀ BẤT ĐỘNG SẢN<br />
5.1. Tác động lên thị trường nhà ở<br />
Các xu thế nêu trên (từ mục 1 đến mục 4) đã gây các tác động lớn lên sự hình<br />
thành và quá trình tiến hóa của thị trường nhà ở và BĐS, làm xuất hiện các tình<br />
huống mới và các biện pháp đáp ứng, thể hiện ở các điểm sau:<br />
5.1.1. Sự thống trị của 2 trung tâm đô thị lớn<br />
Hà Nội và TP Hồ Chí Minh tiếp tục thu hút người nhập cư. Tuy nhiên, tiêu chí<br />
đơn về diện tích sàn sẽ không còn thống trị nhu cầu. Sự phân khúc của thị trường nhà<br />
ở theo thu nhập và nhóm nghề nghiệp tạo nên các tập hợp thị trường nhánh và ngách<br />
rất phong phú tại hai thành phố này, cần đến sự đáp ứng một cách thông minh.<br />
5.1.2. Giữ cân đối giữa các khu vực khác nhau của thị trường: nhà ở chất<br />
lượng cao và nhà ở xã hội<br />
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường nhà ở tư nhân, đặc biệt của các tập<br />
đoàn lớn có thể hướng ưu tiên cho phân khúc nhà ở cao cấp. Muốn giữ sự cân đối<br />
giữa các phân khúc thị trường phù hợp với cấu trúc thu nhập của dân cư đô thị cần<br />
dùng các biện pháp tự nguyện có khuyến khích (incentives) và bắt buộc trong việc<br />
thỏa mãn nhu cầu ở các mức thu nhập khác nhau.<br />
5.1.3. Xanh hoá môi trường nhà ở<br />
Tỷ lệ công viên cây xanh và các mảng xanh trong khu ở cần được giữ vững<br />
theo các chỉ tiêu bắt buộc nhằm duy trì chất lượng sống và hạn chế mức ô nhiễm<br />
không khí có chiều hướng ngày càng tăng.<br />
5.1.4. Áp dụng nguyên lý sử dụng đa năng<br />
Nguyên lý sử dụng đa năng hay sử dụng hỗn hợp (mixed – use) nên được áp<br />
dụng trong tất cả các dự án nhà ở đặc biệt các khu ở lớn để hạn chế sự quá tải mạng<br />
lưới giao thông và nâng cao chất lượng cuộc sống (QoL).<br />
<br />
16<br />
5.1.5. Khuyến khích giao tiếp trực tiếp, tạo điều kiện đi bộ và công viên<br />
Giao tiếp trực tiếp (face-to-face contacts), cơ sở của tiềm lực sáng tạo của cư<br />
dân đô thị, có thể được tạo ra bằng các phương pháp quy hoạch và kiến trúc thích<br />
hợp. Khôi phục hoạt động đi bộ ở các khoảng cách vừa phải để tăng các chỉ số sức<br />
khỏe dân cư và hạ thấp mức khí thải do sử dụng xe máy tràn lan.<br />
5.1.6. Sự cần thiết phải công nghiệp hoá sự phát triển nhà ở<br />
Xu hướng công nghiệp hóa sự phát triển nhà ở là con đường duy nhất để giải<br />
quyết nhanh chóng sự thiếu và phân bố không cân đối diện tích sàn nhà ở ở các<br />
nhóm thu nhập khác nhau.<br />
5.2. Về hạ tầng kỹ thuật và các thể loại bất động sản phi nhà ở khác<br />
Sự xuất hiện đô thị đa cực của Hà Nội và các thành phố khác cho thấy sự cần<br />
thiết phải có các hệ thống đường sắt đô thị linh hoạt và lâu dài, bao gồm các nhà ga<br />
kiêm cực vị thế trong một quá trình phát triển khu đô thị TOD như đã nói ở trên.<br />
5.2.1. Vai trò quan trọng của đướng sắt đô thị Hà Nội với các nhà ga như<br />
các cực vị thế<br />
Với 8 tuyến đường sắt đô thị được quy hoạch dài hạn, theo nguyên tắc TOD,<br />
hệ thống nhà ga đồ sộ này sẽ đóng vai trò các cực vị thế nhằm nâng cao sự đa dạng<br />
và tính cạnh tranh của dịch vụ đô thị và giá trị sử dụng đất đai.<br />
5.2.2 Sử dụng và tập hợp các không gian ngầm<br />
Sự cần thiết trong sử dụng các không gian ngầm đô thị đã được nhấn mạnh<br />
nhiều lần nhưng chưa có quy hoạch tổng thể thuyết phục cho toàn thành phố. Nên<br />
cân nhắc kết nối các nhà ga ngầm của hệ thống đường sắt đô thị với tầng hầm các<br />
công trình công cộng tạo các diện tích hầm liên hợp lớn phục vụ hiệu quả nhiều<br />
chức năng đô thị.<br />
6. CÁCH MẠNG 4.0, ĐÔ THỊ VIỆT NAM VÀ LÝ THUYẾT VỊ THẾ -<br />
CHẤT LƯỢNG (SQTO)<br />
6.1. Định nghĩa và xuất xứ<br />
Trong 250 năm qua, xã hội loài người trải qua bốn cuộc cách mạng công<br />
nghiệp. Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất xảy ra ở Anh cuối thế kỷ 18 gắn<br />
với sự ra đời của động cơ hơi nước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai bắt<br />
đầu từ năm 1870 đến năm 1914, đặc trưng bởi các hệ thống chế tạo sản phẩm hàng<br />
loạt dựa trên dây chuyền sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp thứ ba là của công<br />
nghệ số, bắt đầu từ chiếc computer đầu tiên xuất hiện vào năm 1942.<br />
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, còn gọi là Công nghệ 4.0 là một<br />
cụm từ xuất phát từ một nhóm chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau như chính<br />
<br />
17<br />
trị, kinh doanh, học giả của Đức tại Hội Chợ Hanover năm 2011 sau khi chính phủ<br />
Đức đưa ra một đề án nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành công nghệ sản<br />
xuất của Đức. Chính phủ liên bang Đức đã dùng cụm từ này trong bản Chiến Lược<br />
cho Công Nghệ Cao tới năm 2020. Sau đó một nhóm chuyên gia được thành lập để<br />
nghiên cứu về vấn đề này và hai năm sau, năm 2013, nhóm này cho ấn hành Bản<br />
Báo Cáo Cuối Cùng về Công Nghệ 4.0.<br />
6.2. Phạm vi ảnh hưởng của cuộc Cách mạng 4.0 đối với đô thị Việt Nam<br />
Khác với các phát minh khoa học công nghệ đã dẫn tới ba cuộc cách mạng<br />
trước đây, bản chất của công nghệ 4.0 là sản xuất ra các sản phẩm thông minh,<br />
biết tương tác với nhau dựa trên công suất tính toán khổng lồ của điện toán đám<br />
mây. Vì đô thị về bản chất là một sản phẩm tích hợp phức tạp nhất mà con người<br />
tạo ra, rõ ràng Công nghệ 4.0 chắc chắn chỉ có thể thành công đúng nghĩa nếu tạo ra<br />
được các đô thị thông minh. Chúng tôi đưa ra một vài phân tích bước đầu về phạm<br />
vi ảnh hưởng của Công nghệ 4.0 đối với lĩnh vực đô thị.<br />
6.2.1. Đối với xu thế (1) và (2)<br />
Với sản phẩm nhà ở và các dịch vụ đô thị là các loại hàng hóa trên thị<br />
trường, có thể coi thị trường nhà ở và BĐS đô thị như một cỗ máy thông minh<br />
khổng lồ hoạt động dựa trên các tương tác giữa người bán và người mua được hỗ<br />
trợ bởi một hệ thống marketing và bán hàng trong đó nhiều công đoạn được tự động<br />
hóa hoàn toàn.<br />
6.2.2. Đối với xu thế (3)<br />
Trong xu thế này, trọng tâm được đặt vào các đơn vị nhà ở có quy mô lớn,<br />
như các thành phố trong lòng thành phố. Có hai khu vực mà công nghệ 4.0 sẽ tìm<br />
thấy các điều kiện hoạt động lý tưởng: (i) quản lý tự động các hệ thống kỹ thuật tòa<br />
nhà và (2) dùng các công cụ truyền thông đa phương tiện để khuyến khích đa dạng<br />
hóa các kênh giao tiếp bổ sung cho các tiếp xúc mặt đối mặt.<br />
6.2.3. Đối với xu thế (4)<br />
Công nghệ 4.0 chính là công cụ không thể thiếu nếu các đô thị đa cực - như<br />
đích đến của các đô thị cạnh tranh nhất trên thế giới hiện nay - có hy vọng thành<br />
công như mong muốn. Các chùm đô thị - conubations - với dân cư lên đến hàng<br />
trăm triệu dân và sức cạnh tranh khó bì kịp trên quy mô toàn cầu, thực sự là các cỗ<br />
máy 4.0 khổng lồ.<br />
6.3. Lý thuyết Vị thế - Chất lượng (SQTO) và các ứng dụng<br />
Lý thuyết Vị thế - Chất lượng được TS. Hoàng Hữu Phê và Giáo sư Patrick<br />
Wakely phát triển và công bố vào năm 2000 tại Đại học Tổng hợp London (UCL)<br />
<br />
<br />
18<br />
dưới tiêu đề “Vị thế, chất lượng và sự lựa chọn khác: Tiến tới một lý thuyết mới về<br />
vị trí dân cư đô thị” (Phe & Wakely, 2000). Vì các đóng góp về mặt lý luận và tiềm<br />
năng ứng dụng, công trình đã được tặng Giải thưởng Kỷ niệm Donald Robertson<br />
(Donald Robertson Memorial Prize 2000) cho nghiên cứu xuất sắc nhất trong năm<br />
2000 của tờ Urban Studies (Đô thị học), một tạp chí quốc tế hàng đầu xuất bản tại<br />
Vương quốc Anh. Đây là một giải thưởng uy tín về mặt học thuật trong lĩnh vực<br />
nghiên cứu đô thị trên thế giới, chỉ tặng mỗi năm một lần.<br />
Nội dung chính của lý thuyết mô tả động học (dynamics) của của việc hình<br />
thành và phát triển các khu dân cư đô thị, tức là cơ chế của sự lựa chọn về nơi ở của<br />
người dân trong không gian đô thị. Lý thuyết mới này có nội dung khác biệt so với<br />
lý thuyết hiện có, phát triển bởi William Alonso (1964). Alonso và những người<br />
khác đã dựa vào các ý tưởng của Von Thunen (1826) để lý giải việc hình thành và<br />
tiến hóa của các khu dân cư đô thị, dựa trên sự đánh đổi giữa chi phí đi lại và chi<br />
phí nhà ở (xem Hình 1).<br />
6.3.1. SQTO – CM 4.0 và mô hình mới về cấu trúc đô thị<br />
Được xây dựng như một hệ thống lý luận tổng quát nhằm giải thích sự hình<br />
thành và phát triển của cấu trúc đô thị trong nhiều hình thái kinh tế khác nhau, các<br />
hệ quả của lý thuyết Vị thế - Chất lượng đã dẫn đến việc xây dựng thành công một<br />
mô hình hoàn toàn mới về cư trú đô thị, trong đó sự đánh đổi giữa chi phí đi lại và<br />
chi phí nhà ở trong các mô hình cổ điển của Alonso (1964), Muth (1969) được thay<br />
thế bằng sự đánh đổi giữa vị thế xã hội và chất lượng nhà ở (xem Hình 2, 3, 4), hoặc<br />
nếu nói chính xác hơn thì về mặt thực chất, có thể chứng minh rằng mô hình Alonso<br />
chỉ là một trường hợp đặc biệt của mô hình lý thuyết về Vị thế - Chất lượng.<br />
Điểm mấu chốt cho khả năng áp dụng thực tiễn của SQTO là các phương<br />
pháp hồi quy hedonic cho phép lượng hóa các giá trị phi vật thể một cách tin cậy và<br />
hiệu quả. Đây chính là lĩnh vực mà điện toán đám mây và các công cụ sử dụng Big<br />
Data - Các thành tố chính của Công nghệ 4.0 - tìm được các ứng dụng quan trọng và<br />
thiết thực nhất của mình.<br />
6.3.2. SQTO - CM 4.0 và phát triển đô thị<br />
Việc xác định môt cách rõ ràng cấu trúc căn bản của các đô thị thông minh<br />
thông qua các luận điểm lý thuyết của SQTO và các công cụ theo dõi và giải quyết<br />
vấn đề dựa trên cơ sở Công nghệ 4.0.<br />
6.3.3. SQTO - CM 4.0 và quản lý đô thị<br />
Nếu có lĩnh vực nào mà Công nghệ 4.0, bao gồm AI, cloud computing, và<br />
vai trò của các sensors như hệ thống thần kinh của các hệ thống phức tạp, có thể<br />
ứng dụng một cách hiệu quả nhất, thì đó là lĩnh vực giao thông dành cho các đô thị<br />
<br />
19<br />
thông minh. Sự phối hợp của SQTO và CN 4.0 là điều kiện hoạt động lý tưởng cho<br />
công việc này.<br />
6.3.4. SQTO - CM 4.0 và cạnh tranh đô thị<br />
Việc xác định các cực vị thế đô thị thông qua các luận điểm đã được kiểm<br />
chứng của SQTO và phân tich các xu hướng phát triển trong một xã hội tri thức dựa<br />
trên CN 4.0 là bảo đảm quan trọng nhất để định vị một đô thị trong bức tranh cạnh<br />
tranh toàn cầu.<br />
7. MỘT VÀI DỰ BÁO<br />
Chúng tôi cho rằng có thể đưa ra một số dự báo căn bản cho các hướng phát<br />
triển của đô thị Việt Nam trong điều kiện CN 4.0 càng ngày càng chiếm vị trí quan<br />
trọng trong việc theo dõi và điều hành.<br />
7.1. Các đô thị Việt Nam sẽ nhanh chóng chuyển dịch về hướng các đô thị<br />
thông minh<br />
Giới công nghệ thế giới bắt đầu để ý nhiều đến nhân lực IT của Việt Nam<br />
sau kết quả hai cuộc kiểm tra năng lực lứa học sinh 15 tuổi do Tổ chức các nền kinh<br />
tế phát triển OECD tiến hành (PISA 2012 và PISA 2015) với vị trí Việt Nam cao<br />
hơn nhiều nước công nghiệp phát triển chủ yếu trên thế giới. Đội ngũ nhân lực thích<br />
hợp này, cộng với các đầu tư phù hợp về công nghệ, sẽ bảo đảm các nội dung chính<br />
của CN 4.0 thực hiện hiệu quả ở khu vực đô thị.<br />
7.2. Các tiền đề cho hoạt động của CN 4.0 phải được xây dựng từ hôm nay<br />
CN 4.0 chỉ có thể hoạt động được trên cơ sở dữ liệu lớn (Big Data). Có hai<br />
nguồn thu thập thông tin hết sức quan trọng: Các khảo sát (surveys) chính thức và<br />
crowdsourcing thông qua các mạng xã hội và hệ thống thông tin liên lạc, đặc biệt là<br />
các thiết bị cầm tay (smartphones, etc.). Việc hoạch định có bài bản các hệ thống<br />
thu thập, lưu trữ và sử dụng dữ liệu phải được tiến hành càng sớm và càng có tính<br />
hệ thống càng tốt.<br />
7.3. Liên kết giữa đô thị các vùng miền thành một hệ thống lớn là bảo đảm<br />
tôt nhất cho hiệu quả CN 4.0.<br />
Đây là một công việc lớn phải đặt được nền tảng ngay từ hôm nay cho mức<br />
độ phức tạp tăng dần trong tương lai. Một hệ thống phân loại các thuộc tính<br />
(attributes) chính của hệ thống sẽ được thiết kế với khả năng hòa nhập, liên kết và<br />
điều chỉnh linh hoạt.<br />
KẾT LUẬN<br />
Quá trình toàn cầu hoá hiện nay tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ về vị trí các<br />
nền kinh tế đang phát triển trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đô thị đang chịu sức ép<br />
<br />
20<br />
trước nhiệm vụ thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia. Trong môi trường cạnh tranh<br />
này, chúng tôi đã đề xuất trong một bài báo khác về tương lai của Hà Nội sẽ trở nên<br />
một đô thị của tri thức và tiện nghi. Các công cụ không thể thiếu của CN 4.0 là điều<br />
kiện bảo đảm thành công<br />
Hướng tới vị thế của một siêu đô thị trong vùng Đông Á tăng trưởng mạnh<br />
mẽ, Hà Nội đưa ra các cơ hội dường như vô tận, nếu các thách thức được nắm bắt<br />
trước khi tiến hành giải quyết thông qua các thành tố “mềm” của các quan niệm<br />
thay đổi về nhà ở và lối sống cũng như các chính sách đô thị, và thành tố “cứng”<br />
của quĩ nhà ở và hạ tầng kỹ thuật đô thị. Cả trong hai loại thành tố này, CN 4.0 là<br />
yếu tố không thể thay thế.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1. Mô hình địa tô cạnh tranh<br />
(Von Thunen 1826 – William Alonso 1964)<br />
<br />
<br />
<br />
21<br />
Hình 2. Tương quan Vị thế nơi ở - Chất lượng nhà ở (VN/CL)<br />
trong các tình huống nhà ở khác nhau<br />
- Trục tung của đồ thị biểu hiện các biến số đo đếm được trực tiếp, hay còn gọi là<br />
tangible variables;<br />
- Trục hoành của đồ thị biểu hiện các biến số chỉ có thể xác định một cách gián<br />
tiếp (bằng các phương pháp hồi quy), hay còn gọi là intangible variables;<br />
- Tương quan giữa hai đại lượng này chính là cơ sở cho sự “đánh đổi” khác:<br />
đánh đổi VT/CL.<br />
<br />
22<br />
Theo chúng tôi, đây cũng chính là động lực quan trọng nhất cho các thay đổi<br />
về vị trí dân cư và cấu trúc đô thị<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3. Mô hình của lý thuyết Vị thế - Chất lượng (SQTO)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 4. Mô hình đầy đủ (3D) của lý thuyết Vị thế - Chất lượng (SQTO<br />
<br />
23<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. Deuskar, C. (2014): East Asia's Changing Urban Landscape: Measuring a<br />
Decade of Spatial Growth. World Bank Publications.<br />
2. Phe, H. H. & Wakely, P. (2000): Status, quality and the other trade-off: Towards a<br />
new theory of urban residential location. In Urban Studies, 37(1), 7-35.<br />
3. Phe, H. H. (2008): North An Khanh Satellite Town and the Search for a<br />
Suitable Urban Structure for Hanoi. In Communication présentée à la<br />
conférence Trends of urbanisation and suburbanisation in Southeast Asia, Ho<br />
Chi Minh City.<br />
4. Phe, H. H. (2015): Status - Quality Trade Off theory and housing policy: the<br />
segmentation of Hanoi city’s housing market and the development challenges,<br />
a presentation at a research seminar, RMIT Vietnam, Jan 2015.<br />
5. Phe, H.H. (2015)Housing Development and Urban Sustainability: The Case of<br />
a New Urban Area in Hanoi, a presentation at International Conference<br />
“Sustaining Urban Development - Applicable Research Directions”, VGU<br />
Binh Duong Campus,<br />
Vietnam..<br />
6. Trotsenburg A. (2015): Why efficient cities are crucial to Vietnam’s<br />
transformation? In online World Economic Forum.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
24<br />