intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên trong học chế tín chỉ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

61
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong khuôn khổ của bài viết này, tác giả chỉ tập trung tổng quan các nghiên cứu phân tích vai trò của các yếu tố về tổ chức và quản lý hoạt động tự học cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học. Mời các bạn tham khảo chi tiết nội dung bài viết này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên trong học chế tín chỉ

  1. 263 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ Hà Thị Thanh Thủy, NCS1 Tóm tắt: Đào tạo theo tín chỉ là một hình thức đào tạo tiên tiến, mang lại hiệu quả cao đối với cả người học lẫn người dạy hiện nay. Yêu cầu cơ bản và quan trọng đối với sinh viên khi học theo học chế tín chỉ đó là vấn đề tự học. Tự học có ý nghĩa rất lớn đối với sinh viên trong môi trường dạy học, vì nếu không có tự học thì sinh viên không thể hoàn thành nhiệm vụ học tập theo phương châm “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tự học của sinh viên như năng lực, động cơ hứng thú học tập, phương pháp tự học của sinh viên, phương pháp giảng dạy của giảng viên, điều kiện về cơ sở vật chất trường học, và các yếu tố liên quan đến tổ chức và quản lý hoạt động tự học cho sinh viên từ phía các trường đại học. Trong khuôn khổ của bài viết này, tác giả chỉ tập trung tổng quan các nghiên cứu phân tích vai trò của các yếu tố về tổ chức và quản lý hoạt động tự học cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học. Từ khóa: tự học, học chế tín chỉ, trường đại học 1. Đặt vấn đề Xã hội ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc lượng kiến thức ngày càng gia tăng. Để đáp ứng được nhu cầu học vấn của thời đại, mỗi người cần phải tìm cho mình phương pháp học tập phù hợp. Trong đó quan trọng hơn hết là phương pháp tự học. Quá trình con người tiếp thu những kiến thức, kĩ năng do người khác truyền lại chính là quá trình học và tự học. Tự học là sự chủ động, tích cực, độc lập tìm hiểu, lĩnh hội tri thức và hình thành 1 Trường Đại học Giáo dục; Email: thuyhtt@vnu.edu.vn; ĐT: 0974348680.
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 264 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL kỹ năng cho mình. Tự học là tự mình tìm hiểu nghiên cứu, thu nhặt các kiến thức tự luyện tập để có kỹ năng. Tự học có thể không cần sự hướng dẫn của người khác. Đối với SV bậc đại học, việc tự học, tự nghiên cứu giữ vai trò vô cùng quan trọng. Tự học là một trong những yếu tố quyết định chất lượng học tập, chất lượng đào tạo, là con đường  nhanh chóng đưa sự nghiệp giáo dục nước ta tiến kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Nghị quyết 29 “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” đã nêu rõ:” Tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học” [2]. Tự học được xuất phát từ chính nhu cầu muốn học hỏi, muốn gia tăng sự hiểu biết để làm việc và sống tốt hơn của mỗi người, là hình thức học tập không thể thiếu được của sinh viên đang học tập tại các trường đại học. Việc tự học sẽ giúp sinh viên hiểu vấn đề một cách sâu sắc, giải quyết vấn đề nhanh chóng chính xác. Việc tự học có thể được coi là chiếc chìa khóa đưa sinh viên đến kho tàng tri thức, là điều kiện giúp sinh viên thành công trong học tập. Tinh thần tự học có thể giúp con người tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình ti vi, từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh nghiệm sống của nhân dân.Có rất nhiều những danh nhân đã thành nhân tài của đất nước từ việc họ tự học như: Lương Thế Vinh, Mạc Đinh Chi, Hồ Chí Minh... Đây là những người có sự kiên trì trong quá trình tự học và là những tấm gương mà chúng ta cần noi theo. Với châm ngôn “Học, học nữa, học mãi”, học là một hoạt động không thể thiếu đối với tất cả mọi người từ khi sinh ra cho đến suốt cuộc đời. Nhằm đáp ứng sự phát triển của xã hội, việc tự học có vai trò vô cùng quan trọng. Các nhà tâm lý học duy vật biện chứng cho rằng: “bản chất của sự hình thành và phát triển tâm lý con người là quá trình tiếp thu và lĩnh hội hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà loài người đã phát hiện, tích lũy và tồn tại dưới dạng hệ thống hóa tri thức khoa học”[10]. Theo lý thuyết hoạt động thì tâm lý con người chỉ được hình thành, phát triển và bộc lộ trong quá trình học tập của cá nhân, có nghĩa là sinh viên phải trực tiếp tham gia vào hoạt động. Tự học giúp sinh viên lĩnh hội tri thức một cách chủ động, toàn diện, có hứng thú. Tự học giúp ta nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn trong cuộc sống. Không những thế tự học còn giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác. Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản thân. Tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất để hoàn thiện bản thân và biến ước mơ thành hiện thực. Thêm vào đó, người có tinh thần tự học luôn chủ động, tự tin trong cuộc sống. Nhờ hoạt động tự học mà sinh viên có thể hình thành được những năng lực cơ bản để có thể “học tập suốt đời”, sau khi ra trường có thể tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới của xã hội.
  3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ 265 Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tự học của sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ như những yếu tố khách quan và chủ quan. Cần nắm vững các yếu tố này để có thể đưa ra các chiến lược cải thiện việc tổ chức và quản lý hoạt động tự học của sinh viên và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học. 2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu lí luận: chúng tôi sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu: Nghiên cứu (đọc, phân tích, tổng hợp,khái quát hóa, hệ thống hóa lí luận) các tài liệu (các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản chỉ đạo và quản lí giáo dục, các công trình, các tài liệu khoa học...) nhằm xác lập cơ sở lí luận của đề tài. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ 3.1. Các yếu tố khách quan 3.1.1. Xu thế đổi mới trong giáo dục đại học Để có thể thích ứng với xu thế và phương thức đào tạo tiên tiến của thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã có hàng loạt những chủ trương về đổi mới giáo dục đại học. Theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 22 tháng 7 năm 2011 về “Phê duyệt Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, một trong những mục tiêu cụ thể đặt ra là “Phát triển đồng bộ đội ngũ nhân lực với chất lượng ngày càng cao, đủ mạnh ở mọi lĩnh vực, đồng thời tập trung ưu tiên những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh”. Cùng với các bậc học khác, GDĐH đang có sự đổi mới căn bản, toàn diện nhằm mục tiêu “đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế” [2]. Sự đổi mới này sẽ tác động mạnh mẽ đến công tác quản lý GDĐH, đòi hỏi công tác quản lý, nhất là quản lý HĐHT cũng phải đổi mới theo định hướng “chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn” trong đó đặc biệt là “phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học”[2]. Phương thức đào tạo mới sẽ đem lại những đổi mới,
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 266 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL cải tổ cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức “Thực hiện hệ thống tín chỉ như một phương pháp cải cách giáo dục sẽ đòi hỏi cách tiếp cận hệ thống giáo dục rộng rãi bao gồm lập kế hoạch, xác định mục tiêu, thu thập tư liệu, thực hiện, đánh giá, điều chỉnh đối với chương trình, hệ thống tư vấn sinh viên, hệ thống quản lý, và tất cả những điều này phải được thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ trường đại học” [9]. Hội nhập quốc tế trong GD&ĐT đang đặt ra những yêu cầu mới đối với phát triển năng lực người học. Những kinh nghiệm quốc tế trong việc tổ chức và quản lý hoạt động tự học của sinh viên trong học chế tín chỉ cần được tiếp thu và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong đổi mới GDĐH Việt Nam. 3.1.2. Nội dung chương trình và phương thức đào tạo Nội dung chương trình đào tạo có phù hợp với ngành nghề, với công việc thực tiễn hay không cũng sẽ ảnh hưởng tới năng lực tự học của sinh viên. Đặc biệt, phương thức đào tạo tác động trực tiếp đến việc tự học của họ. Chẳng hạn, việc chuyển từ đào tạo nặng về truyền thụ, cung cấp kiến thức cho người học sang dạy người học cách học, phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học chắc chắn buộc người học phải tăng cường tự học và quan tâm đến việc không ngừng nâng cao năng lực tự học của bản thân. 3.1.3. Cơ sở vật chất - thiết bị học tập CSVC-TBHT có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tự học của SV. Đối với hoạt động học tập trong học chế tín chỉ yêu cầu về CSVC-TBHT (mạng viễn thông internet; phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành; thư viện; sách giáo khoa, tài liệu học tập tài liệu nghiên cứu…) lại càng cao; mặt bằng chung hiện nay ở các trường đại học quy mô ngành/nghề và số lượng SV đào tạo không lớn, nên khi tổ chức đào tạo theo HTTC sẽ gặp khó khăn, nếu không có sự đầu tư mạnh mẽ về CSVC-TBHT thì hiệu quả tổ chức các hoạt động tự học bị hạn chế nhất định, không tạo được môi trường thuận lợi để tác động, khuyến khích mạnh mẽ đến tính tích cực học tập, nghiên cứu của SV; khơi dậy những khát vọng tìm tòi, khám phá. Vì thế, để đáp ứng đòi hỏi của hoạt động tự học trong đào tạo theo HTTC, CSVC-TBHT ở các trường đại học cần được xây dựng theo hướng đồng bộ và hiện đại; tăng cường sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông tạo điều kiện cho người học được học tập mọi nơi, mọi lúc. 3.1.4. Nhận thức, tâm lý của phụ huynh về đào tạo theo HTTC Khi các trường đại học đào tạo theo HTTC, điều làm cho các bậc phụ huynh quan tâm là thời gian SV đến trường ít đi, thời gian SV ở nhà tăng lên. Nếu những SV nào không đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu ở nhà thì các em càng có sự rảnh rỗi nhiều. Do đó khi đào tạo theo HTTC, cần làm cho phụ huynh nhận thức
  5. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ 267 được rằng, bản thân họ cũng phải có trách nhiệm tham gia vào việc quản lý hoạt động tự học của SV. 3.1.5. Nhận thức, năng lực và phương pháp dạy học của đội ngũ giảng viên Nhận thức, năng lực và phương pháp dạy học theo HTTC của đội ngũ của GV có ảnh hưởng lớn đến hoạt động học tập, đặc biệt là hoạt động tự học của SV. Trước hết, GV phải có nhận thức đúng đắn về đào tạo theo HTTC. Đây là phương thức đào tạo hiện đại, đang được các trường ĐH lớn trên thế giới và trong nước vận dụng thành công. Vì thế, đào tạo trong HTTC đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với GDĐH Việt Nam. Cùng với nhận thức đúng đắn, GV phải có năng lực và phương pháp để tổ chức và hướng dẫn các hoạt động tự học cho sinh viên trong các trường đại học. 3.1.6. Công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên trong đào tạo theo HTTC của đội ngũ cán bộ quản lý trong nhà trường Nếu đào tạo theo HTTC là một thách thức đối với GV thì quản lý đào tạo theo HTTC, trong đó có quản lý hoạt động tự học của SV là một thách thức đối với đội ngũ cán bộ quản lý trong nhà trường. Để quản lý hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên theo HTTC, đội ngũ cán bộ quản lý phải có năng lực tổ chức cho SV xây dựng kế hoạch tự học; tổ chức hoạt động tự học; kiểm tra, đánh giá hoạt động tự học; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng tự học theo HTTC cho SV; xây dựng cơ chế, tạo động lực thúc đẩy sinh viên tự học trong HTTC… Nói tóm lại, đội ngũ cán bộ quản lý các trường đại học phải có “năng lực quản lý sự thay đổi nhà trường, trong đó có sự thay đổi cách tiếp cận hoạt động tự học của SV” [5]. 3.1.7. Hoạt động của Đoàn Thanh niên và các tổ chức xã hội khác Định hướng hoạt động của Đoàn và các tổ chức xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề tự học của sinh viên. Thông qua các trang web, fanpage của các Liên chi đoàn và các câu lạc bộ học thuật, với các mô hình diễn đàn và CLB học tập đã thu hút và được nhiều sinh viên quan tâm. Tuy nhiên, cần sự hỗ trợ chuyên môn của các thầy cô giáo, đặc biệt là các giảng viên có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đối với việc tự học, đặc biệt là trong học chế tín chỉ hiện nay, vấn đề khó khăn nhất chính là việc tìm kiếm các tài liệu cũng như gặp gỡ, trao đổi thông tin với bạn bè, thầy cô. Thời gian lên lớp rút ngắn, phần còn lại buộc phải tự tìm hiểu để bổ sung. Chính vì thế, Đoàn Thanh niên thành lập các diễn đàn điện tử để trở thành một cầu nối quan trọng giúp sinh viên dễ dàng trao đổi bài vở cũng như được giải đáp những thắc mắc một cách nhanh chóng. Cách làm đó giúp sinh viên tiết kiệm thời gian, tiếp cận và làm quen với cách thức làm việc hiện đại với sự hỗ trợ của thiết bị công nghệ tiên tiến.
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 268 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL 3.2. Các yếu tố chủ quan Đó là các yếu tố bên trong, quyết định trực tiếp đến hoạt động tự học, bao gồm yếu tố về thể chất và tâm lý của sinh viên: - Ý thức và động cơ tự học của sinh viên - Vốn tri thức hiện có của sinh viên - Năng lực trí tuệ và tư duy - Phương pháp tự học của sinh viên Nhận thức và tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của SV trong đào tạo theo HTTC không chỉ làm thay đổi cách dạy của GV mà còn làm thay đổi cách học của SV. Nếu như trước đây, cách học của SV mang tính chất thụ động, chịu sự áp đặt một chiều, nặng về ghi nhớ máy móc thì cách học hiện nay của SV là tự học, tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Mọi sự đổi mới trong giáo dục có thành công hay không đều phụ thuộc vào người học. Đối với hoạt động tự học của sinh viên trong HTTC càng đòi hỏi ý thức học tập, động cơ và tính tích cực, chủ động. Bản thân SV cũng phải nhận thức được rằng, việc học tập không phải để thi hết học phần mà để phát triển toàn diện nhân cách của chính bản thân mình, để sau này có thể lập thân, lập nghiệp. Từ đó, SV có thái độ, động cơ học tập đúng đắn. 4. Các chiến lược cải thiện hoạt động tự học của sinh viên Từ các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên đã được nêu ở trên, các nhà giáo dục cần xây dựng các chiến lược để cải thiện hoạt động này.   Thứ nhất, nâng cao tính tích cực và phát huy tối đa tác động của các yếu tố khách quan đến việc tổ chức và quản lý hoạt động tự học của sinh viên trongviệc cập nhật xu thế đổi mới trong giáo dục đại học trong học chế tín chỉ vào nhà trường, áp dụng các nội dung và phương thức đào tạo mới trong HCTC chuyển từ đào tạo nặng về truyền thụ, cung cấp kiến thức cho người học sang dạy người học cách học, phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học, tăng cường cải thiện cơ sở vật chất trang thiết bị cho hoạt động tự học của sinh viên đặc biệt về ứng dụng công nghệ thông tin tạo điều kiện cho sinh viên có thể học mọi lúc, mọi nơi; chuẩn bị tâm lý cho phụ huynh để hỗ trợ việc học tập cho con em họ; nâng cao nhận thức, năng lực và đổi mới các phương pháp dạy học của đội ngũ giảng viên; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý trong nhà trường, ảnh hưởng từ các hoạt động của các tổ chức Đoàn, Hội… trong việc quản lý hoạt động tự học của sinh viên trong đào tạo theo HTTC.
  7. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ 269 Thứ hai, nâng cao ý thức học tập và động cơ tự học của sinh viên; Trau dồi vốn tri thức hiện có của sinh viên, rèn luyện và nâng cao năng lực trí tuệ và tư duy; Hướng dẫn và đổi mới các phương pháp tự học sinh viên.Nâng cao khả năng tư duy của sinh viên, năng lực trí tuệ, đặc biệt là khả năng tư duy lôgic, hệ thống, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, biết phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề, tìm ra cái bản chất của nó, không dừng lại ở tư duy miêu tả, học vẹt…Phát triển và hoàn thiện khả năng sử dụng kiến thức, vận dụng kĩ năng, phương pháp phù hợp để giải quyết hiệu quả các vấn đề trong quá trình hoạt động tự học, từ kỹ năng đọc tài liệu đến ghi chép, thu thập và xử lý thông tin,… Rèn luyện và nâng cao những phẩm chất cần thiết cho sinh viên trong hoạt động tự học như: tính chủ động, độc lập, sáng tạo, kiên trì, ham hiểu biết, muốn hiểu đến tận cùng bản chất của vấn đề, làm việc khoa học; ý thức học tập tốt, chăm chỉ, ý chí quyết tâm cao, động cơ học tập đúng đắn, luôn suy nghĩ và hành động theo hướng tích cực. 5. Các giải pháp về tổ chức và quản lý hoạt động tự học của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường đại học Từ những phân tích về các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của sinh viên trong học chế tín chỉ, mà trọng tâm là các yếu tố về tổ chức và quản lý hoạt động tự học cho sinh viên, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của sinh viên trong HCTC tại các trường đại học. 5.1. Nhóm giải pháp từ phía sinh viên Sinh viên là người đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng tự học của mình. Thứ nhất, sinh viên cần có nhận thức đúng, rõ ràng về mục đích, động cơ học tập. Họ phải xác định rõ ràng là học để có tri thức và kỹ năng phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp, hoạt động thực tiễn và cuộc sống sau này; đồng thời học ở bậc đại học, nhất là trong điều kiện đào tạo theo tín chỉ thì tự học là một yêu cầu bắt buộc và đòi hỏi ở mức cao, thiếu nó quá trình học tập khó có thể đạt được kết quả tốt. Từ nhận thức như vậy người học mới có tinh thần tích cực đối với hoạt động tự học và do đó, mới có ý thức thường xuyên nâng cao năng lực tự học của bản thân. Bên cạnh đó, cần phải hình thành thói quen học tập tích cực.Việc hình thành thói quen học tập tích cực là rất quan trọng, nó giúp cho quá trình học tập, đặc biệt là tự học diễn ra liên tục và lâu dài. Để có được một thói quen tự học tốt, sinh viên cần: học có chọn lọc, học có đam mê và học có quá trình. Đặc biệt, sinh viên cần nâng cao năng lực trí tuệ và tư duy, rèn luyện khả năng
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 270 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL tự học. Việc rèn luyện khả năng tự học cũng rất quan trọng đối với việc cải thiện năng lực tự học. Việc này có thể thực hiện theo ba cách: - Nâng cao khả năng tự học thông qua khả năng tiếp thu bài giảng; - Nâng cao khả năng tự học thông qua khả năng hiểu và giải quyết vấn đề; - Nâng cao khả năng tự học thông qua việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Hơn thế nữa cần rèn luyện kỹ năng tự học với các phương pháp học tập hiệu quả. Trước hết, cần nhận thức rõ rằng để có được kỹ năng tự học tốt, sinh viên cần được trang bị và thực hành tốt các phương pháp học tập cần thiết như: phương pháp tìm tài liệu; đọc tài liệu (đọc lướt, đọc kỹ, đọc nhanh); ghi chép (các loại ghi chép: đề cương, trích dẫn, tóm tắt, …cùng với các quy tắc trong ghi chép); nghe giảng; sơ đồ hóa kiến thức; học với giáo trình; học với phương tiện dạy học (các phương tiện nghe, nhìn, tính toán...); học qua việc hỏi và đặt câu hỏi; học qua việc hợp tác với thầy và bạn; học thông qua các xêmina; học trên thư viện; học thông qua nghiên cứu khoa học; học khi đi thực tập, thực tế;... Cùng với đó là các phương pháp ghi nhớ thông tin, diễn đạt ý kiến, viết các đoạn văn khoa học; các phương pháp tự kiểm tra, đánh giá;... Đồng thời, sinh viên cũng cần được trang bị và thực hiện tốt các kỹ năng bổ trợ như kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giải quyết vấn đề… Cuối cùng, sinh viên cần có khả năng lập kế hoạch học tập hợp lý, phân bổ và quản lý thời gian hợp lý, khoa học, hiệu quả cho công việc học tập bên cạnh các hoạt động cá nhân cũng như kết hợp với thư giãn tinh thần; thường xuyên luyện tập cơ thể, thực hiện lối sống lành mạnh, tích cực. 5.2. Nhóm giải pháp từ phía giảng viên  Giảng viên là nhân tố rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới việc hình thành, tổ chức và phát triển năng lực tự học của sinh viên. Vì thế, nhóm giải pháp này đề cập những nội dung làm tăng hiệu quả quá trình tương tác giữa thầy và trò, nhờ đó giảng viên không chỉ mang đến cho sinh viên kiến thức mà còn cả động lực và phương pháp phù hợp để họ học hỏi và áp dụng trong quá trình nâng cao năng lực tự học của bản thân.  Một là, kiến thức là yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình tương tác giữa thầy và trò. Do đó, giảng viên phải thường xuyên nâng cao chất lượng bài giảng, thể hiện ở nội dung học thuật và tính cập nhật của kiến thức chuyên môn cũng như thực tiễn. Hai là, áp dụng tốt các phương pháp giảng dạy tích cực, phù hợp với đặc thù môn học và khai thác có hiệu quả các phương tiện giảng dạy hiện đại, phải sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp như: thuyết trình, nêu vấn đề, gợi mở, tạo tình huống, người học cùng tham gia,… để người học suy nghĩ, tự lý giải, tự liên hệ, vận dụng
  9. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ 271 vào thực tiễn, qua đó tạo hiệu ứng tốt cho lớp học và năng lực tự học của sinh viên cũng được trực tiếp bồi đắp. Giảng viên cần nhận thức rõ rằng, dù áp dụng phương pháp giảng dạy nào thì cũng phải nhằm đạt được mục tiêu là giúp cho người học dễ hiểu bài, nắm được bản chất của vấn đề và đặc biệt là kích thích được tư duy sáng tạo, tính tích cực và năng lực tự học của họ. Ngoài ra, cần tăng cường dạy sinh viên cách học, có cách dạy để sinh viên buộc phải tích cực tự học và kiểm tra sát sao việc tự học của sinh viên. Ba là, tăng cường tổ chức cho sinh viên thảo luận, đảm bảo đủ thời lượng theo qui định. Đây là một hình thức dạy và học tích cực thông qua trao đổi, chất vấn, đối thoại giữa giảng viên với sinh viên, giữa sinh viên với sinh viên, qua đó giúp sinh viên nắm kiến thức lý thuyết và thực tiễn của môn học tốt hơn, nhất là buộc sinh viên phải tăng cường hoạt động tự học, tự nghiên cứu để phục vụ cho việc thảo luận. Trong thảo luận, thuyết trình, giảng viên cần khuyến khích chất vấn, tranh luận, lôi cuốn sự tham gia đông đảo của sinh viên; có nhận xét, đánh giá tinh thần làm việc, chất lượng bài thảo luận, thuyết trình; khích lệ, động viên đúng mức, tạo động lực cho sinh viên. Bốn là, tích cực hướng dẫn sinh viên viết tiểu luận môn học, làm các bài tập lớn. Hình thức này có tác dụng giúp sinh viên làm quen với nghiên cứu khoa học, hiểu sâu hơn những vấn đề cơ bản của môn học, bước đầu biết gắn lý luận với thực tiễn, góp phần rèn luyện kỹ năng viết của sinh viên, qua đó góp phần nâng cao năng lực tự học.  Năm là, thông qua hoạt động giảng dạy, giảng viên cần làm cho sinh viên có nhận thức đúng về vai trò to lớn của hoạt động tự học, tự nghiên cứu và truyền đam mê cho họ. Đồng thời, chủ động và tích cực hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu, đây là một nhiệm vụ mà giảng viên phải thực hiện khi áp dụng đào tạo theo tín chỉ. Theo đó, khi đánh giá bài thi, bài kiểm tra của sinh viên, không dừng lại ở việc xem xét mức độ thuộc bài của người học, mà phải nhìn nhận và đánh giá cao sự hiểu biết bản chất vấn đề, năng lực tư duy và khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nhất là những kiến thức mà người học có được nhờ việc tự học, tự nghiên cứu. 4. 3. Nhóm giải pháp từ phía Nhà trường, Đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội khác Đối với Nhà trường, trước hết cần tiếp tục hoàn thiện phương thức đào tạo theo tín chỉ; tổ chức những hội thảo khoa học, những buổi tọa đàm, trao đổi xoay quanh vấn đề nâng cao năng lực tự học của sinh viên, qua đó giúp sinh viên có thể học hỏi được những phương pháp và kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình tự học của bản thân. Giảm tải các thủ tục hành chính, áp dụng chính sách 1 cửa vào
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 272 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL quản lý sinh viên, đồng thời, tiếp tục hoàn thiện và phát triển cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ học tập cho sinh viên trong học chế tín chỉ, đặc biệt ứng dụng công nghệ thông tin trong hỗ trợ học tập cho sinh viên như hệ thống học trực tuyến cả về nội dung và hình thức, bảo đảm tính chính xác, hệ thống, lôgic, phong phú và cập nhật; nâng cao tính tiếp cận của website E-learning, tức là biến việc học trực tuyến trở thành phổ cập như học trên lớp. Để thu hút nhiều sinh viên hơn tham gia vào website, phát huy được tính tự học, tự nghiên cứu của họ. Mặt khác, tăng cường hỗ trợ sinh viên về nguồn sách vở, tài liệu học tập bằng cách tiếp tục phát triển hệ thống thư viện đọc và thư viện online với nguồn tài liệu phong phú và cập nhật, khai thác thuận tiện và dễ dàng, đáp ứng được nhu cầu học tập của sinh viên. Cùng với đó, hỗ trợ sinh viên về mặt cơ sở vật chất, trang thiết bị, môi trường học tập thông qua việc tiếp tục mở rộng không gian tự học (phòng đọc, phòng tự học,…) với môi trường yên tĩnh, tiện nghi và học thuật cần thiết; nâng cấp hệ thống trang thiết bị, bảo đảm hệ thống wifi, phòng máy dành cho tra cứu trực tuyến. Ngoài ra, có các chính sách, hoạt động cổ vũ phong trào tự học trong sinh viên, động viên, khen thưởng những tấm gương tự học. Tất cả những điều này sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, thu hút họ đến với không gian học tập, nghiên cứu của Nhà trường nhiều hơn, qua đó góp phần nâng cao năng lực tự học của sinh viên. Đối với Đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội khác - những tổ chức gần gũi và có ảnh hưởng khá lớn đến sinh viên trong trường, trước hết cần quan tâm giúp sinh viên có được những nhận thức đúng đắn về mục đích học tập, về sự cần thiết phải tăng cường tự học ở bậc đại học, về những tác động nhiều mặt của môi trường xung quanh đến sinh viên khi phần đông họ phải sống tự lập, xa gia đình. Đồng thời, bằng hoạt động của mình, Đoàn và các tổ chức xã hội với sự tham gia của các câu lạc bộ vừa về chuyên môn vừa về nghệ thuật, hoàn toàn có thể khai thác ưu thế này để triển khai các biện pháp khuyến khích tinh thần tự học trong sinh viên và nâng cao năng lực tự học của họ. Cùng với đó, tạo ra sân chơi, môi trường, kể cả môi trường cạnh tranh (cạnh tranh cá nhân, cạnh tranh nhóm trong lớp hoặc trong câu lạc bộ, hay rộng hơn là toàn trường,...) để sinh viên học tập, rèn luyện, góp phần nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu. Ví như: phát động phong trào tự học trong sinh viên; thành lập các nhóm bạn cùng tiến và thi đua với nhau để kích thích quá trình tương tác, tự học có hiệu quả hơn và trở thành một thói quen tốt trong sinh viên; các câu lạc bộ tích cực tổ chức các cuộc thi chuyên môn. Những hoạt động này không chỉ giúp sinh viên mở mang kiến thức và rèn luyện kỹ năng mà còn kích thích họ có thêm hứng thú và động lực đối với hoạt động tự học, tự nghiên cứu.
  11. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN TRONG HỌC CHẾ TÍN CHỈ 273 Kết luận Trong đào tạo theo học chế tín chỉ, hoạt động tự học của sinh viên là một đòi hỏi thiết yếu, có vai trò đặc biệt quan trọng. Kết quả và hiệu quả của hoạt động tự học phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố chủ quan và khách quan liên quan đến bản thân người học, gia đình, nhà trường, các tổ chức đoàn thể và xã hội. Để nâng cao chất lượng hoạt động tự học của sinh viên trong học chế tín chỉ, cần thực hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp trong việc tổ chức và quản lý hoạt động này, từ phía bản thân sinh viên đến phía giảng viên, Nhà trường, Đoàn thanh niên, gia đình và xã hội, trong đó bản thân sinh viên giữ vai trò quyết định. Tài liệu tham khảo 1. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 3. Phạm Minh Hạc (2002), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá; Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Đặng Xuân Hải (2007), “Tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của giảng viên và của sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ”, Tạp chí Giáo dục, số 15/ 10-2007, tr.5-7. 5. Đặng Xuân Hải (2011), Vận dụng lý thuyết quản lý sự thay đổi để chỉ đạo quá trình chuyển đổi từ niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ, Đề tài NCKH cấp đặc biệt ĐHQGHN. 6. Nguyễn Mai Hương (2013), Quản lý quá trình dạy và học theo học chế tín chỉ trong các trường đại học ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, Sách chuyên khảo, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 7. Lê Hoàng Việt Lâm (2010), Hội thảo “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học và co đẳng Việt Nam”, Ban Liên lạc các trường ĐH&CĐ Việt Nam (tr.188-201)
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 274 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL 8. Lâm Quang Thiệp (2008), “Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Trường Đại học Vinh 9. Eli Mazur & Phạm Thị Ly (2006) “Hệ thống đào tạo theo tín chỉ Mỹ và những gợi ý cho cải cách giáo dục đại học Việt Nam” (tr.89). 10. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên), Nguyễn Văn Lũy, Đinh Văn Vang (2007), Tâm lý học đại cương, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội 11. Vygotsky S.L.(2004). Imagination and Creativity in Childhood, Journal of Russian and East European Psychology, vol. 42, no. 1, January–February 2004, pp. 7–97, M.E. Sharpe, Inc. 12. Dominique Rabine-Bucknor (2010), Adult Teaching and Learning: Self Directed Learning, Application Paper, Colorado State University.
  13. 275 FACTORS INFLUENCEING SELF- STUDY ACTIVITIES OF THE STUDENTS IN CREDIT SYSTEM IN HIGHER EDUCATION Ha Thi Thanh Thuy, PhD student1 Abstract: Credit-based training is an advanced form of training which is highly effective for both students and teachers. The basic and important requirement for students in credit system is self-study. Self-study activities is very important for students in the teaching environment, because without self-study, students can not complete the task of learning under the motto “turn the training process into self-training process”. There are many factors that influence the quality of students’ self-study, such as their competencies, motivation for studying, self-study methods, teaching methods, conditions of school facilities, and factors related to organization and management of training for students in higher education. Within the framework of this article, the author focuses only on the overview of the study of analysis of the role of organizational factors and the management of self-study activities for students to improve the quality of training in higher education. Keywords: Self-study, credit system, higher education 1 VNU, University of Education; Email: thuyhtt@vnu.edu.vn; Tel: 0974348680.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2