
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH VI TIẾT KIỆM
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC VIỆT NAM
Lê Văn Hinh1,*, Nguyễn Tường Vân1
Tóm tắt: Mục đích của bài viết này nhằm phát hiện những nhân tố ảnh hưởng
đến hành vi tiết kiệm của sinh viên đại học ở Việt Nam. Dữ liệu cho phân tích
gồm 1.158 phản hồi của sinh viên từ các trường đại học. Kết quả hồi quy Binary
Logistic cho thấy có 5 yếu tố tác động có ý nghĩa thống kê đến hành vi tiết kiệm
của sinh viên (bao gồm: hành vi tài chính, tự kiểm soát cá nhân, bài học tài chính
ở đại học, tình trạng hôn nhân và thói quen nghề nghiệp của cha mẹ). Các kết
quả nghiên cứu thực nghiệm này, với đối tượng diện rộng sinh viên ở Việt Nam,
khẳng định thêm các kết quả nghiên cứu ở nước ngoài; cũng như bổ sung cho
một số nghiên cứu đã thực hiện ở Việt Nam với quy mô mẫu nhỏ và phạm vi
nghiên cứu khá hẹp. Các phát hiện này sẽ có hàm ý cho các bậc cha mẹ, các
nhà quản lý giáo dục cũng như các nhà lập chính sách liên quan hay cho cá nhân
mỗi sinh viên.
Từ khóa: Hành vi tiết kiệm, tác nhân xã hội hóa tài chính, tự kiểm soát, trình độ
dân trí tài chính.
1. GIỚI THIỆU
Các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng các yếu tố ảnh hưởng
đến tiết kiệm cá nhân (saving behavior) ở giới trẻ gồm năng lực quản
lý tài chính cá nhân (financial capability) - cũng được gọi là dân trí tài
chính (financial literacy) (WB, 2013), các tác nhân xã hội hóa tài chính
(financial socialization agents), tự kiểm soát (self-control), hành vi tài
chính. Tuy nhiên, người ta vẫn cho rằng cần có thêm nhiều khám phá
hơn nữa về mối quan hệ giữa các yếu tố quyết định đến hành vi tiết
kiệm để hạn chế tình trạng chi tiêu quá mức, nợ nần hay thậm chí phá
sản ở giới trẻ (Kassim, Tamsir, Azim, Mohamed, & Nordin, 2018).
1 Học viện Ngân hàng
* Tác giả liên hệ. Email: lehinhsbv@gmail.com

534
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH...
Các quan sát cho thấy, hầu hết sinh viên ở mọi nơi trên thế giới rất
dễ bị lâm vào trình trạng mất khả năng chi trả do tích lũy đáng kể nợ vay
ngân hàng và qua thẻ tín dụng (Kassim et al., 2018). Nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng sinh viên thường chi tiêu rất ngẫu hứng và dẫn đến vấn đề
tài chính. Trong khi đó, sinh viên được coi là giai đoạn bắt đầu cho cuộc
sống tự lập và do đó cần có các kỹ năng quản lý tài chính cho việc ra
các quyết định một cách đúng đắn (Kempson, Collard, & Moore, 2006);
Hành vi tiết kiệm của sinh viên cũng được coi là rất quan trọng với đời
sống hiện tại và tương lai của họ (Cochran, Aleksa, & Sander, 2008).
Ở Việt Nam, khảo sát sơ bộ cho thấy số lượng nghiên cứu về hành
vi tiết kiệm của sinh viên là rất khiêm tốn và trong phạm vi đối tượng
chỉ là một trường đại học hay trong một thành phố (Hải, Trinh, Trang,
Toản, & Yên, 2021; Hậu, Nghiêm, & Anh, 2019; Khánh & Tâm, 2018;
Tran, 2016). Trong khi sinh viên cũng đang phải đối mặt với thách thức
về tiết kiệm trong điều kiện khó khăn (Anh, 2012).Trên phạm vi rộng
hơn, thanh niên, sinh viên Việt Nam được đánh giá là còn hạn chế về
năng lực quản lý tài chính cá nhân (Cunningham & Pimhidzai, 2018).
Trong bối cảnh trên, nghiên cứu này nhằm khám phá các yếu tố
ảnh hưởng đến hành vi tiết kiệm của sinh viên hiện đang học tại các
trường đại học ở Việt Nam và qua đó có một số hàm ý liên quan.
2. KHÁI QUÁT VỀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến hành vi tiết kiệm của sinh
viên, có thể theo các vấn đề đã được Xiao (Xiao, 2016) mô phỏng. Tổng
quan các nghiên cứu có thể khái quát như sau:
2.1. Tiết kiệm và hành vi tiết kiệm
Các nghiên cứu cho thấy thuật ngữ “tiết kiệm” (saving) có nghĩa
rộng và nhiều cách hiểu khác nhau. Theo kinh tế học, tiết kiệm được
định nghĩa là thu nhập còn lại sau khi trừ đi tiêu dùng hiện tại trong
một khoảng thời gian nhất định (Browning & Lusardi, 1996; Wärneryd,
1999). Theo tâm lý học, tiết kiệm được coi là hành động trì hoãn chi tiêu
hiện tại để sử dụng trong tương lai (Wärneryd, 1999).

535
Phần 3. TÀI CHÍNH
Một cá nhân tiết kiệm có thể vì lý do an ninh, dự phòng, thậm chí
là giá trị cá nhân hoặc đặc điểm cá nhân. Theo Keynes (Keynes, 1936),
các mục đích tiết kiệm là tương đối ổn định và mỗi cá nhân thường có
tám mục đích tiết kiệm: nhu cầu phòng ngừa, tầm nhìn xa, tính toán, cải
tiến, độc lập, doanh nghiệp, tự hào và hám lợi. Tiết kiệm gắn liền với
các mục đích của mỗi cá nhân như vậy được các nhà kinh tế học gọi là
“hành vi tiết kiệm” (saving behavior). Hành vi tiết kiệm được coi là sự
kết hợp giữa nhận thức về nhu cầu trong tương lai, quyết định tiết kiệm
và hành động tiết kiệm. Tiết kiệm được thể hiện dưới rất nhiều hành
động cụ thể (Khoshnevis & Shafiee, 2017; Wärneryd, 1999; Yumurtaci
& Bagis, 2020).
*Tiết kiệm và hành vi tiết kiệm của sinh viên
Nghiên cứu của Khoshnevis và Shafiee (Khoshnevis & Shafiee,
2017) chỉ ra rằng thu nhập hiện tại tương quan có ý nghĩa thống kê với
tỷ lệ tiết kiệm nói chung của sinh viên. Ngoài ra, khi xét tiết kiệm là các
dạng đầu tư vào các công cụ tài chính có tính đầu cơ thì chuyên ngành
học của sinh viên tương quan có ý nghĩa thống kê với tiết kiệm. Đáng
chú ý là điều này đúng với sinh viên ở bất kỳ chuyên ngành học nào.
Trong đó, tác động mạnh nhất của ngành học đến hành vi tiết kiệm thể
hiện ở sinh viên kỹ thuật và khối kinh tế. Cũng với điều kiện coi công
cụ tài chính là tiết kiệm, nghiên cứu cũng chỉ ra tác động tích cực giữa
mức độ tìm hiểu tin tức tài chính (đại diện cho các tác nhân xã hội hóa
tài chính) với tiết kiệm (Khoshnevis & Shafiee, 2017).
Yumurtaci và Bagis (Yumurtaci & Bagis, 2020) chỉ ra rằng, với
tiền tiết kiệm cá nhân của mình, sinh viên thiên về lựa chọn đầu tư vào
vàng và bất động sản.
Từ lý thuyết tiêu dùng, tiết kiệm và liên quan đến sử dụng nguồn
vốn con người (những năng lực về quản lý tài chính cá nhân), nghiên
cứu đã chỉ rằng những sinh viên theo ngành học được kỳ vọng tạo ra
thu nhập cao trong tương lai sẽ tiết kiệm ít hơn ngày hôm nay so với các
sinh viên trong ngành học có khả năng tạo ra thu nhập thấp hơn trong
tương lai (Khoshnevis & Shafiee, 2017).

536
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH...
2.2. Trình độ dân trí tài chính và tiết kiệm
Thuật ngữ “dân trí tài chính” (financial literacy) được đề cập đến là
một đại lượng đo lường mức độ mà một cá nhân hiểu biết các khái niệm cơ
bản về tài chính và có khả năng cùng sự tự tin để quản lý tài chính cá nhân
thông qua việc ra các quyết định hợp lý trong ngắn hạn một cách có cơ sở,
lập kế hoạch tài chính dài hạn, đồng thời sống có trách nhiệm hay quan tâm
tới cuộc sống và các thay đổi về điều kiện kinh tế (Coussens, 2006; OECD,
2012, 2013, 2016; OECD/INF, 2013; Remund, 2010).
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng dân trí tài chính
(trình độ) có tác động tích cực đến hành vi tiết kiệm cá nhân nói chung
và cả sinh viên đại học (Sabri & MacDonald, 2010). Giải thích cho kết
quả thực nghiệm này là trình độ dân trí tài chính cao giúp cá nhân ra
quyết định đầu tư tốt hơn, tiết kiệm các loại phí và chi phí giao dịch,
tăng lợi nhuận đầu tư tài chính; dân trí tài chính là công cụ để cá nhân
để quản lý, vận hành tài chính thành công, gia tăng phúc lợi kinh tế, tài
chính cá nhân (Anthes & Bruce, 2004; Beverly & Burkhalter, 2005;
Garman & Forgue, 2006; Lusardi, Mitchell, & Curto, 2009; Martin &
Oliva, 2001). Nhiều khuyến nghị cho rằng cần trang bị dân trí tài chính
cho giới trẻ, giai đoạn đầu của cuộc đời của cá nhân. Đặc biệt Jappenly
và Padula (Jappenly & Padula, 2011) đã chỉ ra rằng trình độ dân trí tài
chính tác động đến tiết kiệm không chỉ của mỗi cá nhân và rộng hơn là
tác động mạnh đến tích lũy của cải và tiết kiệm của một quốc gia.
Lý thuyết về tiêu dùng (Consumption Theories) (Friedman, 1957)
cũng có thể nhận thấy mối liên quan chặt chẽ giữa trình độ dân trí tài
chính của và tiết kiệm của một cá nhân vì quan điểm này liên quan
đến tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng cá nhân. Lý thuyết này về cơ bản
cũng thống nhất với “Giả thuyết vòng đời” (The life-cycle hypothesis)
(Modigliani & Brumberg, 1955). Các lý thuyết này cho thấy rõ sự liên
quan giữa tiêu dùng (consumption) và tiết kiệm (savings) trong một đời
người. Trong đó tiết kiệm có vai trò phân bổ lại tiêu dùng từ giai đoạn
này sang giai đoạn khác trong cuộc đời mỗi cá nhân. Tiêu dùng phụ
thuộc vào các yếu tố: thu nhập khả dụng hiện tại, thu nhập khả dụng
trong tương lai dự kiến và tài sản hiện tại (của cải tích lũy).

537
Phần 3. TÀI CHÍNH
Theo quan điểm vòng đời, khi nghỉ hưu người ta bắt đầu sử dụng
khoản tiết kiệm đã thực hiện trước đó, tức là sống bằng của cải đã tích
lũy. Nguyên lý này gợi ý rằng cá nhân cần có trách nhiệm với tương
lai của chính mình bằng việc xây dựng thói quen tiết kiệm từ khi còn
trẻ (Khoshnevis & Shafiee, 2017). Các nhà nghiên cứu (Jappenly &
Padula, 2011) cho rằng trình độ dân trí tài chính có mối tương quan
mạnh với tiết kiệm tích lũy trong vòng đời, tăng lên cho đến khi nghỉ
hưu và sau đó giảm dần trong mô hình vòng đời của họ.
Trình độ dân trí tài chính của một cá nhân cũng được coi là do học
hỏi từ cha mẹ, người thân và các quan hệ xã hội (Senevirathne, Wadk,
& Silva, 2016). Do đó, dân trí tài chính có tương quan với nền tảng của
cha mẹ, trường học cũng như các quan hệ kinh tế - xã hội khác mà cá
nhân tham gia hay tương tác.
2.3. Hành vi tài chính và tiết kiệm
Theo Dewi và cộng sự (Dewi, Febrian, Anwar, & Nidar, 2020),
hành vi tài chính (financial behavior) là hành vi có trách nhiệm về tài
chính của cá nhân. Sự cần thiết phải đảm bảo trình độ dân trí tài chính
đã trở nên cấp thiết vì hành vi có trách nhiệm về tài chính là cần thiết
để định hình tương lai của mỗi con người. Các nghiên cứu phát triển
các đại lượng đo lường hành vi tài chính được thực hiện từ những năm
1970 đến những năm 1990 (Fitzsimmons, Hira, Bauer, & Hafstrom,
1993). Đặc biệt tiếp theo, Xiao (Xiao, 2008) đã phát triển lý thuyết về
hành vi tài chính gắn với (i) lý thuyết về hành vi có kế hoạch (theory
of planned behavior/TPB) để dự đoán và hiểu hành vi của con người
và (ii) lý thuyết mô hình thay đổi hành vi (Trans-theoretical model of
behavior change/TTM) để giải thích một người đạt được hành vi tích
cực và thay đổi hành vi tiêu cực.
Bằng chứng thực nghiệm đã chỉ ra rằng dân trí tài chính tác động
có ý nghĩa thống kê đến hành vi tài chính, cụ thể là hành vi đầu tư
(Bhushan & Medury, 2014; Hastings, Mitchell, & Mitchell, 2020; M.
C. J. V. Rooij, Lusardi, & Alessie, 2012). Hành vi tài chính đó cũng tác
động đến hành vi tiết kiệm và chi tiêu cá nhân (Babiarz & Robb, 2012);
và hành vi vay nợ (Dewi et al., 2020).

