TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012<br />
<br />
CẢM QUAN VĂN HÓA VÀ TÔN GIÁO TRONG TIỂU THUYẾT<br />
TÌNH YÊU THỜI THỔ TẢ CỦA G.G.MARQUEZ<br />
Phan Tuấn Anh<br />
Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế<br />
<br />
Tóm tắt. Việc giải mã những diễn ngôn văn học không đơn thuần là việc khảo cứu<br />
nội văn bản, dựa trên tính tự trị của những hình tượng văn học. Đối với những tiểu<br />
thuyết được trải dài theo thời gian lịch sử biên niên và không gian địa lý, văn hóa<br />
như Tình yêu thời thổ tả của G.G.Marquez, một cách tiếp cận liên ngành và liên văn<br />
bản sẽ góp phần giải quyết được nhiều hơn những vấn đề thuộc về cảm thức ám thị<br />
văn hóa, cũng như đặc trưng tư tưởng và tín ngưỡng của các nhân vật. Trong tác<br />
phẩm này, nổi lên hai vấn đề cơ bản mang tính chất tộc loại tại Mỹ Latinh đã ám<br />
thị trong vô thức tập thể của các nhân vật, đó là cảm thức về thân phận văn hóa lai<br />
và cảm thức về đạo đức và vai trò của Kyto giáo. Chính từ việc làm rõ các cảm<br />
thức này trong thân phận hậu thực dân của Mỹ Latinh, chúng ta sẽ mở ra những ẩn<br />
ngữ trong diễn ngôn tình yêu trong Tình yêu thời thổ tả - “một trong những cuốn<br />
tiểu thuyết hay nhất ngợi ca về tình yêu mà con người có thể viết nên”.<br />
<br />
1. Đặc trưng nền văn hóa lai thời hậu thực dân<br />
Bên cạnh Trăm năm cô đơn (1967), tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả (1985) là<br />
thành tựu lớn nhất đã góp phần vinh danh G.G.Marquez trở thành một trong những bậc<br />
thầy văn chương của thế kỷ XX. Đọc Tình yêu thời thổ tả của nhà văn người Colombia<br />
(giải Nobel văn chương năm 1982), trong diễn ngôn tình yêu, chúng ta vẫn có thể nhận<br />
ra những đặc trưng của một nền văn hóa lai thời hậu thực dân. Do đó, thông qua đọc<br />
văn bản văn học, người đọc có thể đến với việc đọc văn hóa và đọc lịch sử. Ngược lại,<br />
có thể dùng cách đọc văn hóa và đọc lịch sử nhằm giải mã nghệ thuật một văn bản văn<br />
học. Như chúng ta đều biết, lịch sử văn hóa Mỹ Latinh là quá trình hỗn chủng, lai tạp tất<br />
cả các nền văn hóa lớn trên thế giới. Có thể tạm hình dung một thực thể bao gồm các<br />
thành phần văn hóa như sau:<br />
STT<br />
1<br />
<br />
Chủ thể<br />
<br />
Châu lục xuất<br />
thân<br />
<br />
Thời gian<br />
xuất hiện<br />
<br />
Thân phận tại Mỹ<br />
Latinh hậu thực<br />
dân<br />
<br />
Người Indian bản Gốc gác là từ 21.000 năm Tuyệt chủng, thiểu<br />
xứ (da đỏ) - chủng châu Á di cư sang, trước công số, lạc hậu, bị trị<br />
7<br />
<br />
tộc Mongoloid (da rồi từ Bắc Mỹ nguyên<br />
vàng)<br />
hành trình xuống<br />
Mỹ Latinh<br />
2<br />
<br />
Châu Âu<br />
<br />
Chính thức Cai trị, lãnh đạo,<br />
từ 1492, với độc tài, chủ thể của<br />
cuộc<br />
thám nền văn hóa<br />
hiểm<br />
của<br />
Columbus<br />
<br />
Châu Phi<br />
<br />
(Nêgrôit)<br />
<br />
Khoảng đầu Nô lệ, bị trị, lạc<br />
thế kỷ XVI<br />
hậu, công dân hạng<br />
hai<br />
<br />
4<br />
<br />
Người da vàng Châu Á<br />
(Mongoloid) nhập<br />
cư (chủ yếu là người<br />
Hoa,<br />
người<br />
Indonesia,<br />
người<br />
Đông Ấn, Lebanon,<br />
Syrie)<br />
<br />
Khoảng từ Công dân hạng hai,<br />
thế kỷ XVIII, làm thuê<br />
tại vùng đồn<br />
điền<br />
Caribean, sau<br />
các cuộc giải<br />
phóng nô lệ<br />
<br />
5<br />
<br />
Người lai (giữa các Phụ thuộc vào Từ thế kỉ XV Công dân hạng hai<br />
chủng người thuần nguồn gốc cha mẹ trở đi<br />
chủng có trước)<br />
<br />
Người da trắng<br />
(Ơrôpêôit) (tại Mỹ<br />
Latinh chủ yếu là<br />
người Tây Ban Nha<br />
và Bồ Đào Nha)<br />
<br />
3<br />
<br />
Người da đen<br />
<br />
Trong các chủng tộc nói trên, trong thời hậu thực dân, người lai chiếm đa số,<br />
chiếm gần 60% dân số, người da trắng xấp xỉ 30%, người da đen khoảng 10% và một ít<br />
người da đỏ bản xứ còn sót lại cùng người da vàng nhập cư. Như vậy, cơ cấu nền văn<br />
hóa ở Mỹ Latinh là một sự hỗn chủng nhiều nhóm chủng tộc, nhiều truyền thống và bản<br />
sắc văn hóa, tôn giáo, phương thức sản xuất. Trong đó, người da đỏ bản xứ vốn là chủ<br />
nhân ban đầu lại bị tuyệt diệt gần hết bởi quá trình thực dân hóa. Người da trắng dù<br />
chiếm tỷ lệ không quá đông nhưng lại nắm gần như mọi quyền lợi cơ bản trong xã hội.<br />
Người da đen ngày nay dù đã được tự do nhưng vẫn bị lạc hậu. Người lai là chủ thể đa<br />
số của nền văn hóa Mỹ Latinh thời hậu thực dân, mang đặc trưng lớn nhất của nền văn<br />
hóa này, nhưng vẫn chưa thực sự thoát khỏi định kiến là công dân hạng hai. “Đến giữa<br />
thế kỷ XVIII, quá trình hợp hôn giữa người da trắng và người da đen làm xuất hiện tầng<br />
lớp người lai. Thế nhưng chỉ người da trắng mới có quyền công dân đầy đủ” [9, 101].<br />
Bởi vì, trong quan niệm của xã hội, đối với người lai, nếu mang hai dòng máu khác biệt<br />
về đẳng cấp trong mình, thì thân phận một cá nhân sẽ thuộc về dòng máu “hạ đẳng” hơn.<br />
Trong đó, xét về nội thể nền văn hóa bản địa của Mỹ Latinh, tức nền văn hóa<br />
của người Indian (da đỏ) bản xứ, đây là một nền văn hóa phong phú, nhiều nét tín<br />
8<br />
<br />
ngưỡng đa thần, huyền thoại, kỳ ảo đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Mỹ Latinh thời<br />
hậu thực dân sau này. Ngày nay, do sự diệt vong gần như đa số của người da đỏ ở Mỹ<br />
Latinh, nền văn hóa Indian chỉ là những vọng động, cảm thức, chứ không còn giữ được<br />
vai trò chủ đạo ngay trên vùng đất quê hương của nó, cho dù người da đỏ đã chủ động<br />
rút lui khỏi quá trình công nghiệp hóa, nhằm bảo vệ nền văn hóa riêng của mình. Quá<br />
trình thực dân hóa Mỹ Latinh cũng đồng thời là quá trình diệt chủng người Indian bản<br />
xứ, hoặc đồng hóa về mặt văn hóa, thông qua quyền lực của quá trình cưỡng đạo người<br />
da đỏ theo Kyto giáo do người da trắng tiến hành.<br />
Xét về ngoại thể nền văn hóa bản địa Mỹ Latinh, tức các nền văn hóa “nhập cư”<br />
của người da trắng thực dân, người da đen nô lệ, người da vàng làm thuê và tiểu thương,<br />
có thể nhận định đây chính là nhân tố chính cấu trúc nên văn hóa Mỹ Latinh thời hậu thực<br />
dân. Các diễn ngôn văn hóa “nhập cư” dần hòa quyện với văn hóa của người Indian bản<br />
địa, tạo thành một hỗn chủng văn hóa phong phú. Người da đen mang đến cho văn hóa<br />
Mỹ Latinh những giá trị tâm linh, cổ mẫu nguyên thủy, sự đam mê các điệu nhảy, tính<br />
phồn thực, nền tảng gia đình… Người da trắng mang đến truyền thống văn hóa phương<br />
Tây với nghệ thuật hiện đại, văn hóa Kyto giáo, truyền thống khoa học và duy lý. Người<br />
da vàng nhập cư mang đến những truyện kể phương Đông, tính duy cảm, cùng các sản<br />
phẩm lụa, gốm, sứ… Chính sự hòa quyện giữa tính khoa học, duy lý của người phương<br />
Tây (đề cao hiện thực), với tính tâm linh của người da đen, tín ngưỡng đa thần, đam mê<br />
huyền thoại (đề cao huyền ảo) của người da đỏ đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa hiện thực<br />
huyền ảo ra đời ở chính Mỹ Latinh chứ không phải bất kỳ vùng đất nào khác.<br />
Nhưng bản thân nội vùng văn hóa từng chủng tộc cũng có những mâu thuẫn và<br />
xung đột, chứ không thuần nhất và ổn định. Người da trắng thì mâu thuẫn giữa nguồn<br />
gốc Tây Ban Nha với Bồ Đào Nha (và một số đế quốc châu Âu khác), giữa người da<br />
trắng Âu châu di cư với người da trắng sinh ra tại Mỹ Latinh. Người da đỏ thì liên tục<br />
diễn ra các cuộc chiến tranh và tiêu diệt lẫn nhau, dưới sự chỉ huy và xúi giục của những<br />
nhóm thực dân mà họ chịu ảnh hưởng. Người da đen cũng mâu thuẫn dựa trên nguồn<br />
gốc xuất thân của họ ở Phi châu. Chính vì vậy, thực thể văn hóa Mỹ Latinh là một bức<br />
tranh đa khảm đầy bất định, phong phú, đa dạng nhưng cũng phức tạp và đầy mâu thuẫn.<br />
Đi từ cách đọc lịch sử trên, chúng ta sẽ phần nào giải mã được một số mã văn<br />
hóa trong diễn ngôn tình yêu của tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả. Trước tiên, tại sao một<br />
nhân vật đạo mạo, đứng đắn, có địa vị cao và rất yêu vợ như bác sĩ J.Urbino cuối cùng<br />
lại phản bội vợ mình bởi một người con gái lai đen? Tại sao cô gái mang lại cho F.Ariza<br />
nhiều cảm xúc nhất từ khi F.Daza ra đi, dù chưa một lần cô quan hệ tình dục với ông, lại<br />
là Leona Casiani, một người phụ nữ mà trong lần gặp đầu tiên đã đưa lại cảm giác: “trơ<br />
trẽn đến mức anh chỉ có thể nghĩ rằng cô ta là người da đen” [5, 286-287]. Ngay trong<br />
tự truyện Sống để kể lại của mình, mối tình với M.Fonseca đã dẫn đến lần ân ái ghi sâu<br />
trong kí ức của G.G.Marquez là một phụ nữ “có nét người lai da nâu” [3, 227]. Mối tình<br />
9<br />
<br />
đeo đẳng trong lòng tướng quân Bolivar trong tiểu thuyết Tướng quân giữa mê hồn trận,<br />
ngay cả khi ngài sốt thập tử nhất sinh, là một người con gái mang tên Rayna Maria<br />
Luisa: “Đó là một cô gái lai đen rất đẹp, đang ở tuổi dậy thì…” [6, 59]. Qua một số dẫn<br />
chứng như trên, chúng ta có thể rút ra một nhận định đầu tiên: những cô gái lai, mà đặc<br />
biệt là lai da đen với da trắng (da nâu), luôn có một sức hút giới tính mãnh liệt trong<br />
sáng tác của G.G.Marquez. Nhưng tại sao lại là lai da đen chứ không phải da đen, hoặc<br />
lai với người da đỏ, hoặc với người da vàng nhập cư?<br />
Trong văn hóa Mỹ Latinh, do thân phận nô lệ thấp kém của mình trong thời kì<br />
đầu, người da đen luôn bị xem là chủng tộc nặng về tính bản năng, mà ít được đánh giá<br />
dựa trên tiêu chí tinh thần, trí tuệ hay đạo đức. Đọc lại các tác phẩm của Marquez,<br />
chúng ta có thể nhận ra thân phận thấp kém này của người da đen hoặc người lai đen:<br />
- Tình yêu thời thổ tả:<br />
+ “Hình ảnh rực rỡ của một người phụ nữ da đen dữ dằn đội lốt con vật thân<br />
hình bê bết bùn cứt và tình yêu” [5, 295].<br />
+ “Những ngày thứ bảy, đám dân lai đen ồn ào rời bỏ những túp lều thưng che<br />
bằng giấy các tông… họ nhảy như điên dại, họ say cho đến chết… họ ân ái với nhau<br />
ngay giữa những bụi cây icado, rồi đến nửa đêm ngày chủ nhật, họ phá đám các cuộc<br />
nhảy phanđănggô bằng chính những cuộc ẩu đả đẫm máu giữa họ với nhau.” [5, 31-32].<br />
- Nabo, người da đen khiến các thiên thần phải đợi: “Cứ như y (một người da<br />
đen – PTA) là một con ngựa, cứ như thể cú đá đã truyền cho y sự đần độn và đã khắc<br />
lên trán y toàn bộ sự ngu độn của loài ngựa” [8, 86].<br />
- Sống để kể lại: “Đến lễ giáng sinh thì cô vừa tròn hai mươi tuổi. Cô có vóc<br />
dáng của người Etiopia (một nước châu Phi – PTA) với nước da màu ca cao (da nâu,<br />
con lai - PTA). Cô là người tình vui vẻ trên giường, dễ lên cơn cực khoái gập gềnh đau<br />
đớn và có bản năng yêu đương không giống con người tí nào [3, 286].<br />
- Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi: “món hàng độc là thân xác các em<br />
gái nhỏ tuổi, dẫn dắt vào nghề và vắt kiệt chúng cho đến khi đẩy sang cuộc sống tàn tạ<br />
của những cô gái điếm mạt hạng trong nhà chứa lâu đời của mụ da đen Eufemia” [2, 24].<br />
- Dấu máu em trên tuyết: “Tôi đã nhìn thấy những thứ còn ghê gớm gấp mấy kia<br />
(dương vật đàn ông – PTA)… Vậy anh hãy nghĩ cho kỹ trước khi định làm việc đó, bởi<br />
vì với tôi, anh cần phải biết cách xử sự sao cho hơn hẳn một gã da đen” [8, 24].<br />
Việc đặt thân phận của người da đen vào hàng hạ đẳng, thuần túy bản năng trong<br />
sáng tác của Marquez vừa mang tính phản ánh hiện thực xã hội Mỹ Latinh hậu thực dân,<br />
nhưng đồng thời, nó cũng phản ảnh một phần nào tư tưởng phân biệt chủng tộc của nhà<br />
văn, cho dù là trong vô thức. Xuyên suốt quá trình tiếp nhận các tác phẩm của Marquez,<br />
chúng tôi nhận ra rằng, vô thức tác giả thường ưu ái về mặt ngôn ngữ cho những kẻ độc tài,<br />
10<br />
<br />
và thường dùng những ngôn ngữ hạ đẳng cho các người da đen và thổ dân Indian.<br />
Chính vì thế, dù không trực tiếp phát ngôn, cũng như có thể không tự nhận thức được,<br />
nhưng trong Marquez luôn có một tên độc tài và một kẻ phân biệt chủng tộc.<br />
Quay lại với diễn ngôn tình yêu trong tiểu thuyết, chính vì quan niệm (trong cả<br />
vô thức lẫn ý thức) rằng người da đen nặng về tính bản năng, và có năng lực tình dục<br />
mạnh mẽ, nên dĩ nhiên các nhân vật nam của Tình yêu thời thổ tả là F.Ariza và J.Urbino<br />
đã bị những người con gái lai đen là B.Lynch và L.Casiani làm cho đau khổ vì sự quyến<br />
rũ của họ, dẫu được phép làm tình hay không. Nhưng ở đây cũng cần lưu ý, B.Lynch và<br />
L.Casiani là hai người phụ nữ lai đen, tức là ở họ có một nửa dòng máu da trắng, họ<br />
không hoàn toàn thuần bản năng, tức sự hấp dẫn của họ không thuần khiết là hấp dẫn<br />
tính dục. B.Lynch là một tiến sĩ thần học, con gái một mục sư, cô chịu ảnh hưởng sâu<br />
sắc của văn hóa người da trắng. Trong khi đó, L.Casiani là người con gái có công lao<br />
giúp F.Ariza quản lý, duy trì và phục hưng hãng Tàu thủy Caribean. Như vậy, một người<br />
đàn bà hấp dẫn tuyệt đối trong tình yêu, xét theo quan niệm của Marquez và dựa trên<br />
nền tảng văn hóa Mỹ Latinh, đó là một người con gái lai giữa da đen (bản năng, tính<br />
dục) và da trắng (trí tuệ, đạo đức). Và cũng chính vẻ đẹp đặc trưng nhất của người phụ<br />
nữ Mỹ Latinh là vẻ đẹp lai, nơi những người phụ nữ có mắt xanh nhưng làn da rám<br />
nắng và tóc đen, dáng người dong dỏng cao nhưng ba vòng lại đẫy đà. Chuẩn thẩm mỹ<br />
về vẻ đẹp của phụ nữ Mỹ Latinh ấy, cho đến nay, đã trở thành chuẩn thẩm mỹ phổ biến<br />
nhất và được hâm mộ trên toàn thế giới. Một chuẩn thẩm mỹ chỉ có thể có được trong<br />
quá trình hậu thực dân, tức là khi sự lai tạp lên ngôi và người lai chính thức trở thành<br />
chủ thể của nền văn hóa.<br />
Trên phương diện khảo cứu văn hóa hậu thực dân trong Tình yêu thời thổ tả, có<br />
thể thấy hình tượng văn hóa Tây Ban Nha là một “mẫu gốc” xuất hiện phổ biến trong<br />
cuốn tiểu thuyết này. Lật lại lịch sử xâm chiếm châu Mỹ của thực dân châu Âu, khác với<br />
Bắc Mỹ chịu ảnh hưởng của thực dân Anh (chủ yếu), Pháp, Hà Lan, thì Mỹ Latinh là<br />
vùng chịu ảnh hưởng của văn hóa thực dân Tây Ban Nha (chủ yếu) và Bồ Đào Nha.<br />
Trong 34 nước thuộc Mỹ Latinh (gồm Trung Mỹ lục địa, Trung Mỹ Caribean và Nam<br />
Mỹ), thì toàn bộ đều nói ngôn ngữ Tây Ban Nha, chỉ có Haiti nói tiếng Pháp và Brazil<br />
nói tiếng Bồ Đào Nha. Có thể nói, sau hiệp ước Tordesillas năm 1493 nhằm phân chia<br />
quyền ảnh hưởng với Bồ Đào Nha, văn hóa thực dân Tây Ban Nha đã kiến tạo nên diện<br />
mạo văn hóa Mỹ Latinh (trừ Brazil) thời thực dân và hậu thực dân. Thực dân Tây Ban<br />
Nha từng chia Mỹ Latinh thành từng phần khác nhau do các phó vương cai quản, trong<br />
đó có một vùng mang tên New Spain (Tây Ban Nha mới). Các vùng thời thực dân Tây<br />
Ban Nha là: New Spain (Mexico, Trung Mỹ lục địa, Trung Mỹ Caribean), New Granada<br />
(Panama, Colombia, Venezuela, Ecuador), Peru (Peru, Chile, Tây Nam Bolivia), La<br />
Plata (Argentina, Urugoay, Paragoay, Nam Chile, Đông Bolivia). Chính vì nói chung<br />
một thứ ngôn ngữ (tiếng Tây Ban Nha), chung một tôn giáo (nhà thờ Kyto kiểu Tây Ban<br />
Nha), một mẫu quốc (nước Tây Ban Nha), một vương triều (hoàng gia Tây Ban Nha)...<br />
11<br />
<br />