intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chiến lược đa văn hóa, đa tộc người ở đồng bằng sông Cửu Long thời các chúa Nguyễn

Chia sẻ: Angicungduoc2 Angicungduoc2 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

60
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong hành trình mở cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn, tùy theo từng thời kì lịch sử, từng vận mệnh của các chúa thì mỗi công cuộc mở đất lại có những dấu ấn riêng. Nếu như trong giai đoạn công cuộc mở đất Nam Trung Bộ diễn ra trong bối cảnh có nhiều thuận lợi cho các chúa Nguyễn như: sự suy yếu của vương quốc Chămpa vào đầu thế kỉ XVII; hoặc nhằm tránh sức ép từ phía vua Lê - chúa Trịnh khiến Nguyễn Hoàng phải thực hiện tham vọng mở rộng cương vực về phía Nam đèo Hải Vân, đèo Cả. Đến công cuộc mở đất ở Đông Nam Bộ khi vương quốc Chân Lạp cũng vào thời kì suy yếu cũng là lúc các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã tạo dựng được tiếng vang cho mình, cộng thêm “các cuộc di dân tự phát của người dân đã đưa chúa Nguyễn đặt những bước chân đầu tiên đến với vùng đất Nam Bộ ngày nay, tạo tiền đề quan trọng cho công cuộc mở đất miền Tây Nam Bộ”.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chiến lược đa văn hóa, đa tộc người ở đồng bằng sông Cửu Long thời các chúa Nguyễn

PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br /> KỶ YẾU HỘI THẢO<br /> TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> CHIẾN LƯỢC ĐA VĂN HÓA, ĐA TỘC NGƯỜI<br /> Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THỜI CÁC CHÚA NGUYỄN<br /> Trần Nguyễn Khánh Phong <br /> <br /> <br /> 1. Đặt vấn đề<br /> Đồng bằng sông Cửu Long hay còn gọi là Tây Nam Bộ, gồm 12<br /> tỉnh, thành phố gồm Long An, Tiền Giang, Bến Tre, An Giang, Vĩnh<br /> Long, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc<br /> Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ. Nơi đây về mặt lịch sử, “những<br /> người dân Việt di cư nhiều vào thời gian từ trước thế kỉ XVII đã đặt nền<br /> móng để hòa nhập vùng đất này vào đất Việt. Tiếp đến, trong thế kỉ XVII,<br /> các chúa Nguyễn là những người có công khẳng định cương vực nước ta<br /> tới vùng đất Nam Bộ ngày nay. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai<br /> Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất này và chính thức<br /> thiết lập một hệ thống hành chính thống nhất trong bộ máy cai trị chung<br /> của cả nước”(1).<br /> Trong hành trình mở cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn, tùy<br /> theo từng thời kì lịch sử, từng vận mệnh của các chúa thì mỗi công cuộc<br /> mở đất lại có những dấu ấn riêng. Nếu như trong giai đoạn công cuộc mở<br /> đất Nam Trung Bộ diễn ra trong bối cảnh có nhiều thuận lợi cho các chúa<br /> Nguyễn như: sự suy yếu của vương quốc Chămpa vào đầu thế kỉ XVII;<br /> hoặc nhằm tránh sức ép từ phía vua Lê - chúa Trịnh khiến Nguyễn Hoàng<br /> phải thực hiện tham vọng mở rộng cương vực về phía Nam đèo Hải Vân,<br /> đèo Cả. Đến công cuộc mở đất ở Đông Nam Bộ khi vương quốc Chân Lạp<br /> cũng vào thời kì suy yếu cũng là lúc các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã<br /> tạo dựng được tiếng vang cho mình, cộng thêm “các cuộc di dân tự phát<br /> của người dân đã đưa chúa Nguyễn đặt những bước chân đầu tiên đến với<br /> vùng đất Nam Bộ ngày nay, tạo tiền đề quan trọng cho công cuộc mở đất<br /> miền Tây Nam Bộ”(2).<br /> Và những chiến lược lớn đã được các chúa Nguyễn thực hiện thành<br /> công trong quá trình mở đất về phương Nam, đó là; đã tận dụng được<br /> nhân tài vật lực của các xứ Thuận Quảng, Nam Trung Bộ và đặc biệt là<br /> <br /> <br /> Hội Khoa học lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế.<br /> 1<br /> Trương Thị Kim Chuyên (Chủ biên): Vùng đất Nam Bộ. Tập 1: Điều kiện tự<br /> nhiên, Môi trường sinh thái. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, trang 17,<br /> 18.<br /> 2<br /> Đỗ Quỳnh Nga: Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn. NXB Chính<br /> trị Quốc gia - Sự thật. Hà Nội, 2013, trang 49, 50.<br /> <br /> <br /> 305<br /> vùng Đông Nam Bộ, theo tính toán của những nhà chiến lược thời chúa<br /> Nguyễn thì “Để mở đất Tây Nam Bộ, đặc biệt là trong các cuộc giao<br /> tranh hỗ trợ, hoặc phản công tự vệ, lực lượng chính được các chúa<br /> Nguyễn sử dụng không đâu khác mà chính là các quan lại, các vị tướng<br /> giỏi và quân đội tinh nhuệ của Gia Định”(1). Nhiều quan lại và các vị<br /> tướng tài khi đó đã thay mặt chúa Nguyễn thực hiện nhiều kế sách, chiến<br /> lược có lợi cho cư dân trong vùng, đồng thời thể hiện khối đại đoàn kết<br /> dân tộc, thống nhất lập trường và cùng chung lưng đấu cật thực hiện<br /> những nhiệm vụ mà các chúa giao phó. Trong đó, chúng tôi thấy chiến<br /> lược đa văn hóa, đa tộc người của các chúa Nguyễn thực thi tại đồng bằng<br /> sông Cửu Long trong buổi đầu mở đất đã để lại nhiều kinh nghiệm quý<br /> báu.<br /> <br /> <br /> 2. Chiến lược đa văn hóa, đa tộc người ở đồng bằng sông Cửu<br /> Long thời các chúa Nguyễn<br /> 1. Từ chính sách thu hút lưu dân<br /> Người Khmer, Chăm, Hoa và Việt ở Nam Bộ nói chung và đồng<br /> bằng sông Cửu Long nói riêng là bộ phần không thể tách rời trong cộng<br /> đồng 54 dân tộc Việt Nam và qua từng thời kì phát triển của lịch sử, từ<br /> nước Phù Nam, Phù Nam đến Thủy Chân Lạp, thành phần cư dân ở đồng<br /> bằng sông Cửu Long đã có những biến đổi nhất định. Hầu như phần lớn<br /> diện tích nơi đây rơi vào tình trạng hoang hóa, dân cư thưa thớt và được<br /> xem như là một vùng đất vô chủ. Chính trong điều kiện đó, cư dân Việt đã<br /> đặt chân đến khai phá và trở thành chủ thể chính ở vùng đất này sau một<br /> thời gian dài định cư.<br /> Cộng đồng cư dân Việt ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là từ<br /> vùng Thuận Quảng di cư vào“Họ thường đi bằng ghe bầu men theo bờ<br /> biển để vào Nam, theo các cửa sông để vào đất liền rồi len lỏi theo các<br /> con rạch tự nhiên tìm đến các giồng cát cao ráo để khai hoang lập<br /> nghiệp. Ban đầu hầu hết đồng bằng Tây Nam Bộ, nhất là vùng trũng Đồng<br /> Tháp Mười còn hoang vu, nước đọng quanh năm do chưa có kênh rạch<br /> thoát nước, do đó các đoàn di dân phải chọn các giồng đất cao ráo để<br /> định cư”(2). Trước khi người Việt có mặt trên vùng đất Tây Nam Bộ, ở<br /> đây đã có lớp dân cư bản địa sinh sống. “Trên các giồng đất cao khi ấy<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> : Đỗ Quỳnh Nga: Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn. NXB<br /> Chính trị Quốc gia - Sự thật. Hà Nội, 2013, trang 56.<br /> 2<br /> : Lê Công Lý: Huế trong tâm thức Nam Bộ hay là ký ức lưu dân. Tạp chí<br /> Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (144).2018, trang 87.<br /> <br /> <br /> 306<br /> PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br /> KỶ YẾU HỘI THẢO<br /> TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> vẫn còn một ít nhóm người dân tộc và rất ít sóc Khmer mới đến sinh sống<br /> trong tình trạng heo hút, nghèo nàn” (1).<br /> Khi Cao Miên hiến đất cho chúa Nguyễn, nhiều sóc của người<br /> Khmer chuyển đi nơi khác sinh sống, họ lùi sâu vào gần chân núi, dưới có<br /> chằm hồ và khai thác nguồn lợi lâm thổ sản ở đó. Một số khác vẫn ở lại và<br /> chung sống cùng với người Việt. Người Việt lập làng và khai phá ruộng<br /> đất bên cạnh người Khmer. Họ tôn trọng phong tục tập quán của người<br /> Khmer và cùng nhau khai phá ruộng đất, trồng trọt từ đời này sang đời<br /> khác(2).<br /> Nhà nghiên cứu lịch sử Phan Khánh cho hay cộng đồng cư dân bản<br /> địa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long thuở trước còn có: Người Khmer<br /> gốc Chân Lạp tản mác đến vùng ác địa này chỉ là để trốn tránh sự quản lí<br /> của vương quốc. Họ ở biệt lập thưa thớt, đi hàng mấy ngày đường mới<br /> đoán được vài ba căn nhà cư trú, nhờ khói vương tỏa qua lá rừng. Họ ở<br /> nhà sàn cao, lợp lá, cỏ và trên những gò đất cao, trồng khoai sắn là chủ<br /> yếu. Họ chỉ cấy một ít lúa nổi, nếp than và lúa sớm. Hầu như không bao<br /> giờ rời khỏi nơi ở.<br /> Người Chăm sống chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ, nhiều hộ lưu lạc<br /> đến đây từ xa xưa, nơi đất hiểm nhưng tự do. Họ sống thành ấp nhỏ biệt<br /> lập, chỉ bám lấy rừng núi. Mỗi khi có dân tộc khác đến là họ lại rút sâu<br /> hơn vào rừng(3).<br /> Một con đường lưu dân khác đến với đồng bằng sông Cửu Long là<br /> sau khi kết hôn với vua Chân Lạp (1620), công chúa Ngọc Vạn đã đem<br /> theo nhiều người Việt đến đất Chân Lạp trong đó có người được tuyển<br /> làm quan trong triều đình. Ngoài ra, còn nhiều người khác tham gia các<br /> hoạt động sản xuất thủ công thương nghiệp. Đây là sự kiện đầu tiên đã mở<br /> ra cho người Việt một sự đảm bảo ở vùng lãnh thổ mới; do đó có nhiều<br /> người Việt bắt đầu xuống khai phá vùng Nam Bộ(4). Cũng tương tự như<br /> vậy, có nhiều cuộc hôn nhân giữa người Việt và người Chăm đã trở nên<br /> <br /> <br /> 1<br /> Trương Thị Kim Chuyên (Chủ biên): Vùng đất Nam Bộ. Tập 1: Điều kiện tự<br /> nhiên, Môi trường sinh thái. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, trang<br /> 186.<br /> 2<br /> Trương Thị Kim Chuyên (Chủ biên): Vùng đất Nam Bộ. Tập 1: Điều kiện tự<br /> nhiên, Môi trường sinh thái. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, trang<br /> 203, 204.<br /> 3<br /> Phan Khánh: Đồng bằng sông Cửu Long lịch sử và lũ lụt. NXB Nông nghiệp,<br /> Hà Nội, 2001, trang 39.<br /> 4<br /> Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên): Vùng đất Nam Bộ. Tập IV: Từ đầu thế kỉ<br /> XVII đến giữa thế kỉ XIX. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, trang 40,<br /> 41.<br /> <br /> <br /> 307<br /> hết sức thông thường đã tạo nên sự hài hòa cùng phát triển và đoàn kết<br /> dân tộc.<br /> Khi được các chúa Nguyễn đồng ý cho định cư ở xứ Đàng Trong thì<br /> Nam Bộ được xem là vùng đất hứa đầy tiềm năng của người Hoa. Để có<br /> nhân lực khai hoang, chúa Nguyễn khuyến khích và nâng đỡ mọi sắc tộc<br /> đến vùng đất mới. Đối với người Hoa thì chúa còn viết thư dụ bảo vua<br /> Miên “liệu lượng và giúp đỡ họ, để tỏ rằng không gạt họ ra ngoài” (1).<br /> Người Hoa lúc đầu cũng làm ruộng trồng rau đậu như người Việt. Các loại<br /> hình kinh tế của người Hoa cũng nương theo sự khác biệt của các vùng tự<br /> nhiên như người Việt.<br /> Người Hoa đã nhanh chóng lập bến, lập chợ ở Cù lao Phố và Mỹ<br /> Tho, họ đã thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đầy đủ cho triều đình, thần phục<br /> chúa Nguyễn và thân thiện với mọi sắc tộc, nhất là với người Việt. Tại Mỹ<br /> Tho Đại Phố, Dương Ngạn Địch cũng đã chiêu mộ dân người Việt, Khmer<br /> để khai phá đất đai tạo thành thôn xóm. Chính sách thuế đối với Hoa<br /> thương cũng dễ dãi; không định mức, tùy tâm khai báo, đóng bằng tiền<br /> hay bằng lâm thổ sản cũng được “Người Hoa sống hòa đồng cùng với<br /> người Việt, người Khmer và những dân tộc bản địa khác. Người Hoa đã<br /> gắn bó cuộc đời với vùng đất mới, như quê hương thứ hai của mình. Bởi<br /> thế, bao thế hệ người Hoa nối tiếp nhau đổ mồ hôi, công sức, kể cả là máu<br /> và nước mắt để khai hoang vùng đất còn nhiều hoang vu và lắm hiểm<br /> nguy này” (2). Hoặc ở Hà Tiên, dưới sự ưu ái và chính sách khoan dung của<br /> chúa Nguyễn, năm 1714, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn,<br /> nhận nơi đây là quê hương thứ hai, nguyện hết lòng phục vụ như con dân<br /> đất nước ta. Chúa Nguyễn Phúc Chu phong ông là Tổng binh trấn Hà<br /> Tiên, đóng bản dinh tại Phương Thành. Từ ấy nhân dân tụ tập càng đông<br /> đúc(3).<br /> Khi dân đến khai khẩn thì có nhiều chính sách rất cởi mở được thực<br /> hiện nhằm ổn định tâm lý để người dân yên tâm khai hoang sản xuất, xây<br /> dựng cuộc sống nơi vùng đất mới, “ai muốn khai khẩn, lựa chọn vùng đất<br /> cao, gò...tùy ý, khai khẩn xong khai báo với chính quyền là trở thành địa<br /> chủ khu vực đó, chính quyền không đo đạc xem diện tích là bao nhiêu,<br /> cũng không cần biết đất ấy xấu tốt thế nào. Người nghiệp chủ xem đất<br /> <br /> <br /> 1<br /> Phan Khánh: Đồng bằng sông Cửu Long lịch sử và lũ lụt. NXB Nông nghiệp,<br /> Hà Nội, 2001, trang 41.<br /> 2<br /> Trương Thị Kim Chuyên (Chủ biên): Vùng đất Nam Bộ. Tập 1: Điều kiện tự<br /> nhiên, Môi trường sinh thái. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, trang<br /> 204.<br /> 3<br /> Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế: Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam. NXB<br /> Văn hóa, Hà Nội, 1999, trang 427.<br /> <br /> <br /> 308<br /> PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br /> KỶ YẾU HỘI THẢO<br /> TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> mình khai khẩn thế nào mà tự nguyện nộp thuế nộp bằng hộc non già tùy<br /> ý”(1).<br /> Năm 1753, Nguyễn Cư Trinh được chúa Nguyễn Phúc Khoát gửi<br /> gắm niềm tin và cử ông vào Nam Bộ với nhiệm vụ mới của mình. Tại đây,<br /> Nguyễn Cư Trinh là người có công rất lớn trong việc giúp chúa Nguyễn<br /> mở rộng và bảo vệ chủ quyền Đàng Trong, cụ thể nhất là việc sắp xếp lại<br /> dân cư, giữ mối hòa thuận với cộng đồng các dân tộc thiểu số ở phương<br /> Nam, năm 1775, “đưa người Côn Man (người Chăm) từ núi Bà Đen<br /> xuống khu vực Châu Định Viễn để khai phá đất đai. Chính thức đến giữa<br /> thế kỉ XVIII, Chân Lạp mới dâng vùng Định Viễn cho chúa Nguyễn, và<br /> chúa Nguyễn tái thiết lập lại đơn vị hành chính, đồng thời khẳng định chủ<br /> quyền chính thức ở dinh Long Hồ”(2). Và các tộc người Việt, Hoa, Chăm,<br /> Khmer cùng nhau góp phần quan trọng vào khai thác vùng đất hoang hóa,<br /> từ những bàn tay trắng, họ đã biến rừng rú rậm rạp thành vùng đất trồng<br /> dâu, mía“Sự cộng cư tộc người một lần nữa lại diễn ra trên vùng đất đầy<br /> tiềm năng khi các cộng đồng cư dân Khmer, Việt, Hoa, Chăm lần lượt di<br /> cư đến đây. Cùng cảnh ngộ di dân, khó khăn trăm bề khi đến vùng đất<br /> mới, nên cộng đồng cư dân các dân tộc phải dựa vào nhau, đoàn kết với<br /> nhau để tạo lập cuộc sống mới, từ đó mà hình thành sự hòa hợp nhau giữa<br /> các dân tộc. Nhiều nơi họ sống chung cùng một làng và hôn nhân hòa<br /> huyết với nhau. Chính thái độ chung tay xây dựng cuộc sống của các dân<br /> tộc đã biến vùng đất Nam Bộ rừng rậm hoang vu thành vùng kinh tế phát<br /> triển”(3).<br /> Đến đây, chúng ta mới thấu hiểu một điều rằng, thuở ban sơ lập<br /> nghiệp, người Việt luôn ghi nhớ công ơn của Nguyễn Hữu Cảnh, vì ông<br /> xuất thân từ miền Thuận Quảng vào đây, thấy trời nước bao la, tài nguyên<br /> dồi dào, khiến ông chạnh lòng “nhìn về miền Trung đất đai cằn cỗi, người<br /> dân lam lũ cực nhọc mà không đủ ăn, lại lụt, bão hằng năm hoành hành<br /> tan tác. Ông Cảnh khuyến khích, vận động họ vào Nam lập nghiệp”(4).<br /> Những lưu dân một thời đi mở cõi ở đồng bằng sông Cửu Long luôn nhớ<br /> về nguồn cội nơi họ đã ra đi để rồi làm nên chủ quyền lãnh thổ không chỉ<br /> ở đất liền mà còn biển đảo của vùng Nam Bộ rộng lớn.<br /> <br /> 1<br /> : Huỳnh Lứa (Chủ biên), Lê Quang Minh, Lê Văn Năm, Đỗ Hữu Nghiêm:<br /> Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2016,<br /> trang 60.<br /> 2<br /> : Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên): Vùng đất Nam Bộ. Tập IV: Từ đầu thế kỉ<br /> XVII đến giữa thế kỉ XIX. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, trang 87.<br /> 3<br /> : Trần Thuận: Nam Bộ - Vài nét lịch sử văn hóa. NXB Văn hóa Văn nghệ<br /> thành phố Hồ Chí Minh, 2014, trang 21.<br /> 4<br /> : Vĩnh Nguyên, Nguyễn Tú: Danh nhân Quảng Bình. Tập 2. NXB Văn hóa<br /> Thông tin, Hà Nội, 1997, trang 55.<br /> <br /> <br /> 309<br /> 2.....đến việc giữ vững tình thân thiện giữa các tộc người<br /> Chính sách cởi mở của chúa Nguyễn đã góp phần thu hút dân cư<br /> ngày càng đông đúc, họ đã cùng nhau khai thác vùng đất đồng bằng sông<br /> Cửu Long, mở rộng giao thương, thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển.<br /> Và đặc biệt là vùng Mỹ Tho “cũng đã đang dần dần trở thành những<br /> trung tâm cư dân và kinh tế phát triển dưới quyền cai quản của chúa<br /> Nguyễn”(1).<br /> Liên tiếp các năm 1674 vương triều Chân Lạp bị chia thành Chính<br /> quốc vương và Phó quốc vương. Năm 1691, Phó quốc vương là Nặc Ông<br /> Nộn qua đời, tạo điều kiện thuận lợi cho các chúa Nguyễn, khi này Mạc<br /> Cửu đang chiếm giữ vùng đất rộng lớn Hà Tiên - Long Xuyên - Bạc Liêu -<br /> Cà Mau không còn lệ thuộc vào chính quyền Chân Lạp. Sau đó Mạc Cửu<br /> xin nội thuộc chúa Nguyễn đem đất Hà Tiên sáp nhập vào lãnh thổ của<br /> chúa Nguyễn. Sự kiện này đánh dấu sự lớn mạnh của Đàng Trong khi có<br /> thêm nhiều nhân tài và vật lực để việc mở đất càng thêm thuận lợi.<br /> Trong khi đó, công lao của Dương Ngạn Địch khi ở vùng đồng bằng<br /> sông Cửu Long đã để lại dấu ấn tình thân thiện của các tộc người là “Quy<br /> tụ người Hoa, người Việt, người Khmer đã ở đây từ trước, vỡ đất làm<br /> ruộng, lập ra trang trại, thôn ấp, lập nên Mỹ Tho Đại Phố thu hút ngày<br /> càng nhiều tàu buôn phương xã đến đây buôn bán” (2). Thế nhưng, trong<br /> các năm 1682 - 1688 những mâu thuẫn giữa người Hoa với nhau, giữa<br /> người Hoa với người Cao Miên đã diễn ra. Khi đó, người Hoa tiến hành<br /> cướp bóc dân Cao Miên, tại ra sự bất ổn trong vùng, buộc chúa Nguyễn<br /> Phúc Trăn sai tướng là Mai Vạn Long vào Mỹ Tho dùng phục binh giết<br /> Hoàng Tiến. Toàn bộ binh tướng Long Môn giao cả cho Trần Thượng<br /> Xuyên nắm giữ để phối hợp đánh Nặc Thu.<br /> Năm 1698, triều đình Chân Lạp gây hấn ở biên giới phương Nam đã<br /> làm cho người Miên, Việt, Hoa rơi vào hoàn cảnh khổ sở. Biết tin này,<br /> chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh hợp với<br /> Phạm Cẩm Long, Nguyễn Hữu Khánh và Trần Thượng Xuyên lo việc trấn<br /> biên cương. Vai trò của Nguyễn Hữu Cảnh ở đồng bằng sông Cửu Long<br /> thời bấy giờ rất quan trọng đối với người dân, ông tập trung mũi nhọn vào<br /> các công việc canh tác lúa, đào mương giữ nước mưa, lấy đất đắp nền nhà,<br /> lấy tràm dựng nhà để ở khiến đời sống của người dân ngày càng phấn<br /> <br /> <br /> 1<br /> Trương Thị Kim Chuyên (Chủ biên): Vùng đất Nam Bộ. Tập 1: Điều kiện tự<br /> nhiên, Môi trường sinh thái. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, trang<br /> 188.<br /> 2<br /> Trương Thị Kim Chuyên (Chủ biên): Vùng đất Nam Bộ. Tập 1: Điều kiện tự<br /> nhiên, Môi trường sinh thái. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, trang<br /> 204.<br /> <br /> <br /> 310<br /> PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br /> KỶ YẾU HỘI THẢO<br /> TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> khởi. Nguyễn Hữu Cảnh lập tức ra quyết định cho quân sĩ vét sâu, khơi<br /> rộng thêm nhánh sông Tiền rẽ ngang xuống sông Hậu; và ra đề án trổ vài<br /> mương phụ tiếp với các mương mà dân đã đào. Dòng nước ngọt được lưu<br /> thông đến tận những nơi lân ấp mới đang khai khẩn. Với những việc làm<br /> của Nguyễn Hữu Cảnh đã thực sự có lợi cho cộng đồng dân cư, người<br /> Miên sống lẫn lộn với người Việt và thấy vậy “Họ tự động hăng hái tham<br /> gia công việc này. Bỗng nhiên tất thảy đều trở thành những cơ, đội binh<br /> phu đào vét lòng sông”. Khi giao thông đường thủy đã quá thuận lợi cho<br /> cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, người Miên lúc đó “đã làm thêm<br /> thuyền ngo dạng nhỏ bé để đi lại giao dịch, đổi chác mọi vật dụng hằng<br /> ngày. Nhờ vậy, tình thân thiện giữa các sắc dân có phần hòa hợp hơn.<br /> Tình quân dân ngày càng đậm đà hơn” (1).<br /> Chính sách đa văn hóa, đa dân tộc được Nguyễn Hữu Cảnh thực thi<br /> rất hợp lòng dân, khi mà miền biên viễn xa xôi của xứ Đàng Trong đã<br /> thực sự yên ổn thì Nguyễn Hữu Cảnh “cho phép các binh phu được về lại<br /> gia đình lo sinh hoạt đồng áng như cũ; hoặc giả trong quân ngũ những ai<br /> yếu đuối chậm chạp, hay có kẻ muốn ở lại xây dựng “bạn đời” rồi để tự<br /> mình tìm đất cấy hái làm ăn sinh sống cũng được như ý, nhưng với điều<br /> dạy nhất quán phải canh tác ngay”. Các chủng dân “đều nhận rõ việc làm<br /> của mình được che chở thỏa đáng, ai nấy đều hân hoan phục tòng vị<br /> thống lãnh Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh; Và niềm kính trọng bậc<br /> huân hiền ấy dường như đã tạo thành sức mạnh chuyển vào một nỗ lực<br /> của con người. Họ đã cùng nhau gia sức bồi đắp thảm lúa đồng bằng Cửu<br /> Long ngày thêm xanh tốt trĩu hạt vàng” (2).<br /> Để giữ bền sức dân, Nguyễn Hữu Cảnh thường luôn tránh những<br /> xung đột không đáng có với Chân Lạp, ông luôn dùng lời lẽ nhân ái để<br /> trấn an nhân dân. Đối với lân bang thì khuyên họ nên “lo gìn nội quốc,<br /> giữ an dân, đừng tìm cách gây hấn lân bang”. Nguyễn Hữu Cảnh luôn<br /> khích lệ các chủng tộc Miên, Hoa, Việt cùng nhau nên giữ vững tình thân<br /> thiện “tắt lửa tối đèn” có nhau. Khuyến khích chủng dân nên canh tác<br /> hoặc mở rộng giao lưu bằng thương thuyền(3).<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> : Nguyễn Ngọc Hiền: Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công cuộc khai<br /> sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỉ thứ XVII, NXB Văn học, Hà Nội, 1999, trang<br /> 104, 106, 107.<br /> 2<br /> : Nguyễn Ngọc Hiền: Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công cuộc khai<br /> sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỉ thứ XVII, NXB Văn học, Hà Nội, 1999, trang<br /> 107, 108.<br /> 3<br /> : Nguyễn Ngọc Hiền: Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công cuộc khai<br /> sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỉ thứ XVII, NXB Văn học, Hà Nội, 1999, trang<br /> 108, 109.<br /> <br /> <br /> 311<br /> Nguyễn Hữu Cảnh có một sách lược đặc biệt quan trọng là mọi<br /> chính sách đều bình đẳng giữa các sắc tộc, không ưu tiên, không kì thị với<br /> bất cứ sắc tộc nào “Để có thêm nhân lực vào khai hoang, Nguyễn Hữu<br /> Cảnh đã cho thuộc binh ra miền Trung, miền Ngũ Quảng chiêu mộ người.<br /> Ông còn khuyến khích binh lính dưới quyền sinh cơ lập nghiệp ở đây khi<br /> không còn đủ sức chiến đấu cho về làm dân. Những người mới đến, được<br /> quan quân giúp đỡ làm nhà, lương thực và nông cụ ban đầu. An ninh hoàn<br /> toàn được giữ vững nhờ vào quân đội hùng hậu, tài chiến trận”(1).<br /> Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân sau khi đi đánh quân Xiêm trở về đã<br /> cho quân trú ở Vũng Gù, lập đồn điền, đắp đồn và đào kinh làm cho rạch<br /> Vũng Gù và rạch Mỹ Tho ăn thông nhau, nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua<br /> Tiền Giang (2). Tạo nhiều điều kiện để binh lính cũng như dân thường ổn<br /> định cuộc sống, đem lại niềm tin của lòng dân với các vị tướng của chúa<br /> Nguyễn.<br /> Các chúa Nguyễn hầu như không có một quy định nào bắt buộc<br /> người Hoa sinh sống ở Đàng Trong phải từ bỏ phong tục tập quán của<br /> mình, cũng không có một điều luật nào buộc họ phải theo phong tục tập<br /> quán của người Việt, mà trái lại luôn tôn trọng phong tục tập quán của<br /> người Hoa cũng như các kiều dân khác. Điều này đã được Trịnh Hoài Đức<br /> nêu rõ “Khi bắt đầu khai thác, dân lưu tán của nước ta và người<br /> Đường....người Tây Dương, người Cao Miên, người Chà Và...Các nước<br /> kiều ngụ phần nhiều ở xen lẫn nhau, mà áo mặc đồ dùng đều nước nào<br /> theo lối nước ấy”(3).<br /> Có thể nói “Các chính sách mềm dẻo mà nhà Nguyễn đưa ra một<br /> mặt đem lại quyền lợi cho dòng họ Nguyễn; mặt khác, có tác dụng bảo vệ<br /> người dân khai hoang, đẩy mạnh công cuộc khai phá. Rõ ràng, giai đoạn<br /> này việc định cư và khai thác điều kiện tự nhiên của người dân chịu ảnh<br /> hưởng rất lớn từ các chủ trương, chính sách của các chúa Nguyễn”(4).<br /> Những chính sách của các chúa Nguyễn và thuộc tướng dưới quyền<br /> như Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Cửu Vân, Nguyễn<br /> Khoa Thuyên đối với ngoại kiều và lân bang ở vùng đồng bằng sông Cửu<br /> <br /> 1<br /> : Phan Khánh: Đồng bằng sông Cửu Long lịch sử và lũ lụt. NXB Nông<br /> nghiệp, Hà Nội, 2001, trang 44.<br /> 2<br /> : Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam. NXB Trẻ, 2014, trang 330.<br /> 3<br /> : Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Đỗ Mộng Khương và Nguyễn<br /> Ngọc Tỉnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính và chú thích. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999,<br /> trang 143.<br /> 4<br /> : Trương Thị Kim Chuyên (Chủ biên): Vùng đất Nam Bộ. Tập 1: Điều kiện tự<br /> nhiên, Môi trường sinh thái. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, trang<br /> 192.<br /> <br /> <br /> 312<br /> PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br /> KỶ YẾU HỘI THẢO<br /> TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Long đã phần nào nói lên được tầm nhìn chiến lược của các chúa với mục<br /> đích bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, ổn định chính trị để kinh tế phát triển,<br /> lòng dân hòa thuận, các dân tộc thiểu số cùng sinh sống trên địa bàn đều<br /> đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Việc này cũng được các vua triều Nguyễn<br /> (1802 - 1945) tiếp tục kế thừa và đi đến thống nhất đất nước cho đến ngày<br /> nay.<br /> <br /> <br /> 3.....Và củng cố một vùng hậu phương vững mạnh cho triều đại<br /> Sống ở vùng đất mới, với điều kiện tự nhiên đã hun đúc cho người<br /> đồng bằng sông Cửu Long những đặc tính quan trọng đó là“có được<br /> phong cách sống hài hòa giữa cũ và mới; trong và ngoài, phương Đông<br /> và phương Tây; của ta và người; bảo tồn và phát huy..., làm nên bức<br /> tranh văn hóa Nam Bộ tuy đa dạng, sáng tạo mà không lai tạp, mất<br /> gốc”(1). Hoặc đối với người Hoa, họ đã nhận thấy các chiến lược và chính<br /> sách cởi mở của các chúa Nguyễn, khiến cho những người Hoa đến sinh<br /> sống ở Việt Nam, qua nhiều thế hệ, “họ đã quên đi thân phận ngoại tộc<br /> với tên gọi Minh Hương, để sẵn sàng đóng góp cho công cuộc xây dựng<br /> quê hương mới trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa...” (2). Đây<br /> là cơ sở hậu phương vững mạnh cả về nhân tâm lẫn vật chất để người dân<br /> đồng bằng sông Cửu Long bảo vệ những thành quả mà họ đã tạo dựng<br /> cũng như bảo vệ những người thân của các chúa Nguyễn.<br /> Chính vì vậy mà năm 1777, chúa Nguyễn Phúc Ánh “bị Tây Sơn<br /> truy sát, phải chạy vào Nam, mặc dù chỉ mới 15 tuổi nhưng nhờ vào tình<br /> cảm và sự ngưỡng vọng của dân chúng Đồng Nai - Gia Định đối với chúa<br /> Nguyễn mà có thể dễ dàng thu phục được đạo quân Đông Sơn lừng lẫy để<br /> làm lực lượng kháng cự Tây Sơn và khôi phục đất Gia Định”(3). Nguyễn<br /> Ánh dựa vào các phú hào người Việt, dựa vào lực lượng người Hoa vốn<br /> chịu nhiều ơn nghĩa của nhà chúa để thành lập đạo quân Đông Sơn ở Tam<br /> Phụ (Cai Lậy, Cái Bè) Tiền Giang để kháng cự với quân Tây Sơn. Do đó<br /> mà Võ Tánh với 10.000 quân ở vựa lúa Gò Công xin theo Nguyễn Ánh<br /> đến cùng.<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> Lê Công Lý: Huế trong tâm thức Nam Bộ hay là ký ức lưu dân. Tạp chí<br /> Nghiên cứu và Phát triển, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế, số 1<br /> (144).2018, trang 97.<br /> 2<br /> Trần Thuận: Nam Bộ - Vài nét lịch sử văn hóa. NXB Văn hóa Văn nghệ<br /> thành phố Hồ Chí Minh, 2014,trang 47.<br /> 3<br /> Lê Công Lý: Huế trong tâm thức Nam Bộ hay là ký ức lưu dân. Tạp chí<br /> Nghiên cứu và Phát triển, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thừa Thiên Huế, số 1<br /> (144).2018, trang 92.<br /> <br /> <br /> 313<br /> Các bậc tiền hiền khai khẩn vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có<br /> tầm nhìn chiến lược quan trọng, để rồi sau này mỗi chuyến đi về “tẩu quốc<br /> phục quốc” của vua Gia Long được thực hiện dễ dàng là nhờ người am<br /> hiểu địa thế của vùng đất rộng lớn hơn quân Tây Sơn. Nào là sông Mân<br /> Thít nối ngang Ba Kè tới vùng Trà Ôn, nơi nhiều người Miên sinh sống<br /> tập trung. Nào vùng Nước Xoáy tấn thối dễ dàng, lại còn vùng Cần Thơ và<br /> rạch Cần Thơ ăn thông qua sông Cái Bè rồi sông Cái Lớn với vùng U<br /> Minh. Sông Gành Hào, sông Ông Đốc, ở tận mũi Cà Mau (1).<br /> Với một căn cứ địa an toàn bởi lực lượng quân lính đông, tinh nhuệ<br /> và trung thành, kèm với đó vùng đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa và<br /> hoa màu lớn đã làm cơ sở vững chắc cho Nguyễn Ánh chống lại quân Tây<br /> Sơn. Khi quân Tây Sơn vào đến Gia Định họ biết rằng họ bị cô lập hoàn<br /> toàn. Theo nhà nghiên cứu Sơn Nam cho biết:<br /> - Dân khẩn hoang mang ơn các chúa Nguyễn họ được khá giả hơn lúc ở<br /> miền Trung, đất tốt còn nhiều, chưa cần một chính sách điền địa mới<br /> hoặc một sự thay trào đổi chúa.<br /> - Quân Tây Sơn không thâu phục được người Huê kiều (đốt chợ Cù lao<br /> Phố, đốt chợ Sài Gòn, Chợ Lớn, phá chợ Mỹ Tho), là hậu thuẫn kinh tế<br /> cho Nguyễn Ánh.<br /> - Người Cao Miên ở Trà Ôn, người Đồ Bà (Chà Châu Giang) đều có<br /> cảm tình và tích cực ủng hộ Nguyễn Ánh, nhờ đường lối chính trị mềm<br /> dẻo(2).<br /> Với những thuận lợi từ chính trong dân mà ra nên Nguyễn Ánh phải<br /> biết làm gì để an dân, để khôi phục lại vương triều. Năm 1790, Nguyễn<br /> Ánh cho xây thành Gia Định, lập triều nghi, định quan chế, định binh<br /> chính...theo quy mô vương quốc. Đưa người Hoa từ Cù lao Phố và Hà<br /> Tiên về tập trung ở vùng Chợ Lớn. Bổ nhiệm một số quan lại người Miên.<br /> Đặt chức Cai phủ và Ký phủ chuyên trách công tác người Hoa ở mỗi dinh<br /> trấn. Chiêu tập dân xiêu tán, cứ 40 đinh trở lên lập thành một xã. Đẩy<br /> mạnh khôi phục nông nghiệp, đặt 12 chức quan khuyến nông ở các dinh.<br /> Ai làm ruộng giỏi, đạt năng suất thảo điền 100 thúng, sơn điền 70 thúng<br /> trở lên, được hoãn quân dịch để làm ruộng. Cấm ngặt việc giết trâu cày và<br /> cấm lấy lương thực nấu rượu. Các quan khuyến nông có nhiệm vụ mộ dân<br /> khai hoang phục hóa, cấp cho trâu cày, nông cụ và vốn để cày cấy. Quân<br /> đội phải thay nhau làm ruộng khi không đi chiến trận, lập đồn điền riêng<br /> để tự túc lương thực. “Dần dần trên vùng đất mới này đã hình thành một<br /> tầng lớp điền chủ, bao trưng nhiều ruộng đất, tập hợp quanh mình hàng<br /> <br /> <br /> 1<br /> : Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam. NXB Trẻ, 2014, trang 45.<br /> 2<br /> :Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam. NXB Trẻ, 2014, trang 54, 55.<br /> <br /> <br /> 314<br /> PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br /> KỶ YẾU HỘI THẢO<br /> TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> chục tới hàng trăm nông dân lệ thuộc. Với vốn liếng và phương tiện dồi<br /> dào, với kiến thức vượt trội hơn những người nghèo xiêu tán, nên công<br /> cuộc khai hoang được đẩy mạnh hơn, những người trưng khẩu cũng<br /> nhanh chóng trở thành điền chủ lớn, chẳng những tá điền mà cả những<br /> nông dân tự do cũng phải lệ thuộc. Chính tầng lớp này là rường cột cho<br /> Nguyễn Ánh thường xuyên bổ sung lực lượng, phần lớn họ là những người<br /> miền Trung” (1).<br /> Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn khuyến khích cả người gốc Khmer, gốc<br /> Hoa ở Trà Vinh, Long Xuyên, Tây sông Hậu trưng khẩn đất đai để trở<br /> thành điền chủ. Cấm ngặt người Việt không được ỷ thế sắc tộc để lấn<br /> chiếm đất của người Khmer, người Chăm mà họ đã từng khai phá. Vựa lúa<br /> và hoa màu vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng từ đó đã cho sản phẩm<br /> nhiều vô kể, người dân nộp thuế đầy đủ, các kho lương thực của Nguyễn<br /> Ánh được chuẩn bị đầy đủ từ Gia Định ra đến Diên Khánh nhằm chuẩn bị<br /> cho việc đánh lại nhà Tây Sơn. Và một nhận xét rất xác đáng rằng chính<br /> “lúa gạo đã tích cực góp phần vào việc phản công của Nguyễn Ánh”(2).<br /> <br /> <br /> 3. Kết luận<br /> Với chính sách an dân ngay từ buổi đầu cộng với các yếu tố thiên<br /> thời, địa lợi, nhân hòa, chúng ta thấy rõ ràng rằng các chúa Nguyễn “có<br /> những viên tướng giỏi và một hậu phương vững mạnh hơn: Sự trẻ trung<br /> của chế độ, diện tích đất canh tác rộng lớn, mật độ dân số thấp khiến các<br /> mâu thuẫn xã hội ít gay gắt hơn ở phía Bắc và cho phép họ Nguyễn huy<br /> động các nguồn lực một cách dễ dàng hơn” (3).<br /> Sự nghiệp mở đất vùng đồng bằng sông Cửu Long gắn liền với<br /> Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Cửu Vân, Nguyễn Khoa<br /> Thuyên, Tống Phước Hiệp...là những con dân miền Trung vào đây với sứ<br /> mệnh cao cả là vỗ yên dân và bảo vệ cương vực, ý thức chủ quyền lãnh<br /> thổ. Cùng với đó, Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu...là<br /> những Hoa kiều nhưng nguyện đem hết tấm lòng, tài sản phụng sự các<br /> chúa Nguyễn và hòa đồng với những lưu dân vùng đất mới. Trong khi đó,<br /> chúa Nguyễn tạo điều kiện cho các tộc người tiếp xúc, dung hòa để cùng<br /> nhau phát triển kinh tế, ổn định dân cư và đó chính là ý chí của lòng người<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> : Phan Khánh: Đồng bằng sông Cửu Long lịch sử và lũ lụt. NXB Nông<br /> nghiệp, Hà Nội, 2001,trang 50.<br /> 2<br /> : Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam. NXB Trẻ, 2014, trang 57.<br /> 3<br /> : Lê Thành Khôi: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XX. NXB<br /> Thế Giới, Hà Nội, 2014, trang 297.<br /> <br /> <br /> 315<br /> bền gan được ví như bức tường thành vững chắc để phương Nam yên ổn<br /> suốt thời kì dài.<br /> Chiến lược đa văn hóa, đa tộc người của các chúa Nguyễn ở vùng<br /> đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn giá trị đến ngày hôm nay. Khi mà,<br /> cộng đồng cư dân các dân tộc Việt, Hoa, Chăm, Khmer đã đoàn kết nhất<br /> trí cùng nhau xây dựng quê hương giàu mạnh, và vùng đất này vẫn giữ<br /> được vai trò quan trọng là vựa lúa của cả nước và nhiều tiềm năng khác<br /> mà không nơi nào có được./.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 316<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2